Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.87 MB, 92 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">
MỤC LỤC
Phẩn mở dau —Chuong I - Khái quát chung vé hon nhân hop pháp và hon nhân trái pháp
ludt_ _ 6
1.1 Khái niệm hôn nhân và hôn nhân hợp pháp 6
1.2 Hôn nhân trái pháp luật và biện pháp chế tài dối với hôn nhân trai
pháp luật 171.2.1 Hôn nhâu trái pháp luật theo quy định trong hệ thống pháp
luật nước ta trước Cách mạng tháng Tám 18
<small>và gia đình 1959 _ 22</small>
2.1 Về các căn cứ xác định hôn nhân trái pháp luật theo pháp luật hiện
2.1.3 Hôn nhân trái pháp luật do người đang có vợ (có chồng.) kết
<small>hơn với người khác. 39</small>
“bệnh ma luật cấm kết hôn lại vẫn kết hơn. „ =. dy
2.1.5 Hon nhân trai phí Ap luật do những người kết hơn với nha cóquan hệ huyết thống gần. ____ _—_ — 492.1.6 Hôn nhân trái pháp luật do không tiến hành đăng ký kết hôn
tại cơ quan Nhà nước có thấm quyền _ 22.2 Hậu qua pháp lý của việc hủy hôn nhân trai pháp luật —- _ 60
2.2.1 Quan hệ nhân than 602.2.2 Quan ie tài sản ——— = |. Gl
23.) Tình hình chung của việc kết hòn trát pháp iuật và huy hen
Chú giải be
Tai Hiệu tham kho &Y
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Gia đình là tế bào của xã hội, là đơn vị xã hội đầu tiên, trong đó con
thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người”.
với sự thiết lập chế độ xã hội chủ nghia trên cả nước, lối sống xã hội chủ nghĩa
đình mới xã hội chủ nghĩa tất yếu phải có những cuộc hôn nhân tiến bộ. Quan
Luật Hơn nhân và gia đình 1959 và tiếp đó là Luật Hơn nhân và gia
đình 1986 đã quy định những điều kiện pháp ly cần thiết để xác lập một quan
hệ hơn nhân mới xã hội chủ nghĩa, góp phần xóa bỏ những tập tục lạc hậu. tandư của chế độ hôn nhân phong kiến, chống anh hướng của chế độ hôn nhân tusản và phần nào hạn chế được những tập quán lạc hậu trong quan hệ hôn nhân
của xã hội nhất là trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế hiện nay, những tập tục
lề thói cũ trong dời sống hơn nhân va gia đình vẫn cịn tồn tại hoặc tái xuất
nước ta, tác động tới tu tưởng và lối sống của một bộ phận nam, nữ thanh niênlầm cho quan hệ hon nhân có sự biến dong theo chiều hướng xấu. LHién tượng
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Hiện tượng kết hôn trái pháp luật dẫn đến đời sống hơn nhân có những
mình chính là nhằm làm sáng to nhận thức chung của xã hội về hơn nhân gópphần nâng cao hiểu biết của người dan nói chung về hơn nhân lành mạnh, tiến
2 - Mục đích, nhiệm vụ, phạm vỉ nghiên cứu của đề tài.
- Hôn nhân trái pháp luật không chỉ là một hiện trạng vi phạm pháp luật
mà còn là một vấn đề ảnh hưởng khơng nhỏ đến chính trị, xã hội của đất nước.Việc nghiên cứu vấn đề: “Hôn nhân trái pháp luật - căn cứ xác định và biện
pháp xử lý” nhằm mục dich làm sáng tỏ hơn sự đúng dan của chế định hôn
nhân trong pháp luật nước ta, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của các can cứpháp lý xác định hôn nhân trái pháp luật và thực trạng xử lý hôn nhân trái
pháp luật trong pháp luật Việt Nam.
- Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là phân tích và đánh giá hiệu quảđiều chính pháp luật trong việc hạn chế hơn nhân trái pháp luật, từ đó đề xuất
hướng hồn thiện chế định hôn nhân.
- Pham vi nghiên cttu được xác định phụ thuộc vào tinh phân lập của
các quy phạm pháp luật về hôn nhân hợp pháp, hôn nhân trái với các điều kiệnkết hôn và hôn nhân vi phạm vào điều cấm, vì thế trong luận án này ln phảiphân tích theo hướng có liên hệ các quy dịnh của pháp luật về hôn nhân hợp
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">pháp và hôn nhân không hợp pháp, thực tiễn áp dung và những vướng, mic
3 - Cơ sở, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Ninvà tư tưởng Hồ Chí Minh về hơn nhân và gia đình trên cơ sở các văn kiện Daihội Đảng cộng sản Việt Nam và các Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành
dung của luận án.
Trước thực trạng trên việc ngăn chặn và dần xóa bỏ hiện tượng kết hịn
hơn nhân trái pháp luật, đồng thời cũng cần có những biện pháp xử lý phù hợp
trình nghiên cứu về hơn nhân trái pháp luật được đăng trên báo pháp luật cịnrất ít và chỉ giải quyết ở những góc độ khác nhau theo các vụ án cụ thể. Trong
giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam của trường Đại học Luật Hà
hội và nhân văn, vấn đề hơn nhân trí pháp luật được nghiên cứu như một bộphận của khoa học Luật Hôn nhân và gia đình. Tác giả Nguyễn Thành tronp“Từ những cuộc hơn nhân bất hợp pháp”, chủ yếu mới chỉ đề cập đến thực
trạng của việc kết hôn trái pháp luật và nêu ra những nguyên nhân sâu xa dân
đến những cuộc hôn nhân bất hợp pháp do’.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Luận án này là một trong những cơng trình nghiên cứu chun khảo
pháp luật theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam. Nội dung của luận ánphân tích những cơ sở pháp lý nhằm xác định rõ quan hệ hôn nhân trái phápluật, nêu và phân tích biện pháp xử lý dưới góc độ pháp luật, đề xuất những
Những kết luận và kiến nghị được đưa ra trong luận án có thể có ý
và gia đình, nhằm xây đựng quan hệ hôn nhân mới xã hội chủ nghĩa - mụctiêu của Cách mang xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay viigóp phần vào lĩnh vực khoa học pháp lý, một số vấn đề về lý luận có thế sủ
dụng trong các trường Dai học Luật, khoa luật của các trường Dai học [ungiáo trình giảng day về chuyên đề này.
Xuất phát từ mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận ấn được
thực hiện với nội dung và bố cục hợp lý theo các quy định chung của Nhànước, bao gồm:
Phần mở đầu
Chương I - Khái quát chung về hôn nhân hợp pháp và hôn nhân trái
pháp luật.
1.1 Khái niệm hôn nhân và hôn nhân hợp pháp.
1.2 Hôn nhân trái pháp luật và biện pháp chế tài đối với hôn nhân trai
pháp luật.
Chương II - Căn cứ xác định hôn nhái: trái pháp luat và biện phap
xử lý.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">2.1 Về các căn cứ xác định hôn nhân trái pháp luật theo pháp luật liệu
2.2 Hậu quả pháp lý của việc hủy hơn nhân trái pháp luật.
2.3 Tình trạng kết hơn trái pháp luật ở nước ta và thực tế giải quyết.
Phần kết luận
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">1.1.1 Khái niệm chung về hôn nhân hợp pháp
đàn ông và người đàn bà trong quan hệ lứa đôi. Thoạt đầu, sự kết hợp này
tiên hình thành nên quan hệ hơn nhân và cũng từ đó hình thành nên gia đình
học, hôn nhân là mối quan hệ giữ vợ và chồng. Trong q trình phát triển củaxã hội lồi người đã chứng minh rằng khơng có một tổ chức nào ngồi tổ chứcđời sống chung của con người có sự thúc đẩy nội tại trong bản thân mỗi con
gái là tìm gặp nhau, tạo thành một cộng đồng nhỏ là hôn nhân nhằm để thỏa
mãn nhu cầu tình cảm sâu kín của các bên, sinh đẻ nhằm đuy trì và phát triểnnoi giống va cùng nhau chia ngọt sẻ bùi nhằm xây dung gia đình đầm ấm,
hạnh phúc. Nam, nữ kết đôi là chuyện tự nhiên trong đời sống nhân loại ngaytừ khi loài người xuất hiện. Trải qua hàng triệu năm, việc trai gái tìm nhau và
xác lập quan hệ vợ chồng đã được thay đổi dưới bao hình thức khác nhau. Từthời hoang sơ, khi con người cịn chìm ẩn trong bóng tối của sự lạc hậu thì sự
kết hợp giữa đàn ơng và đàn bà chỉ đơn thuần là quan hệ tính giao nhằm duytri nòi giống. Họ chung sống với nhau bừa bãi khơng có sự chọn lọc về ngịi
thứ và cũng khơng có sự phân biệt về lứa tuổi, huyết tộc. D6 là thời kỳ tôn tai
vấn đề về đạo đức thì vấn dé hơn nhân của nam, nữ cũng có sự chuyển biénđáng kể. Chế độ tạp hôn đã chuyển sang chế độ ngẫu hôn- hôn nhân cặp đôi,
từng cặp nam, nữ với tư cách là một đơn vị hôn phối được xác lập và tồn tại.
Việc kết hơn đã có sự phân biệt về lứa tuổi và huyết thống. Tuy nhiên, hônnhân cặp đôi tồn tại hết sức lỏng lẻo và khơng đủ vững chắc để có thể cónhững nhu cầu riêng về kinh tế. Hình thức hơn nhân cặp đơi được phát triển
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">hon nữa nhờ có sự thay đổi đáng kể về các điều kiện kinh tế và xã hội vì nó dịtrở thành hơn nhân một vợ một chồng. Dần dần, trong sự phát triển tiếp theo
của lịch sử, sự kết hợp lứa đôi không chỉ mang ý nghĩa duy tri noi giong minó cịn là sự kết hợp về mặt tình cảm giữa các bên nam, nữ, từ đó, mục tiêuthoả mãn nhu cầu tình cảm là yêu cầu khách quan, là mục tiêu hàng dầu của
nam, nữ khi họ càng nhau xác lập quan hệ hơn nhân. Tình u thương giữa vo
và chồng là sức mạnh thúc đảy khiến họ có mong muốn là sản sinh ra thế lịc
mới - người sẽ kế tục cho gia đình và dong ho. Từ xa xưa, con người đã quanniệm việc sinh dé con cái là nhằm thoả mãn nhu cầu riêng tư của vợ chồng.
trì nịi giống. Đó chính là quy luật tồn tại và phát triển của lồi người theo quyluật phát triển sinh học của nó. Khi xã hội lồi người đã phát triển, hơn nhâu:
là quan hệ chịu sự chi phối rất lớn bởi các quy tắc đạo đức và lối sống trong xa
hội. Do vậy, hôn nhân không chi là việc riêng tư giữa hai cá nhân mà con livấn đề mang tính chất xã hội. Khi đôi nam, nữ yêu nhau, họ chưa có tráchnhiệm gì, nhưng khi họ kết hơn, họ đã có trách nhiệm đối với nhau, đối vớicon cái và đối với xã hội. V.I.Lênin nói : “ “Trong tình yêu có hai người, và
xuất hiện cuộc đời mới, cuộc đời thứ ba. Day chính là điều quan tâm củi xí
hội và xuất hiện trách nhiệm đối với tập thể””. Chính vì lế đó mà việc đơi nam,nữ kết hơn cần có sự phê chuẩn và cơng nhận của xã hội. “Nếu như hôn nhânkhông phải là cơ sở của gia đình, thì nó cũng sẽ khơng phải là đối tượng của
nó là hơn nhân. Dưới xã hội có phân chia giai cấp, hơn nhân mang tính giai
cấp sâu sắc. Trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị luôn diinypháp luật và bằng pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân sao cho phù hợp vớiý chí của giai cấp mình và phục vụ lợi ích của giai cấp mình. Tính chất của
vậy, hôn nhân rõ ràng không chỉ là một quan hệ xã hội đơn thn mà nó cịn
được coi là một quan hệ xã hội có tính giai cấp. Chính vì thế mà khi có Nhà
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">nước và pháp luật thì mỗi quốc gia dt quy định những điều kiện kết hôn khi:
những lợi ích riêng và hệ thống pháp luật khác nhau, nhưng nhìn chung tron
thời đại ngày nay tất cả các quốc gia khi điều chỉnh quan hệ hơn nhân cũn:'đều có nét chung là quy định quyền và nghia vụ cho vợ chồng đối với nhau
đối với gia đình, đối với Nhà nước và đối với xã hội. Hôn nhân mà phù hoy:với quy định của pháp luật thì được coi là hợp pháp.
giữa người đàn ông và người đàn bà, phù hợp với pháp luật, được Nhà nướcthừa nhận và bảo hộ.
1.1.2 Hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Namal Hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luát phong kiến
thú) được coi như một việc cốt lõi là nền tảng của gia đình. Gia đình chiếm
khi nghĩ đến vấn đề “trị quốc” và “bình thiên hạ”. Giá thú không được các nhà
Lé ký tại thiên Hôn nghĩa: “Lễ hôn tương hợp sự giao hiếu giữa hai họ, trên de
thờ phụng tổ tiên trong tông miếu (tức nhà thờ họ), đưới để kế truyền đồng dõiđời sau, vì vậy hơn lễ được người quân tử trọng””, Định nghĩa này dã cho
đại gia đình, trước hết là sự giao kết giữa hat họ bên nam và bên nữ mà mục
đõi tơng đường và cũng chính là tiếp tục lun truyền việc thờ cúng. Với tnh
phù hợp với lợi ích của dai gia đình và do đó lợi ích riêng của những người kết
hôn hầu như bị quên lãng hoặc chỉ là thứ yếu. Một trong những điều kien xác
<small>~-he</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">định là sự ưng thuận của cha mẹ và vai trò của người chủ hôn. Điều 314 Bộluật Hồng Đức (Quốc triều hình luật) quy định: “Người kết hơn mà khơng đủsinh lễ đến nhà cha mẹ [người con gái] (chú giải của tác gid) (nếu cha mẹ chết
bắt phải nộp tiền tạ cho cha mẹ (nếu cha mẹ chết cả thì nộp cho trưởng họ hay
kiện về lễ nghi, song về mặt nào đó xét theo khía cạnh xã hội thì nó cũng chiphối đến điều kiện kết hôn của thời kỳ này. Cùng với điều kiện trên, vì lợi ích
quan hệ thân thích với nhau. Xét trên phương điện luân thường đạo lý và cơ sở
khoa học, vì trật tự gia phong và tương lai sức khoẻ của nồi giống, cổ luật Việt
Nam đã quy định các sự cấm đốn rất nghiêm ngặt việc kết hơn giữa các
người thân thích. Trong cả hai bộ luật (Luật Hồng Đức và Luật Gia Long) đều
Diều 100 Luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ) quy định: “phàm những ngườiđồng tinh (cùng họ) (chú giải của tác gid) lấy nhau, thì bị tội 60 trượng và
luật đã điều chỉnh một cách khắt khe nhất. Trong xã hội phong kiến, con chầu
phải có hiếu với ơng bà, cha mẹ, vợ chồng phải giữ lịng chung thuỷ với nhau,
vì vậy, cổ luật đã quy định trong lúc có tang mà làm giá thú là bất hiếu, l.uật
Hồng Đức và Luật Gia Long đều cấm kết hơn trong thời kỳ có tang. Điều 31Luật Hồng Đức quy định: “Người nào đang có tang cha mẹ hoặc tang chồngmà lại lấy chồng hay cưới vợ thì xử tội đổ, người khác biết mà vẫn cứ kết hơn
phát từ đạo hiếu nghĩa mà Luật Hồng Đức và Luật Gia Long cịn cấm kết hơnkhi cha me bị giam tù. Điều 99 Luật Gia Long quy định: “Các con cháu kết
hôn trong khi ông bà, cha mẹ bị giam cầm về tử tội thì phải phạt 80 ?rượng.
Nếu lấy lẽ hay lấy vợ lẽ, thì tội giam hai bậc””. Luật Gia Long chi quy định
trường hợp cha mẹ ông bà bị giam cầm về “tử tội” mà con cháu kết hôn thi
Luật Hồng Đức quy định: “Trong khi ông bà, cha mẹ bị giam cầm tù tội, mà
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">lấy vợ lấy chồng thì đều xử tội b¿ế?: ba tu và đơi vợ chồng phải ly dị...”Đồng thời với việc cấm kết hôn trong khi ông bà, cha mẹ bi giam cam, | mátHồng Đức và Luật Gia Long đều có quy định ngoại lệ là thừa nhận cho con
chấu có quyền kết hôn nếu được ông bà, cha mẹ cho phép những khơng du.
ăn uống linh đình ma chỉ được làm lê thành hôn mà thôi. Đoạn cuối Điều 316Luật Hồng Đức có phi: “... Nếu ơng bà, cha mẹ có cho phép thì chỉ được làunlễ thành hơn mà khơng được bày ra cỗ bàn ăn uống, trái luật thì xử Điểm rad
Vì mục đích lưu truyền việc thờ phụng tổ tiên, cổ luật đã khuyến khíchchế độ đa thê. Một gia đình có nhiều con được coi là gia đình có phúc, vì vayngười đàn ơng trong xã hội thời đó ln mong muốn lấy nhiều vợ để sinh dcnhiều con để biểu hiện sự phúc đức cho gia đình và đồng họ mình. Tuy nhiên.
tôn trọng trật tự giữa vợ cả (chính thất) với vợ lẽ (thứ thất). Trong Bộ luậiHồng Đức, Điều 309 đã quy định nếu lấy thiếp làm vợ cả thì phải chịu lội.
Trong Luật Gia Long, Điều 96 quy định: “Dem vợ ca làm thành vợ lẽ, sẽ phải
phat 100 rượng. Khi vợ cả còn sống, lấy vợ lẽ làm vợ cả, phải phat 90 /rượng,
và phải ly di vợ sau”!".
Nhìn chung, cổ luật Việt Nam coi hôn nhân là một chế định nhain bảo
vệ lợi ích của đại gia đình. Vì vậy các điều kiện trên đây đều quan tâm đếnviệc lưu truyền đồng giống, bảo vệ trật tự các mối quan hệ trong gia đình, lợiich của đại gia đình được coi trọng. Tuy nhiên bên cạnh đó, cổ luật cũng đã décập đến quyền lợi của hai vợ chồng, tuy rằng các quyền lợi đó cũng chỉ là thứ
yếu và rất hạn chế. Sự ưng thuận của hai người kết hôn không được Luật Hồng
Đúc quy định nhưng đã được đề cập đến trong Luật Gia Long. Trong nhữngtrường hợp đặc biệt ngoại lệ do chỉ cịn có bà con xa hoặc do hai bên sống xa
nhà thi luật cho phép nam, nữ kết hôn dua trên sự ưng thuận của họ tuy khơng
có sự đồng ý của cha mẹ hay tơn thuộc (Điều 94, Điều 109 Luật Gia l.on;).
Trường hợp một trong hai bên nam, nữ bị tan tật thì Luật Gia Long quy định
rằng bên kia phải biết trước để quyết định một cách chí tình và sẽ được thỏa
10
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Điều 183 Luật Gia Long); cấm các quan và thuộc lại lấy đàn bà con hat xướnglàm vợ (Điều 323 Luật Hồng Đức); cấm học trị khơng được lấy vợ của thầyhọc da chết (Điều 324 Luật Hồng Đức).
Như vậy, xã hội phong kiến Việt Nam đã có quan niệm riêng về hơnnhân nên đã đặt ra những điều kiện cần thiết buộc các bên nam, nữ phải tuân
trên đây thì hơn nhân của họ mới được thừa nhận va quan hệ hơn nhân đó mỏi
được coi là hợp pháp.
b. Hôn nhân theo quy định của pháp luật trong thời kỳ Pháp thuốc.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, do ảnh hưởng tu tưởng của Bộ dân luật Pháp
Để bảo đảm cho hôn nhân phù hợp với khái niệm trên, nhà làm luật đã<small>š ra fz “nA a, 2 “2” . n Z ^ ° ie Z ^</small>
quy định các điều kiện kết hôn thể hiện sự giao kết các quyền lợi cua các bên
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">với nhau va lợi ích đó khơng thé tách rời khỏi lợi ích của gia đình và lợi ichcủa xã hội. Quyền lợi của các bên vợ chồng đã được các nhà làm luật dự liệu
đến và quy định bằng các điều khoản cụ thể trong các chế định của luật. Doviệc nước ta lúc bấy giờ chia làm 3 miền, mỗi miền có một Bộ dân luật riêng,miền Bắc có Dan luật Bắc kỳ (1931), miễn Trung có Hồng Việt Trung kỳ ho
luật (1936) va miền Nam có Bộ Pháp quy Giản yếu (1883). Tuy về chi tiết có
những chế định pháp lý như nhau, trong đó có chế định kết hơn.
của 1 am, nữ và tương lai của con cháu, đồng thời tránh việc nam, nữ muốn kết
hơn kt. cịn q nhỏ tuổi, dẫn đến sự thỏa thuận của hai bên có thể khơngđược sát s suốt. Bộ Pháp quy Giản yếu quy định con trai 16 tuổi, con gái 14tuổi được ohép kết hôn, Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Hoàng Việt Trung kỳ holuật quy định độ tuổi kết hôn của nam, nữ muộn hơn so với quy định của Bộ
Pháp quy Giản yếu. Cả hai Bộ luật này đều quy định: con trai 18 tuổi, con gái
được giảm độ tuổi kết hơn khi có lý do chính dang, nhưng con trai không, đượcdưới 15 tuổi và con gái không được dưới 12 tudi!*. (Điều 73 Bộ Dân luật Hắc
kỳ quy định: “Phầm con trai chưa đầy mười tám tuổi, con gái chưa đầy mudi
lam tuổi, thì khơng được kết hơn”).
<small>được các bộ dân luật thời kỳ này ghi nhận. Sự ưng thuận của hai bên nam, nữ</small>
sắp kết hôn được coi như một điều kiện cần thiết bảo đảm cho hôn nhân củahọ là hợp pháp. Điều 76 Bộ dân luật Bắc Kỳ quy định: “Kết hơn tất phải có haibên nam, nữ bằng lịng nhau mới được”, quy định này thể hiện sự tiến bộ liơn
Nhưng bên cạnh sự ưng thuận của đôi nam, nữ khi kết hôn, pháp luật thời kỳnày vẫn quy định sự ưng thuận của cha mẹ, của người thân thích hay người đỡ
đầu và cũng coi đó là yếu tố cần thiết bảo đảm cho hôn nhân được coi là hợp
pháp, không kể người kết hôn đã thành niên hay chưa thành niên. Điều 77 Bo
12
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Dân luật Bắc kỳ quy định: “Pham con cái đã thành niên cũng như chưa thần:
niên, khơng khi nào khơng có cha mẹ bằng lịng mà kết hôn được...”
Cùng với các quy định về các điều kiện kết hôn, trong cả ba bộ dân luật
thời kỳ này còn quy định một số trường hợp cấm kết hôn. Theo quy định tai
Điều 74 Bộ dân luật Bắc kỳ thì những người sau đây khơng được kết hơn với
nhau: những người thân thuộc hay thích thuộc về trực hệ vào bậc nào cũng
vậy, dt là con chính thức, con hoang hay con ni. Những người có quan hệ
về bàng hệ là anh em chị em cùng cha me, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mekhác cha, anh chi em nuôi; chi đâu, em dâu với anh em chồng; chú, bác, cậu
con chú, con bác con cậu, con cô, con di cả nội ngoai; anh chị em cháu chú,
cháu bác, cháu cô về bên nội; anh em họ với chị em họ đồng tơng. Bên cạnhđó, để bảo vệ trật tự thê thiếp, các bộ dân luật cũ còn cấm lấy vợ thứ nếu chưala : vợ chính. Điều 80 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định: “chưa lấy vợ chính thicất.' khơng được lấy vợ thứ”. Ngồi ra cũng để bảo vệ các quy tắc về đạo đứcmà a ic biệt là bảo dam giữ trọn đạo nghĩa hiếu, các bộ dan luật trong thời kỳ
Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật quy định cấm kết hôn trong thời kỳ để tang cha
mẹ, thời kỳ để tang là 27 tháng. Người chồng góa bị cấm kết hôn trong thời kỳ
để tang vợ là 1 năm, người vợ góa bị cấm kết hơn trong thời kỳ để tang chồns
là 27 tháng.
<small>Như vậy, các bộ dân luật thời kỳ Pháp thuộc đã có những cách nhìn</small>
nhận mang những tính chất khác hẳn so với pháp luật thời Lê, thời Nguyễn.Chỉ những cuộc hôn nhân tuân thủ các điều kiện kết hôn và không vi phạmđiều cấm kết hôn mới được coi là hôn nhân hợp pháp.
c. Hôn nhán hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam từ Cách
mạng tháng Tám (1945) đến nay.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dan chủ cộng hịa ra
đời (ngày 2/9/1945). Ngay sau khi giành được chính quyền, Nhà nước ta đã đềra một số chủ trương chính sách lớn nhằm xây dựng đời sống mới phù hợp với
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">thời kỳ cách mạng mới. Trước tình hình đó pháp luật cũng cần phải có những
quy định mới nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ hơn
nhân và gia đình nói riêng. Luật Hơn nhân và gia đình 1959- Luật Hơn nhân
và gia đình đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa được Quốc hội
khóa I- ky hop thứ 11 chính thức thơng qua ngày 29/12/1959 và được Chủ tịch
nước ký lệnh công bố ngày 13/1/1960 theo Sắc lệnh số 02/SL. Luật Hơn nhai:
và gia đình là công cụ pháp lý của Nhà nước được xây dựng nhằm thực hiệnhai nhiệm vụ cơ bản: xóa bỏ những tàn tích của chế độ hơn nhân và gia đìnhphong kiến lạc hậu, xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hơi chú
ighia, Các ngun tắc cơ bản của luật đã thể hiện rõ quan điểm của Nha nước
ta về vấn dé hơn nhân và gia đình. Theo Luật Hơn nhân và gia đình 1959 thi
hơi nhân là sự liên kết giữa một người dan ông và một người đàn bà đưa trên
nguy 3n tắc tự do và tiến bộ nhằm chung sống lâu dài và cùng nhau xây đựng
gia đì th. So vớt pháp luật thời kỳ trước đó thì khát niệm hơn nhân đã có sự
thay doi tiến bộ rõ rệt. Luật Hôn nhân và gia đình 1959 khơng thừa nhân cheđộ đa thê do đó khái niệm về hơn nhân có sự thay đổi cơ bản, đó là hơn nhân
khơng phải là sự liên kết giữa đàn ông và đàn bà, mà chỉ là sự liên kết giữa
một người đàn ông và một người đàn bà. Nhà nước ta chỉ thừa nhận hôn nhântrên nguyên tắc một vợ một chồng. Ngoài ra, sự tự nguyên của nam, nữ khi kết
hôn đã trở thành một nguyên tắc cơ bản, sự tự nguyện kết hôn phải trên cơ sởtình u giữa nam và nữ. Mục đích của việc kết hôn là để các bên chung sống,chia ngọt sẻ bùi và xây dựng gia đình dân chủ, hịa thuận và hạnh phúc. Có lẽ
chưa xác định rõ. Các quy định về điều kiện kết hôn đã thể hiện rõ ban chất
của hôn nhân trong chế độ mới, tuân thủ các điều kiện này chính là bảo đảm
gia đình và cho xã hội. Chỉ những việc kết hôn phù hợp với các quy định củapháp luật về các điều kiện kết hôn và phù hợp với lợi ích của các bên nam, nữ,của gia đình, của xã hội, thì hơn nhân đó mới được coi là hợp pháp. Khái niêm
về hôn nhân và hôn nhân hợp pháp trong giai đoạn này đã phù hợp với cônp
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với cơng cuộc đấu tranh giải phóng
phụ nữ. Trong q trình thực hiện Luật Hơn nhân và gia đình 1959 đã cho
14
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">thấy rõ tính tiến bộ của pháp luật trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, kể từ khi giảiphóng miền Nam, Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, tình
phát sinh trong quan hệ hôn nhân và gia đình mà Luật Hơn nhân và gia đình1959 chưa dự liệu tới, nên Luật Hôn nhân và gia đình 1986 - luật hiện hànhcủa Nhà nước ta, được Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ 12 thơng qua ngày
29/12/1986 và được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước công bố ngày 03/1/1987 đã
thay thế Luật Hôn nhân và gia đình 1959.
Luật Hơn nhân va gia đình 1986 là sự kế thừa và phát triển Luật Iiơn
nhân và gia đình 1959. Luật Hơn nhân va gia đình 1986 góp phần vào su\phiệp tiếp tục giải phóng phụ nữ, xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa, thúc
d.’y sự nghiệp xây dung và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hơn
nha theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam là sự liên kết giữa một người
nam ›à một người nữ trên ngun tắc hồn tồn bình đẳng và tự nguyện theoquy đ,+h của pháp luật nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dung giađình dn no, bình dang, hạnh phúc, bên vững.
nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng cần phải tn thủ các điều kiện đó thì hơn
nhân của họ được coi là hợp pháp. Các bên nam, nữ khi kết hôn phải đạt tuổi
tối thiểu mà luật quy định. Điều 5 Luật Hơn nhân và gia đình 1986 quy định:“Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn”. Điều kiện kết
hôn tiếp theo là phải có sự tự nguyện của các bên nam, nữ khi kết hôn. Diéu 6
Luật Hôn nhân và gia đình 1986 quy định: “Việc kết hơn do nam, nữ tự
nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc bên nào, không ai đượccưỡng ép hoặc can trở”. Bên cạnh những quy định về điều kiện để kết hon,
Luật Hơn nhân và gia đình 1986 cịn quy định một số trường hợp cấm kết hôn.
Điều 7 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Cấm kết hơn trong những
trường hợp sau đây:
a- Đang có vợ hoặc có chồng;
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">b Đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi củamình, đang mắc bệnh hoa liễu;
<small>@®1</small> Giữa những người cùng dịng mau về trực hệ, giữa anh chị em cùn
cha mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; giữa nhữngngười khác có họ trong phạm vi ba đời;
d- Giita cha mẹ nuôi với con nuôi ”
mà pháp luật đã quy định và không phạm vào các trường hợp mà luật cấm kếthơn, thì hơn nhân đó mới được coi là hợp pháp. Vì vậy, theo Luật Hơn nhân va
gia đình 1986 thì hơn nhân hợp pháp là hôn nhân tuân thủ đây du các điềukiện kết hôn được quy định tại Điều 5, Điều 6 Luật Hôn nhân và gia đình
1986, đồng thời khơng vi phạm vào các trường hợp cấm kết hôn mà Luật quyđịnh tại Điều 7.
Tóm lại, hơn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa nam và nữ phù hop vớicác quy định của pháp luật. Pháp luật qua các thời kỳ, các giai đoạn lịch sử
nhân. Vì vậy, chuẩn mực để đánh giá hơn nhân hợp pháp qua các giai đoạnlịch sử cũng có sự khác nhau. Có thể hơn nhân được coi là hợp pháp ở thơi kỳnày thì lại khơng được coi là hợp pháp ở thời kỳ khác. Chang hạn, chế dộ da
thê được thừa nhận ở thời kỳ nhà Lê, hay nhà Nguyễn nói riêng và cả thơi kỳ
phong kiến nói chung. Con vào thời kỳ Pháp thuộc một người dan ông dã cóvợ nếu kết hơn với người phụ nữ khác với tư cách là lấy vợ lẽ thì hơn nhân sau
van được coi là hợp pháp. Dưới chế độ của Nha nước Việt Nam dân chủ cộnghòa và chế độ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì người đangcó vợ, có chồng mà lại kết hơn với người khác là trái pháp luật. Từ đó chochúng ta thấy rằng chỉ những cuộc hôn nhân mà khi kết hôn nam, nữ đã tuầnthủ đầy đủ các điều kiện kết hôn và không vi phạm các trường hợp cấm kết
hơn mà pháp luật quy định thì hơn nhân đó mới được coi là hợp pháp. Nyuoc
jai, nếu khi kết hôn nam, nữ không tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn hoặc
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">rơi vào các trường hợp luật cấm kết hơn thì hơn nhân đó bị coi là hơn nhân trait
pháp luật.
Như trên đã phân tích, khi kết hôn các bên nam, nữ phải tuân thủ các:
điều kiện kết hôn được pháp luật quy định và Không phạm vào các trường hop
cấm kết hơn, thì hơn nhân đó mới được coi là hợp pháp. Bởi vi, chỉ có tn thủcác điều kiện kết hơn thì mới bảo đảm cho hôn nhân tồn tại phù hợp với banchất của nó. Và chỉ có những cuộc hơn nhân phù hợp với bản chất của nó mớicó giá trị pháp lý, giữa các bên mới phát sinh và tổn tại quan hệ vợ chồng theo
nhưng ai cũng bị buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người đó kết liơn.
Người kết hơn khơng sáng tạo ra hôn nhân, không phát minh ra hôn nhân,cũng như người bơi, lội không sáng tạo, không phát minh ra thiên nhiên và
tuỳ tiện của người kết hôn mà trái lại sự tuỳ tiện của người kết hôn phải phục
họ phải bat buộc tuân thủ các quy định của Luật Hơn nhân và gia đình. Nếu
các bên khơng tuân thủ các quy định về điều kiện kết hôn, vi phạm diều cấm
thì hơn nhân sẽ là trái pháp luật hoặc khơng có giá trị pháp lý. Vậy hơn nhâutrái pháp luật là hôn nhân mà khi kết hôn các bên nam, nữ đã không tuân thú
đầy đủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn, nói một cách cụ thể
phạm dt chỉ là một trong các điều kiện kết hôn hoặc phạm vào các trường hợp
cấm kết hôn đã được pháp luật quy định.
Sự tồn tại quan hệ hôn nhân trái pháp luật không phù hợp với bản chấtcủa quan hệ hôn nhân, di trái với các lợi ích mà pháp luật quan tâm bao ve, vìvậy Nha nước phải dùng biện pháp cưỡng chế đối với những người vi phạm là
buộc các bên phải chấm dứt việc chung sống trong quan hệ vợ chồng. Điều đóđã cho thấy rõ thái độ nghiêm khắc của Nhà nước trước những hành vi vi
<small>LG</small>
phạm trong việc kết hôn và cũng khẳng định rằng, trong việc kết hơn thì lợi
ích của những người kết hơn phải phù hợp với lợi ích gia đình và xã hội. Qua
các thời kỳ khác nhau của lịch sử, những quy định của pháp luật về hơn nhân
và gia đình nói chung và về các điều kiện kết hơn nói riêng có khác nhau. Vivậy, khái niệm hơn nhân trái pháp luật cũng có những điểm khác nhau nhất
định trong những thời kỳ khác nhau. '
1.2.1 Hôn nhân trái pháp luật theo quy định trong hệ thống pháp‘uat nước ta trước Cách mang tháng Tám
a. Trước thời kỳ Pháp thuộc, Việt Nam tồn tại chế độ quân chủ, tất cáquyvn hành tập trung trong tay Vua, Các đạo luật đều do Vua ban hành. Tiêubiểu cho pháp luật thời kỳ phong kiến là Bộ luật Hồng Đức được ban hành:
dưới trict Lê và Bộ luật Gia Long được ban hành dưới triều Nguyễn. Theo quy
định tại cc bộ luật nay thì về ngun tắc, giấy chứng nhận kết hơn được co. là
một văn bing pháp lý đặc biệt quan trọng làm gắn bó vợ chồng trong cácquyền và nghia vụ nhất dịnh. Nếu việc ký kết văn bằng đó đã phạm vào cácđiều cấm của luật thì nó sẽ bị coi là vơ hiệu (khơng có giá trị pháp lý) và có
thể bị tiêu huỷ. Vì vậy, khi xác lập quan hệ hôn nhân, nếu các bên vi phạm
vào các điều kiện về cấm kết hơn thì đù có giấy chứng nhận do cơ quan có
Pháp luật thời kỳ này đã quy định các trường hợp cấm kết hơn, đó là:
+ Cấm kết hơn khi đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng. (Điều 317 Bộluật Hồng Đức).
+ Cấm kết hôn khi cha mẹ bị giam cầm tt tội. (Điều 99 Luật Gia Long).+ Cấm kết hơn giữa những người thân thích. (Điều 319 Lmật Hồng
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">+ Cấm học trò lấy vợ của thầy học đã chết, anh, em lấy vợ của em, anhđã chết. (Điều 324).
+ Cấm quan lại ở biên trấn kết thông gia với tù trưởng vùng đó. (Điệu
ww ws)
+ Cấm quan ty lấy con gái trong hat mình. (Điều 316).
Cổ luật đã quy định các trường hợp cấm kết hôn, vi vậy nếu việc kết
hôn phạm vào một trong những điều cấm đó thì hơn nhân bị coi là vơ hiệu và
về ngun tắc thì hơn nhân đó có thể bị tiêu hủy. Tuy nhiên, hơn nhân là rot
quan hệ có tầm quan trọng đặc biệt đối với vợ chồng, đối với các con, dối với
gia đình và đối với xã hội, do vậy, mà trong cổ luật Việt Nam đã có những quyđịnh nhằm giới hạn những trường hợp có thể xin tiêu hủy hơn nhân. Nhà làm
luật đã có sự phân biệt về sự vi phạm vào các điều kiện thường hay các điều
kiện chủ yếu của hôn nhân để dự liệu những biện pháp chế tài xử lý nặng nhẹ
khác nhau. Đối với những trường hợp khi kết hôn các bên chỉ vi phạm vào cácđiều kiện đơn thường thì các đương sự chỉ bị phạt trượng hay phạt roi mà hônnhân của họ khơng bị tiêu huỷ, có nghĩa là hơn nhân của ho vẫn tiếp tục đượctồn tại và coi là hợp pháp, các bên khơng phải ly dị.
Ví dụ: Điều 316 Luật Hồng đức đã quy định: đối với những trường hợp
khi các bên kết hôn đã vi phạm nghiêm trọng vào các điều cấm của luật tức là
đã vi phạm vào các điều kiện thiết yếu thì pháp luật khơng cơng nhận tính hợp
pháp của hơn nhãn đó và cần phải tiêu hủy hôn nhân. Tại Điều 317 và Điều
323 Luật Hồng Đức có quy định các bên sẽ phải chia lia hoặc phải li di khi viphạm vào các điều kiện quan trọng của việc xác lập hôn nhân. Sự tiêu huỷ hôn
nhân trái pháp luật trong cổ luật có sự khác biệt so với việc tiêu huỷ hôn niantrong pháp luật hiện hành. Tiêu huỷ hôn nhân trong cổ luật khơng có hiệu lực
trở về trước mà chỉ có hiệu lực trong tương lai. Có nghĩa là, hơn nhân vẫn cóhiệu lực trong q khứ. Trước khi bị tiêu huỷ hơn nhân thì hơn nhân đó vẫnđược coi là có giá trị pháp lý, các bên tham gia quan hệ hơn nhàn đó vẫn là wj
chồng, ho chi bị “chia lia” hay “li di? (kể từ khi hôn nhân của họ bị tuyên bô
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">tiêu hủy mà thôi. Như vậy, sự tiêu hủy hơn nhân trong cổ luật hồn tồn giony
<small>với trường hợp ly hôn theo pháp luật hiện hành).</small>
Thông qua các quy định trong các Bộ luật Hồng Đức và Luật Gia Long
khi phạm vào một trong các điều cấm kết hôn. Tuy nhiên, không phải tất cacác trường hợp hôn nhân vô hiệu đều bị xử hủy mà pháp luật quy định chinhững trường hợp vi phạm nghiêm trọng các điều kiện về cấm kết hơn thì mới
tiêu hủy hơn nhân. Hậu quả của việc tiêu hủy hôn nhân là buộc các bên phải
b. Trong thoi kỳ Pháp thuộc, pháp luật nước ta vừa chịu ảnh hưởng tutưởng của pháp luật phong kiến, vừa chịu ảnh hưởng tư tưởng của pháp luật
phương Tây, nên hôn nhân trái pháp luật được hiểu là các trường hợp khi ết
hôn các bên đã vi phạm vào điều cấm kết hôn hoặc vi phạm một số các điềukiện khác của hôn nhân hợp pháp. Tuy ba bộ Dân luật thời kỳ này có nhữngquy định về điều kiện kết hơn khác nhau, song nhìn chung đều tập trung vào
một số các vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích của những người kết hơn, lợi
ích của con cái, của gia đình và của xã hội. Nếu việc kết hơn vi phạm các điều
kiện kết hơn thì hơn nhân đó bị coi là trái pháp luật và có thể sẽ tiêu húy.Những vi phạm điển hình có thể kể đến là:
+ Vị phạm về độ tuổi kết hôn;
+ Vị phạm sự tự nguyện của những người kết hôn;+ Việc kết hôn thiếu sự đồng ý của cha mẹ;
+ Việc kết hôn vi phạm vào các điều cấm.
trường hợp kết hôn không khai với hộ lại. (Điều 82 Dân luật Bắc kỳ)hoặctrong trường hợp người đàn bà trước đã có giá thú làm chính thất hay thứ thất
mà chưa tiêu hôn (Điều 84 Bộ Đân luật Bắc kỳ).
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Ba bộ Dân luật thời kỳ Pháp thuộc đã chia hôn nhân vô hiệu ra làm 2loại: vô hiệu tương đốt và vô hiệu tuyệt đối, Vô hiệu tương đốt chi do mot so
người nhất định mà luật quy định cụ thể mới có quyển yêu cầu tiêu huy bonnhân đó và sự vơ hiệu ấy có thể bị mất di do một sự kiện nào đó xuất hiến. Vo
sự vô hiệu ấy không bị mất di do một thời hiệu hoặc một sự kiện nào. Hon
nhân vô hiệu sẽ bị Tòa án tiêu hủy. Hậu quả của việc tiêu hủy có sự quy dink
Việt Trung kỳ hộ luật đã dựa trên nguyên tác giảm bét những hậu qua qua
nang nề đối với vợ chồng, đối với các con nên đã tim ra những biện phápnhàm giảm bớt những quy định quá nghiêm ngặt, như quy định khi hôn alanbị tiêu hủy thì việc tiêu hủy đó chỉ có hiệu lực trong tương lai, có nphu litrước khi bị tiêu hủy hơn nhân, giữa các bên vẫn tồn tại quan hệ vợ chồn», consinh ra vẫn là con trong giá thú (con chính thức), các bên chỉ phải châm dit
quan hệ vợ chồng kể từ khi hôn nhân bị tiêu hủy mà thơi. Nói cách khíc, vẻ
hậu quả pháp lý, trường hợp tiêu hủy hôn nhân cũng giống như trường hợp lyhôn. Giải pháp trên đây được thừa nhận trong Điều 89 của bộ Dân luật Bắc ky.
Điều 89 bộ Dân luật Bắc kỳ quy định: “Phàm có giá thú mà sinh con, đâu sau
có sự tiêu hơn, khơng cứ vì dun cớ gì, những đứa con ấy vẫn là con chính
thức. Thuộc về quyền lợi, nghĩa vụ của cha mẹ, những đứa con ấy thì cũng
<small>theo cùng một lệ định như khi ly hơn.</small>
Việc thanh tốn các tài sản của vợ chồng đã tiêu hơn thì cũng lầm: theo
như khi ly hơn”.
Trai lại, trong Bộ Pháp quy Gian yếu lại có quy định rằng, khi hơn nhân
bị tiêu hủy thì nó khơng cịn hiệu lực gì khơng những trong tương lai mà còn
cả trong quá khứ nữa. Đối với hai vợ chồng thì kể từ ngày họ kết hơn cho đến
bên chưa hề xác lập quan hệ hơn nhân với nhau. Vì vậy, nếu họ có tii sản
chung thì tài sẵn đó được thanh tốn như trong trường hợp hai người góp sứcgóp cơng làm ra. Đối với các con thì bị coi như con ngoại hơn tức la con ngồigiá thú. Như vậy, Bộ Pháp quy Giản yếu đã quy định những hậu qua het sức
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Hồng Việt Trung kỳ hộ luật thì Bộ Pháp quy Giản yếu đã nghiêm ngặt hơnrất nhiều.
1.2.2 Hôn nhân trái pháp luật theo quy định trong Luật Hơn nhân
và gia đình 1959
luật xã hội chủ nghĩa, là công cụ pháp lý của Nhà nước Việt Nam dan chủ
cộng hòa, phục vu lợi ích của nhân dan lao động và phù hợp với nguyện vọng
của quần chúng nhân đân, nhằm xây dựng chế độ hơn nhân và gia đình mới xã
lạc hau của chế độ hơn nhân va gia đình phong kiến đã tồn tại hàng ngần năm
kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn để bảo đảm quan hệ hơn nhân thực sự
an tồn, lành mạnh và tiến bộ.
trở lên, con trai từ 20 tuổi trở lên mới được kết hơn” vì phải đạt đến độ tuổi
nòi giống được lành mạnh, tương lai con cháu được tốt đẹp”. Do vậy nếuchưa đạt đến độ tuổi này mà nam, nữ đã kết hôn thì hơn nhân đó là hơn nhàn
đến tuổi, được hoàn toàn tự nguyện quyết định việc kết hơn của mình; khơng
bên nào được ép buộc bên nào, không một ai được cưỡng ép hoặc can trở”.
cưỡng ép, phụ thuộc vào cha mẹ của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến,
hơn mà chỉ khơng có sự tự nguyện của một bên đều là hôn nhân trái pháp luật.
pa
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">Điều 5 Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Cấm người
đang có vợ, có chồng kết hơn với người khác". Quy định này nhằm xố bỏ ché
độ đa thê đã tồn tại hàng ngàn năm ở nước ta. Đồng thời quy định này còn
nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nit và góp phần vào cơng cuộc dau tran: giải
phóng phụ nữ. Trong mọi trường hợp đgười đang có vợ, có chồng mà kết hơnvới ngudi khác chính là vi phạm vào trường hợp luật cấm kết hơn và như vayhơn nhân đó phải là hôn nhân trái pháp luật.
Cấm kết hôn giữa những người cùng dịng máu về trực hệ; giữa cha meni và con nuôi”.
hạn chế những người có quan hệ huyết thống gần kết hôn với nhau. Quy định
này vừa bảo dam cho con cái được lành mạnh cả về thể lực và trí tuê, vita bảo
đảm truyền thống đạo đức của gia đình Việt nam từ ngàn đời. Mặt khác, "để
tránh những sự cưỡng ép có thể xảy ra trong việc kết hôn, nên cùng cần cấmkết hơn giữa cha mẹ ni và con ni”3,
Ngồi ra, những người mắc một số bệnh nhị: bất lực hoàn toàn về sinh
lý; mắc một trong các bệnh hui, hoa liễu, loạn 6c, mà chưa chữa khỏi thì
khơng được kết hơn. Đối với các trường hợp này, nếu các bên có kết hơn thìcũng khơng được thừa nhận. Tuy nhiên, trong thực tiễn khi một số bệnh cókhả năng chữa khỏi thì hơn nhân của họ khơng bị tiêu hủy.
Điều 11 Luật Hơn nhân và gia đình 1959 quy định: “Việc kết hơn phải
được Uỷ ban hành chính cơ sở nơi trú quán của bên người con trai hoặc bên
người con gái công nhận và ghi vào sổ kết hôn. Mọi nghi thức kết hơn khác
đều khơng có giá trị về mặt pháp luật". Đây là điều kiện về mặt hình thức của
việc tuân thủ các điều kiện kết hôn của các bên nam, nữ khi họ kết hôn, npanchặn kịp thời những trường hợp kết hôn vi phạm các quy định của Luật Hồnnhân và gia đình. Khơng đăng ký kết hôn sẽ dẫn đến hậu quả là Không được
Nhà nước và pháp luật bảo vệ theo đúng quan hệ vợ chồng, nghĩa là Không
thừa nhận quyền và nghĩa vụ của các bên như quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
mà Luật Hơn nhân và gia đình quy định.
Như vậy, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 đã quy dinh cụ thenhững điều kiện trong đó cho phép nam, nữ kết hôn hoặc các trường hop cam
nam, nữ kết hôn, đặc biệt là có quy định cả những trường hợp khơng được ket
hơn. Vì vậy, những trường hợp vi phạm điều kiện kết hơn chính là vi phạm
chế độ hơn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa nên cần phải được xử lý
nghiêm khắc. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình 1959 khơng quy định
biện pháp chế tài đối với những trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn.Biện pháp xử lý đối với việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn được ghi nhậntrong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình 1959. “TạiCơng văn số 1264 ngày 1.11.1966, Tòa án nhân dân tối cao đã gửi các Tồ ánnhân dan địa phương Dự thảo Thơng tư hướng dẫnviệc xử lý về dân sự nhữnghôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn do Luật định. Dự thảo này đã có tác dụngbước đầu hướng dẫn về đường lối và thủ tục xét xử. Qua kinh nghiệm thực tiễnxét xử và đóng góp ý kiến của các Tồ án nhân dan địa phương, Tòa án nhândan tối cao đã có hướng dẫn đầy đủ hơn về việc xử lý về dan sự những hôn
nhân vi phạm điều kiện kết hôn tai Thông tư số 112-NCPL ngày 19.8.1972.
Theo hướng dẫn tại Thơng tư này thì về đường lối chung là khi xử lý về đàn sựđối với những vi phạm điều kiện kết hôn xảy ra sau khi ban hành Luật Hơn
tính chất nghiêm trọng như: tảo hơn, cưỡng ép kết hơn, đang có vợ, có chồng
mà lấy vợ hoặc chồng khác, lấy người trong họ hàng mà Luật tuyệt đối câmkết hôn; lấy người dang mắc một bệnh trong những bệnh tật mà Luật cấm kết
<small>hôn,</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">- Đối với những việc trước đây vi phạm điều kiện kết hôn, những nay dichấm dứt hoặc vi phạm khơng có tính tính chất nghiêm trọng và có thể sứachữa một cách dé dang (như kết hơn khơng dang ký) thì xử lý theo đường lơivề ly hôn nếu đương sự yêu cầu cắt đứt quan hệ vợ chồng. Như vậy, về nguyéntác thì những trường hợp kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn do Luật địnhthì hơn nhân đó cần phải xử tiêu hôn. “Xử tiêu hôn là quyết định chấm dứinhững hôn nhân bất hợp pháp". Điều đó có nghĩa là hơn nhân vi phạm: điềukiên kết hôn là hôn nhân bất hợp pháp (hơn nhân trái pháp luật) cần phải xítiêu hôn nhằm đấu tranh chống những việc vi phạm nghiêm trong trong điêu
khơng thừa nhận quan hệ vợ chồng đối với những trường hợp nam, nữ két hỏnnhưng không tuân thủ đầu đủ điều kiện kết hôn. Huy hôn nhân trái phái› luật
sẽ dan đến hậu quả nghiêm trọng đối với hai người đã kết hôn về quan hệ
nhân thân và quan hệ tài sản. Về ngun tắc khi hơn nhân bị Tồ án tiêu huỷthì có hiệu lực cả trong q khứ và tương lai. Vì vậy, kể từ khi hai bên kết hôn
quan hệ của họ chỉ là việc chung sống trái pháp luật chứ không phải là quanhệ vợ chồng. Khi Tồ án huỷ hơn nhân, họ phải chấm dứt việc chung sống bat
phải thanh toán theo cách thanh toán tài san của những người chung sứ: làmăn với nhau, tài sản riêng của ai người đó lấy về, tài sản do hai người lao độnp
tạo ra sẽ chia theo công sức mà mỗi bên đã đóng góp, những khoản chi ticu
riêng của ai, người đó phải trả. Về cấp duGng giữa các bên thì về nguyén táckhông được đặt ra. Việc tiêu huỷ hôn nhân dẫn đến hậu quả nghiêm trọng niu
vậy nên Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn cụ thể đối với một số trườnghợp, mặc dù có vi phạm điều kiện kết hơn nhưng khơng nghiêm trọng thì
khơng xử tiêu hôn mà chỉ xử theo thủ tục ly hôn nếu các đương sự yêu cầu
nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng của các đương sự, nhất là quyền lợi của
phụ nữ và con cái.
Thông qua các quy định trên đã cho thấy rõ ràng đối với những trường
hợp kết hơn vi phạm điều kiện kết hơn thì hơn nhân đó là trái pháp luật và về
nguyên tắc là xử tiêu hôn trừ một số trường hợp đặc biệt nếu mức độ vi phạm
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">không quan trọng va dé dàng sửa chữa như kết hơn khơng có dang ky ket
Điều 6 Luật Hơn nhân và gia đình 1986 quy định: “Việc kết hôn do
nam, nif tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc bên nào, không aiđược cưỡng ép hoặc can trở".
Điều 7 Luật Hơn nhân và gia đình 1986 quy định cấm kết hôn trongnhững trường hợp: đang có vợ hoặc có chồng; đang mắc bệnh tâm thần khơng
cha, giữa những người khác có ho trong phạm vi 3 đời; giữa cha mẹ nũi vớicon ni”.
Mọi nghỉ thức khác đều không có giá trị pháp lý”.
26
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Điều 57 Bộ luật Dan sự cũng quy định về đăng ký kết hôn: “Vicc kết
hôn phải được dang ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo nghị thức do
pháp luật quy định, mọi nghĩ thức khác đều khơng có giá trị pháp lý”.
Về nguyên tắc, việc kết hôn phải được cơ quan Nhà nước có thảm
quyền cơng nhận và cấp Giấy chứng nhận kết hơn thì hơn nhân đó mới có pidtrị pháp lý, hai bên nam, nữ mới phát sinh quan hệ vợ chồng. Điều kiện nayquy định về mặt thủ tục của việc kết hơn và có ý nghĩa quan trọng. Đăng ký
kết hôn là biện pháp để Nhà nước kiểm tra việc tuân theo pháp luật trong việc
kết hôn và ngăn chặn các hiện tượng vi phạm các điều kiện kết hôn. Đồngthời, đăng ký kết hơn cịn là biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng.Nếu các bên nam, nữ mong muốn trở thành vợ chồng nhưng không dang ky
kết hôn tại một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà chỉ tổ chức kết hơn theo
Khi kết hơn, các bên nam, nữ tuân thủ đầy đủ các điều kiện đó thì hơnnhân của họ là hợp pháp và giữa họ phát sinh quan hệ vợ chồng. Trái lại nếucác bên vi phạm vào một trong các điều kiện kết hơn thì hơn nhân đó bị coi là
trái pháp luật và sẽ bị xử huỷ. Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 1986 quy
định: “Việc kết hơn vi phạm một trong các điều 5,6,7 của Luật này là trái
pháp luật.
Một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ chồng hoặc con của
hơn trai phap luật.”...
Theo quy định tại Điều 9 thì chỉ những trường hợp kết hôn vi phạm mộttroug các điều 5,6,7 của Luật Hơn nhân và gia đình 1986 mới coi là trái phápluật. Điều đó có nghĩa là đối với trường hợp kết hôn vi phạm Điều 8 của Luatvề việc đăng ký kết hơn thì khơng coi là trái pháp luật mà vẫn thừa nhậu hơn
nhau. Điều 8 quy định việc kết hôn phai được một cơ quan Nhà nước có thầm
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">quyển cơng nhận và “mọi nghĩ thức kết hơn khác đều khơng có giá trị pháp
lý” có nghĩa là chỉ những cuộc hơn nhân có đăng ký tại cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền mới có giá trị pháp lý và được cơng nhận là hôn nhân hợp phap.Nhưng Điều 9 lại quy định là hôn nhân vi phạm Điều 8 là không dang ky kết
hôn lại không phải là hôn nhân trái pháp luật. Trong trường hợp này phải có sự
điều luât nên chăng cần đứng trên nguyên tác bảo vệ quyền lợi của các đươngsự để xem xét. Việc xác định hôn nhân trái pháp luật nên áp đụng theo Điều 9
và như vậy thì chi coi là hôn nhân trái pháp luật khi việc kết hôn vi phạm mot
trong các Điều 5,6,7 của Luật Hôn nhân và pia đình 1986. Trường hợp kết honvi phạm Điều 8 là không đăng ký việc kết hôn tai cơ quan Nhà nước có thấm
quyền khơng bị coi là trái pháp luật, có nghĩa là Nhà nước vẫn thừa nhận tinh
trong trường hợp này là dựa trên thực tế các bên đã chung sống trong quan hệvợ chồng, thực hiện các quyền và nghĩa vụ vợ chồng với nhau và đã cùng nhauvun đắp xây dựng gia đình. Cơng nhận sự tồn tại hợp pháp của các quan hệhou nhân này là “hôn nhân thực tế”.
28
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">PHÁP LUẬT HIEN HANH
Điều 9 Luật Hơn nhân và gia đình 1986 quy định: “Việc kết hon viphạm một trong các Điều 5,6,7 của Luật này là trái pháp luật”.
Như vậy, Luật Ilôn nhân và gia đình 1986 đã chỉ rõ những can cứ để
xác định hôn nhân trai pháp luật và hau qua là hơn nhân trai pháp luật đó phat
bị hủy bỏ. Nhung trong thực tế hủy hơn nhàn cũng có thể gây hậu quả nghiêm:
trọng mà các bên đương sự cũng như con cái họ phải gánh chịu, vì thế Tồ án
nhân tối cao đã có những hướng dẫn xử lý các trường hợp cụ thể khi hẳy việc
kết hôn nhất là trong những trường hợp vi phạm nghiêm trọng điều kiện kết
hơn. Mặc dù đã có các căn cứ được quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia
đình song thực tế việc xem xét đánh giá dối với các trường hợp vi phạm cácđiều kiện kết hôn gặp rất nhiều khó khăn và phức tạp, dan đến việc quyết .lịnh
biện pháp xử lý cũng gặp những vướng mắc nhất định. Vì vậy, cần hiểu rõ tinhthần của điều luật và bản chất pháp lý của các điều kiện kết hơn để từ đó có sựđánh giá và xử lý đúng dan theo từng trường hợp cu thể.
2.1.1 Hôn nhân trái pháp luật đo vi phạm Điều 5 Luật Hon nhân vigia đình 1986 (vi phạm về độ tuổi kết hịn).
Theo quy định tại Điều 5 Luật Hơn nhân và gia đình 1986 thì nam từ 20
tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hơn. Luật quy định độ t: tóithiểu cho phép nam, nữ kết hơn vì vậy nam, nữ khơng được kết hôn trước tuổi
luật định.
Khi quy định độ tuổi kết hôn, các nhà làm luật đã căn cứ vào sự phát
triển tâm sinh lý của con người, căn cứ vào phong tục tập quán của nhân dân
và liên hệ đến một số các chính sách lớn cha Nhà aude như chính sách về dân
số và kế hoạch hóa gia đình.... Vì vậy, độ tuổi kết hon được quy định tại liêu
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">5 thể hiện tính khoa học và phù hợp với đời sống tình cảm của nhân dân. phù
đình phải thực hiện các chức năng xã hội cơ bản của nó, một trong những
đảm sức khoẻ cho vợ chồng, đặc biệt cho người phụ nữ khi mang thai, sinh dé
xuất phát từ việc bao vệ lợi ích của chính các bên nam, nữ, của con cai họ, củagia đình và xã hội; bao đảm cho hơn nhân hạnh phúc và gia đình tồn tại bềnvững. Nếu các bên nam, nữ kết hôn q soin sẽ anh hưởng tới các lợi ích nói
Việc xác định độ tuổi kết hôn trong đại da số các trường hợp là rất thuận lợi.Có thể căn cứ vào giấy khai sinh, vào số hộ tịch gốc để từ đó xác định rõ rằngvào thời điểm kết hôn các bên đã đủ tuổi hay chưa. Nhưng trong mót sốtrường hợp do chiến tranh, thiên tai... mà giấy khai sinh hoặc số hộ tịch gốc
và hiện đang gây nhiều tranh luận là về cách tính tuổi kết hơn như thế nào ?Luật Hơn nhân và gia đình 1986 khơng quy định về cách tính tuổi nên trongthực tế khi có vấn đề nảy sinh, các địa phương có cách xác định khác nhau vềcách tính tuổi kết hơn nên dẫn đến việc giải quyết cũng khác nhau.
Một số các địa phương chỉ công nhận một cách tính tuổi duy nhất là
tính tuổi trịn. Theo cách tính này thì phải căn cứ vào cả ngày, tháng và narasinh của người kết hôn. Đủ 12 tháng mới được coi là trịn mot tuổi. Vì vậy
theo cách tính này, nếu anh A sinh ngày 30.10.1976 thì đến đúng ngày
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">trước ngày đó (đù chỉ vài ngày) thì hơn nhân của anh ta cũng bị coi die trai
được phép kết hôn. Vậy nếu anh A kết hôn vào ngày 30.1.1996 thì hơn nhân
đương nhiên là cùng liên quan đến một diều kiện kết hôn, nhưng ở nơi này thì
coi là trái pháp luật, ở nơi khác lai không coi là trái pháp luật. R6 ràng, cách
xác định tuổi kết hôn không thống nhất đã dẫn đến việc đánh giá căn cứ để
xác định hôn nhân trái pháp luật cũng không thống nhất. Theo chúng tôi, cầnthống nhất trong việc áp dụng Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình về cách tính
tuổi kết hơn là căn cứ vào ngày đầu của nam dương lịch, bởi lẽ, quy định dotuổi kết hôn của Luật Hôn nhân và gia dình là căn cứ vào sự phát triển tâm
định tuổi kết hôn nhà làm luật cũng đã dựa vào phong tục tập quán của nhân
chúng tơi nên cơng nhận cách tính tuổi thứ hai vừa phù hợp với phong tục tập
quán của nhân dân vừa có lợi cho các bên đương sự nhưng đồng thời vẫn bảo
đảm tính khoa hoc,/Truéc đây, theo pháp luật thời kỳ Pháp thuộc thì mặc dù
đã quy định tuổi kết hôn cho nam, nữ nhưng trong các Bộ Dân luật Bắc kỳ và
Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật vẫn quy định những trường hợp có ly do
Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa Pháp tại thiên V quy định về hôn nhân,Điều 144 quy định: “Nam chưa dủ 18 tuổi tron, nữ chưa đủ L5 tuổi tron khong
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">the ket hôn”, Nhung bên cạnh đó Điều 115 tại quy định: “Puy nhiên, cơng to
những lý do nghiêm trọng”. Hoặc luật của Singapore quy định khi có sự cho
nguyên tắc cần phải hủy hôn nhân theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân vàgia đình 1986. Tuy nhiên, hủy hơn nhân trái pháp luật sẽ dẫn đến những hau
quả nghiêm trong mà các bên phải gánh chịu và đặc biệt là sẽ gây ảnh hưởngxấu tới việc nuôi đạy con chung của hai người kết hơn trái pháp luật. Vì vậy,Tịa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn các Tòa án địa phương trong quá trình
xử lý cần phải thận trọng, xem xét về nguyên nhân, hoàn cảnh của việc viphạm điều kiện này và đặc biệt xem xét đến tình cảm của các bên từ khi họ
chung sống cho đến khi Tịa ấn xem xét cuộc hơn nhân của họ. Theo Nghị
quyết số O1/NQ -HĐTP ngày 20/1/1988 của Hội đồng thẩm phán - Tòa án
nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và
gia đình” thì nếu kết hơn chưa đủ tuổi như quy định của Điều 5 mà có yêu cầu
của những người quy định trong Điều 9 thì Tịa án xử hủy việc kết hôn. Như
vậy, trong các trường hợp thông thường nếu các bên kết hôn trước tuổi luật
định nên đã có u cầu hủy việc kết hơn trái pháp luật của các đương sự, các
sau khi các bên kết hơn, khơng ai có u cầu hủy việc kết hơn đó, nhuny sanmột thời gian chung sống các bên mới yêu cầu chấm đút quan hệ hôn nhàncủa ho thì Tịa án cần phải xem xét đến thực chất mối quan hệ tình cam và
trang thái gia đình của họ kể từ ngày họ chung sống với nhau cho đến khi họyeu cầu chấm dứt hôn nhân. “Nếu do kết hôn chưa đú tuổi mà cuộc sống: của
Les) 9
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">chưa có những suy xét chín chắn, chưa có cách ứng xử phù hợp trong quan hệ
được gia đình hạnh phúc. Do đó, mặc đà đã qua một thời gian chung sống. cácbên đã vào độ tuổi trưởng thành, nhưng khi có yêu cầu hủy việc kết hơi thì
Tịa án hủy việc kết hơn đó là hồn tồn chính đáng. Nhưng doi với nhữn›
trường hợp dù kết hôn trước tuổi luật định nhưng nam, nữ cũng đã hiển rõquyền và nghĩa vụ của vợ chồng, trách nhiệm đối với gia dinh và xã hội nên
đã yêu thương nhau, càng nhau làm ăn chăm lo vun vén gia đình thì mac dn
có u cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật của những người có quyền u cầu(trừ hai người trong quan hệ hơn nhân) vào thời điểm các bên đã dủ tuổi kết
hôn, theo chúng tơi, Tịa án khơng nên máy móc xử hủy hơn nhân đó, mà nênbác đơn u cầu hủy hơn nhân và khi đó thì hơn nhân của họ được coi là hợipháp. Nếu sau đó các bên mới phát sinh mâu thuẫn và một trong các bên ve,
chồng yêu cầu được chấm đứt hôn nhân (thường là họ làm đơn xin ly hơn) thìTịa án sẽ giải quyết theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/NQ-HĐTT: “Nêu
hai bên đã chung sống bình thường, đã có con và tài sản chung, sau đó mới
phát sinh mâu thuẫn thì khơng máy móc xử hủy việc kết hơn mà áp dung }iều
40 (ty hôn) để xét xử”.
Như vậy, đối với các trường hợp nam, nữ kết hơn trước tuổi luật định,
Tịa án cũng có thể xử hủy việc kết hơn và cũng có thể xử khơng hủy việc kéthơn khi có đơn yêu cầu. Trong một số trường hợp đặc biệt, Tịa án có thể xử lv
hơn nếu chính các bên đương sự yêu cầu chấm đứt quan hệ hôn nhân của họ.
2.1.2 Hơn nhân trái pháp luật do khơng có su tu nguyện của các
bên nam, nữ
Điều 6 Luật Hôn nhân và gia đình 1986 quy định: “Việc kết hơn do
nam, nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc bên nào, không aiđược cưỡng ép hoặc can trở”,
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">mãn nhu cầu tình cẩm giữa hai bên. Nam, nữ tự mình quyết định việc kêt hónmà khơng bị tác động bởi ý chí của bên kia hoặc của người thứ ba khien hophải kết hôn trái với ý muốn. Việc kết hôn của các bên nai, nữ phải xuất phat
từ tình yêu thương giữa họ và nhằm mục đích xây dựng gia đình hạnh phúcdưới sự giúp đỡ của Nhà nước và của xã hội. Nếu nam, nữ kết hôn nhưng lại.
thiếu sự tự nguyện của cả hai bên hoặc của một trong hai bên thì hơn nhân của
họ khơng được pháp luật thừa nhận (theo quy định tại Điều 9 Luật liên nhân
và gia đình 1986). Thiếu sự tự nguyện khi kết hơn là nam, nữ bị cưỡng ép hoac
bi lừa đối. Nghị quyết số 01/NQ-HDTP ngày 20/1/1988 hướng dẫn: “BỊ cưỡngép hoặc bị lừa dối khi kết hôn đều trái với nguyên tắc tự nguyện kết hơn. Vì
vậy, Tịa án xử hủy việc kết hơn”. Luật Hơn nhân và gia đình 1956 và Nghị
quyết 01/NQ-HĐTP đều khơng có hướng dẫn cụ thể thế nào là thiếu sự tự
nguyện khi kết hôn và thế nào là hành vi cưỡng ép hoặc lừa dối khi kết hon, vì
vay trong quá trình xử lý các trường hợp cụ thể, các Tịa án đã gặp rất nhiều
khó khăn trong việc đánh giá căn cứ này.
đe dọa để buộc một người kết hôn trái với mong muốn của họ. Trước đây, theo
Thông tư số 112-NCPL ngày 19/8/1972 của Tòa án nhân dân tối cao hướngdẫn việc xử lý về mặt dân sự những hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn doluật định thì cưỡng ép kết hơn trên thực tế có nhiều mức đó và hình thức. “Todấn chỉ xử tiêu hơn trong trường hợp hành vi thực sự có tính chất cưỡng ép, như
đã dùng bạo lực về vật chất hoặc tinh thần, mạnh mẽ đến mức làm té liệt ý chí
một người khác phải kết hôn. Sự bất buộc đó manh mẽ đến mức, người bịcưỡng ép lo sợ rằng một mối nguy hiểm lớn sắp xảy ra cho ban thân họ hoáccho những người thân họ. Chính vì lỗi sợ hãi đó đã khiến cho đương sự buộc
lịng phải đồng ý kết hơn mà khơng cịn cách lựa chọn nào khác.
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Ví dụ: Nguyễn Van A là một thanh niên đã có tiền ấn tiền sự về tội 06 ýgây thương tích và gây rối trật tự cơng cộng dem lịng u mến cô Lê Thi 11.Khi A ngỏ lời muốn lấy cơ H làm vợ thì cơ H từ chối. Một hôm, trên đường co
thì hắn sẽ đâm chết cơ, đo sợ hãi, cô H đành trả lời đồng ý lấy A. Vài ngày
đăng ký kết hôn.
Như vậy đối với trường hợp này, cô H đã liên tiếp bị de doa va sự de
doa đó mang tính chất tức thời, liền kể. Vì thế cần xác định rằng H bị cưỡng
ép mà đồng ý kết hơn với A, nếu khơng bị đe dọa thì H sẽ không kết hôn với
việc kết hơn đó.
Trong thực tế cịn xây ra một số trường hợp mà vì những lý do nhấtđịnh, nam, nữ đã đồng ý kết hôn trái với ý chí thực của họ. Đó là trường hợp
với các trường hợp này, việc kết hơn của họ có được coi là thiếu sự tự nguyện
của các bên hay không ? Do Luật Hơn nhân và gia đình khơng quy định cụ thể
và các văn bản pháp luật khác cũng khơng có hướng dẫn nên trong thực tế vẫn
gây nhiều tranh luận. Có quan điểm cho rằng, nếu một người mà lúc trước
khơng muốn kết hơn với một người nào đó nhưng sau do bị dụ đỗ hoặc dượcthuyết phục nên đã đồng ý kết hơn thì cũng coi là bị cưỡng ép kết hơn và nhưvậy, khi có u cầu thì cần xử hủy việc kết hơn đó. Theo chúng tơi, một người
bị dụ đỗ hoặc được thuyết phục mà đồng ý kết hơn thì khơng coi là thiếu sự tự
nguyện khi kết hơn, bởi lẽ, trong q trình người đó bị thuyết phục, bị dụ đỏ
nên tiến hành kết hơn thì r6 ràng đã do chính họ quyết định. Hơn nữa, trongviệc thuyết phục hay dụ đỗ một người khơng có nghĩa là họ đã bị cưỡng ép kết
hop một người vì lịng u kính cha mẹ nên đã nghe theo lời khuyên và sự sap
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">xếp của cha mẹ trong việc kết hơn mà khơng xuất phát từ mục dích vụ lợi của
Qua phân tích trên đây cho thấy, chỉ coi là thiếu sự tự nguyện khi kéthôn khi có hành vi cưỡng ép kết hơn, hành vi đó phải mang tính chất qut liệtlàm cho người kết hơn hoàn toàn mất hết tự chủ nên phải chấp nhận việc k¿t
những người kết hơn.
- Hành vi lừa đối khi kết hôn được dé cập đến trong Thơng tư số
112-NCPL ngày 19.8.1972 của Tịa án nhân dân tối cao. Theo Thơng tư này thì
một cách nghiêm trọng, như che dấu lý lịch chính trị hoặc tư pháp đặc biẻt
xấu của mình, làm cho bên bi mắc lừa đồng ý kết hơn, thì cũng coi là vice viphạm điều kiện tự nguyện kết hôn và cần phải xử tiêu hôn”. Hôn nhân là sự
lâu dài nên pháp luật không thừa nhận những trường hợp có sự lừa đối để kéthơn. Sự lừa đối nói chung là một người đã nói sai sự thật dan tới việc làm cho
Tuy nhiên, chi coi là có sự lừa dối để xác định hôn nhân trái pháp luật khi sulừa dối đó là nhằm để che đấu một sự thật liên quan trực tiếp đến tư cách đạođức, địa vị chính trị của một người, như để che giấu lý lịch chính trị hoặc tr
pháp đặc biệt xấu. Việc xác định thế nào là lý lịch chính trị và lý lịch tư pháp
đặc biệt xấu cũng là vấn đề nan giải. Chính trị là “những hoạt động nhằm
nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng, tổ chức quần chúng thực hiện
đặc biệt xấu là lý lịch của một người đã có những hành vi đi trái với đường lối
chính sách của Đẳng và Nhà nước hoặc chống lại các đường lối chính sách đó.Lý lịch tư pháp “nhằm lưu giữ và cung cấp những thơng tin về q khứ phạm
36
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">lich tư pháp đặc biệt xấu của một người có thé dựa vào việc họ phạm tội hay
không? Thông thường một người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng như sân
đặc biệt xấu. Nhưng theo chúng tơi, trong một số trường hợp một người phan
xâm phạm chế độ hơn nhân một vợ một chồng và phải chịu hình phạt là mo!năm tù. Sau khi ra tù, anh ta ly hôn với vợ và có ý định kết hơn với ngườikhác. Khi u một cơ gái, anh ta đã nói dối rằng chưa lấy vợ lần nào và cũngchưa từng yêu ai trước đó làm cho cô gái tin rằng anh ta là người đứng đắn và
từng kết hơn trước đó và đã từng chung sống với nhiều phụ nữ khác khi dangcó vợ nên người vợ cho rằng đã bị lừa dối và yêu cầu hủy hôn nhân. Theochúng tôi trong trường hợp này người vợ đã bị lầm tưởng về tư cách đạo đứ:
của chồng, tưởng là người tử tế, nhưng thực chất chỉ là kẻ thiếu trách nhiệm
kiện quan trọng quyết định cho hôn nhân của họ. Nên chăng, cần coi các
trường hop này là có sự lừa dối khi kết hôn và cần hủy việc kết hơn đó. Đơi
với các trường hợp khác tuy cũng có sự lừa đối để kết hơn, nhưng sự lừa dối
khơng mang tính chất nghiêm trọng như lừa dối về địa vị xã hội, về thànhphần gia đình thì xử lý theo đường lối xử ly hôn nếu các bên đương sự yêu cầu
cắt đứt quan hệ vợ chồng (Thông tư số II2NCPL) Ví dụ một người là y tánhưng nói đối là bác sỹ để đối tượng của mình đồng ý kết hôn.
Trong thực tế xảy ra một số trường hợp kết hơn do có sự nhầm lẫn vẻ
nhân cách thì có nên cho rằng có sự lừa dối khi kết hôn hay không? Chẳng
hạn một người đàn ông nói đối mình là giáo viên của một trường đại học nên
cô gái đã đồng ý kết hôn, nhưng sau khi kết hôn mới biết rằng anh ta là ngườikhông học hành, không nghề nghiệp. Thiết nghĩ trong trường hợp này cũng
nên coi là có sự lừa dối kết hơn bởi rõ ràng cô gái đã lầm tưởng anh ta là người
có học hành, có bằng cấp, được giáo dục... nhưng thực ra anh ta là người
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">khơng có tri thức, khơng nghề nghiệp mà những yếu tố đó có tác dịng quyếtđịnh đến cuộc sống vợ, chồng, đến hạnh phúc gia đình.
Hiện nay, có một số trường hợp nam, nữ tự nguyện kết hôn với nhau
tự nguyện hay không? Trường hop này tạm gọi là hôn nhân “gia tạo”. Ví dụ:một cơ gái có quốc tịch Việt Nam và mét người dan ơng có quốc tịch My đã
Mỹ với người Mỹ kia, sau khi cô gái được nhập quốc tịch Mỹ thì họ sẽ “lyhơn”. Theo chúng tơi sự tự nguyện của hai người trong trường hợp này chi làgiả tạo, thực chất họ không muốn xác lập một quan hệ vợ chồng thực sự, dođó có thể coi là đã vi phạm điều kiện về sự tự nguyện kết hơn. Hơn nữa, xét về
bản chất pháp lý, thì sự tự nguyện của các bên phải dựa trên tình yêu nam nữ
và cùng mong muốn chung xây hạnh phúc, với mục đích thiêng liêng là tạo
lập một gia đình. Trong trường hợp này việc xác lập quan hệ hôn nhân đãkhơng phù hợp với mục đích của nó và cũng khơng dựa trên tình u giữa hai
bên, vì vậy có thể coi việc kết hơn đó là trái pháp luật do vi phạm điều kiện về
sự tự nguyện. Trong luật đân sự Việt Nam, Điều 138 Bộ luật Dân sự quy định
nếu các bên xác lập giao dich dfn sự một cách giả tạo... thì giao dich giả tạo
<small>đó vơ hiệu.</small>
Như vậy, việc kết hơn mà có hành vi cưỡng ép hoặc lừa dối thì việc kết
hơn đó bị coi là trái pháp luật. Về nguyên tắc, biện pháp xử lý đối với cáctrường hợp này, Tòa án cần xử hủy việc kết hôn. Tuy nhiên, “nếu khi kết honcó bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối, nhưng sau đó vợ chồng thơng cảm với nhau,chung sống hịa thuận thì khi một bên hoặc cả hai bên có u cầu chấm dứt
hơn nhân, Tịa án áp đụng Điều 40 (ly hôn) để xét xử chứ không hủy việc kếthôn” (Nghị quyết số 01/NQ-HDTP). Hướng dẫn trên đây có thể hiểu rằng mac
đù có hành vi cưỡng ép hoặc lừa dối khi kết hơn những sự cưỡng ép, lừa dốiđó chỉ là nhất thời, nó đễ đàng mất đi và thay vào đó là tình cảm u thương
<small>a, ` ` ` ^ 2 a ~, - ` b ... TA ` 7 :</small>
nhau của vợ va chồng, sự thông cảm về những hành vi trước đây thì trong
38
</div>