Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.73 MB, 117 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>MỤC LỤC</small>
<small>trong Bộ luật Dân sự Việt Nam</small>
<small>1.1.2. Cách phân loại tài sản theo Bộ luật Dân sự</small>
<small>2.1. Các hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự2.1.1. Hình thức sở hữu tồn dân</small>
<small>2.1.4. Hình thức sở hữu tư nhân</small>
<small>2.1.7. Hình thức sở hữu chung</small>
<small>Trang110101015192829313234Al44345474952535563656972</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>3.1.1. Phương thức kiện đòi lại tài sản</small>
<small>hợp pháp</small>
<small>Danh mục tài liệu tham khảo</small>
<small>84858593109111</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Tương ứng với mỗi chế độ xã hội là một ché độ kinh tế nhất định.Trong một chế độ kinh tế sở hữu luôn là nội dung mau chốt. đóng vai trị
quan trong trong sự ổn định và phát triển nền kinh tế của mỗi Quốc gia.
Lịch sử đã chứng minh rang, tương ứng với một phương thức sản xuất, mộthình thái kinh tế - xã hội nhất định là một chế độ sở hữu phù hợp. Giữa
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cùng với mức độ dan chủ hoá đời
sống xã hội và mức độ xác nhận quyền sở hữu về phương diện pháp lý có
mối liên hệ hữu cơ với nhau. Chính vì vậy. quyền sơ hữu luôn là vấn đề mấu
chôt của một chế độ kinh tế, là nội dung quan trọng trong hệ thống phápluật của mỗi quốc gia và là chế định trung tâm của pháp luật dân sự.
Ngay từ buổi đầu tiên của chính quyền cách mạng. vấn đề quyền sở
hữu đã được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Điều 12, Hiến pháp 1946
-Hiến pháp đầu tiên của chính thể dân chủ cộng hồ - đã shi nhận: "Quyền
tư hữu tài sản của công đân Việt Nam được bảo đảm”. Hiến pháp năm 1946đã tạo cơ sở cho các quy định pháp lý về sở hữu và cũng từ đây quyền sởhữu tài sản riêng của công dân đã trở thành quyền hiến định. Các quy địnhve quyền sở hữu đã khong ngừng được bố sung và hoàn thiện tại các bản
<small>Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và một số văn ban pháp luật Khác cua Nhanước ta. Tuy nhiên, các quy định pháp luật về sở hữu được ban hành trước</small>
khi có Hiến pháp 1992 và trước khi có Bộ luật dân sự có những nét riêng,
<small>khơng hồn tồn có ý nghĩa và nội dung như các quy định trong Bo luật dân</small>
Nhằm thể chế hoá đường lối phát triển kinh tế của bang ta tại Đại
hội lần thứ VI, Hiến pháp nam 1992 - Đạo luật cơ ban của Nhà nước - đãghi nhận sự chuyển đôi nên kinh tế từ Kế hoạch tập rung sang nên kinh tế
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">thi trường có sự quan iv của Nhà nước và quy định: “Co cau Kinh te nhiềuthanh phân với các hình thức to chúc san xuât. kinh doanh da dạng dựa tren
chê độ sở hữu toàn dar, sở hữu tập thể. sở hữu tư nhân, trong đó sở hữutồn dân va sở hữu tập thể là nền tàng” (Điều 15. Hiến pháp 1992). Để cho
sơ hữu tro thành động lực thúc day sự phát triển nén kinh tế quốc dân Nhà
<small>nước ta đã chu trương đơi mới. du dang hố các hình thức so hữu, các hình</small>
thức so hữu cùng tồn tại bình dang va lấy hiệu qua kinh tê làm thước đo tính
<small>hợp lý.</small>
Trong q trình cụ thể hố các quy định của Hiến pháp 1992. năm
1995 Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật dân sự. Các vấn dé cơ bản về sở hữuđược Hiến pháp 1992 shi nhận đã được cụ thể hoá quy định tại Phần thú
<small>hai, Bộ luật dân sự. Nhìn chung, các quy định về quyền sở hữu trong Bộ</small>
luật dân sự đã được quy định một cách hệ thống, tương đối cụ thể và chi tiêtso với trước đây. Nhưng kể từ ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực thi hành(1.7.1996) vẫn cịn có những cách hiểu và vận dụng chưa thống nhất, nhất
<small>là trong thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thâm</small>
Việc nghiên cứu để làm sáng tỏ các khái niệm và nhất là tìm hiểu cơsở lý luận, thực tiễn của các quy định về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sựvẫn là một việc làm cần thiết có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Nghiên
cứu để làm rõ cơ sở khoa học cũng như tính khả thi của các quy định trong
pháp luật thực định để có sự nhận thức thống nhất phải được coi là việc làm
<small>thường xuyên và có hệ thống.</small>
<small>Hiện nay chúng ta đã có Bộ luật dân sự với các quy định tương đối</small>
hoàn thiện. Lần đầu tiên các quy định về sở hữu nói riêng đã được pháp
điển hố có hệ thống, nhưng cho đến nay các văn bản giải thích. hướng dẫn
thi hành cịn rat hạn chế. Vi vậy, việc nghiên cứu để tong hop bước dau
những quan điểm khoa học nhằm tạo ra sự nhận thức thống nhất về tài sản
và quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự là rất cần thiết. Với một
<small>to</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">vấn dé có ¥ nghĩa quan trong ca về lý luận và thực tiền như vậy, tác gia đã
lựa chọn đề tài :"Mot sở van dé về quyền sở hữu trong Bo luật dan sự” là
no: dung nghiên cứu tro+e Ban luận án thạc sỹ luật học cua mình.
<small>2. Tinh hình nghiên cứu đề tài.</small>
Quyền sở hữu là vấn đề mau chốt của mot chế độ kinh tê. có vai trịnhư là một trong những động lực quan trọng thúc day sự phát triển của nền
<small>kinh tê quốc dân nên da được giới nghiên cứu khoa học nói chung và khoa</small>
học pháp lý nói riêng quan tâm nghiên cứu trong tất cả các thời kỳ và dướinhững góc độ khác nhau. Các nhà khoa học đã tìm cách lý giải dưới nhữnggóc độ khác nhau về sự tồn tại khách quan của một chế độ sở hữu và tươngứng với nó là các hình thức sở hữu thích hợp trong những điều kiện nhất
định: tìm hiểu và lý giải vai trò của chế độ sở hữu đối với sự phát triển củanền kinh tê quốc dân, với sự 6n định của đời sống xã hội. Với tính cách là
một chế định trọng tâm của pháp luật dân sự. nên trước khi ban hành Bộluật dan sự vấn đề quyền sở hữu nói chung cũng đã được giới nghiên cứu
<small>luật học quan tâm. Tuy nhiên, việc nghiên cứu có hệ thong vẫn chi là các</small>
giáo trình của các co sở đào tạo luật. Ngoài ra. trong một số các tạp chí
<small>chun ngành cũng có dang tải một số bài viết của các luật gia, nhưng chi</small>
dưới một góc độ hẹp, thiếu tính chất tổng qt.
Có thể thấy rằng. đã và sẽ có rất nhiều cơng trình khoa học tiếp tục
nghiên cứu về vấn dé sơ hữu. Trong khoa học pháp lý, vấn dé sở hữu được
<small>coi là một trong những nội dung cơ bản khi nghiên cứu pháp luật. Một sốcơng trình nghiên cứu đã được công bố là: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp</small>
bộ của Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật năm 1990 :"Vấn dé sở hữu
trong nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần trong quá trình đi lên chủ
<small>nghĩa xã hội ở nước ta”; trong sách "Bình luận khoa học Hiến pháp nước</small>
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” có chuyên dé :"Những vấn đề pháp lýcủa chê độ kinh tế” của tác gia Hồng Thế Liên cũng có dé cập đến vấn désở hữu: bài viết của tac giả Lê Hữu Nghĩa :"Vấn dé sở hữu trong quá trình
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>xáy đựng chu nghĩa xã hội”: bài viết của tac gia Lê Bàn Thạch : Sơ hữu xã</small>
hội chu nghĩa dưới ánh sáng của đường lối cải to doi mới”: bài việt của tác
gia Trân Trọng Huu :"Co cấu sở hữu va cơ cấu kinh tế - những vấn dé lý
luận pháp lý và thực tiễn ở Việt Nam"... Các bài viết của các tác gia nói trênđăng trong tạp chí nghiền cứu Nhà nước và pháp luật đã dé cập tới nhữngkhía cạnh khác nhau của vấn đề sở hữu.
Hiến pháp 1992 sửa đổi đã tạo cơ sở pháp lý cho cho việc ban hànhnhiều văn bản pháp luật như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam. Luật
<small>công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân ... Các văn bản pháp luật ban hành sau</small>
khi có Hiên pháp 1992 đã quy định những vấn đề về sở hữu hoặc liên quanđến sở hữu trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
<small>nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn dé được quan tâm lúc này là:trên cơ sở các quy định của Hiến pháp 1992 phải tạo ra một cơ chế pháp lý</small>
về sở hữu thích ứng, mang tính đặc trưng của chế độ sở hữu trong điều kiện
của nền kinh tế thị trường, nhất là vấn đề vai trò của sở hữu Nhà nước (haycòn gọi là sở hữu toàn dân) trong khi chuyển đổi cơ chế kinh tế. Cần phảicó cơ chê pháp lý về sở hữu thích hợp để bảo đảm vai trị chủ đạo của hìnhthức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể trong điều kiện nền kinh tế thịtrường nhiều thành phan, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xãhội chủ nghĩa.
Sau khi Bộ luật dân sự được công bố và có hiệu lực thi hành, đã có
nhiều cơng trình khoa học tiếp tục nghiên cứu các quy định về sở hữu trong
<small>Bộ luật dân sự. Tại trường đại học luật Hà nội đã tiến hành nâng cấp giáotrình luật dân sự (chương viết về tài sản và quyền sở hữu), bổ sung những</small>
vấn đề mới cho phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự. Đã có nhiều cuộchội thảo về luật đân sự nói chung và về quyền sở hữu nói riêng (trước và sau
<small>khi ban hành Bộ luật dân sự) thu hút sự quan tâm, tham gia của nhiều nhà</small>
nghiên cứu dưới các góc độ và cấp độ khác nhau.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Các cơng trình nghiên cứu về quyên sơ hữu dưới những cóc do Khácnhau đã được cong bo tương doi phong phú và da dạng. Trước het la cong
trình nghién cứu Khoa học cáp bộ của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý.Bộ tư pháp :"Bình luận khoa học một số van dé cơ ban của Bộ luật dan sự”,trong đó có chương II] nghiên cứu về tài san và quyền sở hữu cua Tien sỹ
Hồng Thê Liên. Cơng trình nghiên cứu khoa học cap bộ cua Viện Nhà
nước và pháp luật :"Nhimg vấn đề lý luận cơ ban về Bộ luật dan sự ở Việtnam” (do Tiến sỹ Trần Dinh Hảo là chủ nhiệm đề tài), cũng có một chuyên
dé trong nội dung của đẻ tài viết về sở hữu dưới dang tổng quát.
Tại Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật cũng đã có mol congtrình nghiên cứu của nghiên cứu sinh Hà thị Mai Hiên (đã bảo vệ) viết vềQuyền sở hữu của công dân trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Tại khoasau đại học của trường Đại học luật Hà nội cũng chỉ có một cơng trình
nghiên cứu về sở hữu của tác gia Nguyễn Huy Anh với dé tài :"Qua trìnhhình thành va phát triển pháp luật về sở hữu ở Việt nam"... Ngồi ra cịn có
một số bài viết trong các tạp chí chun ngành như: Tạp chí luật học củatrường đại học luật Hà nội, Tạp chí của Viện nhà nước và pháp luật, Tạp chíTồ án, Tạp chí Kiểm sat ... cũng chi dé cập đến những nét riêng và chủ yếulà bình luận các vụ việc cụ thể dưới những góc độ khác nhau trong thực tiễngiải quyết tranh chấp về quyền sở hữu.
Các nước XHCN Đông Âu trước đây, sau cải cách cải tổ và dân chủ
hố đã có nhiều quan niệm, nhiều cách hiểu và lý giai khác nhau về quyềnsở hữu. O Liên xô đã xuất bản sách :"Quyền sở hữu ở Liên Xơ” (1990 bằngtiếng Nga) trong đó nói lên những quan điểm và quan niệm rất khác nhau
về sở hữu. Ở Trung quốc cũng có nhiều tác giả với nhiều cơng trình nghiên
cứu khác nhau về sở hữu như :"Bàn về quy luật phương hướng cải cách chế
<small>độ sở hữu Nhà nước” của Phùng Khánh Tuyền, tập san chuyên đề cải cách</small>
kinh tế ở Trung Quốc...
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Nhu vậy, chúng ta thấy rang mặc dù là mot vấn để het sức phức tap
nhưng các công trình khoa học sẽ cịn tiếp tục nghiên cứu vé quyền sở hữu
dưới những góc độ khác nhau. Nhưng quyền sở hữu là mot đề tài rộng và rấtphức tạp nên trong phạrn vi một bản luận án thạc sỹ khong thể nghiên cứu
một cách toàn diện và đây đủ về chế định :"Tai san và quyền sở hữu” trong
Bộ luật dân sự. Trong ban luận án này tác gia chỉ mạnh dan nghiên cứu mot
số vấn đề cơ bản nhất của chế định quyền sở hữu theo dé tài: "Mot so vanđề về quyền sở hữu trong Bộ luật dân su".
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án.
Trước những yêu cầu của việc tiếp tục nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực tiễn các quy định về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự. luận án này
góp phần làm sáng to khái niệm và nội dung quyền sở hữu: vi trí, vai trị củanó trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời trong quá trình phân tích cơ so lý
luận và sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu trong thực tiễn, vai trò của
các hình thức sở hữu trong điều kiện hiện nay ở nước ta, tác gia bước đầu sẽ
<small>le)</small>6 gang tong hợp hiệu qua điều chỉnh của các quy định pháp luật về sở hữu
và nêu một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật vềquyền sở hữu ở nước ta. Hoàn thiện pháp luật về sở hữu nhằm bảo đảm tínhkhả thi khi áp dụng trong thực tiễn là góp phần thiết thực để thực hiện mụctiêu tầng trưởng nền kinh tế quốc dân; làm cho pháp luật về sở hữu thực sựlà một trong những "céng cụ pháp lý thúc day giao lưu dân sự, tạo môitrường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”,
Để đạt được mục đích đó, luận án đặt ra nhiệm vụ:
Phân tích và lý giải để làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn các quyđịnh về nội dung về tài sản và quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự.
Phân tích lược su sự điều chỉnh pháp luật về sở hữu trong các triều
đại Việt nam để làm nổi bật tính kế thừa truyền thống và những bước phát
<small>6</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Hình thức và nội dung cơ ban của quyền sở hữu theo quy định của Bộ
4. Giới hạn của luận án.
Sở hữu là vấn dé rộng lớn va phức tạp, có thé được nghiên cứu dưới
góc độ của ngành khoa học xã hội khác nhau và dưới những cấp độ khácnhau. Trong phạm vi bản luận án Thạc sỹ luật học chun ngành luật dansự, tác gia khơng có tham vọng nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủmọi vấn đề liên quan đên sở hữu. Ban luận án chỉ tập trung nghiên cứu motsố vấn đề cơ ban về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự và việc áp dung của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết các tranh chấpvề sở hữu hiện nay ... để làm sáng tỏ một cách tương đối có hệ thống cácquy định về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự. Qua đó phát hiện nhữngnhững khiếm khuyết, những quy định chưa bảo đảm tính khả thi để bổ sungkhi sửa đổi bộ luật trong tương lai.
5. Phương pháp nghiên cứu và cơ sở lý luận.
Cơ sở phương pháp luận trong nghiên cứu đề tài của luận án là triết
<small>học Mác- Lê - nin. Trong quá trình nghiên cứu tác gia đã dựa trên các tác</small>phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác Lê - nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn<small>kiện Đại hội Dang cộng sản Việt nam đề cập đến vấn dé dân chủ hố, hồn</small>
thiện và đói mới hệ thống pháp luật, củng cố pháp chế... Tác giả cũng thamkhảo pháp luật dân sự của một số nước về vấn đề quyền sở hữu để so sánh
với pháp luật dân sự của nước ta.
Trong quá trình nghiên cứu dé tài, tác gia sẽ sử dụng các phương
<small>pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: so sánh pháp luật, lịch su, logic</small>
pháp lý, hệ thống, phân tích, tổng hợp... Phương pháp nghiên cứu để tài là
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">đi tù cái chung đến cái riéng và nghiên cứu mọt phán thực tiền giai quyel
các tranh chấp về so hữu trong giai đoạn hiện nay.
Sơ hữu là một vấn đề khó và rất phức tạp nên từ sau khi Bộ luật dânsự có hiệu lực thi hành có rất ít cơng trình nhiên cứu ở bậc sau đại học
nghiên cứu riêng về sở hữu. Vì vậy, Luận án có thể được xem là một trong
những cơng trình bước đầu nghiên cứu một cách tương đối tông hợp và toàn
diện một số vấn dé co bản về sở hữu. Trong luận án sẽ tổng hợp một số
quan điểm khoa học về sở hữu để:
Trình bày một cách tổng quát những cơ sở lý luận, thực tiễn về tài
sản và quyền sở hữu dưới góc độ pháp lý. Từ đó có cơ sở để khẳng định vai
trị và ý nghĩa của các quy định pháp luật về sở hữu trong điều kiện nềnkinh tê hàng hố nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo địnhhướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phân tích các điều kiện khách quan, các quy định của hệthông pháp luật thực định, thực tiễn áp dung pháp luật và vấn đề giải quyết
các tranh chấp về sở hữu để bước đầu tổng kết một cách có hệ thống hiệu
quả điều chỉnh của pháp luật sở hữu đối với nền kinh tế nước ta.
Phân tích cơ sở khoa hoc trong thực tiễn áp dụng pháp luật dé giảiquyết các tranh chấp về sở hữu tại ngành Toà án nhân dân và đề xuất cácbiện pháp chủ yếu nhằm giải quyết kịp thời các tranh chấp về quyền sở hữutrong giai đoạn hiện nay.
Kết cấu của luận án:
Luận án được thịc hiện với khối lượng phù hợp với các quy địnhchung của Nhà nước theo một kết cấu sau đây:
* Lời mo đầu.
* Chương I: Kha niệm chung về tài sản và quyền sở hữu quy định
<small>trong Bộ luật dân sự Việt nam.</small>
* Chương II: Hình thức và nội dung quyền sở hữu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Chương Hh: Thực tiên ap dụng pháp luật để giải quyết các tranh
chấp vẻ quyền sơ hữu tại ngành Toà án nhân dan hiện nay.
<small>* Kêt luận.</small>
* Danh mục các tai liệu tham khảo và sử dung trong q trình nghiên
<small>cứu và hồn thành luận ín.</small>
<small>Do thời gian hạn chế và tác gia là người cong tác trong ngành Tồ án</small>
nhân dân nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm. nhất là khi tiếp cận với một
<small>cơng trình có tính chất lý luận chuyên sâu. Vì vay, mặc dù đã có nhiều cố</small>
gắng. nhưng chắc chắn bản luận án khơng thể tránh khỏi những hạn chế.
Tác gia bản luận án mong sẽ được các thay cô giáo và các bạn đồng nghiép
đóng góp bổ sung dé bản luận án được hoàn thiện hon.
<small>Tác gia xin chân thành cảm ơn.</small>
<small>Hà nội, tháng 3 năm 2000</small>
Tác giả
<small>Nguyễn van Cuong</small>
<small>9</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Theo truyền thống, tài sản có ý nghĩa thực tế và có vai trị quan trọngtrong đời sống xã hội nên nó là đối tưởng nghiên cứu của nhiều ngành khoa
<small>hoc, trong đó có ngành khoa học pháp lý dưới những góc độ khác nhau, Tài</small>
sản có một vai trị quan trọng trong các quan hệ pháp luật về sở hữu nênđược quy định ngay tại điều luật đầu tiên của chương một, Phan thú hai Bộluật dân sự và trong tồn bộ chương hai, Phần thứ hai. Tai san khơng chi
hiểu đơn giản là một val có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, cógiá trị khi trao đối... tài sản có thể liên quan đến những quy chế pháp ly
<small>khác nhau,</small>
Vì vậy, việc tìm hiểu tài sản cùng với những quy chế pháp lý về tài
sản theo quy định trong Bộ luật dân sự và trong các quan hệ pháp luật dân
nghĩa cả trong lý luận và thực tiễn.
<small>Trong pháp luật dân sự tài sản là đối tượng của quyền sở hữu và là</small>khách thể phần lớn các quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu. Tài sản được
xem là tiền đề đồng thời cũng là cơ sở để pháp luật quy định những quy chế
pháp lý thích ứng. Để kaái quát tài sản trong luật dân sự. Điều 172 Bộ luật
dân sự xác định :”Tài sản bao gồm vật có thực, tién, giấy tờ trị giá được
bằng tiền và các quyền tài san".
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><small>Vật có thực được quy định tại Điều 172 Bọ luật dan sự chính là đói</small>
tượng cua thê giới vật chất, ton tại khách quan trong đời song xã hội loàingười. Theo nghĩa rông tài sản bao gồm cả động vật. thực vật, vat với ýnghĩa vật lý ở mọi trang thái rắn. long. khí.... "Với ý nghĩa là một phạm trù
được một nhu cầu nào đó (vật chất) của con người”
Nghĩa là, vật đó có thể đáp ứng các nhu cầu như: sản xuất. kinhdoanh, sinh hoạt. tiêu đùng ... của con người. Nhưng vấn đề là ở chỗ: khôngphải bất cứ một bộ phận có thực nào của thế giới vật chất cũng đều được coilà vật và trở thành tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu. Có
những bộ phận của thê giới vật chất ở dạng này thì được coi là tài san,nhưng ở dạng khác lại khơng được coi là tài san. Điều đó cịn tuỳ thuộc vàotính chất và mục đích của việc sử dụng chúng trong đời sống xã hội.
<small>Ví dụ: ơ-xI là một bộ phận của thế giới vật chất, có vai trị quan trọng</small>
trong cuộc sơng của mỗi con người, vì khơng ai có thể "tồn tại” mà lại
khơng có sự trao đổi 6-xi với tự nhiên thông qua đường hô hấp. Nhưng nê-xI ở dang khơng khí tự nhiên chưa bị ai chiếm hữu, thì khơng thể coi đó là
tài sản được. Bởi vì, tuy có ý nghĩa quan trong khơng thể thiếu trong đờisống mỗi người nhưng khi còn ở dạng tự nhiên, con người chưa chiếm hữu,
chưa có giá trị và chưa đưa vào trong giao lưu dân sự, thì khơng thể là tàisản (vật) với tính cách là khách thể trong các quan hệ về sở hữu. Khi ơ-xiđược cho vào bình. thì con người có thể chiếm giữ, quan lý được và có thetrao đổi với tính cách như một hang hố. Khi "vat" đã có giá tri trong traođổi và được đưa vào giao lưu dân su, thì mới trở thành tài sản.
<small>“Vat có thực, tức là vat đưa vào giao dịch dân sự phải đáp ứng ba yêu</small>
<small>- Vật có thực phải là một bộ phận của thế giới vật chất.</small>
<small>kế. C) z š ấ : Đ~ : - : ơ</small>
<small>Xen vido TNH lại dan sie Vlei san Nha xua? ban Công an nhằh dan nàm T9UU lap L Trans [92</small>
<small>1]</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">- Vật có thực pha có lợi ích cho con người (dap ứng nhu cầu về ñịnh
<small>doanh. ticu dung của c1 người)</small>
Như vay, ngoài yéu tố vật là một bo phận của thé giới vật chat thì vật
phải đáp ứng lợi ích hay nhu cầu nào đó cho con người. Vật có thực với tínhcách là tài san phải nằr trong sự quản ly, chiếm hữu của con người, có giátrị trong trao đối với tính cách là một hàng hố. thì vật đó mới trở thànhkhách thé của quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu. Do sự phát triển không
ngừng của khoa học, cêng nghệ nên khái niệm vật có thực trong khoa họcpháp lý ngày càng mo rong.
Ví du: phần mềm trong máy tính hoặc chất thải nếu được sử dung
làm nguyên liệu cũng sẽ được coi là vật. vì chúng đã có giá trị và có thể
trao đổi được.
<small>Vật có thực trong luật dân sự không chỉ là sự tồn tại hiện hữu mà cịn</small>
bao gồm cả những vật chắc chắn là sẽ có như: hoa lợi, lợi tức... đây là sựgia tăng của tài sản trong những điều kiện nhất định. Tương tự như vậy, luật
dân sự xác định: tiền và những loại giấy tờ trị giá được bằng tiền cũng được
<small>coi là tài san. Tuy nhiên, đây là loại tài sản có tính chất đặc biệt.</small>
"Theo kinh tế học chính trị, tiền là vật ngang giá, thường biểu hiệncho giá tri thực của hàng hố va là phương tiện lưu thơng trong giao lưu dân
<small>sự. Với tính chất và vai trị như vậy nên tiền được xem là một loại tài sảnđặc biệt. Việc phát hành tiền hoặc tiêu huỷ tiền khi cần thiết thuộc chủ</small>
quyền của mot quốc gia. Chính vì vay, chủ sở hữu tiền khơng thể tồn
quyền định đoạt như định đoạt các tài sản thơng thường khác.
Ví dụ: Chủ sở hữu tiền không thể tiêu huy, đối tiền như định đoạt các
tài sản thông thường mà phải tuân theo quy định của Nhà nước về tiền tệ.
<small>Xe Bình Than Khóa học morse van dé cơ Đán của Bo Tuất đâu sion \ tên ngiuên cũ pháp ly Bo tnpháp Nie vitae Đạo chính THỊ giác eta T992, trang &S8</small>
<small>12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Theo quy định tại Điều 172 Bộ luật dân sự. thị tài san con báo gomcác giấy tờ trị giá được bang tiền. Nhưng khong phai tất cả các giấy to trịgiá được bang tiền đều là tài san ma chi những giấy tờ nào hợp lệ. dang
lưu dân sự được thì mới được xác định là tài sản. Trong điều kiện nén kinh
tếthị trường hiện nay cic giấy tờ trị giá bang tiền rất phong phú. bao gom:
các loại séc, cố phiếu, tín phiếu. kỳ phiếu, cơng trái, giấy uy nhiệm chi, số
tiết kiệm... Với quy định cua Bộ luật dân sự như vậy mới đáp ứng được nhu
cầu thực tiễn cuộc sống, nhu cầu của nền kinh tế góp phần làm cho giao lưudân sự trở nên phong phú va đa dạng. phù hợp với điều kiện nên kinh tế thị
trường của nước ta hiện nay.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 172 Bộ luật dân sự. thì tài sản còn
được xác định là các quyền tài san. Đây là một khái niệm rất mới, lần dau
<small>tiên được quy định trong pháp luật dân sự của Nhà nước ta. Khái niệm</small>
quyền tài sản trước đây chưa được ghi nhận trong hệ thống pháp luật thực
định. Quyền tài sản khêng phải là một “vat có thực” theo nghĩa đen cua từ
thể có đối với một tài sản mà khi đưa quyền đó vào giao lưu dân sự thì cóthể "chuyển hoa" được thành một số tiền nhất định hoặc sẽ có được một tài
san. Vấn dé là: các quvén tài sản có thể trị giá được bằng tiền và có thể
chuyển giao được trong các giao lưu dân sự. Tuy thuộc vào tính chất của
quyền đó và tuỳ thuộc vào tài sản cụ thể mà quyền tài sản có những tínhchất khác nhau. Quyền tài sản có thể quyền có giá trị trực tiếp như quyền sử
dụng đất: nó có thể là đối tượng của các giao dịch dân sự (theo quy định tại
Phần thứ năm, Bộ luật dân sự) hoặc có thể được dùng để bảo đảm thực hiệnnghĩa vu dân sự (Điều 328, Bộ luật dân sự). Theo quy định tại Điều 188, Bộ
luật dân sự. thì quyền tài san cịn bao gồm cả quyền sở hữu trí tuệ được quy
định tại phân thứ sáu cua Bộ luật. Khi thực hiện các quyền này thì chủ sở
hữu có thể sẽ có được mội tài sản.
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Ví dụ: quyền tác gia đối với các tác phạm van học. nghe thuật, vác
cong trình Khoa học và nghệ thuật. quyền phát mình. sáng che trong số hữu
Với những quy định về quyền tài sản như trên đây trong Bộ luật dân
sự là hoàn toàn phù hợa với tính đa dạng. phong phú cua các loại tài santrong giao lưu dân sự v2 quan hệ sở hữu. Quyển tài san là một trong những
loại tài sản rất quan trọng có tính chất đặc thù trong giao lưu dan sự và ngày
càng trở nên thông dụng cùng với sự phát triển của nền kinh tế, của khoa<small>học kỹ thuật.</small>
Tham khảo Bộ luàt dân sự của một số nước như: Cơng hồ Liên bangĐức. Nhật Bản ... chúng tơi thấy rằng, trong các quy định về sở hữu tài sảnmới chủ yếu tập trung điều chính các tài sản là vật có thực. Mặc dù các Bộluật này vẫn được áp dụng trong thực tiễn hiện nay nhưng chúng tôi thấy
chưa bổ sung các quy định về quyền tài sản.
Trước đây ở nước ta các quy định của pháp luật về sở hữu cũng thiên
của quyền tài sản như quy định hiện nay của Bộ luật dân sự như: quyền tácgiả. quyền phát minh sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật ... ở một mức độ
nhất định cũng được co: là đối tượng của quyền sở hữu. Những người sáng
tạo ra tác phẩm, người phát minh, sáng chế hoặc có những sáng kiến cải
tiến kỹ thuật cũng được hướng một mức thù lao nhất định theo quy định của
liệu tiêu dùng trong xã hội. Tức là quyền sở hữu có thể được xác lập với bất
kỳ tài sản nào miễn pháp luật không cấm lưu thông dân sự. Riêng với tài
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">san đặc biệt là dat dai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước Ja đại diện chusơ hữu. thi Nhà nước cho phép người khong phải chu so hữu có một sốquyền nang nhất định. Cu thé hoá quy định tại Điều 18 Hiến pháp nam1992. Luật đất dai năm 1993 và Phần thứ năm, Bộ luật dân sự đã quy địnhnăm quyền của người sư dụng đất. Theo quy định tại Phân thứ năm Bộ luậtdan sự, thì quyền sử dụng đất cũng được coi là quyền tài sản nhưng có tính
chất đặc thù của pháp luật dân sự Việt nam.
1.1.2. Cách phân loại tài san theo Bo luật dan sự.
Cùng với những quy định về tài san tại điều 172, Bộ luật dân sự đành
toàn bộ chương hai, Phần thứ hai để quy định cách phân loại các loại tài
sản. Căn cứ chủ yếu để Bộ luật dân sự phân tài sản thành những loại khác
nhau là: bản chất và tính năng sử dụng của tài sản trong đời sống xã hội. ýnghĩa pháp lý của chúng trong giao lưu dân sự. Chương hai. Phần thứ hai Bộluật dân sự đã phân loại tài sản và chế độ pháp lý tương ứng với từng trường
<small>hợp sau đây:</small>
* Trong việc phan loại tài san, trước hết Bộ luật dân sự đã chia tài santhành: bat động sản và động san. Khái niệm bất động san và động san được
coi là tiêu chí truyền thêng để phân loại tài sản trong pháp luật dân sự. Cách
phân loại này được ghi nhận phổ biến trong các bộ luật theo hệ thống phápluật thành văn (dua theo nguyên tac của hệ thống pháp luật La Mã cổ đại và
định để phân biệt với tài sản lưu động, nhằm xác định chế độ pháp lý đối
với tài sản của các doanh nghiệp. Tài sản lưu động là những tài sản dùng
trong quá trình sản xuất được chuyển tồn bộ giá trị của nó vào thành phẩmtrong một lần cịn tài san cố định thì chuyển gid trị vào thành phẩm trong
một khoảng thời gian nhất định (thời gian khấu hao). Nếu chia tài sản trong
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">luật dan -ư theo tiểu chì tài san có định và tài san lưu dong (mot khát nệmtrong Kinh tế học) sẽ Khong phan ánh được ban chất pháp lý của ta. sàn Vàkhone có cơ so dé quy định những quy chế pháp lý cho chúng trong giáo
lưu dân su. Cu thê là: nấu theo tiêu chí tài san cố định và tài san lưu độngthì sẽ khong có cơ so để có "những quy định khác về quyền so hữu” tại
chương bay, Phần thứ hai Bộ luật dân sự. Trong pháp luật các nước phương
tây. người ta thường sử dụng khái niệm “dia dịch” để nói tính đặc thù của
tài sản trong quyền sở hĩu.
Bộ luật dan sự đã căn cứ vào thông lệ và tập quán quốc tế dé phân
chia tài san thành động san và bất động sản trên sơ sở phương pháp loại trừ.
Dé phân biệt hai loại tài sản chủ yếu này, Bộ luật dan sự dựa vào thuộc tínhtu nhiên của tài sản là có thé dịch chuyển trong khơng gian được hay
khong. Do vậy. Điều 181 Bộ luật dân sự quy định bất động sản và động san
c- Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
d- Các tài san khác do pháp luật quy định.
2. Động sản là những tài san không phải là bất động san".
Với cách phân loại này thì bất động sản chủ yếu là đất đai (Khơng thê
dịch chuyển cơ học được), nhà ở, cơng trình xây dựng, các tài san gắn liền
<small>với đất đai. Dựa vào thuộc tính tự nhiên của tài sản, luật quy định đây là</small>
loại tài sản cần đăng ký, nhằm thuận tiện cho cơ quan nhà nước có thấm
quyền kiểm tra, giám sát. Trong một số trường hợp nhất định Bộ luật dân sự
có quy chế riêng đối với từng loại tài sản. Quyền và nghĩa vụ của chủ sở
hữu đối với mỗi loại tài sản cũng được quy định khác nhau.
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Ví dụ: Dé tro thành chu sơ hữu nhà o. hợp dong mus ban muna (bat
dong san) phải được lập thành van ban có chứng nhận của Cong chứng nhà
nước hoặc chứng thực cua Ủy ban nhân dan cấp có thấm quyền và phải
Hiện nay trong luật din sự một số nước trên thé giới coi bất dong san
khơng hồn tồn dua trên thuộc tính này, mà cịn duu theo u to cơng dung
và giá trị của tài sản. Ví dụ: Một số nước coi máy bay, tàu biển là bất độngsản dù rằng nó có thể di dời cơ học trong không gian và quy định có thể
làm tài sản thế chấp được. Về nguyên tắc. bất động sản có thể được đem thếchấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng nếu là động sản chỉ có
thể được đem cầm cố. Do đó, để cho Bộ luật dân sự tránh được sự máy móc
và khn cứng, Điều 181 Bộ luật dân sự ngồi quy định về bất động san
cịn có các loại tài sản khác do pháp luật quy định.
<small>* Cách phân loại thành hoa lợi và lợi tức. Cơ sở của cách phân loại</small>
này chính là sự "gia tăng tự nhiên” của tài san. Hoa lợi theo quy định tại
Điều 182 Bộ luật dân su là những san vật tự nhiên có tính chất hữu cơ do tài
sản mang lại cho chủ sơ hữu, còn lợi tức là một khoản lợi (thường là bằng
tiền) do chủ sở hữu thu được từ việc khai thác cơng dụng của tài sản.
<small>* Vật chính và vật phụ. Cơ sở của cách phân loại này là việc khai</small>
thác cơng dụng theo tính năng độc lập vốn có của vật hay khơng thể khai
thác độc lập. Về ngun tắc: vật chính là vật có thể sử dụng độc lập mà
khơng bị ảnh hướng đến tính năng, tác dụng còn vật phụ là vật phục vụ choviệc sử dụng vật chính. Vật chính và vật phụ là đối tượng thống nhất. Vì
<small>vậy. trong các giao dịch dân sự nếu các bên khơng có thoa thuận khác thì</small>
khi giao vật, vật phụ phải đi kèm với vật chính và không thể tách rời.
<small>* Vật chia được và vật không chia được. Đây là cách phân loại tương</small>đối phổ biến. Cơ sở của cách phân loại này là việc vật đó có giữ được tính
năng tác dụng vốn có ban dau của nó sau khi đã được phân chia hay khơng.
ng<small>17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Điệu 184 Bo luật dan su đã quy định: vật chia được là vật Khi bị phan chia
<small>Vani"It</small>4 nguyen tính chal và tính nang su dụng: con vật khong chia được là
dụng ban đầu. Về nguyên tắc, khi cần phân chia mà vật đó là vật khong
* Vật tiêu hao và vật không tiêu hao. Cơ sở của cách phân loại này là
can cứ vào tính chất hao mịn khi sử dụng hoặc khai thác cơng dung củamot vật. Những vật ma khi đã qua một lần sử dụng thì khơng cịn tính chất.
hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu là vật tiêu hao; còn những vật màkhi đã qua nhiều lần sử dụng nhưng vẫn cịn tính chất, hình dáng và tính
năng sử dụng ban đầu .à vật khơng tiêu hao. Với những đặc tính này Vật
tiêu hao không thể là đối tượng của các hợp đồng cho thuê, cho mượn vì
trong quá trình sử dụng ching đã biến dạng.
<small>* Vật cùng loại và vật đặc định. Cơ sở của cách phân loại này căn cứ</small>
vào tính chất có thể thay thế được hay khơng thay thế được. Vật cùng loại
là những vật có cùng hình dáng. tính chất ... có cùng loại chất lượng và cơ
vật được xác định bằng những đặc điểm riêng về ký hiệu. màu sắc, chất
liệu, đặc tính ... hoặc đó là vật duy nhất khơng có vật thứ hai. Khi phải thực
hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đặc định, thì phải giao đúng vật đó.
* Vật đồng bộ. Cơ sở của cách phân loại này căn cứ vào sự liên hệ
với nhau của các phần, các bộ phận để hợp thành một tài sản hoàn chinh.Điều 187 Bộ luật dân sự quy định :"Vat đồng bộ là vật gồm các phần huặccác bộ phận ăn khớp, liên hệ với nhau thành chỉnh thể mà nếu thiếu một
trong các phần, các bộ phận hoặc có phần hoặc bộ phận khơng đúng quy
giảm sút". Do đó, về nguyên tắc khi phải thực hiện nghĩa vụ chuyển giao
thành. trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Quy định này nhằm lầm
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">cho vật được: bao dam thông số kv thuật Khi vật có nhiều những cau kien<small>khác nhau.</small>
Với những quy định về cách phân loại vật trên đây cua Bo luật dân sựsẽ là cơ sơ pháp lý. tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân chia tài san trong
quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự tại ngành Toà án nhân dân.
Xét theo quan điểm kinh tế học, thì sở hữu được coi là việc chiếm giữ
những cua cai vật chất của con người trong đời sông xã hội. Theo quan
điểm này sở hữu là một phạm trù kinh tế mang yếu tố khách quan, xuất
hiện cùng với sự tồn tại cua xã hội lồi người.
Q trình tồn tại cla xã hội lồi người ln gan liền với sự phân hoá
tài san trong việc chiếm. giữ những của cải vật chất. Cùng với sự phân hoá
<small>trong việc chiêm giữ những cua cai vật chất đã xuất hiện việc phân chia giải</small>
cap và những người có quyền thé trong xã hội thấy cần phải có một bộ máy
bạo lực với pháp luật là sông cụ để bảo vệ sự chiếm giữ của cải vật chất cho
mình. cho giai cấp mình. Khi xã hội phân chia thành giai cấp vấn đề sở hữu
có vai trị quan trọng khi xác định địa vi trong trong xã hội. Người nào, giaicấp nào chiếm giữ của cai vật chất trong xã hội sẽ là người có quyền thongtrị. Giai cấp có quyền thống trị ln duy trì những quan hệ sở hữu có lợicho mình.
Khi các quan hệ sở hữu tồn tại như một yếu tố khách quan của xã hộiloài người và xuất hiện tư hữu. thì những người giàu có và quyền thế thây
rằng. muôn bảo vệ quyền lợi cho mình. nhất là việc bảo đảm các quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất, thì giai cấp thống trị phải đặt ra một cái gì đókhác với tập quán và chi giữ lại những cái gì của tập quán có lợi cho minh.
Mat khác. những quan hệ phức tạp mới phát sinh cùng với sự phát triển cua
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><small>Xã HỘI có giải cạp dor hor phái có những phuang Diện, cơng cụ đặc pigt denhững người có quyen the thực hiện sự thong trị xã hoi.</small>
“Co sơ kinh tê dé bao dam cho sự thong trị vẻ chính trị và từ tương
chính la các quan hệ sơ hữu có lợi cho giai cấp thơng tn. Giai cap thong tị
phai dùng tới một bộ phận của pháp luật về sơ hữu dé thực hiện ý chí giảicấp của mình. La một hình thái của thượng tầng kiên trúc. pháp luật ve so
hữu ghi nhận và củng cố địa vị. ghi nhận lợi ích của giải cấp thông trị đốivới việc đoạt giữ các cua cải vật chất trước các giai cấp khác trong quá trìnhsan xuất. phân phối. lưu thơng. Do đó. trong bất ky mot Nhà nước nào luật
<small>pháp ve sơ hữu cũng duoc sử dụng với ý nghĩa là mot cong cụ có hiệu qua</small>
Trong khoa học pháp lý, quyền sở hữu được hiểu là một phạm tru
pháp lý (để phân biệt với sở hữu là một phạm trù kinh tế) phan ánh các quan
hệ sơ hữu tổn tại trong một chế độ sở hữu nhất định. Quyền so hữu theo luật
dân sự bao gồm tông hợp các quy phạm pháp luật về sở hữu nhằm điều
chính các quan hệ sở hữu trong đời sống xã hội. Các quy phạm pháp luật về
<small>hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.</small>
<small>Với tư cách là một chế định pháp luật, một bộ phận thuộc thượng</small>
tầng kiến trúc quyền sở hữu chỉ xuất hiện khi xã hội đã có sự phân chia giaicấp và có Nhà nước. Pháp luật về sở hữu khơng phải là cái gì khác mà đó
chính là san phẩm của xã hội có giai cấp nhằm để bảo vệ lợi ích trước hết là
của giai cấp thống trị. giai cấp nắm quyền lãnh đạo xã hội. Pháp luật về sở
<small>hữu dù được ghi nhận và quy định dưới bất kỳ góc độ nào cũng ln mang</small>
tính chất giai cấp và phản ánh những phương thức chiếm giữ của cải Vậtchất trong xã hội.
<small>: ; . , ; i</small>
<small>Neti (dc crate hat date so cet Neat ce Tritens fat hen dt Thị noi Ndi HD dee kes aksnhàn dan Pee Lam | Trang F7</small>
<small>to</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24"><small>"Wi vay. pháp lua vẻ sơ hữu bao gio cũng nhằm mục dich:</small>
- Xác nhạn và bao vệ bang pháp luật việc chiêm giữ những tu liệu san
xuất chu yeu cua giải cáp thông trị,
- Bao vệ những quan hệ sơ hữu phù hợp với lợi ích cua giải cấp thong
- Tạo điều kiện pháp lý can thiết dam bao cho gia! cấp thong trị Khai
thác được nhiều nhất những tư liệu san xuất đane chiếm hữu để phục vụ cho
sự thống trị: dong thời xác định mức độ xử sự và các ranh giới hạn chế cho
các chu sở hữu trong pnam vi các quyền năng: chiếm hữu, sử dụng, định
<small>đoạt .(*)</small>
Theo ý nghĩa này, quyền sở hữu có thể được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau. Theo nghĩa rộng (còn được gọi là nghĩa khách quan). thì quyềnsở hữu chính là luật pháp về sở hữu trong một hệ thống pháp luật nhất định.
Quyền sở hữu là tông hợp một hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhànước ban hành để điều chính các quan hệ xã hội phát sinh trong [inh vực
chiêm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu san xuất,tư liệu tiêu dùng.những của cải vật chất trong đời sống xã hội.
Theo một nghĩa hẹp (còn được gọi là nghĩa khách quan), thì quyền sơhữu là mức độ và giới hạn xử sự mà pháp luật về sở hữu cho phép một chủ
thể được phép thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
trong những điều kiện nhất định. Theo nghĩa này, có thể xem quyền sở hữuchính là những quyền nang dân sự chủ quan của từng loại chủ sở hữu nhất
định đối với một tài sản cụ thể, được quy định trong các quy phạm pháp luậtvề sở hữu cụ thể.
Ngoài ra, trên phương diện khoa học, quyền sở hữu cịn có thể được
hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự - quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu.
Vì rang, ban thân nó chính là hệ quả của sự tác động của một bộ phận pháp
<small>luật vào các quan hệ xê hội (các quan hệ sở hữu). Vì vậy. theo nghĩa này</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">quyển sơ hữu bao gom day đủ ba yeu tổ của quan hệ pháp luật dan sự: chu
Theo Bộ luật dan sự thì nội dung quyền so hữu gom có quyền chiếmhữu. quyền sử dụng và quyên định đoạt Các quy định về quyền sở hữutrong Bộ luật dân sự lần này có những điểm mới so với hệ thong các van
Thứ nhát là: lần đầu tiên Bộ luật dân sự khi quy định về quyền so
hữu đã quy định quyền của người không phải là chủ sở hữu.
Bộ luật dân sự nước ta cũng như Bộ luật dân sự các nước trên thé giớiđều ghi nhận các chủ sẻ hữu có quyền chiếm hữu. quyên sử dụng và quyềnđịnh đoạt tài san. Tuy nhiên, trên thực tế không phải bất cứ lúc nào chủ so
<small>hữu cũng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình</small>
một cách tuyệt đối với những chủ thể khác. Bởi lẽ, chủ sở hữu nhưng đồngthời lại là chủ thể các quan hệ xã hội, họ phải sống trong xã hội và cộngđồng. Do đó, để bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng và lợi ích của chủ sở
hữu và các chủ thể khác, Điều 180 Bộ luật dân sự đã quy định: "Người
<small>không phải là chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tàisản không thuộc quyền sở hữu cua mình theo thoả thuận với chủ sở hữu làisản đó hoặc theo quy định của pháp luật”.</small>
Theo nội dung của điều luật này chúng ta có thể phân ra làm hai
<small>trường hợp:</small>
<small>- Trường hợp thứ nhất:</small>
Chủ sở hữu thoả thuận cho người khơng phải chủ sở hữu có quyềnchiếm hữu. sử dụng, định đoạt tai san của mình. Trong trường hợp này.thông thường các bên thông qua các hợp đồng dân sự như: hợp đóng uy
quyền, hợp đồng cho thuê. cho mượn. hợp đồng dịch vụ. hợp đồng gửi giữ
...Các hợp đồng dan sự này là sự cam kết thoa thuận của các bên theo ý chi
của các chủ thể, nhưng không được trái với các quy định của pháp luật. Chủ
<small>Nem Gide: HN TLướdt dan xí \ rét Name Sach dd dan Trane 170. 777</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">so hữu có thé thoa thuận cho người khong phải là chủ sở hữu thực hiện ca
ba quyền nang. hoặc thuc hiện một trong ba quyền nang nay doi Với tài san
của mình trong một thời gian nhất định tuỳ theo thực tế và ý chí của chủ sở
Người khong phải là chủ sở hữu chi được thực hiện quyền nang cua
mình đối với tài sản của chủ sơ hữu theo như đã thoa thuận và pháp luật quà
Nếu trong trường hợp người không phải chủ sở hữu thực hiện quyền
năng khong đúng như đã thoa thuận va trái với quy định của pháp luật. thi
chủ sở hữu có thể yêu cầu người không phải chủ sở hữu này phải chấm dứt
hành vi đó. đồng thời bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu do hành vi vượi
<small>quá giới hạn sự cam kết. thoa thuận của họ gây ra.</small>
<small>Ngược lại, trong trường hợp người khong phải là chủ sở hữu đã thực</small>
hiện đúng quyền năng như đã thoa thuận với chủ sở hữu, nhưng chủ sở hữucố tình gây khó khan làm can trở việc thực hiện các quyền nang đã được uyquyền, thì chủ sở hữu cũng phải chịu trách nhiệm dan sự về hành vi của
<small>- Trường hợp thứ hai:</small>
<small>Người khơng phải là chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu, sử dụngvà định đoạt tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình theo pháp luật quyđịnh.</small>
<small>Trong quá trình thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng vàđịnh đoạt không phải bat cứ lúc nào chủ sở hữu cũng thực hiện quyền nang</small>
này một cách tuyệt đối. Để bao đảm lợi ích cho xã hội và cộng đồng, Nha
nước cho phép người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt tài sản trong những trường hợp nhất định. Chẳng hạn:
<small>Cơ quan Công an giữ hàng phạm pháp, cơ quan thuế vụ giữ và xu lý hang</small>
trốn thuế ... Tuy nhiên, pháp luật quy định cụ thể các biện pháp chế tai đối
<small>tuow)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><small>vot nguol lợi dung quy định của phap luài từ y thực niệu hành VI godphạm vị thực thi cơng vu hoặc ngồi Khn khó cho phép.</small>
Khi Bo luật dân sự quy định người khong phai là chu so hữu cũng co
quyen chiếm hữu. sử dung và định đoạt tài san khong thuộc quyền sơ hữucủa mình. có nghĩa là Bộ luật buộc chủ sơ hữu doi với tài san nao đó cũng
vẫn phải có trách nhiệm khi cho người khác thực hiện quyền chiếm hữu, sử
<small>dune và định đoạt đối với tài san cua mình. Trone mot sơ trường hợp nhât</small>
định. chủ sơ hữu cịn có thể bị pháp luật hạn chế quyền năng sở hữu của họ.
Bo luật dan sự quy định các trường hợp sau day mà người khong phải chuso hữu cũng có quyền thực hiện quyền chiêm hữu, sử dụng và định doat tàisản không thuộc quyền sở hữu của mình như:
Trường hợp xấy ra tình thế cấp thiết dang có nguy cơ đe dua trực tiếp
đên lợi ích Nhà nước, của tập thể mình hoặc của người khác mà khơng cịncách nào khác là phải có hành động gây ra mot thiệt hại khác để ngăn chan
<small>một thiet hại lớn hơn. Như vậy, trong tình thé cấp thiết người khong phải</small>
chủ sở hữu có quyền thực hiện quyền nang chiếm hữu. sử dụng và định đoại
tài san không thuộc quyền sở hữu của mình mà khơng bị coi là trái pháp
Chẳng hạn: Khi hoả hoạn xảy ra. có thể sẽ cháy tới tài sản lớn của
Nhà nước, của tập thể như: kho đạn, kho xăng. kho dự trữ quốc gia ... Để
ngăn chặn tinh trạng nay bắt buộc phải dỡ nhà của một hoặc một số chủ sở
hữu liên ké nao đó. Trong trường hợp này những người dù khơne phải chủ
sở hữu của căn nhà cũng có quyền dỡ tồn bộ căn nhà khơng cần có sựđồng ý của chủ sở hữu, mà chủ sở hữu cũng không có quyền ngăn cản.
Tương tự, người khơng phải là chủ sở hữu cũng có những quyền năngnhất định như: quyền vẻ lối đi qua bất động sản liền kể thuộc sở hữu của
người khác để bao đảm nhu cầu của mình về lối đi (Điều 280): quyền mac
đường đây tải điện. thong tin liên lac qua bất động san liền ké mot cách hợp
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">lý nhưng phai bao dam an tồn và thuận tiện (Điều 2§]): quyền vẻ cấp thoátqua bai động san liền kế (Điều 282)...
Bộ luật dân sự quy định như vậy là xuất phát từ vi trí tự nhiên của batđộng san và thực tê có nhiều bất dong sản manh đất bị bao bọc bởi bất động
động san, người sử dụng đất nam ở vi trí bên trong sẽ rất bat lợi wong việc
khai thác, sử dụng tai san của mình. Do đó, để tạo điều kiện cho chủ so hữubất động sản, người sử dụng đất trong trường hợp kể trên Bộ luật dân sự quy
định họ có quyền được "dat một dịch luy" qua các chủ sở hữu bất động sanliền kề và các chủ sở hữu liền kề phải đáp ứng yêu cầu đó. Pháp luật dân sựcũ gọi đó là "địa dịch” và quy định một số dịch quyền cụ thể.
Hiện nay về lối ch, lối cấp thốt nước rộng hep thế nào thì các bênphải tự thoa thuận và thông thường được xác định theo tập quán. Các văn
ban pháp luật cua Nhà nước ta chưa có quy định về diện tích tối thiểu cualối đi, lối cấp thoát nước. Do vậy, việc giải quyết theo hướng để cho các bên
thoả thuận trong thực tê thường khó đi tới thống nhất và gây khó khăn cho
các cơ quan thẩm quyền khi giải quyết tranh chấp. Thực tế đã dẫn tới tình
trạng khơng thống nhất cách giải quyết trong một số trường hợp cụ thể.
<small>Ngoài ra, Bộ luật dân sự còn quy định trong trường hợp cần thiết vì lý</small>
do quốc phịng, an ninh và lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưngdụng có bồi thường tài sản của cá nhân, pháp nhân hoặc của các chủ kháctheo quy định của pháp luật.
<small>Thứ hai là: Các quy định về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự lần</small>này có điểm khác so véi các văn bản pháp luật trước đây là: cơ sở để quy
định các quyền năng khơng chỉ từ góc độ chủ sở hữu, mà cịn từ góc độ tàisản. Chính vì vậy mới có những quy định về quyền của người không phải là
chủ sở hữu, những quy định khác về quyền sở hữu (Chương VII, Phần thứhai, Bộ luật dân sự) như đã phân tích ở trên.
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Trước đây các quy định về quyền sơ hữu chỉ đơn giản tu sóc do chuthé và cho rằng: "tài san nay đã là của toi, thi khong phải là của anh”. Do
khơng có ai là chủ sở hữu...
Với một kỹ thuật lập pháp tiên tiến và mức khái quát cao cùng với
việc ghi nhận các quyển năng về sở hữu dưới cả sóc độ chủ thể và góc độtài sản tại các điều luật cụ thể trong Bộ luật dân sự đã làm cho các quy địnhnày đáp ứng được các véu cầu thực tế của xã hội va của nền kinh tế hiện<small>nay.</small>
Thứ ba là: Vấn đề đăng ký quyền sở hữu tài sản.
Tài sản có vai trị quan trọng trong đời sống dân sự, là đối tượng của
quyền sở hữu và là khách thể của phần lớn những quan hệ pháp luật dân sự
nhưng vấn đề đăng ký quyền sở hữu tài sản trước đây chưa được chú ý vàchỉ được quy định trong một số văn bản đơn hành. Trong điều kiện nền kinh
tế thị trường hiện nay giao lưu dân sự khơng ngừng phát triển. thì Nhà nước
khác thông qua việc dang ký tài san để Nhà nước thực hiện chức nang kiểm
tra và giám sát. Các loại tài sản trong đời sống xã hội phong phú, đa dạng
và mỗi tài sản có đặc trưng, công dụng khác nhau, nhưng pháp luật đã phân
biệt thành tài sản thơng thường, tài sản có tính chất đặc biệt và quy định
loại tài sản nào phải đăng ký quyền sở hữu. Điều 174 Bộ luật dân sự đã quy
định : "Những tài sản mà pháp luật quy định phải dang ký quyền sở hữu. thìphải được dang ky".
Đối với những tài sản có giá trị lớn hoặc do tính chất đặc biệt, khi sử
dụng, khi đưa vào giao lưu dân sự thường xay ra tranh chấp hoặc cần phảicó sự quản lý của các cc quan nhà nước có thẩm quyền là những tài sản cầnphải được dang ký. Tài san phải đăng ký theo quy định tại Điều 174 Bộ luật
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">dan sự có thé là bat dong san hoac là động san mà pháp luật có quy định
<small>phai dang ky.</small>
Trong những trường hợp ca biệt tài san mà pháp luật quy định phảiđăng ky, nhưng vì lý do khách quan nên người có tài san chưa được phép
quyền chiếm hữu, sử dụng trong mot thời gian nhất định để họ có điều kiện
thực hiện thủ tục đăng ký quyền sở hữu. Nếu chu sở hữu cố tinh khơng
đăng ký quyền sở hữu, thì pháp luật sẽ hạn chế một số quyền nhất định như:
Dé tạo điều kiện cho các chủ thé trong những trường hợp này Điều
139 Bộ luật dân sự đã quy định: Tồ án, co quan nhà nước có thâm quyền
buộc các bên tham gia vào giao dịch dân sự phải tuân thủ các quy định về
<small>đăng ký hoặc cho phép trong một thời hạn nhất định. Nếu quá thời hạn đó</small>
mà khơng thực hiện, thì tun bố giao dịch này vơ hiệu và buộc bên có lơilàm giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại.
Việc pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu tài sản trong
<small>những trường hợp nhất định giúp cho các chủ sở hữu yên tâm trong việc</small>
quản lý và khai thác công dụng của tài sản. Đây là bằng chứng đồng thời
cũng là cơ sở pháp lý để xác định ai là chủ sở hữu của tài san trong trường
hợp xây ra tranh chấp.
Các quy định về quyền sở hữu trong bộ luật dân sự ngồi những van
đề có tính chất truyền thống, cịn có những quy định lần đầu tiên đưcc ghi
nhận. Các quy định về quyền sở hữu không chỉ được ghi nhận tài sin trong
trạng thái “tinh” mà con được ghi nhận trong cả trạng thái ta’ sản "vận
động”. Với những quy định tương đối đồng bộ và thống nhất này đã làm
cho các quy định pháp luật về sở hữu trong Bộ luật dân <f phù hợp với
thông lệ và tập qn quốc tế, có tính kha thi trong quá trnh áp dụng hiện<small>nay Ở nước ta.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">q trình lịch sử lâu dài. gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và pháp
luật nói chung và những quy định có tính chất dân sự nói riêng.
Qua các cơng trình khoa học đã được cơng bố và được thừa nhận. thì
sử với nhiều biến động. Một số tài liệu, sử sách cũ được lưu trữ hiện nay đã
chứng minh thực tế đó.
Đối với lĩnh vực pháp luật, do có những lý do khách quan và chủ
quan khác nhau, các tài liệu lưu trữ riêng về pháp luật gần như khơng có.
Một số cơng trình nghiên cứu đã thơng qua tài liệu lưu trữ về pháp luật nước
ngoài, chủ yếu là của Trung quốc để làm tư liệu. Cho đến nay trong hệ
thống pháp luật thời kỳ phong kiến, chúng ta chỉ còn lưu trữ được hai boluật thành văn của nước nhà là: Bộ luật Hồng Đức (cịn gọi là Quốc triềuhình luật thời kỳ nhà Lê) và Bộ Hoàng Việt luật lệ (thời kỳ nhà Nguyễn).
Các tài liệu lịch sử đã chứng minh rằng, ngay từ buổi đầu dựng nước
và giữ nước, tổ tiên người Việt đã ban hành pháp luật để bảo vệ vương triềucủa mình. Ngồi các quy định về pháp luật hình sự với tính chất trừng trị,
<small>ran đe, thì những quy định pháp luật có tính chất dân sự cũng đã được coi</small>
trọng. Trong các quy định có tính chất dân sự ấy, các quy định về sở hữu
ln có một vị trí nhất định. Mỗi một chế độ, một triều đại phong kiến đềucó những quan điểm và cách nhìn nhận riêng về vấn đề sở hữu. Rất tiếc là
các van bản pháp luật thành văn trước thời kỳ nhà Lê (Thế ky XV) hiện naychúng ta khơng cịn lưu giữ được. Chiến tranh liên miên cùng với chính
sách đồng hố tồn diện của các thế lực phong kiến phương Bác đã huydiệt, tàn phá những cơng trình văn hố, kiến trúc trong đó có cả việc tiêu
chung và các quy định của phúp luật về so hữu nói riêng gap rat nhiều Kho
nhiều nhà sử học có tên tuổi nghiên cứu qua các thời kỳ khác nhau. Nhưngcác cóng trình của giới nghiên cứu khoa học pháp lý về một ngành luật
hoặc một chế định nào đó hiện nay có rất it. Nêu có có chăng nữa. thìnhững tài liệu và số liệu cũng đều dựa trên các số liệu sử học.
Trong bản luận án này, chúng tôi không có tham vọng nghiên cứu
Lạc. Với những tài liệu iịch sử đã có và Bộ luật thành văn đầu tiên của nước
nhà chúng tơi chỉ trình bày khái qt những nét cơ bản nhất các quy địnhpháp luật về sở hữu từ thế ky XV (thời ky nhà Lê va Bộ luật Hồng Đức).
1.3.1. Pháp luật về sở hữu trong thời kỳ nhà Lé (Thể ky XV đếnthế kỷ XIX).
chế độ phong kiến trung, ương tập quyền có vi trí đặc biệt trong lịch sử hình
triểu đại có lịch sử tồn tai lâu dai (từ 1428 đến 1788)
Hệ thống pháp luật của thời Lê rất chú trọng đến các quy định về sở
hữu, đặc biệt là vấn đề sở hữu về ruộng đất. Trong giai đoạn này, pháp luật
thừa nhận ba hình thức so hữu chính, đó là sở hữu Nhà nước, sở hữu làng xã
<small>và sở hữu tư nhân.</small>
Sở hữu Nhà nước: để thể hiện quyền lực tối cao của nhà Vua, các
Vua Lê đã thị hành chính sách lớn là: Lộc điền và Quân điền.
Chế độ lộc điền la việc nhà Vua là người đại diện cho Nhà nước thựchiện quyền tối cao: ban cấp đất đai cho tầng lớp quan lại cao cấp, từ thânvương đến tứ phẩm và những người thân thuộc của nhà Vua. Việc ban cấp
lộc điển dựa vào hàm cấp, tước phẩm của quan lại.
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Còn chê độ quân điện là chính sách Nhà nước can thiệp trực tiếp; vàoviệc phân chia ruộng đất công các làng xã cho các thành viên. Thời hạn
chia lại ruộng đất được quy định là 6 năm một lần. Khi đến kỳ hạn các quanphủ, huyện, châu phải thân hành kiểm tra việc đo đạc và phân cấp ruộngđất. Người được chia ruộng đất theo chính sách quân điện rất rộng, baogồm: mọi thành viên trong làng xã, kể cả những người bị cô quả, tàn tật. vợ
con người bị tội lưu, tội đồ.
Với những chính này cùng với việc Nhà nước đặt ra chế độ tô thuế
đối với từng loại ruộng đất, Nhà nước phong kiến đã thực hiện quyền quản
Hồng Đức Thiện chính thư quy định :"Những nơi có ruộng cơng, dân chúng
có đường lối đi ra vào thuận tiện”. Điều 343 Quốc triều hình luật cịn quy
định :"Trimg phạt những; người chiếm ruộng đất công quá số hạn định”...Quyền sở hữu làng xã: thời kỳ nhà Lê, do những chính sách quản lý
chặt chẽ, tương đối triệt để của Nhà nước về ruộng đất (chính sách lộc điền,
làng xã vừa là người quản lý, vừa là người tổ chức phân phối ruộng đất cho
các nơng dân, thì nay làng xã chỉ là người quản lý ruộng cho Nhà nước,giúp Nhà nước phân chia ruộng đất và thu thuế. Tuy nhiên, quyền sở hữu
làng xã vẫn được Nhà nước, pháp luật thừa nhận trong những chừng mực
nhất định.
Ví dụ: làng xã vẫn có quyền sở hữu va quản lý đối với một số ruộng
chiền ... Vì vậy, nhân gian đã có câu :”Đất của vua, chùa của làng”.
Sở hữu tư nhân: xuất hiện ở Việt Nam từ thời Lý - Trần, nhưng đến
thời Lê, Nhà nước đã cho phép những người được cấp ruộng đất có quyền
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">vay, sơ hữu tư nhân trở thành sở hữu tương đối pho biến. Nhà nước có chính
1.3.2. Pháp luật về sở hữu thời kì Nhà Nguyên (1802 - 1858).Thời nhà Nguyễn là thời đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, kéodài từ 1802 - 1945. Nhưng trong thực tế, nhà Nguyễn chi tồn tại độc lập
trong khoảng thời gian từ 1802 đến 1858, còn từ 1858 trở di, khi thực dân
Pháp sang xâm lược Việt Nam, thì Nhà Nguyễn còn chỉ tồn tại trên danh
nghĩa. Bởi hệ thống chính quyền và pháp luật do thực dân Pháp thiết lập và
<small>ban hành.</small>
Trong khoảng thời gian từ 1802 đến 1858 nhà Nguyễn ban hành mộtsố văn bản pháp luật như: Hoàng Việt luật lệ, các đạo dụ của nhà Vua.... đểđiều chỉnh những quan hệ dân sự. Đáng chú ý là trong bộ Hồng việt luật lệ
khơng có một điều luật nào quy định trực tiếp về vấn đề sở hữu. Qua nhữngquy định gián tiếp của Bộ luật, thì Nhà nước cũng thừa nhận ba hình thức sởhữu: sở hữu Nhà nước, sở hữu làng xã, sở hữu tư nhân.
Trong thời kỳ này, Nhà nước sở hữu trực tiếp ruộng đất. Với tư cáchmột chủ sở hữu thực sự, Nhà nước quản lý trực tiếp những ruộng đất là:quan điền, tịch điền, quan trại và đồn điền ...
Nhà nước lấy nông phu các làng xã lân cận để cày cấy ruộng tịch
kinh tê thì họ được trả công. Sản phẩm thu được từ ruộng tịch điền sẽ nộp '
vào kho Nhà nước. Còn đối với quan điền, quan trại được Nhà nước ban cấpcho một số đối tượng làm ruộng, thì thực hiện chế độ phát canh cho dân sở
tại hoặc vùng lân cận để những người này cày cấy giống như ruộng tư và
phải nộp thuế. Đối với đồn điền, Nhà nước sử dụng lao động binh lính, tư
nhân canh tác, sản phẩm thu được nộp vào kho của công.
Đến năm 1922 các loại ruộng đất trên được chuyển sang loại sở hữu
làng xã. Đến thời kỳ Minh Mạng, thì chế độ ruộng đất này cơ bản khơng
<small>3]</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">cịn nữa. Do vậy. trên thực tế Nhà nước triều Nguyễn tăng cường các biện
diện pháp lý. ruộng đất làng xã cũng là một loại hình sở hữu Nhà nước và
lang xã Nhà nước nghiém cấm không được cầm cố, bán đất... Tuy nhiên,làng xã khong bị mat hết quyền của mình. trong một chừng mực nhất định.Nhà nước vẫn tôn trọng quyền của làng xã nhưng các quyền năng bị thu hẹp
Sở hữu tư nhân về ruộng đất được Nhà nước triéu Nguyễn thừa nhận
và có chính sách bao hộ một cách rõ rệt. Tới đầu thế ky XIX, sở hữu tư
nhân đối với ruộng đất phát triển và trở thành loại hình có tính bao trùm,
phổ biến (có tới 82,92 % tổng diện tích ruộng đất các loại). Nhà nước thừa
nhận việc mua bán ruộng đất tư và quy định trình tự, thủ tục chặt chẽ. Khi
Nhà nước lấy ruộng đất tư làm đường xá, thì Nhà nước phải đền bù. Tuynhiên, trong thực tế có những trường hợp Nhà nước dùng quyền lực tướcđoạt một bộ phận ruộng đất của cá nhân để sử dụng việc công, nhưng mức
dén bù nhiều khi không phù hợp với thực tế.
1.3.3. Pháp luật sở hữu thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945).
<small>Năm 1858 khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, Nhà nước phong</small>kiến triều Nguyễn đã thoả hiệp và chịu sự đô hộ của thực dân Pháp để giữ<small>vững “ngai vàng” của Nhà Vua. Trong thời kỳ đô hộ, Nhà nước thuộc địa</small>nửa phong kiến đã ban hành 3 Bộ dân luật để áp dụng cho ba miền khác
nhau trong toàn cõi Việt nam. Chế định về sở hữu trong thời kỳ này lần đầu
tiên được quy định một cách cụ thể trong các Bộ luật: Dân luật giản yếuNam kỳ 1883, Dân luật Bac kỳ 1931 và Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật 1936(từ đây chúng tôi xin gọi tắt là Bộ luật Trung Kỳ).
Theo tỉnh thần của Bộ dân luật Bắc Kỳ và Bộ luật Trung Kỳ, thì tài
sản đã được phân chia làm hai loại: đó là động sản và bất động sản; mỗi
loại có một quy chế phiip lý khác nhau. Bất động sản được phân chia theo
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">tinh chat. mục đích sử dụng hoặc do pháp luật quy định bang phương pháploại trừ: về động san được phan chia thành động san theo tính chất. cong
Trong các Bộ dar luật, Nha nước thừa nhận va bao vệ các hình thứcsở hữu như: sở hữu của các pháp nhân công, sở hữu của các pháp nhân tư.
sở hữu tư nhân. sở hữu chung.
Sở hữu của các pháp nhân công bao gồm: sở hữu của Nhà nước, sởhữu làng xã. Pháp luật quy định những tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như:
cù lao lớn nhỏ. bãi phù sa, bùn cát, đá sỏi ...(Điều 475 Bộ dân luật Bác kỳ,
Điều 490 Bộ dân luật Trung Kỳ): những tài san bỏ không, vô chủ. di san
khơng có người thừa kế... (Điều 464 Bộ dân luật Bắc kỳ, Điều 475 Bộ dân
<small>luật Trung Kỳ)...</small>
Những tài sản thuộc quyền sở hữu làng xã như: các tài sản mà cánhân xin từ bỏ quyền sở hữu của minh, di sản khơng có người thừa kế (được
quy định tại Điều 475, 338 Bộ dân luật Trung Kỳ).
Sở hữu của pháp nhân tư: pháp nhân tư gồm các hiệp hội thương mại,các hội, phường, được Nha nước cho phép thành lập. Theo quy định của các
Bộ dân luật: các pháp nhân tư có quyền chiếm hữu, hưởng dụng. thu lợi vàđược quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình.
Sở hữu tư nhân được pháp luật bảo vệ bao gồm: quyền chiếm hữu, sửdụng và định đoạt tài san của mình một cách tuyệt đối, miễn là khơng viphạm những điều pháp luật cấm (Điều 462 Bộ dân luật Bắc kỳ, Điều 476 Bộ
<small>dân luật Trung Kỳ).</small>
Sở hữu chung: khi vật không thể phân chia được và thuộc sở hữu củanhiều người, sẽ được coi là vật sở hữu chung. Những người có quyền nhất
định đối với vật chung được gọi là đồng sở hữu. Mỗi đồng sở hữu có quyềnlợi và nghĩa vụ đối với tài sản chung như: trông coi, tu bể, canh tác, được
hưởng lợi từ tài sản chung theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật
và đều có quyền định đoạt tài sản chung. Khi chuyển dich, cầm cố... phải
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">được sự dong ý. nhất trí của các đóng so hữu. Luật cịn quy định: bat cứ mot
đóng sơ hữu chung nào cũng có quyền yêu câu đem tài sản thuộc sơ hữu
Dia dịch (hay còn: được gọi là dịch luy): là những hạn chế ma chủ so
hữu một bất động sản phải gánh chịu để làm ích cho một bất động sản của
người khác. Trong thực rế, có những tài sản mà một người muốn sử dụng dé
khai thác cơng dụng của tài sản, phải có sự phiền luy đến tài sản của người
khác. Địa dịch có thể dc pháp luật quy định, do địa thế tự nhiên hoặc do các
chủ sở hữu tự ước đính. thoả thuận với nhau.
<small>Nhìn chung trong thời kỳ này, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trịtrên đất Việt Nam, từng bước áp đặt hệ thống pháp luật theo tinh than của</small>
pháp luật nước Pháp. Do vậy, trong pháp luật về sở hữu, yếu tố phong kiến
<small>khơng cịn được như xưa và bị pha trộn. Pháp luật sở hữu chủ yếu bảo vệ</small>
chế độ chính quyền thực dân Pháp và nắm địa vị độc tơn.
1.3.4. Q trình phát triển của pháp luật về sỏ hữu ở nước 'ta từ<small>năm 1945 tói nay.</small>
Giai đoạn từ năm 1945 tới năm 1959.
Ngay sau khi giành được chính quyền. Nhà nước ta đã thấy được tầmquan trọng của pháp lut nói chung và của pháp luật dan sự nói riêng đối
<small>với đời sống xã hội, nên chi sau một thời gian ngắn từ khi tuyên bố độc lập.</small>
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 90/SL ngày 10/10/1945 quy định:
tạm thời su dụng pháp luật cũ ở Việt Nam, nhưng theo mét tinh thần mới va
khơng trái với những ngun tac của chính thể cong hoà. Theo tinh thần cuaSắc lệnh này, các bộ luật của chính quyền cũ như Bộ dân luật giản yếu Nam
kỳ ban hành năm 1883. Bộ dân luật Bắc kỳ ban hành năm 1931 và Bộ Bộ
<small>34</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">dan luật Trung Ky ban hành nam 1936 van có hiệu lực thi hành tren lãnhtho Viét Nam.
Ngày 9/11/1946. Quốc hội nước Việt Nam dan chu cộng hoa ra đời
và đã thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên. Đó là Hiên pháp 1946.
đã trở thành quyền hiến định. Nhằm cụ thể hoá Hiến pháp, Nhà nước đã ban
hành hàng loạt các van bản pháp luật và thực hiện hàng loạt các biện pháp
cần thiết phù hợp với tình hình chính trị giai đoạn đó, để xố bỏ quyền sở
hữu đối với các tư liệu sản xuất quan trọng của thực dân Pháp, của các déquốc khác, các thế lực phản động, thù địch và chuyển các tư liệu sản xuấtquan trọng vào tay Nhà nước để xây dựng một cơ sở kinh tế mới. phù hợp
với thể chế chính trị của nền dân chủ cộng hồ. Các Sắc lệnh trong thời kỳ
này đã được ban hành như: Sắc lệnh ngày 15/11/1945 về việc bãi bỏ quyềnkhai trương đường hoa xa Hải phòng - Vân nam; Sắc lệnh ngày 22/1/1950
quy định quyền phân phối các nguồn khoáng chất trong nước. Sắc lệnh<small>ngày 30/5/1950 quy định việc trưng thu, trưng dụng, trưng tập trong thời kỳ</small>
kháng chiến. Trên thực tế, Nhà nước đã chuyển các xí nghiệp, hầm mỏ, bưu
<small>điện. hệ thống giao thơng và các cơng trình cơng cộng khác ... thuộc sở hữu</small>
của Nhà nước. Ngày 29/12/1953 Nhà nước ban hành luật cải cách nhằm
<small>thực hiện thành công mục đích xố bỏ chế độ “người bóc lột người” với</small>khẩu hiệu :"Người cày có ruộng". Y nghĩa bước đầu nhằm xoá bỏ quyền sở
hữu của địa chủ phong kiến về đất đai, xác lập quyền sở hữu ruộng đất cho
nhân dân. Để bảo vệ lợi ích cho nhân dân Nhà nước ban hành các văn bản
pháp luật bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của công dân trên cơ sở các quyđịnh về sở hữu của Hiến pháp 1946.
nước cũng đã ban hành Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 để sửa đối quy lệ
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">và chê định trong dan luật. Sac lệnh số 85/SL ngày 20/5/1952 ban hành thelệ trước bạ về việc mua. ban, cho. đổi nhà cửa ruộng đất. Nghị định 47/ND
dung của Bộ luật này, quyền sở hữu tài san cũng được ghi nhận là mot chế
Miền Bắc: Nhà nước ta ban hành Hiến pháp 1959 cho phù hợp tình
hình chính trị, kinh tế trong giai đoạn mới. Đồng thời hồn thành cơ bản
cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế phi xã hội
lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm phát triển
ưu tiên. Các hầm mỏ, sơng ngịi, và những rừng cây, đất hoang. tài nguyênkhác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc quyền sở hữu của
toàn dan"( Điều 12 Hiến pháp 1959). Ngoài ra, Hiến pháp 1959 cịn ghi
trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện
nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của tồn dân. hình thức sở hữu
<small>36</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">cua hợp tác xã tức là hình thức sơ hữu tap thê cua nhân dan lao động. hìnhthức sơ hữu của người lao động riêng lẻ. và hình thức sở hữu của nhà tư sàndân tộc” (Điều 11 Hiến pháp 1959).
Để thực hiện những mục tiêu trên. Nhà nước ta đã ban hành một loạt
Chính phủ về chính sách đối với việc cho thuê nhà tư nhân ở các tinh, thành
thuê nhà ở thành phố, thị xã; đồng thời trong thời kỳ này Ủy ban thường vụQuốc hội cũng ban hành các văn bản pháp luật nhằm bảo vệ chế độ sở hữuxã hội chủ nghĩa như: Pháp lệnh ngày 21/10/1970 trừng trị các tội xâmphạm tai san xã hội chủ nghĩa, xâm phạm tài sản riêng cơng dân...
Do tình hình đất nước trong giai đoạn này đang bị phân chia làm hai
miền, hai chế độ chính trị khác nhau. do vậy cần thực hiện chính sách mặttrận đoàn kết dân tộc, nên pháp luật về sở hữu cịn mang tính chất "mềmdẻo” và chưa triệt để. Trong những chừng mực nhất định, Nhà nước vẫn baohộ quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của các
hộ nông dân cá thể, người làm thợ thủ công và những người lao động riêng
lẻ khác.
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước có Chính phủ đã
“ban hành: Quyết định số 188/CP về chính sách xố bỏ triệt để tàn tíchchiếm hữu ruộng đất và hình thức bóc lột thực dân phong kiến ở miền NamViệt Nam; Nghị định 111/CP ngày 4/4/1977 về chính sách quan lý và cải
tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà đất cho thuê ở các tỉnh phía Nam.
<small>Giai đoạn từ 1980 - 1992</small>
Sau năm 1975, miền Nam hồn tồn giải phóng, thống nhất đất nước,
<small>ch</small>
</div>