Tải bản đầy đủ (.pdf) (201 trang)

Luận án tiến sĩ luật học: Sự hình thành và phát triển của luật đầu tư nước ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.26 MB, 201 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ GLÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỒ NHẤT HOÀNG

SU HÌNH THÀNH VA PHÁT TRIENCUA LUẬT ĐẦU TƯ NƯỨC NGOAI

TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Ly luận Nhà nước và Pháp luậtMã số 25.0501 00 .nn<sub>FONG ! Ai ‡ Wd |</sub>

THU Mes 0áu VEN

L sO BK - IBCLUẬN AN TIẾN SI LUAT HOC

Nguoi hướng dan khoa hoc: PGS.TS Ha Hùng Cường

TS. Trần Ngọc Dũng

HÀ NỘI - 2002

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Tôi xin cam đoan đây là công trình

nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu nêutrong luận án là trung thực. Những kết luậnkhoa học của luận án chưa từng được aicông bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIÁ LUẬN ÁN

D6 Nhất Hoang

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Khái niệm và đặc trưng cơ bản của pháp luật đầu tư nước ngồi

<small>tại Việt Nam</small>

Vai trị của pháp luật đầu tư nước ngoài

Mối quan hệ của pháp luật đầu tư nước ngoài với các đạo luậtthuộc những ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Chương 2: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬTĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI TẠI VIỆT NAM

Sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài tại

<small>Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử</small>

Sự hình thành và phát triển của một số chế định pháp lý chủ yếu

của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

. Đánh giá, nhận xét về sự hình thành và phát triển của pháp

luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Chương 3: XU HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

` LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Các nguyên tắc tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài

tại Việt Nam

Xu hướng và các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tưnước ngồi tại Việt Nam

KẾT LUẬN

NHỮNG CƠNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN AN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BO

DANH MỤC TÀI LIEU THAM KHAO

3954

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

a cv

% ND

APEC

: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

: Hiệp định về khu vực đầu tư ASEAN

: Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN

: Hiệp hội các nước Đông Nam Á

: Diễn đàn hợp tác kinh tế Á - Âu

: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa: Xã hội chủ nghĩa

: Ủy ban nhân dân

: Tổ chức thương mại thế giới

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi

mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan

trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đấtnước đã có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao.

Chủ trương hợp tác đầu tư với nước ngồi nhằm tranh thủ vốn, cơngnghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường thế giới phục vụ sự nghiệp cơngnghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HDH) đã được xác định và cụ thé hóa trong

các văn kiện của Đảng. Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Luật Đầu tư nước

ngoài tại Việt Nam được ban hành nam 1987, mở đầu cho việc thu hút cóhiệu quả và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo phương châmđa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần thựchiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.

Trong gần mười lăm năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt đượcnhững thành tựu quan trọng, đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế,

thúc đẩy việc chuyển dịch co cấu kinh tế theo hướng CNH, HDH, mở rộng thịtrường xuất khẩu, tạo việc làm và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

Khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi là một bộ phận của nền

kinh tế đang kinh doanh năng động, hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩm có hàm

lượng trí tuệ và chất lượng cao, tạo thêm thế và lực cho Việt Nam chủ độnghội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.

Trong các thành tựu nói trên, pháp luật đầu tư nước ngồi có sự đónggóp to lớn. Pháp luật đầu tư nước ngoài đã tạo dựng được khung pháp lý cơ

bản, điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi phù hợp với đường lối,

chính sách của Đảng về mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng về cơ

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Tuy nhiên, nhu cầu tiếp tục đổi mới toàn diện nền kinh tế, đẩy mạnh

CNH. HĐH, chủ động hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới đã và đang dat ranhiệm vụ phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngồi hiện hành. Bêncạnh đó, chính sách nhất quán thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt

Nam đã được khẳng định lại tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX của

Đảng: “Tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế dé phát

triển" [27, tr. 330].

Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Sự hình thành và phát triển của Luát

Đầu tu nước ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam" hiện nay mang tinh

cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn nhằm nângcao hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Thuật ngữ

"Luật Đầu tư nước ngoài" trong luận án này được hiểu là pháp luật đầu tư

nước ngoài, trong đó đạo luật về đầu tư nước ngồi (năm 1987 và năm 1996)

là văn bản pháp lý quan trọng nhất.

2. Tình hình nghiên cứu

Trong thời gian qua, một số tác giả đã có các cơng trình nghiên cứu vềLuật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, như: tác giả Hồng Phước Hiệp cóLuận án Tiến sĩ luật học năm 1996 về "Co chế điều chỉnh pháp luật tronglĩnh vực đầu tu trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam; tác giả Lê Mạnh Tuấn có

Luan án Tiến sĩ luật học năm 1996 về "Ca sở khoa học của việc hoàn thiệnkhung pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam; tác giả Nguyễn

Hải Hà có Luận án Tiến sĩ luật học năm 2000 tại Pháp về "Luật Đầu tr nướcngoài tại Việt Nam; Bộ Kế hoạch và Dau tư cho in tập bài giảng nam 2000:

Những vấn đề cơ bản về quản lý đầu tư trực tiếp nước ngồi tại Việt Nam; Bộ

Tư pháp có Dự án VIE/94-03 năm 1998 - Tập II - Phan I: Pháp luật về cácloại hình doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp có vốn đầu ti nước ngồi;

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Bộ Kế hoạch và Dau tư có Dự án VIE/97-016 năm 1997: Tăng cường môi

trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh, trong đó có đề tài nhánh về doanhnghiệp có vốn đầu tư nước ngồi...

Tuy nhiên, các cơng trình nói trên chỉ đề cập đến khía cạnh cơ chếđiều chính pháp luật đầu tư nước ngoài, pháp luật đầu tư nước ngoài hoặcquản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tại Việt

Nam... Chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, tồn diện về

sự hình thành và phát triển của Luật Đầu tư nước ngoài trong hệ thống pháp

luật Việt Nam.

3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu của luận án

Mục đích nghiên cứu của luận án

Mục đích của luận án là trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thốngsự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài, đánh giá đúngthực trạng, dự báo xu hướng phát triển và kiến nghị phương hướng, nội dung

hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam

thời gian tới.

Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Để đạt được mục đích trên, việc nghiên cứu luận án có các nhiệm vụ sau:

- Làm sáng tỏ các khái niệm: Đầu tư nước ngoài, pháp luật đầu tư

nước ngoài tại Việt Nam; đặc điểm của pháp luật đầu tư nước ngoài và vai trị,

vị trí của nó trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

- Phân tích, làm rõ sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tưnước ngoài qua từng thời kỳ lịch sử; đánh giá thực trạng của pháp luật đầu tư

nước ngoài về cả ưu điểm và hạn chế.

- Dự báo xu hướng phát triển của pháp luật đầu tư nước ngồi và từ đó,kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

nước ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Phạm vì nghiên cứu của luận án

- Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước vàpháp luật. Thuật ngữ "Luật Dau tư nước ngoài" được hiểu theo nghĩa rộnggồm ba bộ phận: thit nhất, đạo luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài (được Quốchội ban hành năm 1987 và 1996 cũng như các đạo luật sửa đổi, bổ sung hai

đạo luật này) và các văn bản trực tiếp hướng dẫn thi hành; thit hai, các chế

định điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định trong

các đạo luật khác như chế định phá sản trong Luật Phá sản doanh nghiệp, chếđịnh lao động trong Bộ luật Lao động...; thit ba, các điều ước quốc tế mà Việt

nam ký kết hoặc gia nhập điều chính hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại

<small>Việt Nam.</small>

Về thời gian, luận án nghiên cứu những vấn đề về đầu tư trực tiếp

nước ngoài từ năm 1975 đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lénin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về xây dựng Nhà nước và pháp luật,

đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về mở cửa, hội nhập kinh tế

quốc tế trong nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định

hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta; những thành tựu của các khoa

học: triết học, kinh tế học, luật học và đặc biệt của khoa học quan hệ kinh tế

quốc tế...

Luận án được trình bày dựa trên cơ sở nghiên cứu các Chi thị, Nghị

quyết của Đảng về đầu tư nước ngoài, các văn bản pháp luật đầu tư nướcngoài của Nhà nước, các báo cáo tổng kết về tình hình đầu tư trực tiếp nước

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

ngồi tại Việt Nam của Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ; các cơngtrình nghiên cứu về pháp luật đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực

<small>và trên thế giới.</small>

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

của triết học Mác - Lénin, luận án sử dung các phương pháp phân tích, tổng

hợp, hệ thống, so sánh pháp luật, dự báo để nghiên cứu những vấn đề đầu tư

trực tiếp nước ngồi ở Việt Nam trong thời gian qua.

5. Những đóng góp mới của luận án

Đây là luận án Tiến sĩ luật học đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một

cách tồn diện và có hệ thống về sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu

tư nước ngoài trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả dự

báo xu hướng phát triển và kiến nghị phương hướng, nội dung hoàn thiệnpháp luật đầu tư nước ngồi hiện hành. Có thể xem những nội dung sau đây là

những đóng góp mới của luận án:

1. Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm của pháp luật đầu tư nước ngồi ở

Việt Nam và vai trị, vi trí của nó trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

2. Trình bày quá trình hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư

nước ngoài tại Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử từ năm 1975 đến nay.3. Đánh giá thực trạng của pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành xét

trong tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam, phân tích những ưu điểm và hạnchế của nó và dự báo xu hướng phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài.

4. Dé cập các nguyên tac hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngồi,đồng thời dự báo lộ trình và nội dung hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài

trong thời gian tới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Thông qua những kết quả nghiên cứu và kiến nghị của luận án, tác giảmong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của kho tàng lý

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

đề xuất các giải pháp phát triển pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành, tác giảhy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học cho việc đổi mới pháp luật

đầu tư nước ngồi trong khn khổ đổi mới hệ thống pháp luật nói chung của

Việt Nam, theo hướng tạo mơi trường đầu tư thơng thống, hấp dân hơn đốivới các nhà đầu tư nước ngoài, tạo sức cạnh tranh cao hơn trong việc thu hútđầu tư trực tiếp nước ngồi so với các nước trong khu vực. Vì vậy, luận án có

thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy vềlý luận pháp luật đầu tư nước ngoài cũng như đào tạo cán bộ chuyên ngành về

pháp luật đầu tư nước ngoài thuộc các ngành Kế hoạch va Dau tư, Tư pháp,

Tài chính, Địa chính, Hải quan, Thương mại...

7. Kết cấu của luận án

Luận án gồm 187 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài

liệu tham khảo, luận án có 3 chương, 9 mục.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>Chương 1</small>

MỘT SỐ VAN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIENPHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIET NAM

1.1. SỰ CAN THIẾT PHAI CĨ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI

TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1.1. Tính tất yếu khách quan của việc thu hút đầu tư nước ngoài

Trong lịch sử thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện từ thế

ky thứ XVI. Các nước tư ban phát triển nhất thời kỳ đó như Anh, Hà Lan, Tây

Ban Nha, Bồ Đào Nha đã đầu tư vốn vào các nước châu Á, châu Phi... để mở

đồn điền, khai thác khống sản, cung cấp ngun liệu cho các ngành cơng

nghiệp ở chính quốc. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì hoạt động đầu tưtrực tiếp nước ngồi của các nước cơng nghiệp phát triển ngày càng có phạmvi, quy mơ lớn hơn với những hình thức ngày càng phong phú hơn.

Trong thế kỷ thứ XIX, các nước tư bản phát triển đã tích lũy đượcnhững khoản tu bản khổng lồ. Đó là tiền dé quan trong cho việc xuất khẩu tư

bản. Theo nhận định của V.I. Lênin trong tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc - Giai

đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”, thì xuất khẩu tư bản là một trong năm

đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại, tức chủ nghĩa tư bản độc

quyền. V.I. Lénin cho rằng, "chủ nghĩa tư bản tăng thêm lợi nhuận bang cáchxuất khẩu tư bản ra nước ngoài vào những nước lạc hậu. Trong các nước lạc

hậu này, lợi nhuận thường cao, vì tư bản hãy cịn ít, giá đất đai tương đối thấp,

tiền công ha, nguyên liệu rẻ” [45, tr. 456].

Khoa học kinh tế đã chỉ ra rằng, đó là một hiện tượng kinh tế mang

tính tất yếu khách quan. Khi q trình tích tụ và tập trung tư bản đạt đến mộtmức độ nhất định, sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngồi. Đây chính là

quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội, đến độ vượt ra khỏi khuôn khổ

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

phải thực hiện đầu tư ra nước ngoài, thời gian đầu thường là vào các nước lạchậu hơn, vì ở đó các yếu tố đầu vào của sản xuất cịn rẻ, lợi nhuận thu được

<small>thường cao hơn.</small>

Khi đưa ra “Chính sách kinh tế mới” V.I. Lênin đã cho rằng, nhữngngười cộng sản phải biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹthuật của chủ nghĩa tư bản thơng qua hình thức "tư bản nhà nước”. Theo quan

điểm này, nhiều nước đã "chấp nhận" phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa tư

bản để phát triển kinh tế, vì như thế có thể đi nhanh hơn là tự thân vận động

hay đi vay vốn để mua lại kỹ thuật của các nước công nghiệp phát triển. Mặt

khác, mức độ “bóc lột” của các nước tu bản cũng cịn tùy thuộc vào điều kiệnkinh tế, chính trị, xã hội của các nước tiếp nhận tư bản. Nếu như trước đây,

hoạt động xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc chỉ phải tn theo pháp luật

của chính họ, thì ngày nay, các nước nhận đầu tư đã là các quốc gia độc lập

có chủ quyền, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phải tuân theo pháp luật,

sự quản lý của chính phủ nước sở tại và thơng lệ quốc tế.

Một khó khăn lớn của hầu hết các nước đang phát triển trong đó có

nước ta là thiếu vốn đầu tư. Có thể nói, vốn đầu tư là yếu tố quyết định để cácnước này đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất của

nhân dan. Ở các nước đang phát triển, nguồn lao động và tài nguyên thiên

nhiên thường chưa được sử dụng hết hoặc khơng được sử dụng vì thiếu các

điều kiện vật chất cho quá trình lao động, sản xuất. Bản thân các nước đang

phát triển lại ít có khả năng tự tích lũy vì năng suất lao động thấp, sản xuất

hầu như không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Trong hoàn cảnh

như vậy, nguồn vốn từ bên ngồi sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với bước phát

triển ban đầu của các nước này. Đặc biệt, trong xu thế quốc tế hóa đời sốngkinh tế thế giới hiện nay, các nước đang phát triển bị đặt vào tình huống phải

tạo được tốc độ phát triển nhanh để đuổi kịp các nước phát triển và từng bước

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

hội nhập với nền kinh tế thế giới. Nguy cơ tụt hau không cho phép các nước

đang phát triển được chậm trễ hay có cách lựa chọn nào khác. Trong điều

<small>kiện thé giới và khu vực có nhiều quốc gia có nhu cầu đầu tư ra nước ngồi,</small>

thì các nước đang phát triển có cơ cơ hội tranh thủ nguồn vốn và kỹ thuật của

nước ngoài để phát triển kinh tế.

Ngoài các đặc điểm chung của một quốc gia đang phát triển, Việt

Nam cịn có những đặc thù riêng của một đất nước đã phải trải qua nhiều năm

chiến tranh ác liệt. Nền kinh tế sau chiến tranh đã bị tàn phá nặng nề, lại vấp

phải những sai lầm nghiêm trọng trong quản lý và điều hành cả trên tầm vĩmô và vi mô của thời kỳ tập trung, quan liêu, bao cấp, nên đã rơi vào khủnghoảng nghiêm trọng. Trong thời gian dài trước năm 1990, Việt Nam khơng cótích lũy từ trong nội bộ nền kinh tế. Một phần lớn tích lũy phải dựa vào vay

nợ và viện trợ chủ yếu của Liên Xô, các nước XHCN Đơng Âu trước đây, sau

này là từ nhiều chính phủ và các tổ chức trên thế giới.

Để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, Việt Nam phải tranh thủ vốn, kỹthuật, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. Đây là điểm nút để nước

ta thoát ra khỏi cái vịng luẩn quần của sự nghèo đói. Thực tiễn và kinh

nghiệm của nhiều nước cho thấy, quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tếmở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của nhân tố bênngồi, biến nó thành nhân tố bên trong, thì quốc gia đó tạo được tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao. Có thể nói rằng, ở đâu và nước nào thu hút được nhiều vốnđầu tư trực tiếp nước ngồi, thì ở nước đó, nền kinh tế đạt được tốc độ pháttriển nhanh chóng. Vì vậy, trên thế giới đang diễn ra một cuộc cạnh tranh gaygắt nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Trong điều kiện cụ thể của nước ta, nơi có những tiềm năng to lớn về

lao động, tài ngun... nhưng khơng có điều kiện khai thác và sử dụng, thìviệc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi lại càng mang tính tất yếu khách quanvà có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Muốn đạt được mục đích thu hút nhiều vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài, kinh nghiệm quý báu của nhiều nước cho thấy,

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<small>Việt Nam cần phải tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn. tạo điều kiện thuận lợi</small>

cho các nhà đầu tư nước ngoài, giữ vững ổn định kinh tế vi mơ, ổn định chính

trị và thực hiện cải cách nền kinh tế để từng bước hội nhập vào quỹ đạo phát

triển kinh tế thế giới.

1.1.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoàibằng pháp luật

Trong xã hội, pháp luật là một phương tiện quan trọng bậc nhất không

thể thay thế để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tổ chức, quản lý đời sống xã hội,bảo đảm cho xã hội ổn định, phát triển, phù hợp với những mục đích mà Nhà

nước và xã hội dat ra. Nghị quyết số 51/2001/QHI0 ngày 25/12/2001 của

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 10về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam năm 1992, tại Điều 2 quy định: "Nha nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,

do nhân dân, vì nhân dân” và Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nước

quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN ".

Quản lý kinh tế nói chung, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nướcngoài nói riêng, là chức nang cơ ban hàng đầu của Nhà nước trong điều kiện

lịch sử hiện nay. Để thực hiện chức năng này, Nhà nước phải nhận thức đúng đắn

các quy luật khách quan của sự vận động kinh tế - xã hội, xây dựng chiến lược

thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi, khai thác có hiệu quả các nguồn lực củađất nước và các điều kiện quốc tế, sử dụng đồng bộ và hợp lý các công cụ kế

hoạch, chính sách và các địn bẩy kinh tế. Trong hệ thống các công cụ và biệnpháp để Nhà nước điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi, pháp luật

có ý nghĩa đặc biệt quan trong. Sự cần thiết phải điều chính hoạt động đầu tư

trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật được thể hiện ở một số nội dung sau đây:

Thứ nhất, pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước, luôn luôn gắn

Liền với Nhà nước và chi Nhà nước mới sử dụng công cụ pháp luật. Nhà nước

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<small>điều chính các quá trình xã hội và hành vi hoạt động cua con người, trong đó</small>

có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bang quyền lực nhà nước. Quyền lựcnhà nước khác với các quyền lực khác ở chỗ, nó được thực hiện bằng một cơchế thực thi pháp luật. Nhờ có quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị thực

hiện những lợi ích của mình, buộc cả xã hội phải tn theo và phục tùng ý

chí của mình bằng cách đề ra pháp luật và thực hiện pháp luật trên thực tế.

V.I. Lênin cho rằng: "Y chí, nếu nó là ý chí của Nhà nước, thì phải được biểu

hiện dưới hình thức một đạo luật do chính quyền đặt ra, nếu khơng thì hai

tiếng ý chí chi là một sự rung động khơng khí do những âm thanh rỗng tuếch

gây nên" [112, tr. 429]. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi, điều đó

có nghĩa, chỉ có điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng phápluật, thì quyền lực nhà nước mới có ý nghĩa và mới đem lại hiệu quả thiết thực.

Tuy nhiên, ý chí của Nhà nước thể hiện trong pháp luật, xét đến cùng,

khơng phải do ý chí chủ quan của một người nào, mà chính nó được hình

thành một cách khách quan do các quan hệ kinh tế khách quan quy định. Nói

pháp luật là sự thể hiện quyền lực và ý chí của Nhà nước cũng có nghĩa làkhẳng định tính bị quy định một cách khách quan của pháp luật. Ph. Angghen

cho rằng, ý chí được đề lên thành luật là ý chí có nội dung do những điều kiện

sinh hoạt vật chất của giai cấp quyết định [59, tr. 42].

Qua việc phân tích sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động đầu tư trực

tiếp nước ngoài bằng pháp luật cũng có thể khẳng định, pháp luật đầu tư nướcngồi ra đời từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của nhân dân, trước hết là lợi ích kinh tế

và lợi ích chính trị. Ph. Angghen cho rang: “Tất cả hiện tượng pháp lý đều lấy

bản chất chính trị làm cơ sở" [59, tr. 635]. V.I. Lênin khẳng định: "Một đạo

luật là một biện pháp chính trị, là chính trị” [111, tr. 129]. Nội dung và mục

tiêu của biện pháp chính trị đó là kinh tế, lợi ích kinh tế và địa vị thống trị của

<small>nhân dân lao động nước ta.</small>

Thứ hai, để điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi, Nhà nước

có thể và cần phải sử dụng nhiều cơng cụ, biện pháp và hình thức khác nhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Đó là các chính sách, kế hoạch đầu tư trực tiếp nước ngồi, địn bay kinh tế, phápluật đầu tư nước ngoài... Tuy nhiên, trong số các cơng cụ, biện pháp đó, việc

điều chinh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật đã trở thành thiếtyếu và cấp bách hiện nay, bởi lẽ với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật

có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách

nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mơ tồn xã hội. Chính vì

vậy, chúng tơi hồn tồn tán thành ý kiến của GS.TSKH Đào Trí Úc: "Nhànước chỉ có thể thể hiện được ý chí phổ biến và uy quyền cơng khai của mình

qua một loại đại lượng có tính phổ biến, có tính bắt buộc chung. Đó là pháp

luật" [84, tr. 205].

Thứ ba, trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại của pháp luật là mộtnhu cầu khách quan bat nguồn từ những đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Day

là điểm khác biệt so với thời kỳ quan liêu, bao cấp. Ở thời kỳ này, sự tồn tại

của pháp luật như quan điểm của PGS.TS Chu Hồng Thanh, là: "một nhu cầuchủ quan bắt nguồn từ những đòi hỏi của Nhà nước, là một phương tiện trong

tay Nhà nước để kìm hãm, xóa bỏ những quan hệ kinh tế nào đó một cách

duy ý chí” [79, tr. 29].

Doi với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật đầu tư nướcngồi được hình thành trên cơ sở những địi hỏi của quan hệ đầu tư trực tiếp

nước ngoài, tồn tại như một quan hệ nội tại của sự vận động, phát triển kinh tế

đối ngoại. Pháp luật đầu tư nước ngoài là hệ thống các quy phạm, chuẩn mực,

mà dựa vào đó các nhà đầu tư nước ngồi tìm được "san chơi”, các nha quan

lý có phương tiện để điều khiển "cuộc choi". Pháp luật đầu tư nước ngoài là

mực thước để phân định đúng, sai, kiểm nghiệm và điều chỉnh hoạt động đầu

tư trực tiếp nước ngoài cho phù hợp với nhu cầu xã hội.

Sự điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật

phải bảo đảm cho hoạt động đầu tư vận động theo đúng những quy luật khách

quan, không thể áp đặt và thay thế các quy luật khách quan ấy. Bảng pháp

luật, Nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý để chủ thể quan hệ đầu tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

đầu tư trực tiếp nước ngoài và thẩm quyền của các cơ quan có chức năng giải

quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Thứ tư, trong việc điều chỉnh quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài,pháp luật quy định cho các bên tham gia các quan hệ đó có một số quyền vànghĩa vụ pháp lý nhất định, đồng thời thiết lập cả những điều kiện để đảm bảocho các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó được thực hiện. Vì vậy, khi tham gia

vào các quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài do pháp luật điều chỉnh, các chủ

thể phải có hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật. Tuy nhiên, việcđiều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi bằng pháp luật, khơng chỉ

tác động tới các hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư trực tiếp

nước ngồi, mà cịn tác động về tư tưởng đối với tồn xã hội nói chung.

Thứ năm, đối với sự điều chính hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài

bằng pháp luật, sự tồn tại của pháp luật đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào nhậnthức và ý chí của Nhà nước. Tuy nhiên, sau khi pháp luật đầu tư nước ngoài

đã được ban hành, các cơ quan nhà nước phải triệt để tuân thủ trong quá trình

thực hiện chức năng quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây cũng là một

trong những nội dung cơ bản của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam hiện nay.

1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ

NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

1.2.1. Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài

Để có thể làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài, trướchết cần làm rõ khái niệm đầu tư nước ngồi, các hình thức, phương thức của

đầu tư nước ngoài.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<small>Việc nghiên cứu các tài liệu ở một số nước trên thế giới cho thấy,</small>

thuật ngữ "đầu tư" được hiểu khác nhau, phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế

-xã hội nhất định. Trước đây, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) đã dua ra khái

niệm đầu tư nước ngoài như sau: "đầu tư nước ngoài được hiểu là tất cả những

loại giá trị vật chất mà nhà đầu tư đưa từ nước ký kết này sang nước ký kết

hữu quan theo pháp luật của nước sử dung đầu tư" [110, tr. 19]. O khái niệm

này, đầu tư nước ngoài được hiểu với nghĩa rất hẹp chỉ bao gồm các giá trị vật

chất, còn các loại tài sản vơ hình thì lại chưa được đề cập đến. Trong tài liệu

Hội thảo về thương mại và phát triển của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế(OECD), khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu rộng hơn khái niệm

trên: "Đầu tư với mục đích thiết lập các quan hệ kinh tế bền vững với mộtcông việc kinh doanh, đem lại khả năng thực hiện một ảnh hưởng có hiệu quảđối với quản lý của việc đầu tư ấy” [106, tr. 17]. Trong báo cáo của Ngânhàng thế giới năm 1996: "Đầu tư thương mại va các thỏa thuận chính sách

quốc tế”, khơng đưa ra khái niệm đầu tư, nhưng có đưa ra định nghĩa pháp lý

của khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài: "là một khoản đầu tư liên quan đếncác quan hệ dài hạn và phản ánh một lợi ích lâu dài và sự kiểm soát một thực

thể trong một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngồi hay cơng ty mẹ) thông quamột doanh nghiệp thuộc về một nền kinh tế khác, nền kinh tế của nước có nhàđầu tư trực tiếp nước ngồi" [108, tr. 219-220].

Dưới góc độ khoa học, khái niệm đầu tư được hiểu trong mối quan hệ

với các khái niệm khác thuộc phạm trù kinh tế thị trường. Cuốn Từ điển kinh

doanh xuất bản bằng tiếng Anh tại Luân Đôn năm 1982 đã đưa ra các khái

niệm khác nhau về đầu tư (investment) như: "đó là việc dùng tiền để nhận

được thu nhập hoặc lợi nhuận; đó là tiền được đầu tư..." [105, tr. 255].

Ở nước ta, ngay từ năm 1977, khái niệm đầu tư nước ngồi đã chính

thức được ghi nhận trong Điều lệ Đầu tư của nước ngồi ở nước Cộng hịa

XHCN Việt Nam được ban hành kèm theo Nghị định số 1 15/CP ngày 18/4/1977

(sau đây gọi tắt là Điều lệ Dau tư nước ngoài nam 1977):

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

- Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ (gồm ca những thứ

<small>dùng cho việc thí nghiệm), phương tiện vận tải, vật tư kỹ thuật...</small>

cần thiết cho mục đích nói trên;

- Các quyền sở hữu công nghiệp, bang sáng chế, phát minh,

<small>phương pháp cơng nghệ, bí mật kỹ thuật (know - how), nhãn hiệu</small>

chế tao...

- Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ, nếu phía

Việt Nam thấy cần thiết;

- Vốn bảng ngoại tệ dé chi lương cho nhân viên va công

nhân làm việc ở các cơ sở hoặc tiến hành những dịch vụ theo quy

định của Điều lệ này [18, tr. 66].

<small>Như vậy, trong khái niệm trên, không phải bất cứ sự vận động vốn (tư</small>

bản) nào từ nước ngoài vào Việt Nam đều là đầu tư nước ngoài, mà chỉ việcđưa vào sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn đã được quy định tại Điều 2

Điều lệ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam mới được coi là đầu tư nước ngoài.

Trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987,khái niệm đầu tư nước ngoài đã được ghi nhận tại khoản 3 Điều 2 như sau:

"Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào

Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ

Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành

lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngồi theo quy định

của luật này". Có thể nói, với quy định mới này, khái niệm đầu tư nước ngoàiđã được mở rộng hơn so với khái niệm đầu tư nước ngoài trong Điều lệ đầu tư

<small>nước ngoài năm 1977.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, khái niệm đầu tư

được hiểu một cách rộng hơn: "là mọi hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một

Bên do các công dân hoặc công ty của Bên kia sở hữu hoặc kiểm sốt trực tiếphay gián tiếp, bao gồm các hình thức: một công ty hoặc một doanh nghiệp; cổ

phần, cổ phiếu và các hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy ghi nợ và cácquyền lợi đối với các khoản nợ dưới các hình thức khác trong cơng ty; cácquyền theo hợp đồng như quyền theo các hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng

xây dựng hoặc hợp đồng quản lý, các hợp đồng sản xuất hoặc hợp đồng phân

<small>chia doanh thu, tô nhượng hoặc các hợp đồng tương tự khác; tài sản hữu hình,</small>

gồm cả bất động sản và tài sản vơ hình, gồm cả các quyền như giao dịch thuê,thế chấp, cầm cố và quyền lưu giữ tài sản; quyền sở hữu trí tuệ, gồm quyềntác giả và các quyền có liên quan, nhãn hiệu hàng hóa, sáng chế, thiết kế bố

<small>trí, mạch tích hợp, tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hóa, thơng tin</small>

bí mật (bí mật thương mại, kiểu dáng cơng nghiệp và quyền với giống cây trồng

và các quyền theo quy định của pháp luật như các giấy phép và sự cho phép”.

Dưới góc độ khoa học, theo quan điểm của chúng tơi, đầu tư (investment)

là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực sảnxuất lớn hơn. Dưới góc độ của doanh nhân hoặc doanh nghiệp, đầu tu là việcđưa vốn vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận. Vốn đầu tưbao gồm tiền và các tài sản khác như động sản, bất động sản, tài sản hữuhình, tài sản vơ hình...

Như vậy, ngồi những khái niệm về đầu tư nước ngồi đã được trìnhbày ở trên, về mat lý luận, có thể đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài như sau:đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư của nước này đưa vốn bằng tiên hoặc tàisản khác vào nước khác để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,dich vụ nhằm thu lợi nhuận.

Trong khái niệm này, yếu tố nước ngoài trong đầu tư nước ngồi được

thể hiện ở hai dấu hiệu đặc trưng chính, mor Id: có sự tham gia của chủ thể

nước ngồi va fai là: có sự di chuyển vốn từ nước này sang nước khác.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Đầu tư nước ngoài được phân làm hai loại: đầu tư nước ngoài trực tiếpvà đầu tư nước ngoài gián tiếp. Đầu tư trực tiếp nước ngồi là loại hình kinhdoanh, trong đó nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn thiết lập ra cơ sở sản xuất,kinh doanh cho riêng mình, tự đứng ra làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc thuê

người quản lý cơ sở này (đầu tư 100% vốn), hoặc hợp tác với một hay nhiềudoanh nghiệp của nước sở tại thành lập một doanh nghiệp liên doanh hoặchợp đồng hợp tác kinh doanh, cùng làm chủ sở hữu, cùng quản lý cơ sở sảnxuất, kinh doanh này. Đầu tu gián tiếp nước ngồi là loại hình đầu tư, trong

đó nhà đầu tư nước ngồi bỏ vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của cơ

sở kinh tế, nhưng khơng tham gia điều hành cơ sở kinh tế đó.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ là một trong bốn nguồn tài

chính nước ngồi đổ vào một quốc gia, đó là: 1) Viện trợ phát triển chính thức

(ODA) va phi chính phủ (NGO);.2) Tin dụng thương mại; 3) Tín phiếu, trái

phiếu, cổ phiếu; 4) Vốn đầu tư trực tiếp. Viện trợ phát triển chính thức thườngdo các Chính phủ cấp không hoặc cho vay ưu đãi nhằm tạo dựng kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội cần thiết cho hoạt động thương mại, đầu tư. Tín dụngthương mại là nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động thương mại,xuất nhập khẩu và xét đến cùng cũng là hỗ trợ cho đầu tư. Tín phiếu là nguồn

vốn mà Chính phủ các nước muốn thu về bằng cách bán cổ phiếu, trái phiếu,

công trái cho người nước ngoài. Vốn đầu tư trực tiếp chủ yếu là nguồn vốn tư

nhân đầu tư vào quốc gia khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Bốn nguồn vốn này

có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu một nước kém phát

triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để hiện đại hóa kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội, thì khó có thể thu hút được nguồn vốn FDI và các nguồn

vốn tín dụng khác. Nhưng nếu chỉ chú trọng nguồn vốn ODA, mà khơng tìm

cách thu hút nguồn vốn FDI và các nguồn vốn: tín ae 3 khác; thì Chính phủ

sẽ khơng thể có thu nhập để trả nợ cho vốn O A= XIN" |

THUVIEN (1U VEN |

<small>6 }</small>

SO E1 Ì

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Hình thức đầu tit

Trên thế giới, các hình thức đầu tư rất đa dạng từ hình thức doanh

nghiệp 100% vốn nước ngồi, hình thức liên doanh, hình thức cơng ty cổ

phần, công ty quản lý vốn, chi nhánh công ty nước ngồi, đến hình thức gia

cơng, lap ráp... Cịn ở nước ta, theo pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành,đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm ba hình thức:

- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi là loại hình đầu tư, trong đónhà đầu tư nước ngồi tự bỏ vốn thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh ở nướcSở tại và có tư cách pháp nhân của nước sở tại.

- Doanh nghiệp liên doanh là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tưnước ngồi và nhà đầu tư trong nước cùng góp vốn thành lập cơ sở sản xuất,

kinh doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.

- Hợp đồng hợp tác kinh doanh là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầutư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước cùng bỏ vốn kinh doanh theo một hợpđồng, mỗi bên giữ tư cách pháp nhân riêng, không thành lập pháp nhân mới.

Phương thức đầu tu

Ngồi khái niệm các hình thức đầu tư, cịn có khái niệm phương thức

đầu tư. Phương thức đầu tư là cách tổ chức đưa vốn vào kinh doanh của nhà

đầu tư nước ngoài. Hiện nay, theo pháp luật đầu tư nước ngồi tại Việt Nam

<small>có các phương thức sau:</small>

- BOT (Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao) là phươngthức nhà đầu tư nước ngoài ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của

Việt Nam để xây dựng cơng trình kết cấu hạ tầng, tự kinh doanh để thu hồi

vốn, lợi nhuận trong thời hạn nhất định, sau thời hạn đó chuyển giao cơng

trình đó cho Nhà nước Việt Nam [5, tr. 4].

- BTO (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh) là phươngthức nhà đầu tư nước ngoài ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của

Việt Nam để xây dựng cơng trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong,

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

nhà đầu tu nước ngoài chuyển giao cơng trình đó cho Nhà nước Việt Nam.

Nhà nước Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh cơng trình đó

trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và lợi nhuận [5, tr. 4].

- BT (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao) là phương thức nha đầu tư kýkết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng cơng

trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngồi chuyểngiao cơng trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt Nam tao điều kiện

cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi

nhuận [5, tr. 4].

- Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thựchiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh

giới địa lý xác định do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập [Š, tr. 4].

- Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thựchiện các dịch vụ cho sản xuất cơng nghiệp do Chính phủ thành lập hoặc cho

<small>phép thành lập [5, tr. 4].</small>

Trên cơ sở khái niệm đầu tư nước ngồi, các hình thức đầu tư, phươngthức đầu tư nước ngoài, cần làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu tư nước

ngoài ở Việt Nam.

Hiện nay, khoa học pháp lý của nước ta thống nhất nhận thức rằng,

pháp luật đầu tư nước ngoài là một bộ phận trong hệ thống pháp luật ViệtNam. Tuy nhiên, xung quanh khái niệm pháp luật đầu tư nước ngồi cịn có

các quan điểm trái ngược nhau sau đây:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, pháp luật đầu tư nước ngoài là một

ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, vì nó có đối tượng,

phương pháp, điều chỉnh riêng.

Quan điểm thứ hai cho rằng, pháp luật đầu tư nước ngoài là một bộ

phận của ngành Tư pháp quốc tế, bởi lẽ quan hệ đầu tư nước ngồi là một loại

quan hệ có yếu tố nước ngồi. Đây là quan điểm được thừa nhận ở Liên bang

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Nga và Luật Đầu tư nước ngoài được viết thành một chương trong Giáo trìnhLuật Tư pháp quốc tế.

Quan điểm thứ ba cho rang, pháp luật đầu tư nước ngoài là một bộphận của Luật Kinh tế. Đây là quan điểm phổ biến được thừa nhận trong các

giáo trình Luật Kinh tế của Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật trựcthuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Vấn

đề địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được viết thành

<small>một chương trong các giáo trình đó.</small>

Quan điểm thứ tư cho rằng, pháp luật đầu tư nước ngồi khơng thuộc

một ngành luật nào. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạtđộng đầu tư nước ngồi có sự tham gia của nhiều ngành luật, trong đó các

ngành luật như Luật Kinh tế, Luật Tư pháp quốc tế, Luật Dân sự, Luật Laođộng, Luật Đất đai... đóng vai trị rất quan trọng. Nói cách khác, pháp luật

đầu tư nước ngoài là nơi giao thoa của nhiều ngành luật khác nhau như LuậtKinh tế, Luật Tư pháp quốc tế, Luật Dân sự, Luật Lao động, Luật Đất đai...

Chúng tơi đồng tình với quan điểm thứ tư, bởi lẽ:

Thứ nhất, quan điểm thứ nhất thiếu tính thuyết phục, bởi lẽ nếu giả

định pháp luật đầu tư nước ngồi là một ngành luật độc lập, thì nó phải có đốitượng, phương pháp, điều chỉnh đặc thù và phải tồn tại trong một thời gianđài. Tuy nhiên, phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài thựcchất cũng là phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế hoặc Tư pháp quốc tế...

mặc dù việc sử dụng có khác nhau về cấp độ, cho nên khơng thể nói có đặcthù hồn tồn riêng. Mat khác, pháp luật đầu tư nước ngồi khơng thể tồn tại

lâu dài, bởi lẽ trong xu thế của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư nước

ngoài va đầu tư trogg nước ngày càng xích lại gần nhau và sẽ có mat bằngpháp lý chung. Nói cách khác, trong tương lai gần, ở nước ta có thể sẽ khơng

tồn tại pháp luật đầu tư nước ngồi mà chỉ có pháp luật khuyến khích đầu tư

nước ngồi hoặc pháp luật đầu tư chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

nước ngoài. Hiện tại, do nước ta đang rất cần vốn đầu tư nước ngoài, kết cấuhạ tầng thấp kém so với các nước trong khu vực, nền kinh tế đang trong quátrình hội nhập, nên nước ta van phải có cả Luật Đầu tư nước ngồi và Luật

Khuyến khích đầu tư trong nước. Nếu so sánh với các nước phát triển như

Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hịa Pháp, Cộng hịa Liên bang Đức... thì ởcác nước này khơng có pháp luật đầu tư nước ngồi mà chỉ có pháp luật đầutư chung cho cả trong nước và nước ngoài với nhiều tên gọi khác nhau, thí dụ:Hợp chủng quốc Hoa Kỳ gọi là Luật Cơng ty, Cộng hịa Liên bang Đức gọi là

Luật Kinh doanh. Các nước trong khu vực tương đối phát triển như Singapore,

Hàn Quốc... cũng khơng có Luật Đầu tư nước ngồi mà chỉ có Luật Khuyến

khích đầu tư nước ngồi.

Mặt khác, pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam khơng chỉ thuần

túy là Luật Dau tư nước ngồi tai Việt Nam được ban hành nam 1987, 1996

và các văn bản hướng dẫn trực tiếp mà còn là các quy định trong các đạo luật

khác như Luật Phá sản doanh nghiệp, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự... cũng

như trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Với sựphân tích như vậy, rõ ràng, quan điểm coi pháp luật đầu tư nước ngoài là mộtđgành luật độc lập là khơng hợp lý, thiếu cơ sở khoa học và cơ sở thực tiên.

Thứ hai, lý luận chung về Nhà nước và pháp luật đã chỉ ra rằng, muốn

kết luận một lĩnh vực nào đó thuộc về một ngành luật, thì tiêu chí quan trọngnhất là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đó phải thuộc phạm vi

điều chỉnh của ngành luật đó. Từ luận điểm nay cho thấy, nếu coi pháp luậtđầu tư nước ngoài thuộc Luật Tư pháp quốc tế, thì các hoạt động sản xuất,

kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi phải do Luật Tư

pháp quốc tế điều chỉnh, mà đây lại là những quan hệ xã hội không thuộc

phạm vi điều chỉnh của ngành luật này.

Thứ ba, quan điểm coi pháp luật đầu tư nước ngoài là một bộ phận của

Luật Kinh tế có hạt nhân hợp lý, bởi lẽ Luật Kinh tế điều chỉnh những quan

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

hệ kinh tế phát sinh trong lĩnh vực quản lý, lãnh đạo kinh tế của Nhà nước và

tổ chức thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ

sở. Như vậy, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngồi và chức năng quản lý đầu tư nước ngoài của Nhà nước cũng nằmtrong phạm vi đối tượng điều chỉnh của Luật Kinh tế. Tuy nhiên, trong hoạt độngđầu tư nước ngoài, ngoài quan hệ kinh tế, thương mại là các quan hệ chủ yếu,cịn có các quan hệ dân sự, lao động, tố tụng dân sự có yếu tố nước ngồi, mà cácquan hệ này lai khơng thuộc phạm vi đối tượng điều chỉnh của Luật Kinh tế, mathuộc phạm vi đối tượng điều chính của Luật Tư pháp quốc tế. Chính vi vậy,

cũng khơng thể coi pháp luật đầu tư nước ngoài là một bộ phận của Luật Kinh tế.

Như vậy, quan điểm coi pháp luật đầu tư nước ngồi khơng thuộc một

ngành luật nào, mà chỉ là nơi giao thoa của nhiều ngành luật và gần gũi với

Luật Kinh tế, là hợp lý hơn cả. Pháp luật đầu tư nước ngoài được hiểu theo

nghĩa rộng, gồm ba bộ phận cấu thành:

Bộ phận thứ nhất: là đạo luật Đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng

dẫn trực tiếp thi hành.

Bộ phận thứ hai: là các chế định có liên quan đến đầu tư nước ngoài

<small>được quy định trong các đạo luật khác.</small>

Bộ phận thứ ba: là các quy phạm pháp luật có liên quan đến đầu tưnước ngồi được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết

hoặc tham gia.

Pháp luật đầu tư nước ngoài được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm

đạo luật Đầu tư nước ngoài và các nghị định, thong tư hướng dẫn thi hành

trực tiếp.

Về doi tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài

Lý luận chung vé Nhà nước và pháp luật đã chỉ ra rằng, đối tượng điều

chỉnh của pháp luật là các quan hệ xã hội, nhưng không phải là tất cả các

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

quan hệ xã hội. Pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội có liên quan

đến đời sống cộng đồng, liên quan tới việc củng cố địa vị và lợi ích của cơng

dân trong các lĩnh vực kinh tế, chính tri, van hóa, xã hội... cịn những quan hệ

xã hội như quan hệ tình cảm, quan hệ trong phạm vi nội bộ của các tổ chức xã

hội... không chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Đối tượng điều chỉnh của pháp

luật có thể thay đổi tùy theo từng giai đoạn lịch sử, phụ thuộc vào ý thức chủ

quan của giai cấp thống trị và các điều kiện chính tri, xã hội khác.

Trên quan điểm như vậy, đối tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư

nước ngoài là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài

tại Việt Nam. Các quan hệ này bao gồm:

- Quan hệ giữa nhà đầu tư nước ngoài với Nhà nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam mà đại diện là các cơ quan có thẩm quyền, trong q trình tìm hiểumơi trường đầu tư, cấp Giấy phép đầu tư và quản lý các hoạt động đầu tư

nước ngoài ở Việt Nam.

- Quan hệ hợp tác kinh doanh, liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài

với nhà đầu tư trong nước.

- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi với các doanh

nghiệp, tổ chức kinh tế Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế.

- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi với các tổ

chức, cá nhân nước ngồi.

- Quan hệ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi với Nhànước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền.

- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, nhà đầu tư

nước ngồi, nhà đầu tư trong nước với người lao động.

- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, nhà đầu tưnước ngoài, nhà đầu tư trong nước với các cơ quan tài phán trong nước và

quốc tế.

- Các quan hệ khác.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<small>Các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động đầu tư nước ngoài ởViệt Nam và được pháp luật điều chỉnh được gọi là các quan hệ pháp luật đầu</small>

<small>tư nước ngoài. Đặc trưng có tính chất bao trùm của các quan hệ xã hội thuộc</small>

đối tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài là yếu tố nước ngoài.

<small>Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của các ngành luật khác như</small>

Luật Dân sự, Luật Thuong mại, Luật Kinh tế... có thể cũng có yếu tố nướcngồi, nhưng khơng có tính chất bao trùm như quan hệ đầu tư nước ngoài.

Về phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngồi

Xét dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, phương phápđiều chỉnh của pháp luật là tổng hợp tất cả những cách thức tác động của

pháp luật lên các quan hệ xã hội. Phương pháp điều chỉnh của pháp luật phụthuộc vào nội dung, tính chất của các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnhcủa pháp luật và ý muốn chủ quan của nhà làm luật thông qua sự nhận thứccủa họ về lợi ích của giai cấp, của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Phương

pháp điều chính của pháp luật có những đặc điểm: do Nhà nước thơng qua

các cơ quan có thẩm quyền đặt ra; được ghi nhận trong quy phạm pháp luật;

được Nhà nước đảm bảo thực hiện trên cơ sở có thể áp dụng các biện pháp

cưỡng chế nhà nước.

Luật Đầu tư nước ngoài, theo chúng tơi, có ba phương pháp điều chỉnh:

Phương pháp thứ nhất - phương pháp thỏa thuận hay còn gọi là phươngpháp tự nguyện

Đây cũng là phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế, Luật Dân sự,Luật Lao động... Quan hệ đầu tư nước ngoài là quan hệ tự nguyện được thiếtlập trên cơ sở thỏa thuận về hình thức đầu tư, nội dung, mục tiêu, thời hạn đầu

tư. Trong cơ chế thị trường, không chủ thể nào trong quan hệ kinh tế nóichung, quan hệ đầu tư nước ngồi nói riêng có quyền ra lệnh, bat buộc chủ

thể khác phải làm theo ý mình; các chủ thể đều phải tuân theo các quy luậtkinh tế khách quan. Nhà nước hoặc các chủ thể trong nước có thể đưa ra danh

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

mục kêu gọi dau tư, nhưng nha đầu tu nước ngồi có quyền quyết định có đầu

tư vào nước sở tại hay không. Để đạt được sự thỏa thuận. các bên phải có sựbàn bạc, trao đổi, có những sự nhân nhượng cần thiết theo nguyên tắc đảmbảo các bên đều có lợi. Vấn đề quan trọng là biết thỏa thuận sao cho phù hợp

với lợi ích của mỗi bên. Những yêu cầu mang tính chất áp đặt của bất cứ bên

nào, đều không thể dẫn đến quá trình đầu tư. Nếu ta quá nhân nhượng, sẽ dẫn

đến vi phạm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, nhưng nếu khơng chúý đúng mức đến lợi ích của nhà đầu tư nước ngồi, cũng khơng thể thu hút họ

vào đầu tư ở nước ta.

Quan hệ đầu tư nước ngoài diễn ra theo những quy luật khách quancủa nền kinh tế thị trường, cho nên Nhà nước không thể can thiệp trực tiếp

vào hoạt động sản xuất - kinh doanh của họ, mà chỉ tạo hành lang pháp lý chohoạt động đầu tư nước ngoài. Vấn đề ở chỗ, Nhà nước chỉ can thiệp bằng biện

pháp hành chính trong các trường hợp cần thiết liên quan đến các vấn đề quan

trọng của quốc gia và trong trường hợp các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngồi vi phạm các quy định của pháp luật. Do đó, các thủ tục pháp lý cần

được quy định rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, dé nhớ. Pháp luật với tính chất là một

bộ phận quan trọng của môi trường đầu tư, về lâu dài phải tạo ra "san chơi”

bình đẳng cho các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước.

Phương pháp thứ hai - phương pháp mệnh lệnh hay còn gọt là phương

pháp bắt buộc

Phương pháp mệnh lệnh là phương pháp điều chỉnh của một số ngànhluật có mối quan hệ tương tác, giao thoa với pháp luật đầu tư nước ngồi nhưLuật Hành chính, Luật Kinh tế... nhưng trong pháp luật đầu tư nước ngồi, nó

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<small>Vì vay, ngồi phương pháp thỏa thuận, pháp luật đầu tư nước ngồi cịn sử</small>

dụng phương pháp mệnh lệnh hay còn gọi là phương pháp bat buộc. Để định

<small>hướng cho các hoạt động đầu tư nước ngoài theo một trật tự nhất định, phát</small>

huy tối đa những ưu điểm của nó, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cựccủa nó, pháp luật đầu tư nước ngồi vừa tạo ra "sân chơi” cho các hoạt động

đầu tư nước ngoài, vừa tạo ra "hàng rào pháp lý” với những biện pháp chế tàinhất định và cơ chế đảm bảo thực hiện một cách chặt chẽ.

Để bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, thì phương pháp được

thực hiện khơng thể là "thỏa thuận", mà phải mang tính chất mệnh lệnh, buộc

các bên tham gia quan hệ đầu tư nước ngoài phải tuân thủ pháp luật của ViệtNam. Nhà nước Việt Nam với chức năng điều hành, quản lý xã hội có quyềnbuộc mọi người có mặt trên đất nước Việt Nam phải tuân thủ những quy định

của pháp luật, tơn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ

của Việt Nam. Trong trường hợp nhà đầu tư cố tình vi phạm các quy định của

pháp luật, xâm phạm độc lập, chủ quyền của Việt Nam, Nhà nước Việt Namcó quyền áp dụng các biện pháp chế tài cần thiết đối với người vi phạm. Do

không tuân thủ pháp luật Việt Nam, thực hiện những hành vi gây thiệt hại chocác lợi ích xã hội được Nhà nước bảo vệ, nhà đầu tư nước ngoài phải chịutrách nhiệm pháp lý về những gi họ gây ra.

Phương pháp thứ ba - phương pháp khuyến khích

Ngồi hai phương pháp trên, pháp luật đầu tư nước ngồi cịn sử dụngphương pháp điều chỉnh thứ ba, đó là phương pháp khuyến khích. Phương

pháp này mang tính chất khuyến khích các cá nhân, tổ chức nước ngoài đầu

tư vào các lĩnh vực mà ta đang cần như: thực hiện các chương trình kinh tế

lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu; sử dụng kỹ thuậtcao, đào tạo công nhân lành nghề; đầu tư theo chiều sâu để khai thác, tận

dụng các khả năng và nâng cao công suất của các cơ sở kinh tế hiện có; sửdụng nhiều lao động, nguyên liệu va tài nguyên thiên nhiên san có ở Việt

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Nam; xây dựng các cơng trình kết cấu ha tang; đầu tư vào những ving sâu,

vùng xa, kinh tế khó khăn. Để có thể sử dụng phương pháp này, pháp luật đầu

<small>tư nước ngoài phải có những quy định mang tính chất ưu đãi về thuế, về sử</small>

dụng đất và các biện pháp khuyến khích, bảo đảm đầu tư khác.

Ba phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngồi có mối

quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau và được sử dụng trong sự kết hợpvới nhau. Sẽ là sai lầm nếu như tuyệt đối hóa bất cứ phương pháp nào, kể cảviệc tuyệt đối hóa phương pháp thỏa thuận là phương pháp mang tính chấtđặc trưng của pháp luật đầu tư nước ngoài.

Việc nghiên cứu pháp luật đầu tư nước ngồi hoặc pháp luật khuyến

khích đầu tư nước ngồi của một số nước trên thế giới như Indonesia,Philippines, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc,... cho thấy, các nước này đềusử dụng cả ba phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài, chỉ

khác nhau ở sự kết hợp ba phương pháp.

Ở Indonesia, Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1967 và

được bổ sung, sửa đổi năm 1970. Theo luật này, căn cứ vào nhu cầu và mụctiêu phát triển kinh tế quốc dân trong từng thời kỳ, Chính phủ có thể ban hành

danh mục các lĩnh vực khuyến khích, hạn chế và cấm đầu tư. Danh mục cấm

đầu tư nước ngoài bao gồm: khai thác lâm sản, kinh doanh sịng bạc, sử dụng

và ni trồng rong biển, sơ chế nguyên liệu gỗ, trồng trọt và chế biến cần sa...Danh mục lĩnh vực không cho phép người nước ngoài sở hữu 100% vốn bao

gồm: xây dựng và kinh doanh cảng biển, sản xuất và phân phối điện, viễn thông;vận tải biển, vận chuyển hàng không, sản xuất điện nguyên tử (9, tr. 29].

Khác với Indonesia, Luật Đầu tư nước ngồi của Malaysia khơng cấmngười nước ngồi đầu tư trên bất kỳ lĩnh vực nào, mà chỉ quy định một tỉ lệ

tham gia tối thiểu của các công ty Malaysia tại các dự án nước ngoài trong

một số lĩnh vực nhất định. Trong Luật Đầu tư nước ngoài của Malaysia,phương pháp khuyến khích được sử dụng tối đa. Malaysia khuyến khích đầu

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

tư nước ngồi, đặc biệt đối với các ngành cơng nghiệp có sử dụng công nghệ

mới, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và ngành du lịch [9, tr. 30].

Luật Đầu tư nước ngồi của Philippines khuyến khích đầu tư nước

ngồi trong các lĩnh vực được coi là quan trọng đối với việc phát triển các

ngành công nghiệp nội địa và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như:

cải thiện mức sống và tạo việc làm cho người Philippines; nâng cao giá trị

hàng nông sản, chất lượng, sản lượng và các mặt hàng xuất khẩu; tăng cường

cạnh tranh trên thị trường quốc tế; chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực

nông nghiệp, công nghiệp và cung cấp dịch vụ.

Các lĩnh vực hạn chế hoặc cấm đầu tư nước ngoài của Philippines

được quy định tại danh mục kèm theo Luật Dau tư nước ngoài năm 1991 va

được sửa đổi, bổ sung theo từng thời kỳ. Quy định mới nhất được ban hành

cuối năm 1994, theo đó danh mục A quy định các lĩnh vực ưu tiên dành cho

công dân Philippines. Đối với những lĩnh vực này, đầu tư nước ngồi có thể bị

cấm hoặc chỉ được tham gia cổ phần ở mức không vượt quá 40%. Danh mụcB quy định những lĩnh vực đầu tư nước ngoài chỉ được tham gia hạn chế, đó

là các lĩnh vực liên quan đến an ninh, quốc phòng, y tế, các lĩnh vực ảnh

hưởng xấu tới thuần phong, mỹ tục... Danh mục C quy định các lĩnh vực ma

nhu cầu của nền kinh tế và của người tiêu dùng đã được thỏa mãn, không cần

phải có thêm đầu tư nước ngồi.

Theo Luật Đầu tư nước ngoài của Thái Lan, đầu tư nước ngoài trong

một số lĩnh vực như ngân hàng, thủy sản, vận chuyển hàng khơng, xuất khẩu,

khai khống... có thể bị hạn chế theo các đạo luật riêng [9, tr. 30].

Ở Singapore, khơng có đạo luật riêng về đầu tư nước ngoài, nhưng đầu

tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư vào các dự án có sử dụng cơng nghệ hiện đại,

sản xuất hàng xuất khẩu... được đặc biệt khuyến khích (9, tr. 31].

Ở Trung Quốc, trong Luật Đầu tư nước ngồi có quy định cụ thể ba

loại danh mục:

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

- Danh mục các ngành cơng nghiệp khuyến khích đầu tư nước ngồi.

<small>- Danh mục các ngành cơng nghiệp cấm đầu tư nước ngồi.</small>

- Danh mục các ngành cơng nghiệp hạn chế đầu tư nước ngoài.

Từ năm 1995 trở lại đây, phương pháp khuyến khích đã được Trung

Quốc sử dụng tối đa. Phạm vi các ngành cơng nghiệp khuyến khích đầu tư

nước ngoài đã được mở rộng hơn trước. Một số ngành và lĩnh vực trước đây bị

cấm nay đã cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia như: vận tải hàng khơng,tài chính, bảo hiểm, kinh doanh chứng khốn, kiểm tốn và thương mại. Mụcđích của việc ban hành các danh mục nói trên nhằm xác định hướng thu hútđầu tư nước ngồi vào một số ngành cơng nghiệp nhất định, đồng thời tạo

điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngồi trong việc cập nhật thơng

tin về chính sách thu hút đầu tư nước ngồi trong từng thời kỳ [9, tr. 28].Như vậy, pháp luật đầu tư nước ngồi có đối tượng và phương phápđiều chỉnh mang tính đặc thù ở cấp độ nhất định. Sự khác nhau về đối tượngđiều chỉnh, theo chúng tôi, xuất phát từ chức nang của mỗi ngành luật. Phápluật đầu tư nước ngồi khơng điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnhvực khác nhau của đời sống xã hội như các ngành luật khác, nó chỉ điều chỉnh

các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngồi. Từ sự phân

tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về pháp luật đầu tư nước ngoài như sau:Pháp luật đầu tư nước ngoài là hệ thống những quy phạm phápluật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh tronglĩnh vực đầu tu nước ngoài ở Việt Nam.

Về nội dung của pháp luật đầu tư nước ngoài (hệ thống pháp luật đầu

<small>tư nước ngồi):</small>

Pháp luật đầu tư nước ngồi khơng phải là tổng hợp một cách máy

móc, giản đơn các quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài, mà là một hệthống, một chỉnh thể thống nhất các nhóm quy phạm có quan hệ hữu cơ vớinhau. Pháp luật đầu tư nước ngoài gồm hai phần: Phần chung và Phần riêng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Phần chung của pháp luật đầu tư nước ngoài bao gồm các quy phạmđiều chỉnh các quan hệ có tính chất chung, phát sinh trong lĩnh vực đầu tưnước ngồi như các ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam,

nguyên tac bảo đảm quyền sở hữu đói với vốn đầu tư và các quyền lợi kháccủa các tổ chức, cá nhân nước ngoai...; các quy phạm định nghĩa về các khái

niệm cơ bản trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như "Bên nướcngoài”, "Bên Việt Nam", “Đầu tư nước ngoài”, "Xí nghiệp liên doanh”...

Phần riêng của pháp luật đầu tư nước ngồi bao gồm các nhóm quy

phạm điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngồi cụ thể, nói cách khác là các

quy định cụ thể sau đây:

- Những quy định về hình thức đầu tư, phương thức đầu tư.

- Những quy định về thuế, ngân hàng, tài chính, kế tốn, thống kê.

- Những quy định về chuyển giao công nghệ, sở hữu công nghiệp.- Những quy định về Hải quan, xuất nhập khẩu.

- Những quy định về đất đai, xây dựng, lao động.

- Những quy định về hợp đồng kinh tế, trọng tài, xử lý tranh chấp.

- Những quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.

1.2.2. Đặc trưng cơ bản của pháp luật đầu tư nước ngoài

Từ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngồi đã được trình bày ở trên và

<small>qua nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật đầu tư nước ngồi hiện hành,</small>

có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của nó như sau:

Đặc trưng thứ nhất - Pháp luật đầu tu nước ngoài ra đời trước khi cóquan hệ đầu tư nước ngồi trên thực tế ở Việt Nam.

Thông thường, trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, các

<small>quan hệ xã hội được hình thành một cách tự nhiên, vận động theo các quy</small>

luật khách quan. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội tồn tại, phát triển theo

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

hướng mà Nha nước mong muốn và dé phản ánh đúng thực tiễn khách quan,

Nhà nước xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Khi chuyển

đổi cơ chế quản lý kinh tế, chúng ta chưa đồng thời và chưa kịp thời chuẩn bịđược một hệ thống các quy tắc xử sự trong đời sống kinh tế nhiều thành phần

vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Như vậy, sosánh với tiến trình của các quan hệ kinh tế, pháp luật thường xuất hiện chậm

so với sự biến động và phát triển của các quan hệ kinh tế. Năm 1977, khi các

quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam lần đầu tiên được banhành, thì trên thực tế ở Việt Nam hồn tồn chưa có quan hệ đầu tư nướcngồi. Đây là vấn đề có thể lý giải được, vì lúc đó cơ chế quản lý tập trung,

quan liêu, bao cấp đang ngự trị trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Các nhân tố của kinh tế thị trường như tự do thương mại, tự do cạnh

-tranh, thị trường vốn, thị trường lao động, xuất nhập khẩu tư bản... chưa đượcchấp nhận chính thức trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta. Đầu tư

nước ngồi với tính chất là sự vận động trực tiếp của tư bản nước ngoài vào

Việt Nam vào thời điểm đó chưa được nhiều người tán thành. Chỉ sau khi có

chính sách đổi mới tư duy lý luận và tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước,

thì đạo luật về đầu tư nước ngồi tại Việt Nam mới có cơ hội ra đời, các quanhệ đầu tư nước ngồi mới hình thành và phát triển trên cơ sở pháp lý đó. Vìnhững lẽ đó, chúng tơi chia sẻ quan điểm của TS. Hoàng Phước Hiệp cho rằng

“hệ thống các quy phạm pháp luật đầu tư nước ngồi được ban hành trước khicó quan hệ đầu tư nước ngồi theo đúng nghĩa của từ đó trên thực tế tại ViệtNam" [37, tr. 51].

Việc pháp luật đầu tư nước ngoài "vượt trước” hoạt động đầu tư nướcngoài ở Việt Nam, không phải là hiện tượng trái quy luật. Dưới góc độ của

triết học Mác - Lênin, cơ sở hạ tầng có mối quan hệ biện chứng với kiến trúc

thượng tầng. Trong mối quan hệ này, pháp luật với tính chất là một bộ phận

của kiến trúc thượng tầng chịu sự quy định của cơ cấu kinh tế. Tuy chịu sựquy định của cơ sở hạ tầng, nhưng pháp luật vẫn có tính độc lập tương đối, tác

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

động trở lại cơ sở hạ tầng. Sự tác động của pháp luật nếu phù hợp với quy luật

kinh tế - xã hội, với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, thì thúc đẩy sựphát triển của xã hội; ngược lại, nếu sự tác động của pháp luật không phù hợp

với quy luật kinh tế - xã hội, khơng phù hợp với trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất, sẽ cản trở sự phát triển của sản xuất, xã hội. Trong một sốtrường hợp nhất định, pháp luật có thể "vượt trước”, thúc đẩy sự phát triển của

kinh tế, xã hội. Hơn nữa, nếu xem xét nền kinh tế nước ta dưới góc độ là một

bộ phận của nền kinh tế khu vực và trên thế giới, thì hoạt động đầu tư nước

ngồi đã tồn tại từ rất lâu ở nhiều nước trên thế giới với các mức độ khácnhau. Như vậy, pháp luật về đầu tư nước ngoài và hoạt động đầu tư nướcngoài ở Việt Nam là cái có sau so với nhiều nước trên thế giới và đương nhiên

bị chi phối bởi q trình quốc tế hóa nền kinh tế của các nước. Đây có thể coi

là vấn đề hợp quy luật trong tiến trình hội nhập của nước ta vào đời sống kinhtế của các nước trong khu vực và trên thế giới.

So với các ngành luật truyền thống như Luật Hiến pháp. Luật Dân sự,Luật Lao động, Luật Đất đai... pháp luật đầu tư nước ngoài ra đời muộn hơnnhiều. Tuy còn rất non trẻ, nhưng pháp luật đầu tư nước ngồi đã nhanh chóng

khẳng định được vị trí quan trọng, không thể thiếu trong hệ thống pháp luật

Việt Nam hiện nay. Trong tương lai, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đấtnước và xu thế hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới, pháp luật đầu tư nước

ngồi có xu hướng xích lại ngày càng gần hơn, với tốc độ nhanh hơn với pháp

luật đầu tư trong nước. Đây có thể coi là một đặc trưng của pháp luật đầu tư nướcngoài mà các ngành luật khác khơng có và cần được lưu ý dưới góc độ lý luận.

Đặc trưng thứ hai - Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật

đầu tu nước ngoài có một số quy phạm pháp luật đầu tiên hướng tới nền kinh

tế thị trường

Vào thời điểm năm 1977, sau hai năm giải phóng miền Nam, thống

nhất Tổ quốc, nhân dân ta mới bắt tay vào công cuộc xây dựng và phát triển

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

kinh tế với cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và nền kinh tế cơ bản có haithành phần là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, thì sự ra đời của Điều lệ Đầu

tư nước ngoài năm 1977 là một bước đột phá vào nền kinh tế thị trường. Vì lẽ

đó, Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 là văn bản pháp lý đầu tiên trong hệ

thống pháp luật của Việt Nam tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư nước

ngoài. Trong Điều lệ này, Nhà nước ta đã khuyến khích, kêu gọi đầu tư nước

ngồi vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế, trừ những ngành bị cấm. Điều đó thể

hiện chủ trương cởi mở, đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư của nước ta. Như vậy,

xét dưới góc độ lý luận, có thể khẳng định, công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà

nước khởi xướng chính thức được tính từ năm 1986, nhưng tiền đề của nó đãxuất hiện ngay từ năm 1977 trong Điều lệ Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thời kỳ từ năm 1977 đến năm

1986, Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 cũng là văn bản pháp lý đầu tiên

hướng tới nền kinh tế thị trường, thể hiện chính sách "mở cửa” của Đảng va

Nhà nước ta. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 cũng có một số quy định

"vượt rào” so với Hiến pháp năm 1980 như khơng quốc hữu hóa, thừa nhận

thành phần kinh tế tư bản, tư nhân... Đây có thể coi là một đặc trưng của pháp

luật đầu tư nước ngồi cần được lưu ý dưới góc độ lý luận.

Đặc trưng thứ ba - pháp luật đầu tư nước ngồi có một số chủ thể

đặc thà.

Pháp luật đầu tư nước ngoài điều chỉnh quan hệ đầu tư nước ngoài,

trong đó ít nhất một bên là cá nhân, tổ chức kinh tế hoặc cơ quan nhà nước

Việt Nam và bên kia là tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tổ chức kinh tế ViệtNam dược hiểu là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành

lập, tổ chức và hoạt động theo các quy định của pháp luật Việt Nam; cơ quan

nhà nước ở đây là cơ quan được Chính phủ ủy quyền ký kết với các cá nhân,

tổ chức nước ngoài thực hiện các hợp đồng BOT, BT, BTO; tổ chức, cá nhân

nước ngoài là các tổ chức kinh tế nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài tham

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

gia quan hệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nếu giả định trong quan hệ đầu

tư nước ngồi khơng có sự tham gia của tổ chức, cá nhân nước ngồi, mà chỉcó sự tham gia của các cá nhân, tổ chức trong nước, thì đây rõ ràng khơng cịn

là quan hệ đầu tư nước ngồi nữa mà chỉ là quan hệ đầu tư giữa các cá nhân,

tổ chức trong nước với nhau. Điều đó có nghĩa là trong các quan hệ đầu tư nước

ngồi có sự tham gia của tổ chức, cá nhân nước ngoài và tổ chức, cá nhântrong nước, hoặc có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài tại ViệtNam. Chủ thể của quan hệ pháp luật đầu tư nước ngồi tại Việt Nam gồm có:

L) Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.

2) Các nhà đầu tư nước ngoài tham gia quan hệ đầu tư nước ngoài tại

6) Các cơ quan tài phán trong nước và quốc tế.

Trong số các chủ thể nói trên, có ba chủ thể có tính đặc thù như sau:

a) Cơ quan nhà nước được Chính phủ ủy quyền ký kết và thực hiện

hợp đồng BOT, BT, BTO theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài.

Đây là chủ thể đặc biệt tham gia quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài

với những quyền hạn và nghĩa vụ có tính đặc thù. Nói cách khác, Nhà nước

Việt Nam có thể tham gia quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài với tư cách là

chủ thể có chủ quyền.

b) Nhà đầu tư nước ngồi.

Đây là cơng dân hoặc tổ chức kinh tế nước ngồi trực tiếp đưa vốn, tài

sản. cơng nghệ được Chính phủ Việt Nam chấp thuận vào Việt Nam để thành

lập doanh nghiệp liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

phần kinh tế, để thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc để hợp

tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh theo quy định của

pháp luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.

c) Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.

Người Việt Nam định cư ở nước ngồi đầu tư về nước có quyền lựachọn quy chế nhà đầu tư nước ngoài hoặc quy chế "chủ đầu tư” theo Luậtkhuyến khích đầu tư trong nước. Trong trường hợp họ lựa chọn quy chế nhà

đầu tư nước ngồi, thì họ là chủ thể của quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài.

Mặt khác, theo quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài, người Việt Nam

định cư ở nước ngồi cũng có thể trở thành "nhà đầu tư Việt Nam" khi họ

cùng với doanh nghiệp Việt Nam hợp thành Bên Việt Nam tham gia quan hệ

đầu tư nước ngoài. Việc pháp luật Việt Nam cho phép người Việt Nam địnhcư ở nước ngoài được quyền lựa chọn một trong hai luật điều chỉnh, theo

chúng tôi, là một biện pháp khuyến khích họ đầu tư trong nước, thể hiện

chính sách đại đồn kết dân tộc của Đảng; nó hồn tồn mang tính đặc thù

của Việt Nam mà các quốc gia khác khơng có. Đây có thể coi là đặc điểm về

chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài cần được chú ý về mat lý luận.Về quyền và nghĩa vụ của chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư nước

<small>ngoài tại Việt Nam.</small>

Cơ sở pháp lý để hình thành quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan

hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có những nét đặc thù riêng sovới các ngành luật khác. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật đầu tư nước

ngoài tại Việt Nam, các chủ thể của quan hệ pháp luật đó có các quyền vànghĩa vụ nhất định trên cơ sở các quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài tạiViệt Nam, pháp luật của nước mà cá nhân, tổ chức kinh tế nước ngoài mangquốc tịch và các quy phạm của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặctham gia, hoặc trên cơ sở kết hợp ba loại quy phạm đó. Trong khi đó, quyềnvà nghĩa vụ của chủ thể các quan hệ pháp luật khác thường chỉ được hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

thành trên cơ sở các quy phạm pháp luật trong nước và nếu như có được hình

thành trên cơ sở điều ước quốc tế hoặc pháp luật của nước mà chủ thể đó mangquốc tịch thì khơng mang tính phổ biến như pháp luật đầu tư nước ngồi.

Chính vì lẽ đó, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật

đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được xác định tương đối phức tạp và rất khác

nhau, phụ thuộc vào tính chất của từng loại chủ thể. Quyền và nghĩa vụ củacác chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là pháp nhân

được xác định, một mặt, theo quy chế pháp nhân, mặt khác, theo Luật Quốc

tịch của nước có pháp nhân đó. Quy chế pháp lý của thể nhân khá phức tạp,

bởi lẽ thể nhân nước ngoài tham gia quan hệ pháp luật đầu tư nước ngồi tạiViệt Nam có thể là người có một, hai hay nhiều quốc tịch. Đối với người có

quốc tịch một nước, thì quy chế pháp lý của cơng dân đó là pháp luật củanước mà người đó mang quốc tịch, nhưng đối với người có từ hai quốc tịchtrở lên, thì vấn đề phức tạp hơn. Trong trường hợp này, quy chế pháp lý của

những thể nhân đó có thể khác nhau, tùy thuộc vào quan điểm của nước nhận

đầu tư về thuyết quốc tịch hữu hiệu hay quy chế đãi ngộ như công dân của

nước nhận đầu tư... Đối với những người khơng có quốc tịch hoặc quốc tịch

chưa được xác định rõ ràng khi đầu tư vào Việt Nam, thì quy chế pháp lý của

những người đó thường được xác định theo nguyên tắc "lex domicile”, tức là

theo pháp luật của nước nơi người đó cư trú thường xuyên.

Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư nước

ngoài tại Việt Nam còn được xác định theo các điều ước quốc tế mà ViệtNam ký kết hoặc gia nhập. Các điều ước quốc tế loại này, trước hết là Hiệpđịnh khung về khu vực đầu tư ASEAN (1999), Hiệp định song phương vềkhuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định

thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ... Cơ quan đảm bảo đầu tư đa biên MIGA 1985

(Multilateral Investment Guarantee Agency), Công ước New York 1958 về

công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài... Các điều ước

</div>

×