Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.98 MB, 240 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
DE TAI KHOA HỌC CAP TRƯỜNG
MA SO: LH 2010 18/DHL HN
<small>TRUNG TAM THONG TIN THU VIỆN</small>
<small>TRUJNG BẠI HỌC LUAT HA NỘI</small>
<small>PHONG ĐỌO ABB</small>
<small>Hà Nội -2011 _</small>
<small>TRUCE G DH LUẤT ¿r3</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Chuyên dé 1: Khái niệm và nội dung của tai chính cơng
Chun dé 2: Khái niệm và kết cầu pháp luật về tài chính công
Chuyên đề 3: Mục tiêu và những yêu cầu éơ bản trong việc xây dựngvà hoàn thiện pháp luật về tài chính cơng ở Việt Nam
Chun dé 4: Đánh giá thực trạng lập, chấp hành, quyết toán ngân
<small>sách nhà nước và phương hướng hoàn thiện</small>
Chuyên dé 5: Một số vẫn đề về phân cấp quản lý ngân sách nha nước
Chuyèn dé 6: Đánh giá thực trạng và định hướng hoàn thiện pháp
luật điều chỉnh các khoản chi hành chính ở Việt Nam
Chuyên dé 7: Đánh giá thực trạng và định hướng hoàn thiện phápluật điều chỉnh hoạt động đâu tư tài chính của nhà nước vào lĩnh VỰC
<small>kinh doanh</small>
Chuyén đề 8: Thực trạng pháp luật và định hướng hoàn thiện pháp
luật thu ngân sách nhà nước từ thuế ở Việt Nam
Chuyên dé 9: Đánh giá thực trạng và định hướng hồn thiện pháp
luật ve quản lý nợ cơng ở Việt Nam
Chuyên dé 10: Đánh giá thực trạng hoạt động giám sát quá trình quản
<small>185 `</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">A. PHAN MỞ DAU
1. Tinh cấp thiết của việc nghiên cứu dé tài
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
<small>hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, lĩnh vực tài chính cơng giữ một vai trị</small>
hết sức quan trọng. Một là, với chủ trương lẫy thành phần kinh tế nhà nước là
<small>chủ đạo, thì vai trị của hoạt động tài chính nhà nước là hết sức căn bản, then</small>
chốt nhằm đảm bảo tính hiệu quả của thành phân kinh tế nhà nước. Hai là, với
tư cách là chủ thể quản lý xã hội, hoạt động tai chính cơng sẽ góp phần dambảo khả năng phân phối và tái phân phối của cải xã hội một cách cơng bằng,
nhằm hạn chế những “méo mó” của nền kinh tế thị trường, tăng cường khả
<small>năng xây dựng xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh.</small>
Trong khi đó, hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tài chính cơng
mặc dù đã có những bước phát triển nhất định nhưng trong thời gian qua đã
bộc lộ nhiều bat cap, gây can trở cho hoạt động tài chính của nhà nước, cũngnhư sự phát triển của kinh tế xã hội. Ngay bản thân thuật ngữ “pháp luật về tài
chính cơng” cũng cịn nhiều ý kiến và cách hiểu khác nhau, thậm chí có quan
điểm khơng thừa nhận thuật ngữ này. Do đó trong bối cảnh hiện nay, VIỆC
nghiên cứu tổng thể những nội dung của pháp luật về tài chính cơng, từ đó đề
xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật là hết sức quan trọng. Bên cạnh đó,
<small>việc nghiên cứu thực trạng và hướng hồn thiện pháp luật về tài chính cơngcịn giúp hồn thiện nội dung chương trình giảng dạy mơn học Luật Tài chính</small>
<small>ở các trường luật nói chung và Đại học Luật Hà Nội nói riêng.</small>
<small>Với những lý do trên, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Nehiên cứu</small>
pháp luật về tài chính cơng ở Việt Nam” là cần thiết và đáp ứng nhu cầu lý
<small>luận cũng như thực tiễn.</small>
<small>2. Tình hình nghiên cứu đề tài</small>
<small>Lĩnh vực tài chính cơng và pháp luật về tài chính cơng từ trước đến nay</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">đã được khá nhiều các tác gia trong và ngoài nước nghiên cứu ở những khía<small>cạnh khác nhau và từng thời kỳ khác nhau.</small>
Đổi với các tác giả nước ngồi, có thể liệt kê ở đây một số tác phẩm chủ
yếu sau đây: Cuốn “Tài chính cơng” của tác gia Michel Bouvier và cộng sự(2005) là một tác phẩm phân tích khá kỹ và sâu sắc các vấn dé lý luận về tài
chính cơng và pháp luật về tài chính cơng của nước Pháp trong mối tương quan
với thé chế Liên minh Châu Âu. Những đánh giá của tác giả về hoạt động tài
<small>chính công không chi đúng cho nước Pháp mà đáng dé tham khảo cho bat kỳ</small>
quốc gia nào xây dựng nên tài chính cơng hiện đại; Cuốn “Nhập mơn thuế đạicương và lý thuyết thuế” của tác giả Michel Bouvier (2006) là một cuốn sáchcó giá trị, đặc biệt về nội dung lý luận về pháp luật thuế như: khái niệm vềthuế, các học thuyết về thuế, các nguyên tac đánh thuế, chính sách thuế, v.v..
Có thé nói, những quan niệm hiện đại về thuế đều được tác giả đề cập và đánh
giá một cách cân trọng và có giá tri; Cuốn “Kinh tế phát triển” của Robert C.
Guell (2009) là một tác phẩm phân tích nhiều khía cạnh vẻ tài chính cơng hiện<small>đại như quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển, chi tiêu cơng, chính sách thuế</small>thu nhập cá nhân...; Cuốn “Quan lý tài chính của Trung Quốc” của tác giả<small>Hạng Hồi Thành (2008) đưa đến một cái nhìn khá tồn diện về hệ thống tàichính và quản lý tài chính cơng của Trung Quốc trong những năm gần đây bao</small>
gồm cả những mặt tích cực và hạn chế của nó.
<small>Tại Việt Nam, có một số tác phẩm chủ yếu nghiên cứu về tài chính</small>
cơng như sau: Cn “Điều hồ ngân sách giữa trung ương và địa phương” của
<small>nhóm tác giả 7§.Bùi Đường Nghiêu (chủ biên), Thể Võ Thành Hưng và</small>
ThŠ Nguyễn Minh Tan (2006) dé cập đến việc phân chia nguồn lực ngân sáchgiữa các cấp ngân sách, thực trạng ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế về vấn
đề này. Nhóm tác giả cũng có những kiến nghị rất đáng quan tâm để hoàn
thiện hệ thống NSNN ở Việt Nam; Cuốn “Quản lý chi tiêu công ở Việt Nam —
<small>thực trang và giải pháp” của ŒS,7S. Dương Thi Bình Minh (2005) đã đề cập</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">khá toàn điện đến các mặt kinh tế, pháp lý và các giải pháp quản lý ngân sáchở Việt Nam kê từ đầu giai đoạn đổi mới đến nay. Cuốn “Vận dụng phương
thức lập ngân sách theo kết quả đầu ra trong quản ly chi tiêu công của Việt<small>Nam” của tác giả TS.Sử Dinh Thành (2005) đã cho thấy cái nhìn khá tồn</small>
diện về lịch sử phát triển các phương thức soạn lập ngân sách. Thực tế hiện
<small>nay, những giá trị của phương thức soạn lập ngân sách theo kết quả đầu ra đã</small>
va đang được thé hiện thông qua sự phát triển của hệ thống pháp luật ngânsách hiện nay. Cuốn “Hiệu quả chi tiêu ngân sách dưới tác động của van dé
nhóm lợi ích ở một số nước trên thế giới” của TS.Bui Đại Dững (2007) đã
phân tích khá sâu về chính sách cơng, mà cụ thể là tác động của ngân sách đốivới từng nhóm đổi tượng nhất định có những lợi ích khác nhau.
Tuy nhiên, có thể đánh giá chung là các tác phẩm nêu trên, hoặc là chưa
gắn với thực tiễn Việt Nam trong nghiên cứu, hoặc là chỉ nghiên cứu dưới giác
độ kinh tế - tài chính học mà chưa đề cập trực tiếp dưới khía cạnh luật học.<small>Dưới khía cạnh luật học, mặc dù chưa có cơng trình khoa học lớn nghiên</small>
cứu về pháp luật vẻ tài chính cơng, nhưng dưới từng khía cạnh cụ thé cũng đã
có những bài nghiên cứu sâu sắc. Về pháp luật thuế, đã có đề tài khoa học cấp<small>trường có tên gọi là “Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc hoàn thiện hệ thống</small>
pháp luật thuế Việt Nam” do TS.Nguyén Anh Vân chủ nhiệm bảo vệ thành cơng
<small>năm 2007. Vào năm 2009, Tạp chí Luật học số 4/2009 chuyên đề Pháp luật</small>
thuế do Bộ môn Luật Tài chính Ngân hàng chủ biên cùng với sự đóng góp củanhiều chun gia pháp lý tài chính khác đã có nhiều bài viết đáng tham khảo
như: “Thơng tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lý thuế ở nước ta hiện
<small>nay” của ThS.Vii Văn Cương; “Một số van đề về việc ban hành Luật thuế môitrường ở Việt Nam” của ThS. Tran Vũ Hai; “Hoàn thiện pháp luật thuế tài sản ở</small>Việt Nam” của TS.Nguyễn Thị Lan Hương; “Phát triển bền vững và một số vấn
đề đặt ra cho hệ thống pháp luật thuế Việt Nam” của TS.Pham Thị Giang Thu:
“Thuế nhà, đất - Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện” của 7»Š Phạm
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Nguyệt Thảo; “Thué thu nhập doanh nghiệp với hoạt động chao bán cổ phiếu
của công ty cô phan” của 7; hŠ Nguyễn Minh Hằng, V.V..
<small>Từ những cơng trình nghiên cứu luật học trên đây, có thể nhận thấychưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách tổng thé và toàn diện</small>
hệ thống pháp luật về tài chính cơng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
<small>Chính vì vậy việc nghiên cứu được đặt ra là hết sức cần thiết để góp phần</small>
hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh phát triển nền kinh tế
<small>thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.3. Mục đích nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài</small>
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về nội
hàm khái niệm pháp luật về tài chính cơng và thực trạng pháp luật về tài chính
<small>cơng Việt Nam hiện hành, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hồn thiện</small>
pháp luật về tài chính cơng, đáp ứng địi hỏi của thực tiễn kinh tế xã hội của
<small>Việt Nam, tăng cường hiệu quả quản lý tài chính cơng của nhà nước trong nên</small>
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc
tế tại Việt Nam hiện nay.
Pham vi nghiên cứu của dé tai được giới hạn là hệ thống các quy địnhpháp luật về tài chính cơng hiện hành. Đề tài chủ yếu tập trung vào hai nội
<small>dung chính: một là, thực trạng các quy định pháp luật về tài chính cơng hiện</small>
hành, bao gồm cả những ưu điểm và nhược điểm, nhưng tập trung phân tích
kỹ về các nhược điểm; hai là, từ việc đánh giá ưu, nhược điểm đó, đề ra cácgiải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về tài chính cơng hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề đạt được mục tiêu là làm rõ những vẫn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật về tài chính cơng Việt Nam hiện nay, phương pháp nghiên cứu
đề tài dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minhmà nên tảng là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Bên cạnh đó,
<small>tác tác giả cịn sử dụng các phương pháp sau đây:</small>
- Phương pháp thong kê phân tích được sử dụng dé thu thập thơng tin, tư
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><small>liệu phục vụ cho việc đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về tài chính cơng:</small>
- Phương pháp phân tích và tơng hợp được sử dụng dé đánh giá từng
khía cạnh của pháp luật về tài chính cơng cũng như mối quan hệ giữa pháp
luật về tài chính cơng và các bộ phận pháp luật khác.
- Phương pháp so sánh nhằm so sánh các quy định của pháp luật Việt<small>Nam với các quy định của pháp luật các quốc gia khác và thông lệ quốc tế để</small>từ đó rút ra được những bài hoc dé hồn thiện pháp luật về tài chính cơng Việt
<small>Nam trong giai đoạn tới.</small>
5. Những đóng góp mới về lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu có những đóng góp mới về phương diện lý luận và
thực tiễn như sau:
Vé phương diện lý luận: đề tài góp phần luận giải những nội dung cơ bản
của pháp luật vẻ tài chính cơng nói chung cũng như những bộ phận pháp luật
cụ thể, qua đó đóng góp những giá trị lý luận trong nhận thức cũng như xây
dựng và áp dụng pháp luật về tài chính cơng trong thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Về phương điện thực tiên: đề tài đã làm rõ những ưu điểm va bat cập củahệ thống pháp luật về tài chính cơng hiện hành, gan liền các nội dung của
pháp luật với những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, góp phần gắn kết lý luận
với thực tiến, từ đó đưa ra được những phương hướng và các giải pháp cụ thể
dé hoàn thiện pháp luật về tài chính cơng Việt Nam hiện nay.
vẻ gid trị thực tiên của dé tài nghiên cứu: một là, đề tài có giá tri thamkhảo đối với các nghiên cứu về pháp luật về tài chính cơng sau này, cũng như
gợi mở nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu; hai là, dé tài góp phần bổ sung
<small>những nội dung lý luận và thực tiễn quan trọng cho mơn học Luật Tài chínhđang được giảng dạy tại Trường Đại học Luật Hà Nội.</small>
<small>6. Những thuận lợi và khó khăn trong q trình thực hiện đề tài</small>
Trong q trình thực hiện dé tài đã có những thuận lợi cơ bản sau đây:
Vẻ đội ngũ cán bộ nghiên cúu: hầu hết các tác giả đều là những nhà
<small>khoa học có kinh nghiệm nghiên cứu và giảng dạy trong lĩnh vực tài chính</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">cơng và pháp luật về tài chính cơng ở các trường đại học có uy tín. Những gìđược các tác giả viết ra tưởng chừng như đơn giản nhưng lại là sự đúc kết hếtsức can trong sau quá trình nghiên cứu lâu dài và vẫn cịn tiếp tục.
Vé quan điểm trong chính sách kinh tế và tài chính cơng của nhà nước:
trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước đã có nhiều bước tiễn trong việc
đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo hướng minh bạch hóa, và sẵn sàng học
tập các mơ hình của các quốc gia khác cũng như những đánh giá từ các cơng
<small>trình nghiên cứu. Đó là kim chỉ nam quan trọng trong việc các tác giả sẵn</small>
sàng đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về tài chính cơng.
VỀ sự quan tâm nghiên cứu của các tác giả trong và ngồi nước: tài
chính cơng và pháp luật về tài chính cơng từ lâu đã là chủ đề hấp dẫn đối với
các nhà khoa học nước ngoài. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây chủ đềnày cũng được sự quan tâm của nhiều học giả, đặc biệt là lĩnh vực tài chính
cơng. Chính vi thé, các nguồn tài liệu phục vụ cho nghiên cứu đề tài tương đối<small>phong phú và có giá trị tham khảo.</small>
Bên cạnh những thuận lợi, việc nghiên cứu dé tài cũng gặp những khó<small>khăn cơ bản sau đây:</small>
Một là, phạm vi đề tài quá rộng và có nhiều yêu cầu đặt ra trong khi đóvới giới hạn về số trang tác phẩm và kinh phí đã khơng cho phép các tác giả
quá đi sâu phân tích vào một số nội dung nhất định. Điều đó ảnh hưởng tới
tính tổng thé cũng như ảnh hưởng một phân tới giá trị tham khảo của đề tài.Hai là, mức độ minh bạch về thơng tin yếu kém về tài chính cơng ở
Việt Nam hiện nay đã ảnh hưởng đến các phân tích và đánh giá của các tác
giả. Hầu như rất khó khăn trong việc sưu tầm các số liệu tham khảo, đặc biệt
<small>là đôi với các sô liệu chi tiết và các số liệu trong lĩnh vực dau tư tài chính.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">B. TOM TAT KET QUA NGHIÊN CỨU CUA DE TÀI
<small>I. KHÁI NIEM TÀI CHÍNH CƠNG, PHAP LUAT TAI CHÍNH CONG VA KETCAU PHAP LUAT TAI CHINH CONG VIET NAM</small>
<small>1. Khái niệm và nội dung tài chính cơng</small>
<small>a) Khái niệm tài chính cơng</small>
<small>Trong hoạt động thực tiến, tài chính luôn tôn tại, vận động, phát triển gắn</small>
liền với sự phát triển của xã hội loài người ké từ khi có vật ngang giá chung —tiền tệ, được lấy làm thước đo cho các quan hệ trao đơi hàng hóa. Tiền giup cho
lưu thơng hàng hóa phát triển và giảm thiêu được khá nhiều hao phi lao động xãhội trong q trình ln chuyển hàng hóa. Qua mỗi cung bậc phát triển của xãhội, tài chính ngày càng khang định được tầm quan trọng của nó trong việc đạt
đến hiệu quả tối ưu trong hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
<small>Chính phủ (hay khu vực Chính phủ nói chung) ln phải đảm nhận những</small>
nhiệm vụ lớn lao của cả quốc gia, dân tộc và thuộc về các chức năng vốn có của<small>nhà nước. Cùng với quá trình phát triển phạm vi, yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ</small>
<small>của nhà nước càng phong phú hơn, đa dạng hơn. Chính vì vậy, Chính phủ ln</small>
cần có nguồn lực tài chính lớn để đáp ứng cho việc thực hiện các nhiệm vụ của
mình, từ đó xuất hiện khái niệm Tài chính cơng. Cách tiếp cận nghiên cứu dé có
thể đưa ra khái niệm Tài chính cơng cũng mn hình mn vẻ; nhưng ít có tài
<small>liệu đưa ra khái niệm Tài chính cơng một cách cụ thẻ, rõ ràng.</small>
Trong cuốn “Tài chính cơng” của trường đại học Kinh tế quốc dân ấnhành năm 1999 dé làm tài liệu phục vụ đào tạo hệ Cao học, quan niệm: “Tài
<small>chính cơng là một lĩnh vực của kinh tế học nghiên cứu các hoạt động của Chính</small>phu và các phương tiện thay thé trong việc tai trợ các chỉ tiêu của Chính phử`.
Trong cuốn “Public Finance in Australia: Theory and Practice” của Peter
<small>- Groenewgen, Prentice Hall, 1990, đại diện cho các nhà kinh tế Australia đã</small>
<small>nguyên và nhiêu sự bát đông van cw tập trung vào các hành vi tài chính của</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Chính phu. Cuốn sách này viết về các hoạt động chỉ tiêu và thuế khóa của
Chính phu, một chủ dé thường được gọi là tài chính cơng)”.
Trong cuốn “Quản lý Tài chính công” do các giảng viên của bộ môn
<small>Quản lý Tài chính nhà nước — Học viện Tài chính, biên soạn dé phục vụ đàotạo chuyên ngành Quản lý Tài chính cơng ở bậc đại hoc’, lại có cách tiếp cận</small>
<small>khái niệm Tài chính cơng là sự hợp thành bởi ý nghĩa và phạm vi của 2 thuật</small>
ngữ Tài chính va Cơng. Theo quan niệm phơ biến, Tai chính được hiểu là: Có
biểu hiện bên ngồi là các hiện tượng thu, chi bằng tiền; có nội dung vật chất làcác nguồn tải chính, các quỹ tiền tệ: có nội dung kinh tế bên trong là các quan
hệ kinh tế- quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị/quan hệ tài chính, nảy sinh
trong q trình phân phối các nguồn tài chính nhằm tạo lập hoặc sử dụng các
quỹ tiền tệ.
Còn về thuật ngữ Cơng, có thể hiểu trên các khía cạnh: về quan hệ sởhữu (đối với tài sản, các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ) là sở hữu cơng cộng:về mục đích hoạt động: là vì lợi ích cơng cộng; về chủ thể tiến hành hoạt
động: là các chủ thể công; về pháp luật điều chỉnh: là các Luật cơng. Xét về
phạm vi, thuật ngữ Cong có thé được hiểu trên các khía cạnh: cơng trên phạm vi
tồn quốc, tồn xã hội, cả cộng đồng: cơng trong phạm vi một nhóm người, một
tập thể, một tơ chức. Tuy nhiên, trên phạm vi cả quốc gia, Công cần được hiểu làtoàn quốc, toàn xã hội, cả cộng đồng và loại trừ khái niệm “cơng “trong phạm vi
<small>hẹp của một nhóm người, một tập thể, một tổ chức.</small>
<small>Từ những luận giải trên đây cho phép rút ra nhận xét về các đặc trưngcủa Tài chính cơng là:</small>
- Về sở hữu: Các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong Tài chính cơng
<small>thuộc sở hữu cơng cộng, sở hữu tồn dân mà Nhà nước là đại diện, thườnggọi là sở hữu nhà nước.</small>
- Vé mục đích: Các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong Tài chính
<small>' Xem Giáo trình Quản lý tài chính cơng, NXB Tài chính. Hà Nội 2000</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><small>cơng được sử dụng vì lợi ích chung của toàn xã hội, của toàn quốc, của cả</small>
- Vẻ chủ thể: Các hoạt động thu, chi băng tiền trong Tài chính cơng docác chủ thé công tiến hành. Các chủ thé công ở đây là Nhà nước hoặc các cơquan, tô chức của Nhà nước được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện các hoạt<small>động thu, chi đó (gọi chung là Nhà nước).</small>
- Về mặt pháp luật: Các quan hệ Tài chính cơng chịu sự điều chỉnh bởi
<small>các “luật công”, dựa trên các quy phạm pháp luật mệnh lệnh - quyền uy. Khácvới Tài chính cơng, các quan hệ tài chính tư được điều chỉnh bởi các “luật tư”,dựa trên các quy phạm pháp luật hướng dẫn, thoả thuận. Các quan hệ Tài</small>chính cơng là các quan hệ kinh tế nảy sinh gắn liền với việc tạo lập và sử<small>dụng các quỹ công mà một bên của quan hệ là các chủ thể công.</small>
Gắn với chủ thể là Nhà nước, các quỹ công được tạo lập và sử dụnggan liền với quyền lực kinh tế và chính trị của Nhà nước và việc thực hiện các
chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Nói một cách khác, các quỹ cơng là
tổng số các nguồn lực tài chính đã được tập trung vào trong tay Nhà nước và
<small>được Nhà nước sử dụng cho việc thực hiện các sứ mệnh xã hội của mình. Q</small>
<small>trình hình thành và sử dụng các quỹ cơng chính là quá trình Nhà nước tham</small>gia phân phối các nguồn tài chính thơng qua các hoạt động thu, chỉ bằng tiền
của Tài chính cơng. Các hoạt động thu, chi bằng tiền đó là mặt biểu hiện bên<small>ngồi của Tài chính cơng, cịn các quỹ cơng là biéu hiện nói dung vat chấtcủa Tài chính cơng.</small>
Từ những phân tích trên đây có thể có khái niệm tổng qt về Tài chính
<small>cơng như sau:</small>
Tài chính cơng là tổng thể các hoạt động thu, chỉ bằng tiền do Nhà
nước tiễn hành, nó phan ánh hệ thống các quan hệ kinh tế nảy sinh trong q
<small>trình tạo lập và sử dung các quy cơng nhằm phục vụ thực hiện các chức năngcủa Nhà nước và đáp ung các nhu cấu, lợi ích chung của toàn xã hội [ 3, tr.8].</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><small>-10-Quan niệm Tài chính cơng như trên cho phép nhìn nhận một cách đầy</small>
đủ, tồn diện về Tài chính cơng. Quan niệm đó vừa chỉ ra mặt cụ thể, hìnhthức bên ngồi, nội dung vật chất của Tài chính cơng là các quỹ công; vừa
vạch rõ mặt trừu tượng, mặt bản chất bên trong, nội dung kinh tế - xã hội của
Tài chính cơng là các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình Nhà nước thamgia phân phối nguồn tài chính dé tạo lập và sử dụng các quỹ cơng.
<small>b) Nội dung của Tài chính cơng</small>
Tùy theo u cầu quản lý, người ta có thé phân chia nội dung của Tài
<small>chính cơng theo các tiêu thức khác nhau.</small>
Theo chủ thể quản lý trực tiếp có thé chia Tài chính cơng thành cácbộ phận: Tài chính cơng tơng hợp; tài chính của các cơ quan hành chính nhà<small>nước; tài chính của các đơn vị sự nghiệp cơng lập.</small>
Tài chính cơng tổng hợp
Tài chính cơng tơng hợp tổn tại và hoạt động gan liền với việc tạo lập
và sử dụng các quỹ công nhằm phục vụ cho hoạt động của bộ máy nhà nước
và thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội của Nhà nước. Theo tính chất của
các quỹ tiền tệ, Tài chính cơng tổng hợp bao gồm các bộ phận: NSNN và các
<small>Quỹ tài chính nhà nước ngồi NSNN.</small>
<small>Tài chính của các cơ quan hành chính nhà nước</small>
Các cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ<small>hành chính cơng cho xã hội. Các cơ quan này được phép thu một số khoản thu</small>
phí và lệ phí nhưng số thu đó là khơng đáng kế. Do đó, nguồn tài chính đảm
bảo cho các cơ quan hành chính hoạt động gần như do NSNN cấp tồn bộ.
Chủ thẻ trực tiếp quản lý tài chính các cơ quan hành chính nhà nước là các cơ
<small>quan hành chính nhà nước.</small>
<small>Tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập</small>
<small>Các đơn vị sự nghiệp công lập là các đơn vị thực hiện cung cấp cácdịch vụ xã hội cơng cộng và các dịch vụ nhăm duy trì sự hoạt động bình</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">-11-thường của các ngành kinh tế quốc dân. Hoạt động của các đơn vị này khôngnhằm mục tiêu lơi nhuận mà chủ yếu mang tính chất phục vụ. Với cách phân
<small>loại của GFS, thì các đơn vị sự nghiệp cơng lập chính là các thé chế phi lợinhuận, phi thị trường. Các đơn vị này tham gia hoạt động ở tất cả các ngành,</small>
các lĩnh vực của nên kinh tế quốc dân.
Do hoạt động mang tính chất phục vụ là chủ yêu, ở các đơn vị sự nghiệp
công lập số thu thường không lớn, khơng én định, hoặc khơng có thu. Do đó,
sự hình thành nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập thường có sự xuấthiện của các nguồn: (i) NSNN; (ii) đơn vị tự thu; (iii) nguồn khác. Cá biệt, có
một số đơn vị sự nghiệp có số thu khá lớn, Nhà nước có thể cho các đơn VỊ này
áp dụng chế độ tài chính riêng. Với các dich vụ kể trên, chi tiêu của các đơn VỊnày chính là nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Chủ thể trực tiếp quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập là
<small>Thủ trưởng các đơn vị đó.</small>
Theo nội dung quản lý, có thể chia Tài chính cơng thành các bộ phận:
<small>NSNN; Tín dụng nha nước; và các Quỹ tài chính nhà nước ngồi NSNN.Ngán sách nhà nước</small>
NSNN là mắt khâu quan trọng nhất giữ vai trị chủ đạo trong Tài chínhcơng. Thu của NSNN được lay từ moi lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau,trong đó thuế là hình thức thu phổ biến dựa trên tính cưỡng chế là chủ yếu.Chi tiêu của NSNN nhằm duy trì sự tồn tại hoạt động của bộ máy nhà nước và
<small>phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước. NSNN là một hệ thống bao</small>
gom các cấp ngân sách phù hợp với hệ thống chính quyên nha nước các cấp”.
Tương ứng với các cấp ngân sách, quỹ NSNN được chia thành: quỹ ngân sách<small>trung ương; quỹ ngân sách của chính quyền cấp tỉnh và tương đương; quỹ</small>
ngân sách của chính quyền cấp huyện và tương đương; quỹ ngân sách của<small>chính quyên cap xã và tương đương. Phuc vụ thực hiện các chức năng, nhiệm</small>
<small>* Xem Luật NSNN số 01/2002/QH11</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">-12-vụ của chính quyền nhà nước các cấp, quỹ ngân sách lại được chia thành
nhiều phần nhỏ để sử dụng cho các lĩnh vực khác nhau, như: phần dùng chophát triển kinh tế; phần dùng cho phát triển văn hoá, giáo dục, y tế; phần dùng
<small>cho hoạt động của các lĩnh vực xã hội, an ninh, quốc phòng...</small>
<small>Đặc trưng co ban của các quan hệ trong tao lập và sử dụng NSNN là</small>
mang tính pháp lý cao gan liền với quyền lực chính trị của Nhà nước và
khơng mang tính hồn trả trực tiếp là chủ yếu.<small>Tin dung nhà nước</small>
Tín dụng nhà nước bao gồm cả hoạt động di vay va cho vay của Nhà<small>nước. Thơng qua hình thức tín dụng nhà nước, nhà nước động viên các nguồn</small>tài chính tạm thời nhàn rỗi của các pháp nhân và thể nhân trong xã hội trong
và ngoài nước nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn tài chính của các cấp chính
quyền nhà nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
chủ yếu là thông qua việc cấp vốn thực hiện các chương trình cho vay dài
hạn. Việc thu hút các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi qua con đường tíndụng nhà nước được thực hiện bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ,
hoặc bằng các thỏa thuận tín dụng với bên cho vay (thường là Chính phủ các
quốc gia và các tổ chức tài chính quốc tế).
<small>Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ</small>
<small>qua hình thức tín dụng nhà nước là mang tính tự nguyện và có hồn trả.</small>
<small>Các Quỹ tài chính nhà nước ngồi NSNN (gọi tat là các Quỹ ngoài</small>
<small>ngân sách)</small>
Các Quỹ ngoài ngân sách là các quỹ tiền tệ tập trung do Nhà nước thành
lập, quản lý và sử dụng nhằm cung cấp nguồn lực tài chính cho việc xử lý những
biến động bắt thường trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và để hỗ trợ thêm
cho NSNN trong trường hợp khó khăn về nguồn tài chính.
Sự hình thành và phát triển các Quỹ tài chính nhà nước ngồi ngân sách<small>là nhu cau cân thiết khách quan bắt ngn từ chính u cau nâng cao hiệu quả</small>
<small>~4 3.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">quan lý vĩ mô nên kinh tế. Một là, dé huy động thêm các nguồn lực tài chínhhỗ trợ NSNN thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Hai là, để tạothêm công cụ phân phối lại GNP (tổng sản phẩm quốc dân) nhằm thực hiện
các mục tiêu xã hội trong phát triển. Và cuối cùng, trợ giúp Nhà nước trong
việc khắc phục những khiếm khuyết của kinh tế thị trường và chuyền dần nềnkinh tế quốc dân sang hoạt động theo cơ chế thị trường.
Chủ thé của các Quỹ tài chính nhà nước ngồi ngân sách là Nhà nước.Nguồn tài chính dé hình thành các quỹ này bao gồm cả từ ngân sách và cácnguồn khác trong xã hội. Các Quỹ tài chính nhà nước ngồi NSNN được sử
dụng nhằm giải quyết những biến động bất thường khơng dự báo trước trongq trình phát triển kinh tế - xã hội, khơng có trong dự tốn NSNN nhưng Nhà
nước phải có trách nhiệm xử lý. Thể hiện rõ nhất đặc trưng này là các quỹ dự<small>trữ, dự phòng.</small>
Về cơ chế hoạt động: So với NSNN, cơ chế huy động và sử dụng vốn
<small>của các Quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN tương đổi linh hoạt hơn. Phan lớn</small>
việc huy động và sử dụng vốn của các Quỹ tài chính nhà nước ngồi NSNN
được điều chỉnh bởi các văn bản dưới luật do các cơ quan hành pháp quyết
định mà khơng cần có sự tham gia của các cơ quan quyền lực. Tính chất linh
hoạt đó bắt nguồn từ mục tiêu sử dụng của các Quỹ tài chính nhà nước ngoài
<small>ngân sách. Đặc trưng này tạo ra hành lang rộng trong việc sử dụng nguồn lực</small>
tài chính để xử lý tình huống. Việc sử dụng các Quỹ tài chính nhà nước ngồi
ngân sách thường có mục tiêu, địa chỉ cụ thể, theo sự điều khiển của Nhà nước
đôi với từng loại quỹ, đồng thời được thực hiện theo cơ chế tín dụng nhưng với
lãi suất ưu đãi.
Vẻ điều kiện hình thành và ton tai: Sự ra đời và tồn tại của từng loại Quỹ
<small>tài chính nhà nước ngồi ngân sách tuỳ thuộc vào sự tồn tại các tình huống, các</small>
sự kiện kinh tế, xã hội. Khi các tình huồng, sự kiện đó được giải quyết dứt điểm,
<small>trở lại trạng thái bình thường thì cũng là lúc từng loại Quỹ tài chính nhà nước</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">-14-ngồi ngân sách đề giải quyết các tình huống, sự kiện đó cũng sẽ khơng cịn lý
do dé tồn tại. Hiện nay ở Việt nam hệ thơng các Quy tai chính nhà nước ngoài
ngân sách đang được sắp xếp lại và bao gồm các quỹ chủ yếu như quỹ dự trữ tài<small>chính, quỹ tích lũy trả nợ nước ngồi, quỹ bảo vệ môi trường, quỹ Bảo hiểm xã</small>
hội (bao gồm cả Quỹ Bảo hiểm y té da được sap nhập), v.v..
<small>Các Quỹ ngồi ngân sách khơng chịu sự điều chỉnh trực tiếp bởi LuậtNSNN mà thường được quan ly theo các quy định riêng. Do đó, van dé xây</small>
dựng một hệ thống khung pháp luật thống nhất điều chỉnh hoạt động của các
<small>quỹ ngồi ngân sách trở thành địi hỏi cần thiết và cấp bách.</small>
2. Khái niệm và kết cau pháp luật về tài chính cơng Việt Nam
<small>a) Mục tiêu cơ ban của việc xây dung khái niệm và kết cấu pháp luật vềtài chính cơng</small>
Sự xuất hiện của tài chính cơng đã được thừa nhận bởi các kết quả
nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội và thực tế đời song. Pháp luật về tai<small>chính cơng là một trong những bộ phận pháp luật ra đời sớm nhất vì nó gắn</small>với mục tiêu phục vụ cho Nhà nước, cho xã hội, cho cộng đồng. Xác định nội
hàm đây đủ cho bộ phận pháp luật về tài chính cơng theo đó cũng là yêu cầu
<small>mang tính khách quan với nhiều mục dich cụ thể khác nhau.</small>
Trước hết, xét ở khía cạnh nghiên cứu hỗ trợ công tác lập pháp, xác
dink rõ nội hàm pháp luật về tài chính cơng là hết sức cần thiết do các bộ<small>phận của tài chính cơng có rất nhiều điểm chung với các bộ phận pháp luậtkhác như pháp luật hành chính, luật hién pháp, luật đầu tư v.v.. Thứ hai, xét ởgóc độ người thực thi pháp luật thì hoạt động tài chính cơng liên quan đến lợi</small>
ích của tất cả chủ thể trong xã hội nên càng cần phải được làm rõ để đảm bảo
<small>quyén và lợi ích hợp pháp cho nhà nước và các chủ thể trong xã hội, tránh</small>
nguy cơ lạm dụng quyền lực nhà nước trong quá trình thực thi pháp luật. Đối
với cdc cơ quan công quyền không phải là cơ quan tài chính, hệ thống pháp<small>luật về tài chính công hỗ trợ đắc lực cho công tác kiểm tra, giám sát, thực thi</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><small>-15-nhiệm vụ của các cơ quan này với tư cách là luật nội dung. Và cuối cùng, xét</small>
ở góc độ pháp luật về tai chính cơng như một nội dung giảng dạy tại cơ sở các<small>trường đại học dao tạo cử nhân luật. Tại các cơ sở đào tạo luật hiện nay hiện</small>
<small>đang giảng dạy các mơn học có nội hàm của pháp luật vẻ tài chính cơng</small>
nhưng về nội dung mơn học chưa day đủ và chưa có cách goi thống nhất. Ví
dụ, tại Khoa Luật - Dai học Quốc gia Hà Nội, mơn học Luật tài chính bao
<small>Trường Đại học Luật Hà Nội, môn học Luật tài chính bao gồm hai cau phần:</small>
phần Luật Ngân sách và phần Luật Thuế. Trong khi đó, tại Trường Đại họcLuật Thành phố Hỗ Chí Minh, chương trình đào tạo hiện nay khơng cịn giảng
dạy phần pháp luật NSNN mà chỉ tập trung vào phần Luật Thuế. Với những
ví dụ điển hình nêu trên, có thể cho thấy việc chỉ ra nội dung day đủ của luậttài chính cơng là rất cần thiết cho công tác giảng dạy và nghiên cứu tại các cơ
<small>sở đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay.</small>
b) Khái niệm pháp luật về tài chính cơng
Theo cách tiếp cận phố biến hiện nay, pháp luật về tài chính cơng là tập
<small>hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan có thâm quyền ban hành, điều chỉnhcác quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động tài chính của Nhà nước.</small>
Về khía cạnh học thuật, cần phân biệt thuật ngữ pháp luật về tài chính
cơng với một số thuật ngữ có liên quan như tài chính cơng, pháp luật điềuchỉnh kinh tế công và pháp luật tài chính. Tài chính cơng là đối tượng điều
<small>chỉnh của các quan hệ pháp luật tải chính. Tuy nhiên, khơng phải mọi hoạt</small>
động tài chính cơng đều được điều chỉnh bằng pháp luật ở mức độ và cách
<small>thức như nhau. Còn pháp luật điều chỉnh kinh tế công điều chỉnh tới cả các</small>quan quan hệ kinh tế vĩ mô và vi mô thuộc phạm vi của cả tới các lĩnh vực
quản lý kinh tế khác như quản lý hoạt động quy hoạch, đất đai, đơ thị, lĩnh
vực thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Khái niệm pháp luật tài chính cơng
<small>cũng có sự khác biệt với khái niệm pháp luật tài chính. Pháp luật tài chính là</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">-16-lĩnh vực pháp luật rông, điều chỉnh các hoạt động tài chính của nhà nước và<small>hoạt động tài chính của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Trong khi đó, pháp</small>
luật về tài chính cơng chỉ điều chỉnh quan hệ tài chính trong đó nhà nước, các
cơ quan nhà nước là một bên chủ thể và nguồn tài chính tiền tệ thuộc về sở
<small>hữu nhà nước.</small>
Pháp luật về tài chính cơng điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội có
những đặc tính chung sau đây: thứ nhất, ln có sự tham gia trực tiếp của Nhà
<small>nước hoặc các cơ quan đại diện cho Nhà nước; thứ hai, các quan hệ luôn gan</small>với yếu tổ tài sản; thứ ba, nguồn hình thành của các quỹ tài chính cơng xuất
<small>phát từ chính xã hội.</small>
Có thé nhận diện các quan hệ pháp luật về tài chính cơng thơng qua các
<small>nhóm cơ bản sau đây:</small>
<small>+ Nhóm quan hệ tài chính cơng giữa cơ quan nhà nước ở trung ương</small>với cơ quan chính quyền địa phương
<small>+ Nhóm quan hệ tài chính cơng giữa các cấp ngân sách với các đơn vịsử dụng ngân sách</small>
<small>+ Nhóm quan hệ tài chính cơng giữa các cơ quan có thâm quyền với</small>
các chủ thé có nghĩa vụ, quyên lợi liên quan đến tài sản công
Pháp luật về tải chính cơng bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật vềtài chính cơng. Phần lớn các quy phạm này mang tính mệnh lệnh trực tiếp<small>theo cơng thức 4i + Phải/có trách nhiệm làm gì. Các nhóm quy phạm pháp</small>
luật về tài chính cơng: có thể xem xét theo những tiêu chí khác nhau. Theotiêu chí vé tinh chất xử sự, pháp luật về tài chính cơng bao gồm nhóm quy
phạm bắt buộc, nhóm quy phạm cắm và nhóm quy phạm cho phép lựa chọn
<small>thực hiện. Theo tiêu chí nội dung điều chỉnh, pháp luật về tài chính cơng bao</small>
gồm nhóm quy phạm quy định về chủ thể, nhóm quy phạm quy định nội dung
<small>và nhóm quy phạm quy định trình tự thủ tục. Theo tiêu chí vé đặc điểm quỹ</small>
THUNG TÂM THONG TIN THỰ VIÊN Ì
<small>TRUONG DAI HỌC LUẬT HÀ NỘI</small>
<small>PHONG BOC ___ 4 8-5</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">điều chỉnh các quan hệ NSNN, nhóm quy phạm điều chỉnh nhớm quan hệ tín
<small>dụng nhà nước và nhóm quy phạm điều chỉnh quan hệ liên quan đến các quỹtài chính nhà nước ngồi NSNN.</small>
c) Kết cau pháp luật về tai chính cơng
Pháp luật về tài chính cơng cần được xem xét theo một tiêu chí xác
định dé đảm bảo tính lo gic, tính thống nhất của việc nghiên cứu, đánh giá.Cách tiếp cận thuận lợi nhất là xác định nội dung pháp luật về tài chính cơng
theo nội dung quản lý. Tiếp cận theo góc độ này đảm bảo tính khách quan
trong việc đánh giá xem xét, đồng thời xác định thống nhất phương thức<small>nghiên cứu, giảng dạy nội dung pháp luật vẻ tài chính cơng cho các đối tượng</small>có liên quan. Theo đó, pháp luật về tài chính cơng bao gồm các bộ phận cụ
thể sau đây:
- Pháp luật về hệ thống tổ chức cơ quan quản lý tài chính cơng
Xuất phát từ đặc điểm của các quan hệ tài chính cơng, xét cả ở khía
cạnh chủ thé, phương thức quản lý và nguồn hình thành cho thấy hệ thống các
cơ quan quản lý tài chính công cần được xây dựng với quy mô và cách thức<small>quản lý phù hợp. Nhóm các cơ quan này bao gồm các cơ quan quản lý có</small>
thâm quyền chung như Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương vàhệ thống các cơ quan quản lý có thâm quyền riêng như Ngân hàng Nhà nước,
hệ thống cơ quan tài chính, hệ thống cơ quan kế hoạch và đầu tư, Kiểm toán
<small>nhà nước, v.v.. 9</small>
- Pháp luật về NSNN
<small>NSNN là bộ phận quan trọng nhất của tài chính cơng nên pháp luật</small>
điều chỉnh lĩnh vực này chiếm tỷ trọng chủ yếu. Các bộ phận pháp luật NSNN
khơng có nhiều quan điểm mà gần như thông nhất bao gồm các bộ phận pháp
luật thuế, pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay và quản lý các khoản nợ
vay, pháp luật về chỉ NSNN và pháp luật về quản lý NSNN. Nội dung pháp
<small>luật nay đã được giới thiệu cụ thé, rõ ràng trong chương trình giảng dạy của</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">tất cả các chương trinh đạo tạo cử nhân luật trong cả nước.
- Pháp luật điều chỉnh hoạt động của các quỹ ngoài ngắn sách
<small>Các quỹ ngoài ngân sách được hình thành và sử dụng như một tất yếu</small>
đề hỗ trợ Quỹ NSNN đồng thời đảm bảo yếu té công bằng xã hội, khắc phụcnhững khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường. Mặc dù Nhà nước thành lập,
quyết định nguồn huy động cũng như sử dụng quỹ nhưng mục tiêu và ngun
<small>hành các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý đủ mạnh và đầy đủ là cần thiết</small>
<small>và khách quan.</small>
Về nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động của các quỹ ngồi ngân
sách thơng thường bao gồm những vấn dé cơ bản như xác định mục tiêu sử
dụng của mỗi loại quỹ; quy định về cơ chế hoạt động của từng Quỹ; quy định
về điều kiện hình thành và tổn tạ của mỗi loại quỹ...
- Pháp luật về kiểm toán nhà nước
Nhằm phục vụ cho việc kiểm tra giám sát, đánh giá tính hiệu quả của
<small>hoạt động tài chính do Nhà nước thực hiện, tổ chức kiểm tốn nhà nước đượchình thành và hoạt động dựa trên những căn cứ Luật định. Luật kiểm toánNhà nước và các văn bản pháp luật có liên quy định về cơ quan kiểm tốn nhà</small>nước cùng với các nhiệm vụ quyền hạn cũng như các biện pháp đề đảm bảothực thi nhiệm vụ. Do mục tiêu và đối tượng của Kiểm toán nhà nước nên
phương pháp kiểm toán, giá trị kiểm toán, tiêu chuẩn kiểm toán viên cũng như
tiêu chuẩn kiểm toán được pháp luật quy định rõ ràng.
d) Các yếu tô tác động đến hệ thống pháp luật về tài chính cong
- Quan điểm, đường lối của hệ thống chính trị trong từng thời ky: Van
đề này không chỉ thể hiện ở hệ thống pháp luật về tài chính cơng của Việt
Nam mà cịn thể hiện rõ nét trong sự thay đơi kết cấu, nội dung pháp luật của
tat cả các quốc gia có chủ quyền.
<small>- Nang lực tài chính của xã hội va của công dan: Van dé năng lực tài</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><small>-19-chính dường như khơng liên quan đến vấn đề luật pháp, tuy nhiên trong thực</small>
tế, đây là là gốc cơ bản đề đảm bảo tính khả thi của pháp luật, đặc biệt trong<small>lĩnh vực pháp luật tài chính.</small>
<small>- Muc độ cải cách thé chế và hệ thống hành chính nhà nước: Do tàichính cơng là lĩnh vực chịu ảnh hưởng rất lớn của các quan hệ hành chính,nên mức độ cải cách thé chế và hệ thống hành chính nhà nước có ảnh hưởng</small>
lớn đến hiệu quả thực hiện pháp luật về tài chính cơng. Thủ tục hành chính
hiệu quả, sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan càng rõ ràng và nhanh
<small>chóng thì hiệu quả thực hiện pháp luật về tài chính cơng càng được nâng cao.Il. THỰC TRẠNG MOT SO NOI DUNG CƠ BAN CUA PHÁP LUẬT VE TÀI</small>
<small>CHINH CONG VIET NAM HIEN NAY</small>
1. Pháp luật về lập, chấp hành và quyết toán ngần sách nhà nước
Q trình lập, chấp hành, quyết tốn ngân sách nhà nước hiện nay ở<small>Việt Nam được quy định khá day đủ, chỉ tiết ở nhiều văn bản quy phạm phápluật khác nhau. Với hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về lập, chấp</small>hành và quyết toán ngần sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay, có thé rut ra
một số nhận xét, đánh giá như sau:Ưu điểm
- Hệ thống các văn bản pháp luật về ngân sách nhà nước khá đồ SỘ, quyđịnh kha đầy đủ, chỉ tiết, rõ ràng thầm quyền, trình tự, thủ tục và thời gian thực
<small>hiện các công việc trong lập, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước.</small>
<small>- Các quy định của pháp luật thường xuyên được sửa đổi, bổ sung hoàn</small>
<small>thiện cho phù hợp với thay đổi trong cơ chế quản lý, thực trạng kinh tế, xã hội</small>
và yêu cau mới trong quản lý ngân sách nhà nước trong điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
<small>- Sau hơn 6 năm qua ké từ khi Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 cóhiệu lực thi hành đã tiếp tục củng cố, nâng cao vị trí, vai trị của cơng tác tàichính nhà nước, góp phần ồn định, thúc đây tăng trưởng kinh tế, chuyền dich</small>
<small>cơ cau kinh tê, giải quyết tôt hơn các vấn dé an sinh xã hội, xóa đói giảm</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><small>-20-nghèo, dam bảo nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại và xử lý kịp thời</small>
những vấn đề phát sinh cấp bách như thiên tai, dịch bệnh.
Nhược điểm
Thứ nhất, các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc lập, chấp hành và
quyết toán ngân sách nhà nước quy định ở nhiều các văn bản pháp luật khác
nhau do nhiều cơ quan ban hành ở nhiều thời điểm khác nhau, do vậy có
nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo rất khó cho việc tra cứu và thực hiện
trên thực tế.
Thứ hai, một số những quy định trong pháp luật ngân sách cần được
nghiên cứu dé sửa đổi, bé sung dé nâng cao tính hiệu quả trong lập, chấp hanh
và quyết tốn ngân sách nhà nước. Một là, tính lồng ghép trong hệ thống
<small>NSNN đang cản trở mức độ chủ động và tính minh bạch của ngân sách. Hai</small>
là, cần xác định rõ hơn phạm vi ngân sách Nhà nước. Ba là, về dự phòng ngân
<small>sách ở các Bộ, sở, ban, ngành, tuy nhiên hiện nay chưa có quy định tiêu chí để</small>xác định nhiệm vụ nào là cấp bách được bổ sung từ dự phòng ở các đơn vj này<small>nên việc lập dự phòng va sử dụng còn tùy tiện. Bốn là, ty lệ phan chia của 5khoản thu cho ngân sách xã do quy định “cứng” nên đã có tinh trạng một số</small>
xã thừa nguồn đảm bảo nhiệm vụ chi, trong khi có xã nguồn thu chưa đảm
<small>bảo được nhiệm vụ chi, khơng thực hiện điều hịa được, gây khó khăn trong</small>
<small>quản lý ngân sách.</small>
<small>Thứ ba, thực trạng lập dự tốn ngân sách “thu ít, chỉ cao” cịn khá phổ</small>
biến ở ngân sách địa phương. Điều này là do việc xây dựng, phân bố và chấp
<small>hành dự toán ngân sách ở trung ương và địa phương còn nhiều bất cập, đặc</small>biệt là trong khâu đánh giá tiềm năng ngân sách. Thêm nữa, những yếu kém<small>của phương thức quản lý ngân sách hiện hành xuất phát từ việc duy trì phươngthức quản lý ngân sách theo các khoản mục đầu vào, dựa vào nhu cầu của đơn VỊ</small>
<small>cung cap cho xã hội đê xác định mức độ thu, chi.</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">-21-2. Pháp luật về phân cấp quản lý ngân sách nhà nướcVé phan cap nguon thu
<small>Luật Ngân sách nhà nước qui định về phân cấp quan lý các khoản thu va</small>
<small>các khoản chi giữa NSTW và NSDP nhưng nhìn chung hệ thống NSNN cịn</small>
mang tính thứ bậc, và tính lồng ghép cao của ngân sách cấp dưới vao ngân sách
cấp trên. Luật NSNN tuy có phân cấp cho HĐND tỉnh trong quyết định các
<small>khoản thu trong phạm vi địa phương nhưng Quốc hội vẫn năm quyền điều tiết</small>lớn thông qua quyết định khoản thu bổ sung có mục tiêu. Hơn thế nữa, thông
<small>qua qui định thưởng tăng thu so với dự tốn cho NSDP (Điều 59 Khoản 5),</small>
Quốc hội có thể tác động vào nguồn thu tại các địa phương.Vé phân cắp nhiệm vụ chỉ
<small>Luật NSNN qui định nhiệm vụ chi đầu tư phát triển cho đầu tư xây</small>dựng các công trình thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khơng có khả năng
thu hồi vốn do cấp trung ương hoặc địa phương quản lý.
Trên thực tế, Luật NSNN chưa qui định cụ thể quyền quyết định đầu tư
đầu tư của Nhà nước dẫn tới tình trạng khó xác định cơ quan chịu trách nhiệm
<small>chính trong việc theo dõi việc sử dụng vốn, tài sản của Nhà nước và phân tích,đánh gia hiệu quả kinh doanh của DNNN. Việc áp dụng phương thức quản lý</small>
thu chi đối với một số hạng mục chưa thích hợp, chưa bảo đảm các nguồn lực
<small>tập trung vào NSNN cụ thể là cịn tình trạng thiếu kiểm sốt chặt chẽ đối với</small>
<small>phương thức ghi thu, ghi chi chưa được đưa vào cân đối NSNN hàng nam’,</small>
Về chỉ thường Xuyên
<small>Nhìn chung, chi thường xuyên cũng giống như chi đầu tư phát triển vẫn</small>
mang nặng tính cơng bằng, tính bình qn, chưa thực sự có tính định hướng<small>rõ rang vê chiên lược, dau tư mũi nhọn. Bởi vậy, van dé đặt ra là phải làm thé</small>
<small>* Tham khao từ: "Chỉ ngân sách: Mừng ít, lo nhiều" của ghi chép vé thảo luận tại Quốc hội. ghi chép bơi</small>
<small>Minh Thúy ngày 31, 10/2008, tai từ: htrp:⁄vneconomy.vn.</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">-22-nảo điều chỉnh việc phân cấp nguồn thu đáp ứng nhiệm vụ chi trên cơ sở pháthuy lợi thế của các địa phương trong tạo nguồn thu, hỗ trợ các địa phương
theo yêu cầu thực tế tránh phân cấp cơng bằng mang tính hình thức.
3. Pháp luật điều chỉnh các khoản chi hành chính
Những ưu điểm của pháp luật điều chỉnh các khoản chỉ hành chínhThứ nhất, hệ thơng pháp luật về chỉ hành chính nhà nước đã từng bước
<small>được hoàn thiện trên cơ sở phù hợp với thực tiễn bảo đảm quản lý, sử dụng</small>
tiết kiệm, hiệu quả các khoản chi hành chính nhằm duy trì hoạt động của bộ
máy nhà nước phục vụ đắc lực cho việc thực hiện các chức năng của Nhà
<small>nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.</small>
Thứ hai, ché độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và kinh phí hành
<small>chính đã và đang góp phần quan trọng vào việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các</small>
nguồn chi hành chính, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, người lao động
<small>Nghị định 130/2005/NĐ-CP và Nghị định 43/2006/NĐ-CP đã xóa bỏ co</small>
chế “xin - cho” trong cấp kinh phí hành chính, việc cấp kinh phí hành chính bảo
<small>đảm tính khách quan trên cơ sở số lượng biên chế của cơ quan, đơn vị được</small>duyệt và định mức phân bồ kinh phí trên một đầu biên chế do cơ quan có thâm
quyền quy định. Từ đó tạo ra tính chủ động trong quản lý, sử dụng kinh phí
<small>khốn chi trong các cơ quan, đơn vi, thơng qua đó nguồn kinh phí hành chính</small>được sử dụng một cách tiết kiệm, hiệu quả, tạo nguồn thu nhập tăng thêm cho
<small>cán bộ, công chức, người lao động. Bên cạnh đó đã đơn giản hóa thủ tục trong</small>
q trình xây dựng, chấp hành, quyết tốn ngân sách nhà nước.
Một số bat cập cua các quy định hiện hành về kinh phí hành chính
Thứ nhát, hệ thống mục lục ngân sách nhà nước tính đến thời điểm hiện
nay đã qua 06 lần sửa đối, bổ sung tại 06 Thơng tư của Bộ Tài chính chỉ trong
vịng chưa đầy 03 năm từ nửa cuối năm 2008 đến hết năm 2010. Điều này gây
những khó khăn nhất định trong q trình lập, chấp hành và quyết tốn ngân<small>sách nhà nước trong đó có nguồn chi kinh phí quản lý hành chính.</small>
<small>“23.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Thứ hai, hệ thong chế độ, định mức, tiêu chuẩn chỉ kinh phí quản lý
<small>hành chính mặc dù đã được hồn thiện theo hướng phù hợp với thực tiễn cuộc</small>
sống, song nhìn chung chế độ, định mức, tiêu chuẩn được ban hành thường
<small>lạc hậu so với thực tiễn hoặc không phù hợp với thực tiễn.</small>
Thứ ba, chễ độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí hành chính bêncạnh những kết quả đã đạt được cịn có những tơn tại, hạn chế cần tiếp tục
<small>hồn thiện như: chưa xác định chính xác được khối lượng công việc của các</small>cơ quan, đơn vị để xác định số lượng biên chế và kinh phí tự chủ phù hợp;
quyền chủ động và chịu trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị trong sử dụng kinh
<small>phí hành chính chưa cao, chưa rõ ràng trong các quy định pháp luật; việc xây</small>
dựng quy chế chỉ tiêu nội bộ còn mang nặng tính hình thức, chưa thật sự đảm
bảo phù hợp, nhiều hạng mục chỉ có thé khốn nhưng vẫn địi hỏi các chứng
từ giống như cơ chế thanh toán cũ; vẫn còn tồn tại nhiều điều kiện chỉ tiêu và
<small>sử dụng tài sản lạc hậu, hạn chế quyền chủ động của đơn vị sử dụng.</small>4. Pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư tài chính của nhà nước
Pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư của Nhà nước nói chung và hoạtđộng đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng, tạo<small>cơ sở pháp lý không chỉ quản lý, thực hiện hoạt động đầu tư mà còn định</small>hướng hoạt động đầu tư đúng mục đích, hiệu quả. Trên thực tế, pháp luật điềuchỉnh hoạt động đầu tư của “chủ thể” có tiềm lực kinh tế lớn nhất trong xã hội
trong những năm gần đây đã đạt được nhiều tiến bộ, ngày càng hoàn thiện và
<small>nội dung như sau:</small>
Thứ nhất, pháp luật về đầu tư tài chính của Nhà nước vào lĩnh vực kinh
<small>doanh được quy định tản mạn trong nhiều văn bản, thiếu tính thống nhất.</small>
Hoạt động đầu tư tài chính của Nhà nước được quy định trong nhiều<small>văn bản pháp luật khác nhau như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư, Luật</small>Xây dựng, Luật Dat đai, Luật Dau thầu... và các văn bản hướng dẫn thi hành.
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">-24-Ngoài ra, từng van dé cu thé trong hoạt động dau tư, kinh doanh lại được quy
định rải rác trong rất nhiều văn bản dưới luật. Việc quy định tản mạn trong
nhiều văn bản pháp luật và thiếu tính thống nhất đã và đang là một trong
những nguyên nhân khiến hoạt động đầu tư tài chính của Nhà nước nói chungvà đầu tư tài chính vào lĩnh vực kinh doanh nói riêng và pháp luật điều chỉnh
<small>hoạt động này trở thành một vẫn đề “nhạy cảm” và kéo theo đó là hàng loạt</small>
những vướng mắc, sai phạm của các chủ thê thực hiện trên thực tế
Thư hai, bat cập trong xác định vai trò, thẩm quyền và sự phối hợp giữa
các chủ thê thực hiện quản lý, đầu tư vốn Nhà nước.
Sự đa dạng và có quá nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động quản lý,thực hiện hoạt động động đầu tư tài chính của Nhà nước và sự thay đổi cơ chế<small>quản lý cũng nảy sinh nhiều bat cập. Trong hoạt động quản lý nguồn vốn của</small>
Nhà nước tôn tại thực trạng không xác định được cơ quan nảo là đại diện sở
hữu chính; có sự "lan sân" từ quản lý nhà nước sang quản lý của chủ sở hữu
<small>và ngược lại.</small>
<small>Thứ ba, quy định không rõ ràng phương thức thực hiện dau tư, thiếu</small>
tính quản lý dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp, thất thoát vốn
<small>Nhà nước.</small>
Thứ tu, hiện vẫn còn thiếu các quy định cụ thé về quyền hạn tráchnhiệm của các chủ thể thực hiện kiểm tốn, thanh tra, kiểm tra hoạt động đầu<small>tư tai chính của Nhà nước, bên cạnh đó các chế tài xử phạt vi phạm chưa đủ</small>
<small>mạnh nên không đủ sức răn đe và tạo hiệu quả thực sự trên thực tế.</small>5. Pháp luật về thu ngân sách từ thuế
<small>Những thành tựu đạt được</small>
Thứ nhất, về chính sách pháp luật thuế: hệ thống pháp luật thuế đã thể
hiện tốt vai trò là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nềnkinh tế. Ví dụ: vai trị khuyến khích xuất khẩu và đáp ứng thơng lệ quốc tế đãthê hiện rõ trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; sự bình đăng giữa các
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">-25-thành phân kinh tế thể hiện rõ trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp; việcban hành Luật thuế tài nguyên, Luật thuế môi trường nham đáp ứng yêu cầuphát triển bền vững, v.v..
Thứ hai, hệ thống pháp luật thuế đã bảo đảm huy động đầy đủ các
nguồn thu vào NSNN; đảm bảo tỷ lệ động viên về thuế và phí vào NSNN
<small>bình quân hàng năm đạt từ 20-21% GDP. Cơ cấu thu từ thuế đã thay đổi theo</small>
chiều hướng tích cực, nguôn thu từ nội địa tăng trưởng cao và trở thành nguồn
<small>thu tir nội dia tăng trưởng cao và trở thành nguồn thu chủ yếu của NSNN, tỷ</small>
trong thu từ các yếu tổ tài nguyên đất đai, dầu thô ngày càng giảm, tỷ trọngthu từ nội lực của nền kinh tế ngày càng tăng:
Thứ ba, hệ thống pháp luật thuế được xây dựng phù hợp tiến trình hồinhập kinh tế quốc tế, thực hiện bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện,tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc day sản xuất phát triển, bao dam lợi íchquốc gia.
Thứ tư, day mạnh cải cách hệ thống pháp luật thuế theo hướng don
<small>giản, minh bạch, công khai; tách chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế. Ví</small>
dụ: Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 có hiệu lực từ
1/1/2009 đã giảm mức thuế suất, giảm diện miễn, giảm thuế tăng tính minhbạch và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ năm, vé quản lý thuế: Luật Quản lý thuế đã quy định rõ thủ tục thu
nhân khác có liên quan dé thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp, đem lại sự chủđộng cho chủ thé nộp thuế và tăng cường hiệu quả thanh tra, kiểm tra của cơquan quản lý thuế.
Những tốn tại, hạn chế trong các quy định pháp luật thuế hiện hành
Một là, mặc dù chính sách pháp luật thuế cơ bản đã cải cách hệ thống thuế
<small>theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai; tách chính sách xã hội ra khỏi chính</small>
sách thuế nhưng mức độ khá hạn chế; tính trung lập của thuế vi vậy chưa cao.
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">-26-Hai là, Luật thuế GTGT chưa áp dụng được một mức thuế suất dé bao
<small>đảm đơn giản trong việc tính thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ; chưaxác định ngưỡng doanh thu chịu thuế giá trị gia tăng dé thực hiện một phương</small>
pháp tính thuế khấu trừ, phù hợp với thơng lệ quốc tế.
Ba là, một số quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp chưa phù hợp<small>với các hoạt động kinh tế mới phát sinh, như: bán hàng đa cấp, dịch vụthương mại điện tử, cơ chế thuế thích hợp cho các tập đoàn kinh tế. Một sốquy định chưa phù hợp với thông lệ quốc tế như: quy định về tý lệ khống chế</small>
chi phí được trừ đối với hoạt động quảng cáo; quy định thu nhập khác không
thuộc diện được ưu đãi thuế...
Bon là, trong Luật Thuế thu nhập cá nhân cịn có các quy định khơng
<small>hợp lý. Ví dụ: tiêu chí và cách thức xác định việc chuyển nhượng nhà ở duy</small>
nhất; việc áp dụng thuế suất theo 2 cách tính thuế (25% trên chênh lệch hoặc
2% tính trên giá chuyển nhượng) đối với thu nhập từ chuyển nhượng bat động
sản hiện nay là rất khác nhau; Các quy định giảm trừ gia cảnh còn nhiều bat
<small>cập và chưa hợp ly, v.v..</small>
6. Pháp luật về quản lý nợ công
<small>a) Thực trạng quản lý nợ công ở Việt Nam trong những năm gan đáy</small>
<small>Theo đánh giá của Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính”, trong thời gian gầnđây công tác quản lý nợ của Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể,</small>
góp phần 6n định va phát triển kinh tế đất nước, cụ thể là:
<small>- Một là, thơng qua hoạt động vay nợ, Chính phủ và các cấp chính</small>
quyền địa phương đã huy động được nguồn vốn khá lớn đầu tư phát triển,đồng thời vẫn đảm bảo quản ly nợ trong các giới hạn an toàn.
<small>- Hai là, hoạt động huy động vốn trong nước của Chính phủ thơng qua</small>phát hành tín phiếu, trái phiếu Chính phú cũng đã giúp hình thành thị trường
trái phiếu chính phủ trong nước, một thành tô khá quan trọng đề hinh thành
<small>* Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính (2009), Đề cương giới thiệu Luật Quản lý nợ công. Hà Nội</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><small>-27-thị trường tài chính hồn chỉnh.</small>
<small>- Ba là, trong công tác quan ly nợ, các văn ban pháp lý ngày càng được</small>hoàn thiện, đồng bộ hơn và tiến gần đến các chuẩn mực và thông lệ quốc tế,
nhất là trong lĩnh vực quản lý nợ nước ngồi. Chính phủ đã thực hiện nguntắc thơng nhất quản lý nợ Chính phủ, nợ quốc gia trên cơ sở phân công, xác
<small>định trách nhiệm rõ ràng hơn giữa các cơ quan quản lý.</small>
- Bốn là, công tác trả nợ Chính phủ trong và ngồi nước ln được thực
hiện đầy đủ, đúng hạn, không để xảy ra nợ quá hạn như những năm về trước.<small>Việc tích cực đàm phán xử lý các khoản nợ cũ với các chủ nợ nước ngoải</small>
<small>(thuộc Câu lạc bộ Paris, Câu lạc bộ Luân đôn) đã giúp giảm đáng kê nghĩa vụ</small>
<small>nợ của Việt Nam.</small>
<small>Bên cạnh những thành công đạt được, công tác quản lý nợ cơng ở Việt</small>
<small>Nam trong thời gian qua cịn bộc lộ nhiều bất cập, cụ thê là:</small>
<small>- Một là, trước khi Luật quản lý nợ cơng được ban hành thì chưa có sự</small>nhất quán trong cách hiểu về các khái niệm về nợ cũng như phạm vi quản lý<small>nợ trong các văn bản pháp. quy hiện hành như nợ Chính phủ, nợ khu vực</small>công, nợ quốc gia. Việc phân loại, tổng hợp nợ vì vậy cũng chưa theo các
cập dẫn đến cịn chồng chéo, khơng tập trung. - Ba là, Việt Nam vẫn
<small>chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu nợ cơng, bao gồm cả nợ trong và ngồi</small>
nước ở cấp quốc gia, chưa có cơ chế cơng bố định kỳ các thông tin cơ bản về
nợ công nhằm giúp cho cơng tác giám sát và hoạch định chính sách và chiến
<small>lược nợ của các cơ quan nhà nước có thầm quyền.</small>
<small>b) Luật quan lý nợ công: uu diém và những bat cập cân hoàn thiện</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">-28-Những ưu điểm của Luật Quản lý nợ công
Nhằm khắc phục những nhược điểm đã phân tích ở trên về cơng tác
<small>quan lý nợ công, Luật Quản ly nợ công đã có những ưu điểm nỗi bật sau đây:</small>Thứ nhất, lần đầu tiên Việt Nam có văn bản Luật điều chỉnh chuyên biệt
về lĩnh vực nợ công. Đây là điều hết sức quan trọng nhằm đảm bảo tính thống
nhất và hiệu quả trong cơng tác quản lý nợ, tránh tình trạng tản mạn các đầu mối
quản lý, tình trạng thiếu thơng tin và phối hợp kém hiệu quả giữa các cơ quan
<small>quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, Luật Quản lý nợ cơng ra đời cũng có nghĩa như</small>
<small>một “tun ngơn” rõ ràng của Việt Nam đối với các nhà tài trợ về mức độ nhất</small>
<small>quan, tính minh bach trong cơng tác quản lý nợ công của Việt Nam.</small>
Thứ hai, lần đầu tiên pháp luật Việt Nam ghi nhận một cách tổng thể
<small>các công cụ quản lý nợ công. Các công cụ quản lý nợ công được xác định một</small>
cách rõ ràng bao gồm: Luật quản lý nợ công, chiến lược nợ dài hạn, chương
<small>trình quản lý nợ trung hạn, kế hoạch vay, trả nợ hàng năm của Chính phủ.Việc xây dựng các cơng cụ quản lý mang tính chuẩn mực cao nói trên cịn</small>
nhằm hạn chế thủ tục hành chính, giảm các bước trình duyệt từng lần, đảm
<small>bảo tính chủ động của cơ quan thừa hành, đồng thời chuẩn hoá cơng tác quảnly nợ theo những quy trình ổn định.</small>
<small>Thứ ba, Luật quản lý nợ cơng đã có bước tiến trong việc quy định</small>nguyên tắc Chính phủ thống nhất quản lý tồn diện nợ cơng từ vay, giám sátsử dụng vốn vay dén tra no va dam bao an toan ng theo Chién luoc no dai han
<small>và Chương trình quan lý nợ trung han. Về co quan đầu mối, Luật quản lý nợcơng quy định Bộ Tài chính là cơ quan chủ trì xây dựng chiến lược nợ dàihạn, chương trình quản lý nợ trung hạn, kế hoạch vay, trả nợ hàng năm củaChính phủ; là đại diện có thâm quyền trong vai trò Người vay nhân danh Nhà</small>nước và Chính phủ; tổ chức trả nợ và cấp bảo lãnh Chính phủ, xây dựng và<small>quản lý cơ sở dữ liệu nợ thống nhất và cung cấp thông tin. Việc đàm phán, ký</small>
<small>* Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính (2009), Đẻ cương giới thiệu Luật Quản lý nợ công. Hà Nội</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">-29-kết các điều ước quốc tế về ODA thực hiện theo phân cơng của Chính phủ.
Một số bất cập của Luật Quản lý nợ công
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật trên đây, Luật Quản lý nợ cơng vẫn
cịn có những bất cập, mặc dù mới được thi hành trong thời gian hơn một nămqua. Những bất cập, hạn chế này cần được nhìn nhận thấu đáo để sửa đối, bé<small>sung trong thời gian tới.</small>
Thứ nhất, cách hiểu về nợ công quá hẹp, chưa thật sự phù hợp vớithông lệ quốc tế, dẫn đến việc đánh giá không đúng về nợ công ở Việt Nam.
<small>Một là, nợ cơng khơng tính đến các khoản nợ của doanh nghiệp do nhà</small>
nước nắm 100% vốn hoặc vốn chỉ phối. Thực tế trong cách định nghĩa nợ
<small>công của OECD hoặc WB, những khoản nợ này được xếp vào nợ công vì</small>
<small>khác với các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân, đối với những doanh nghiệp</small>nhà nước, cuối cùng thì nhà nước cũng phải đảm bảo khả năng trả nợ nhằm
<small>đảm bảo an sinh và trật tự xã hội, cho dù về mặt pháp ly, đây cũng chi lànhững doanh nghiệp thông thường.</small>
<small>Hai là, các khoản nợ của Ngân hàng Phát triển Việt Nam không được</small>
xếp vào nợ công là không hợp lý. Về bản chất, Ngân hàng Phát triển Việt
<small>Nam khơng phải là doanh nghiệp, vì nó hoạt động phi lợi nhuận, được Chính</small>
<small>phú dam bao khả năng thanh tốn, được miễn nộp thuế và các khoản nộpngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật”. Thực chất, các khoản huyđộng của Ngân hàng Phát triển Việt Nam được xem như là thay mặt Chính</small>
phủ, do đó can xác định đây là nợ công nhằm đảm bảo thông tin đầy đủ về nợ
<small>cơng ở Việt Nam.</small>
<small>Thứ hai, chưa có quy định về chính sách và chiến lược nợ cơng củaViệt Nam.</small>
<small>Hiện nay, Luật Quan ly nợ công thé hiện khơng rõ ràng về chính sách</small>
<small>đơi với nợ cơng. Chưa có một điều khoản nào quy định cụ thé về nội dung</small>
<small>° Xem thêm: Điều lệ Ngân hang Phát triển Việt Nam ban hành kèm theo Quyét định sd 110/2006/QĐ-TTg</small>
<small>ngày 19/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33"><small>-30-này. Chính sách nợ cơng là một trong những kim chỉ nam quan trọng để tăngcường hiệu quả của quản lý nợ cơng, do đó cần được quy định cụ thể. Bêncạnh đó, mặc dù chiến lược nợ được coi là một trong những công cụ để quản</small>
<small>ly nợ công, nhưng khơng có nội dung nao quy định về chiến lược nợ trong</small>
<small>Luật Quản lý nợ công. Điều này là hết sức cần thiết nhằm minh bạch hóa</small>
quan điểm và chủ trương của nhà nước Việt Nam đối với các nhà tài trợ và
đỗi với hoạt động quản lý, sử dụng hiệu quả nợ cơng.
Thứ ba, cịn nhằm lẫn giữa hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động<small>giám sát.</small>
Điều 4 Luật Quản lý nợ công quy định về nội dung quản lý nhà nướcvề nợ công cho thấy nhà làm luật còn nhằm lẫn giữa hai chức năng giám sát
<small>và chức năng quản lý. Cụ thể: nội dung quản lý nhà nước chỉ thể hiện ở cáckhoản 1, 2, 3, 8, 9 và 11; còn chức năng giám sát thể hiện ở các khoản 4, 5 và6. Những nội dung còn lại của Điều này cần được quy định trong những nộidung khác, vi dụ như công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và dao tạo,</small>
Thứ tư, điều 37-39 Luật Quản lý nợ công đã cho phép chính quyền địa
<small>phương di vay ngồi ngân sách.</small>
<small>Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, mọi khoản thu, chi của</small>
nhà nước phải được thể hiện vào ngân sách nhà nước. Khác với ngân sách
<small>trung ương, ngân sách địa phương được phép ghi các khoản huy động vốn</small>
như là những nguồn thu ngân sách chứ không phải là dé bù đắp bội chi ngân
sách'. Trong khi đó, từ Điều 37 đến 39 Luật Quản lý nợ công, nhà làm luật
cho phép chính quyền địa phương, ngồi việc huy động vốn thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế xã hội theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, cịn
được phép huy động vốn cho các dự án có khả năng hoàn vốn tại địa phương.
Rõ ràng, nếu những dự án này là trách nhiệm của chính quyên địa phương, thì<small>Vì theo cách phân chia nguồn thu và nhiệm vụ chỉ hiện nay, ngân sách trung ương sẽ có trách nhiệm bù dap</small>
<small>bội chi cho ngân sách địa phương thơng qua các khoản bơ sung.</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><small>-31-nó cũng là những nhiệm vụ kinh tế xã hội phải thực hiện thơng qua hoạt động</small>ngân sách. Cịn nếu khơng phải thuộc trách nhiệm của chính quyền địaphương thì chính quyén dia phương vay cho ai, và vay đề làm gì? Sự thiếu rõ
<small>ràng này sẽ làm cho hoạt động quản lý nợ công ở địa phương trở nên phức tạp</small>
bước cắt giảm các khoản chỉ hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước. Trongbối cảnh các doanh nghiệp nhà nước đang được cải cách, chuyển mạnh sang
<small>hạch toán kinh doanh gắn với thị trường, chủ động hạch toán, bảo tồn và</small>
phát triển vốn, kinh doanh có hiệu quả, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm,Nhà nước chỉ đầu tư ban đầu. Đáng lưu ý là, giảm mạnh các đối tượng bao
cấp của ngân sách nhà nước; có cơ chế huy động thêm các nguồn lực ngoài
ngân sách để đảm bảo mục tiêu phát triển các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa.
Theo báo cáo thâm tra của Uỷ ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội,<small>việc thực hiện dự toán chi ngân sách trong những năm vừa qua cịn chưa hiệu</small>
quả, thể hiện sự lang phí lớn. Dé khắc phục những yếu kém trong giám sát và
<small>sử dụng ngân sách nhà nước, đặc biệt là trong việc sử dụng vốn ngân sách nhà</small>nước trong chỉ đầu tư phát triển, Ngày 15/12/2009, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 113/2009/NĐ-CP về giám sát và đánh giá đầu tư nhằm hạn chế
tình trạng các dự án đầu tư, đặc biệt là từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước bị
<small>sử dụng khơng hiệu quả, lãng phí, gây thất thốt. Nghị định áp dụng cho cáccơ quan, tơ chức, cá nhân có liên quan đên hoạt động đâu tư trực tiêp và hoạt</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><small>-35-động giám sát, đánh giá đầu tư. Theo tỉnh thần của Nghị định này, việc giámsát, đánh giá các dự án đầu tư sẽ được áp dụng với các dự án có 30% vốn nhànước trở lên và các dự án từ những nguồn vốn khác. Nghị định quy định cụ</small>
thê chế độ báo cáo về giám sát, đánh giá đầu tư cũng như quy định chế tàinghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm quy định về giám sát, đánh giá đầu<small>tư. Theo đó, các cơ quan thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư báo cáo kịp thời</small>
các cấp có thẩm quyền những trường hợp vi phạm về quản lý đầu tư thuộc
đánh giá dau tư cố tình che giấu các trường hợp vi phạm về quản lý đầu tư sẽ
<small>chịu trách nhiệm liên đới trước pháp luật về các sai phạm và hậu quả gây ra."Việc Chính phủ ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạtđộng giám sát quản lý sử dụng vốn ngân sách nhà nước là một động thái tích</small>
cực để hoạt động này đạt hiệu quả trên thực tế.
Một trong những bất cập lớn trong việc nhà nước sử dụng vốn ngân<small>sách hiện nay đó là việc nhà nước đầu tư vốn vào các tập đoàn kinh tế, đầu tư</small>
vốn vào các doanh nghiệp có vốn nhà nước. Tuỳ theo tỉ lệ vốn góp của nhà
<small>nước vào các doanh nghiệp mà xác định mức độ hiệu quả đầu tư của nhà nước</small>
theo hình thức đầu tư này có đạt được mục đích đã đề ra hay khơng. Rõ ràng,sự thua 16 kéo dai của các tập đoàn kinh tế nhà nước và các cơng ty có vốnnhà nước đã cho thấy dòng vốn đầu tư của nhà nước theo mơ hình này khơng
<small>hiệu quả. Vụ việc thua lỗ hàng trăm ngàn tỉ đồng của tập đồn Cơng nghiệptàu thuỷ Vinashin chỉ ra rằng vấn đề giám sát hoạt động của Tập đồn, Tổng</small>
cơng ty cịn nhiều hạn chế, vì thế các cơ quan chức năng đã chậm phát hiệnnhững yếu tổ rủi ro tiềm ẩn. Tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, Chính phủ cũng
thừa nhận những yếu kém, lúng túng trong quản lý nhà nước đối với các
doanh nghiệp có vốn nhà nước. Sự khơng tách bạch chức năng và nhiệm vụ<small>của người đại diện sở hữu vôn nhà nước và người quản trị, điêu hành trong" Xem "Nghị định về giám sát và đánh giá đầu tu’’ — www. Luatsuvietnam.vn</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>-33-những doanh nghiệp nhà nước là một trong -33-những bắt cập lớn, gây cản trở</small>
dén hiệu quả của mơ hình doanh nghiệp loại này. Một nguyên nhân khác nữa
<small>xét ở góc độ quản lý kinh tế vĩ mô là công tác quản lý và giám sát tải chính</small>của các cơ quan có thầm quyền thiếu tập trung, chưa chặt chẽ. Quan hệ giữa
<small>ngân sách nhà nước và doanh nghiệp nhà nước còn lẫn lộn giữa bao cấp và tài</small>
trợ hợp lý dẫn đến sự bảo hộ quá mức của ngân sách nhà nước, tạo ra tư
<small>tưởng thụ động, y lại, trông chờ, làm giảm sức cạnh tranh của các doanhnghiệp nhà nước trong quá trình hội nhập.</small>
<small>Một trong những nguyên nhân khác nữa dẫn đến hiệu quả sử dụng ngân</small>sách nhà nước còn yếu kém là việc chi ngân sách nhà nước vẫn dành bao cấp
cho một số lĩnh vực (bao cấp trực tiếp hoặc gián tiếp), cho một số khoản chỉ<small>không thuộc phạm vi bảo đảm của ngân sách nhà nước (như chi cho các hiệp</small>
hội quần chúng, hỗ trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước, chi sự
nghiệp trong các tổng công ty nhà nước...). Tỷ trọng chi dành cho lương quá<small>lớn do bộ máy quản lý công kénh nên mức lương bình qn cho mỗi cán bộ,</small>cơng nhân viên thấp. Ngân sách phải chi cho các đối tượng thuộc diện trợ cấp
<small>xã hội cịn lớn, trong khi chính sách xã hội hóa các nguồn lực để đầu tư cho</small>một số lĩnh vực (giáo dục, y tế, văn hóa...) tiến hành cịn chậm.
<small>II. ĐỊNH HƯỚNG HỒN THIỆN PHÁP LUAT VE TÀI CHÍNH CƠNG Ở VIỆTNAM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CỤ THẺ</small>
<small>1. Mục tiêu, những yêu cầu cơ bản trong việc xây dựng và hoàn thiện</small>
pháp luật về tài chính cơng ở Việt Nam
Trong bat kỳ cuộc cai cách nào của Nhà nước, cải cách về tài chính
<small>ln là nội dung được quan tâm hàng đầu, vì vậy trong 10 năm thực hiện</small>
chương trình tổng thé cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010”,
<small>lĩnh vực tài chính cơng đã có những bước hồn thiện căn bản. Tuy nhiên,</small>
trước bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng cao cũng như yêu cầu phát huy
<small>* Xem: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 phê duyệt chương trình</small>
<small>tơng thê cải cách hảnh chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37"><small>-34-mạnh mẽ vai trò của Nhà nước trong đời sống xã hội, van dé cải cách tàichính cơng trong đó có việc hồn thiện pháp luật về tài chính cơng là một</small>
điều tất yếu, khách quan nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng của Nhà nước
<small>trong thời kỳ mới.</small>
<small>Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tài chính cơng phải bảo đảm</small>
tính tồn diện, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn; trên cơ sở đó, xây dựng, quảnlý và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, cơng khai, minh bạch các nguồn tài chínhcơng phục vụ đắc lực cho các hoạt động của Nhà nước đồng thời thúc daykinh tế - xã hội phát triển trước yêu cầu của hội nhập quốc tế và sự nghiệp
cơng nghiệp hóa — hiện đại hóa đất nước.
a) Pháp luật về tài chính cơng phải mang tính tồn diện
u cầu về tính tồn diện của pháp luật về tài chính cơng địi hỏi các
<small>quy định pháp luật của Nhà nước ban hành phải bảo đảm bao quát điều chỉnh</small>
được hết các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hình thành, quản lý và
<small>sử dụng các quỹ tài chính của Nhà nước. Hệ thong pháp luật về tài chính cơnghiện nay nhìn chung là đã đáp ứng tương đối tốt yêu cầu nói trên với các bộ</small>
phận pháp luật về thu, chi NSNN, nhưng vẫn còn nhiều nội dung bất cập cần
hoàn thiện cũng như bé sung những quy định mới dé điều chỉnh những vấn đề<small>phát sinh từ hoạt động thực tiễn. Ví dụ: pháp luật về tài chính cơng hiện nay</small>
vẫn cịn thiếu những quy định cụ thể để xử lý các tình huống tăng, giảm đột
biến thu NSNN tại các cơ quan, đơn vị hoặc các cấp ngân sách sau khi đã
được cơ quan có thầm quyén giao ngân sách theo quy định của pháp luật; hệ
thống các quy định cụ thể về thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm vềbiên chế và tài chính cho các đơn vị sự nghiệp trong từng ngành nhằm bảo
đảm thực thi thé chế chung trên cơ sở phù hợp với đặc thù của đơn vị sựnghiệp trong mỗi ngành v.v.. Bên cạnh đó, bộ phận pháp luật quy định về tạo<small>lập, sử dụng các quỹ tài chính cơng ngồi ngân sách cịn chưa được chú trọng</small>
<small>đúng mức.</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">-35-b) Pháp luật về tài chính cơng phải bao dam tính đồng bộ
u câu về tính đồng bộ địi hỏi hệ thống các quy định pháp luật vẻ tài
<small>chính cơng một mặt phải thống nhất trong nội tại đồng thời phải thống nhất,</small>
đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành. Sự thiếu đồng bộ trong chính sách,
<small>pháp luật là rào cản lớn trong việc thực hiện quản lý tài chính cơng và gây khókhăn khơng nhỏ cho các chủ thể trong q trình thực hiện hoạt động của mình.</small>
<small>Don cử, luật NSNN quy định các khoản chi NSNN phải được thực hiện theo</small>đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức. Muốn thực hiện được quy định này, đòi hỏi
<small>Nhà nước phải ban hành day đủ các chế độ, chỉ tiêu, định mức phù hợp với tình</small>
hình thực tế. Vì vậy, u cầu về tính đồng bộ địi hỏi q trình xây dựng và
<small>hồn thiện pháp luật về tài chính cơng phải đặt trong mối quan hệ tong thé với</small>
hệ thống pháp luật hiện hành từ đó xây dựng quy định mới phù hợp hoặc sửa
đơi, bổ sung, hay ban hành quy định mới nhằm bảo đảm tính đồng bộ trong
nội tại pháp luật về tài chính cơng và giữa pháp luật về tài chính cơng với hệ
thống pháp luật hiện hành.
c) Pháp luật về tài chính cơng phải phù hợp với thực tiên đồng thời
<small>định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển</small>
Yêu cau này địi hỏi pháp luật về tài chính cơng phải xuất phát từ thựctiễn và đáp ứng những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn. Có như thế, pháp luật về tài
<small>chính cơng mới đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng trên thực tế. Muốn</small>
<small>vậy, quá trình xây dựng, hồn thiện pháp luật về tài chính cơng phải có khảo</small>
sát, tổng kết từ thực tiễn; lấy ý kiến rộng rãi từ các đối tượng chịu sự tác động
<small>của các quy định pháp luật về tài chính cơng trên cơ sở đó xây dựng và hồn</small>
thiện hệ thống các quy định pháp luật cho phù hợp. Song song với yêu cau
<small>phù hợp với thực tiễn, pháp luật về tài chính cơng phải định hướng cho cácquan hệ tài chính cơng phát triển theo ý chí của Nhà nước trên quan điềmquản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các nguồn quỹ tài chính Nhà nước. Nếuban hành các quy định không phù hợp với thực tiễn, một mặt, sẽ khơng đảm</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>-36-bao tính hiệu qua trong hoạt động quản lý tài chính cơng, mặt khác, sẽ là cơ</small>
<small>hội cho tình trạng tham nhũng, lãng phí nguồn lực, gây ra những tác động tiêu</small>
cực đối với nền tải chính quốc gia, rộng hon là đối với tồn bộ đời sông kinh
tế - xã hội.
c) Pháp luật về tài chỉnh công phải bao dam bao quát nguôn thu và tiết
<small>kiệm, hiệu qua trong quan lý và sử dụng các nguồn tài chính cơng cua Nhà nước</small>
Thứ nhất, pháp luật về tài chính cơng phải đảm bảo bao qt nguồn thu.
Trước bối cảnh một số nguồn thu truyền thống bi suy giảm do những cam kết
<small>trong quá trình hội nhập và sự bất tương xứng một cách đương nhiên giữa khả</small>năng thu bị hạn chế với nhu cầu chỉ ngày càng lớn, một mặt, Nhà nước cần<small>quan tâm tới việc sửa đồi, bổ sung hay ban hành các luật thuế mới, mặt khác,</small>
cần chú trọng tới những khoản thu ngoài thuế của Nhà nước. Một số luật thuế
<small>mới đã được ban hành vừa qua ở nước ta như thuế bảo vệ môi trường, thuế sử</small>
dụng đất phi nông nghiệp đã thể hiện rõ yêu cầu này. Ví dụ: theo đánh giá của
Ngân hàng thé giới (WB), thuế đối với thị trường bất động sản ở Việt Nam<small>còn chưa cân xứng với tiềm năng của nó và cần hoản thiện trong tương lai.</small>
Thứ hai, pháp luật về tài chính cơng phải góp phân làm tăng hiệu quả<small>trong quản ly và sử dụng các ngn tài chính CƠNG.</small>
Thực tế hiện nay, pháp luật về tài chính cơng vẫn cịn nhiều bất cập ảnhhưởng đến yêu cầu quản lý và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực tài chính
cơng như: phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chỉ giữa các cấp ngân sách chưa thực
<small>sự bảo đảm tính hợp lý đặc biệt là giữa các địa phương với nhau; chưa có một</small>cơ chế pháp lý rõ ràng cho việc sử dụng quỹ dự phịng NSNN; thủ tục hành
<small>chính trong việc lập, chấp hành và quyết tốn NSNN mặc dù đã có những cảicách cơ bản theo hướng rút gọn, giảm những thủ tục hành chính khơng cần</small>
thiết dé tập trung cho nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, giám sát tài chính, song mộtsố thủ tục hành chính rườm rà vẫn chưa được cắt bỏ; nhiều van dé vướng mac<small>trong quá trình hình thành, quản ly va sử dung quỹ NSNN chưa được sửa đổi,</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">-37-bơ sung, hồn thiện kịp thời.
<small>Bên cạnh đó, hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về tải chính cơng</small>
cịn được thể hiện bởi các quy định về minh bạch về mặt tài chính cơng. Tại
Luật NSNN năm 2002, yêu cầu công bố công khai dự toán, quyết toán, kêt
quả kiểm toán NSNN, ngân sách các cấp, các đơn vi dự toán ngân sách, các tô
chức được NSNN hỗ trợ đã được nhắn mạnh" và cho đến nay, phần lớn các<small>khoản chỉ NSNN đã được phép công khai, ké các các khoản chi chung liên</small>
quan đến an ninh quốc phòng. Đối với lĩnh vực quản lý và sử dụng tài sảncơng, u cầu về tính hiệu quả cũng cần được thể hiện rõ nét. Nhà nước đã
<small>ban hành Luật quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước năm 2008 và các văn bản</small>
hướng dẫn thi hành.
<small>Hiệu quả trong việc sử dụng nguồn tài chính cơng cịn phụ thuộc rất lớnvào việc ban hành và thực hiện các quy định liên quan tới phân cấp quản lý</small>
nguồn lực cho các chủ thể liên quan. Pháp luật đã có những quy định mang
tính ngun tắc về việc phân cấp quản lý ngân sách, song, cần có sự cụ thể
<small>hóa hơn nữa các quy định này để vừa đảm bảo phát huy sự chủ động trong tạo</small>
lập nguồn thu vừa đáp ứng tốt nhu cầu chỉ của các cấp ngân sách. Điều này
cũng đã được nhắn mạnh trong nội dung cải cách tài chính cơng nằm trong
chiến lược tổng thể cải cách nền hành chính quốc gia.
e) Pháp luật về tài chính cơng phải phù hợp với với yêu cẩu mở cửa vàhội nhập kinh rễ quốc rễ
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thể tất yếu, kháchquan và Việt Nam không nằm ngồi xu thế đó, địi hỏi pháp luật nói chungtrong đó có pháp luật về tài chính cơng đặc biệt là pháp luật về Thuế phải phù
hợp với các cam kết Quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Tuy nhiên,
<small>q trình xây dựng và hồn thiện pháp luật về tài chính cơng cũng cần cân</small>
<small>nhac dén yêu tô bảo hộ nên sản xuât trong nước một cách hợp lý và được</small>
<small>'° Xem: Điều 13 Luật NSNN 2002</small>
<small></small>
</div>