Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.4 MB, 79 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÊ THANH THANG
NGHĨA VU TÀI SAN CUA DOANH NGHIỆP MAC NO THEOLUAT PHA SAN NAM 2004
Chuyên ngành: Luật Kinh tếMã số: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2006
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Chí Hiếu, các thầy cơ giáo, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã tận tình
<small>gióp đì tơi hồn thành luận văn này</small>
<small>Tác gia</small>
Lê Thanh Thắng
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">tài liệu được trích dẫn theo nguồn đã công bố. Kết quả nêu trong luậnvăn này là trung thực và chưa từng được công bồ trong bat kỳ cơng trình<small>nào khác.</small>
<small>Tác gia</small>
Lê Thanh Thắng
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Phần Mở đầu
Chuong 1. Khái luận về nghĩa vụ tai sản của doanh
<small>nghiệp bị yêu câu phá sản</small>
<small>1.1. Nghia vu tai san va phan loai nghia vu tai san cuadoanh nghiép bi yéu cau pha san</small>
<small>1.2. Vai trò cua việc xác định và thực hiện nghĩa vutài sản trong thủ tục phá sản doanh nghiệp</small>
1.3. Các quy định về nghĩa vụ tài sản của doanh
<small>nghiệp mắc nợ trong pháp luật Việt Nam</small>
Chương2. Các quy định pháp luật về nghĩa vụ tài sản<small>của doanh nghiệp bị yêu cầu phá sản và thựctiên áp dụng</small>
<small>Zell; Nghia vụ tai sản có bao dam</small>
2.2. Nghĩa vụ tài sản có bảo đảm một phần
<small>2.3: Nghia vu tai san khơng có bảo dam</small>
Chuong 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng
<small>cao hiệu quả thi hành các quy định vê nghĩavụ tài sản của doanh nghiệp bị yêu câu phá</small>
<small>3.1. Mot số kién nghị nhằm hoàn thiện các quy định</small>
<small>về nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp bị yêu cầuphá sản</small>
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi
Kết luận
hành các quy định về nghĩa vụ tài sản của doanh
<small>nghiệp bị yêu câu phá sản</small>
<small>Danh mục tài liệu tham khảo</small>
<small>7273</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Dưới sự tác động của các quy luật khách quan trong nền kinh tế thị
trường , nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ dẫn đến tình trang mat khả năng
thanh tốn nợ đến hạn và bị tuyên bố phá sản. Phá sản là một hiện tượng tấtyếu của kinh tế thị trường và nó có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế - xã hội.Nếu giải quyết tốt thì thậm chí phá sản cịn tác động tích cực đến nền kinh tế:
Bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, con nợ, người lao động và loại bớt các doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ ra khỏi nền kinh tế.
Thời gian qua, việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản ở Việt Nam có
nhiều vướng mắc mà một trong số đó là vấn đề xác định nghĩa vụ tài sản củadoanh nghiệp mắc nợ bị yêu cầu phá sản. Chang hạn như không có sự phân biệtgiữa nợ cũ và nợ mới; khơng có các căn cứ xác định các khoản nợ dẫn đến Toàán thường lúng túng trong giải quyết tranh chấp; gian lận trong thanh toán nợ;tạo ra các khoản nợ có bảo đảm hoặc chuyển từ nợ khơng bảo đảm thành nợ có
bảo đảm; nhằm lẫn giữa nợ từ kinh doanh Với nợ phát sinh từ tiêu dùng trong<small>trường hợp phá sản doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh... Trong khi</small>đó, Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 quy định sơ lược về vấn đề này.
Luật Phá sản năm 2004 (sau đây viết tắt là Luật Phá sản) được Quốc hội
khố XI thơng qua ngày 15/6/2004 và có hiệu lực thi hành ké từ ngày
15/10/2004. Luật đó có những sửa đổi cơ bản và có nhiều nội dung mới phùhợp Với yêu cầu thực tiễn, trong đó có các quy định về nghĩa vụ tài sản củadoanh nghiệp mắc nợ, tạo điều kiện cho công tác giải quyết vụ việc phá sảnmột cách công bằng, đảm bảo được lợi ích của các bên liên quan. Tuy nhiên,
do hiện tượng phá sản còn khá mới mẻ, hệ thống pháp luật của nước ta vẫn còn
chưa đồng bộ nên việc thực thi Luật Phá sản cịn gặp nhiều khó khăn. ViệcLuật Phá sản chưa thực sự phát huy hiệu quả do nhiều nguyên nhân, trong đónguyên nhân quan trọng nhất là nguyên nhân về mặt pháp lý. Mặc dù Luật Phá
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">hiện nay còn thiếu những văn bản hướng dẫn thi hành Luật, đặc biệt là các quyđịnh về nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
<small>Sau hơn một năm áp dụng, hiệu quả của Luật Phá sản chưa phát huy</small>được bao nhiêu. Theo báo cáo tham luận của Toà Kinh tế Toà án nhân dân tối
cao tại Hội nghị tổng kết cơng tác ngành Tồ án nhân dân năm 2005 thì trong
năm 2005, các Tồ án phải giải quyết 14 vụ yêu cầu phá sản doanh nghiệp
(trong đó thụ lý mới 11 vụ và 3 vụ của năm 2004 chuyền qua). Trong số đó,
các Tồ án mới giải quyết được 01 vụ (đạt 7,14%), còn lại 13 vụ chưa giảiquyết. Như vậy, số lượng đơn xin phá sản gửi Toà án tăng hơn so Với năm
<small>2004 (năm 2004 chỉ thụ lý 05 vụ) là do Luật Phá sản khả thi hơn Luật Phá sản</small>
doanh nghiệp (1993). Tuy nhiên, số việc được giải quyết không nhiều, có thédo việc hướng dẫn thực hiện cịn chậm dẫn đến có nhiều vướng mắc làm chậmtiễn độ giải quyết của các cấp Toà án. Việc giải quyết nghĩa vụ tài sản của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản hiện nay còn đang gặp nhiều vướngmắc, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp mắc nợ rút luikhái thươngtrường. Vì vậy, việc sớm có văn bản hướng dan thi hành Luật Phá sản, đặc
biệt là các quy định về nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ là một nhiệmvụ cấp thiết hiện nay. Do đó, cần nghiên cứu chỉ rõ các quy định mới của Luật
về nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ, đánh giá mức độ phù hợp với
thực tiễn, dự báo trước các vướng mắc sẽ phát sinh để đề xuất hướng khắc phục.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề xuất giải
pháp của đề tài: “Nghia vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ theo Luật Phá sảnnăm 2004” là một nhu cầu cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ là một nội dung quan trọng
trong việc giải quyết phá sản doanh nghiệp. Pháp luật của bất cứ quốc gia nào
trên thé giới dự là theo trường phái bảo vệ quyền lợi của chủ nợ hay bảo vệ
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">chỉnh vấn đề này.
Đến thời điểm hiện nay, chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện các vấn đề lý luận và thực trạng về nghĩa vụ
tài sản của doanh nghiệp mắc nợ theo Luật Phá sản năm 2004 mà chỉ có một sốdé tài khoa học nghiên cứu những van dé có liên quan. Chang hạn như đề tài:
<small>“Xử lý tài sản cua doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá san theo Luật Pha sản</small>(2004)”, đề tài luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Kim Chi; “Thi tuc giải
quyết phả sản theo Luật Phá sản năm 2004”, đề tài luận văn thạc sĩ luật học
của Đồng Thái Quang; “Zhi tuc phục hoi doanh nghiệp lâm vào tình trạng
pha sản theo Luật Pha sản nam 2004”, đề tài luận văn thạc sĩ luật học của
Nguyễn Thị Huéng; “Ludt Phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so
sảnh và phương hướng hoàn thiện”, đề tài luận án tiến sĩ luật học năm 2004của Trương Hồng Hải; “Thue trang phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoànthiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam”, đề tài khoa học cấp Bộ
của Viện Nghiên cứu quan lý kinh tế Trung ương năm 2004; “77c tién thi
hành và những đòi hái khách quan của việc sửa đổi, bồ sung Luật Phá sảndoanh nghiệp”, cơng trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Toa án nhân dântối cao năm 1999; “Pháp luật quốc tế về phá sản và vận dụng vào việc xâydựng Luật Phá sản (sửa đổi) ở nước ta”, cơng trình nghiên cứu khoa học cấpcơ sở của Toà án nhân dân tối cao năm 2001. Tuy nhiên, các cơng trình nghiêncứu này chỉ đề cập đến những nội dung cơ bản của thủ tục phá sản nói chungmà chưa nghiên cứu một cách hệ thống, chun sâu và tồn diện các khía cạnhpháp lý, cũng như chưa đánh giá toàn diện thực trạng các quy định về nghĩa vụtài sản của doanh nghiệp mặc nợ, từ đó dự báo các vướng mặc có kha năngphát sinh và đề xuất giải pháp để Luật Phá sản có tính thực thi hơn trong việc
giải quyết nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.<small>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận liên quan
đến nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ, đánh giá thực trạng áp dụngpháp luật phá sản trong việc xác định nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mac
nợ, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp dé thực thi hiệu quả các quy định của Luật
Phá sản về nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
Với mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ các van dé lý luận về nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ
như: Khái niệm nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp bị yêu cầu phá sản, phân loại<small>nghia vụ tài sản, vai trò của việc xác định và thực hiện nghĩa vụ tài sản trong thutục phá sản.</small>
- Chỉ ra các điểm mới của Luật Phá sản về nghĩa vụ tài sản của doanhnghiệp mắc nợ và dự báo các vướng mắc có khả năng phát sinh; đánh giá sựtác động của các quy định mới đó đối với thực tiễn giải quyết yêu cầu tuyênbồ phá sản doanh nghiệp.
- Đề xuất giải pháp dé thi hành hiệu quả các quy định của Luật Phá sảnnhằm giải quyết nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
<small>Với mục đích và nhiệm vụ như trên, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở</small>
các vấn đề liên quan đến việc xác định nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ;
điều kiện và thủ tục thực hiện các nghĩa vụ tài sản đó trong quá trình giải quyết yêu
cầu phá sản doanh nghiệp. Các vấn đề nghiên cứu được đặt trong bối cảnh các quyđịnh của Luật Phá sản năm 2004 và sự liên hệ, đối chiếu Với Luật Phá sản doanhnghiệp năm 1993 dé thấy những điểm mới, tiễn bộ trong pháp luật về phá sản của
<small>Việt Nam.</small>
<small>5. Phương pháp nghiên cứu</small>
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin vềNhà nước và pháp luật, quan điểm xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><small>Đảng và Nhà nước ta.</small>
Đề giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thê mà đề tài đặt ra, luận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: thống kê, phân tích, so sánh, đối
chiếu, tổng hợp và khảo sát thực tiễn.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn như sau:
- Góp phan làm sáng tá một số van dé lý luận liên quan đến nghĩa vụ tài san
của doanh nghiệp bị yêu cầu phá sản như: Khái niệm nghĩa vụ tài sản; tiêu chí phân<small>loại nghĩa vụ tài sản; vai trò của việc xác định nghĩa vụ tài sản trong thủ tục giải</small>quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp.
- Chỉ ra các điểm mới của Luật Phá sản năm 2004 về nghĩa vụ tài sản củadoanh nghiệp mắc nợ và dự báo các vướng mắc có khả năng phát sinh; đánh giá sựtác động của các quy định mới đó đối với thực tiễn giải quyết yêu cầu phá sản doanh<small>nghiỆp.</small>
- Đề xuất định hướng và giải pháp để thi hành hiệu quả các quy định của Luật
Phá sản nhằm giải quyết nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ như: Thời điểmxác định giá trị tài sản bảo đảm; người bảo lãnh cho doanh nghiệp mắc nợ; phân định
<small>các loại nghĩa vụ tài sản (nợ); thừa nhận khoản nợ mới phát sinh được ưu tiên thanh</small>tốn trong q trình phục hồi doanh nghiệp.
7. Cơ cầu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm: Lời nói đầu, 3 chương, kết luận, danh mục tài liệutham khảo. Nội dung các chương cụ thê như sau:
Chương 1: Khái luận về nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp bị yêu cau phá
Chương 2: Các quy định pháp luật về nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp bị
<small>yêu cau phá sản và thực tiên áp dụng.</small>
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành
<small>các quy định về nghĩa vụ tài san của doanh nghiệp bị yêu cau pha san.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">KHÁI LUẬN VE NGHĨA VỤ TÀI SAN CUA DOANH NGHIỆPBỊ YÊU CÂU PHÁ SẢN
<small>1.1. Nghĩa vụ tài sản và phân loại nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp</small>bị yêu cầu phá sản
1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp bị yêu cầu phá sản
Dưới sự tác động của các quy luật khách quan trong nền kinh tế thị
trường , hoạt động kinh doanh thua lỗ của các doanh nghiệp là điều khó tránh
khái. Việc kinh doanh thua lỗ của các doanh nghiệp có thé xuất phat từ nhiều
nguyên nhân khác nhau. Có những nguyên nhân khách quan như sự bat trắc và
biến động trong nền kinh tế thị trường mà doanh nghiệp khơng lưêng trướcđược; khó khăn về khách hàng, cách thức quản lý của các cơ quan quản lý kinhdoanh. Bên cạnh đó, cũng có thể việc kinh doanh thua lỗ của các doanh nghiệplại xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan như sự yếu kộm trong việc điều
hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; chính sách phát triển thươngmại của doanh nghiệp khơng tốt, thiếu khả năng thích ứng Với những biến
động trên thương trườnghoặc doanh nghiệp thường xun gặp khó khăn về tài<small>chính.</small>
Hoạt động kinh doanh kộm hiệu quả dẫn đến tình trạng doanh nghiệp
khơng có khả năng thanh tốn các khoản nợ. Đề bảo vệ quyền lợi của các chủ
nợ, ở mỗi quốc gia đều có các quy định pháp lý về nghĩa vụ tài sản của doanh
nghiệp mặc nợ, cho phộp các chủ nợ được yêu cầu con nợ thanh toán các
khoản nợ của mình. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, tình hình tàichính lành mạnh, có thể thanh tốn đầy đủ các khoản nợ đến hạn khi được chủnợ yêu cầu. Nhưng một số doanh nghiệp khác, do hoạt động kinh doanh thualỗ kộo dài đó dẫn đến tình trạng khơng cịn khả năng thanh tốn các khoản nợđến hạn; mặc dù đó cố gắng áp dụng nhiều biện pháp khác nhau nhằm có tiềnmặt để trả nợ, nhưng doanh nghiệp vẫn không khụi phục được khả năng thanh
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">phá san. Dé đảm bảo quyền lợi của các chủ nợ và của chính doanh nghiệp mắcnợ, thủ tục phá sản được đặt ra để giải quyết tình trạng này.
ở Việt Nam, trong tiếng Việt phổ thơng, các khái niệm “khánh tận”, “mat
khả năng thanh toán” hay “phá san” được dựng dé chi tình trạng khơng tra
được nợ. Bộ luật Thương mại Trung phần được ban hành ngày 12/6/1942 theo
Dụ số 46 của Bảo Đại, có hiệu lực từ ngày 25/01/1944 và chính thức hết hiệu
lực ở miền Nam ngày 20/12/1972 là đạo luật thương mại đầu tiên của người<small>Việt Nam. Vay mượn pháp luật phá sản của Pháp, đạo luật này sử dụng hai</small>thuật ngữ “khánh tận” và “phá sản” hầu như đồng nghĩa [28, tr.701,702]. Tại
Điều 864 Bộ luật Thương mại được chính quyền Việt Nam Cộng hoà ban hành
<small>ngày 20/12/1972 quy định: “Thwong gia ngưng trả nợ sẽ bị tuyên an khánh</small>
tan”. Nhu vậy, “khánh tận” còn được hiểu là mat khả năng thanh toán. Tuynhiên, khi phá sản được thừa nhận là một hiện tượng bình thường trong nên
kinh tế thị trường thì thuật ngữ “phá sản” mới chính thức được quy định trong
<small>hai văn bản pháp lý quan trọng là Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân</small>
<small>(ban hành ngày 21/12/1990).</small>
Việc xác định khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là rấtquan trọng bởi đây là cơ sở để Toà án xem xét mở thủ tục phá sản. Luật phásản của mỗi quốc gia có những quan niệm khác nhau dé xác định doanh nghiệplâm vào tình trạng phá sản. Hiện nay, trên thế giới có hai khuynh hướng chủyếu trong việc xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản:
Thứ nhất, tiêu chí định tính. Theo tiêu chí này, doanh nghiệp lâm vàotình trang phá sản là doanh nghiệp có tơng số nợ lớn hơn kha năng thanh toán.Việc xác định này được dựa trên bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Ví dụ:Pháp luật của Vương quốc Bi quy định một doanh nghiệp mat khả năng thanh
tốn nợ là doanh nghiệp khơng trả được nợ đến hạn, bị mất uy tớn về mặt tài<small>chính (Tức là khơng cịn đủ tài sản đê bảo đảm các sơ nợ của mình hoặc kiêm</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Liên bang Nga năm 2002 (được sửa đôi, bố sung năm 2004), tại Điều 2 quyđịnh: “Khánh tận (phá sản) - là sự tuyên bố của Toà án trọng tài về việc connợ khơng cịn khả năng thanh tốn đây đủ các nghĩa vụ tiền tệ và nghĩa vụthanh toan khác theo yêu cầu của chủ nợ”. Bên cạnh đó, Luật Phá sản của
Liên bang Nga cịn giải thích thế nào là “nghĩa vụ tiền tệ” và “nghĩa vụ thanh
toán”. “Nghia vụ tiền tệ” là nghĩa vụ của con nợ phải thanh toán cho chủ nợ
một khoản tiền nhất định, phát sinh từ các giao dịch dân sự hoặc trên cơ sở các<small>căn cứ khác theo quy định của pháp luật. Cịn “nghĩa vụ thanh tốn” là các</small>
khoản thuế và các khoản thu nộp ngân sách bắt buộc khác.
Như vậy, theo khuynh hướng định tính, để xác định doanh nghiệp đó lâm
vào tình trạng phá sản hay chưa người ta chủ yếu dựa vào sự cân đối giữa nợ
đến hạn và tình hình tài chính của doanh nghiệp mắc nợ.
Thứ hai, tiêu chí định lượng. Theo tiêu chí này, người mac nợ mà không
trả được nợ đến hạn Với hạn mức giá trị nhất định theo luật định thì sẽ bị coi là
<small>lâm vào tình trạng phá sản. Ví dụ: Luật Phá sản của nước Anh quy định rõ một</small>doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn nợ khi có một chủ nợ Với số tiền trên50 bảng đó: Gửi đơn đến đòi nợ doanh nghiệp và sau ba tuần lễ doanh nghiệp
<small>đó khơng trả nợ hoặc khơng thương lượng xong Với chủ nợ hoặc khơng tìm ra</small>
được biện pháp bảo đảm thoả đáng số nợ; có một án lệnh bắt doanh nghiệp trảnợ mà không thể thi hành được; khiếu nại số nợ khơng xong thì coi như đó mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn và sẽ bị đưa vào thi hành thủ tục phá sản<small>doanh nghiệp [10, tr.21].</small>
Theo khuynh hướng định lượng, chỉ cần xem xét đến khả năng thanhtoán đối với nợ đến hạn của doanh nghiệp mà khơng cần quan tâm đến tài sảnhiện có của doanh nghiệp. Do đó, khả năng mở thủ tục phá sản đối với doanhnghiệp được sớm hơn nên các giải pháp phục hồi hoặc cho doanh nghiệp phásản có thé tiến hành kịp thời khi doanh nghiệp chưa thật sự kiệt qué về tài
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">chứng minh doanh nghiệp mắc nợ lâm vào tình trạng phá sản của các chủ nợđược quy định thuần tuý mà không phải đi sâu vào cơ cấu tài chính của doanh
nghiệp. Hơn nữa, trên thực tế các chủ nợ rất khó có khả năng tìm hiểu kỹ được
cơ cấu tài chính của doanh nghiệp mắc nợ.
Pháp luật về phá sản doanh nghiệp của Việt Nam qua các thời kỳ phát
triển kinh tế - xã hội cũng đó cố găng đưa ra các dấu hiệu cụ thé dé xác định
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Điều 2 Luật Phá sản doanh nghiệp<small>(1993) quy định: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng pha sản là doanh nghiệp</small>
gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đó áp dụngcác biện pháp tài chính can thiết mà vẫn mắt khả năng thanh tốn nợ đếnhan”. Các biện pháp tài chính cần thiết để khắc phục tình trạng mat kha năngthanh tốn nợ đến hạn bao gồm: Có phương án tơ chức lại hoạt động sản xuấtkinh doanh, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm; có biện pháp xử lý hàng hoá,vật tư tồn đọng; thương lượng Với các chủ nợ dé hoán nợ, mua nợ, bảo lãnh,
giảm nợ, xoá nợ; vay ngân hàng dé trả các khoản nợ đến hạn... Theo quy định
tại Điều 3 Nghị định số 189/CP ngày 23/12/1994 hướng dẫn thi hành Luật Phásản doanh nghiệp (1993) thì dau hiệu xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạngphá sản là doanh nghiệp bị thua lỗ trong hai năm liên tiếp đến mức không trảđược các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho người lao động theo thoảước lao động và hợp đồng lao động trong ba tháng liên tiếp.
Luật Phá sản năm 2004 đó thay đơi dấu hiệu xác định doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản. Điều 3 Luật Phá sản quy định: “Doanh nghiệp, hợp tácxã khơng có khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có u cau
<small>thì được coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Như vậy, so Với Luật Phá sản</small>
doanh nghiệp năm 1993 thì Luật Phá sản chỉ sử dụng một dấu hiệu duy nhất là
“khơng có khả năng thanh tốn nợ đến hạn” dé xác định doanh nghiệp lâm vào<small>tình trạng phá sản.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp có thể tạo ra nhiều loại
nghĩa vụ khác nhau, trong đó có các nghĩa vụ về tài sản hay còn gọi là cáckhoản nợ. “Nghĩa vụ” theo Từ dién tiếng Việt của Nhà xuất ban Da Nang năm1998 được hiểu là việc mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm đổi với xãhội, đối với người khác [21, tr.657]. Cũng theo từ điển này, “tài sản” đượchiểu là của cải vật chất dựng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dung [27,tr.853]. Tuy nhiên, các định nghĩa này chi là định nghĩa trong ngôn ngữ phổ<small>thông chứ không phải là định nghĩa trên phương diện pháp lý của khái niệm</small>nghĩa vụ tài sản. Theo quy định tại Điều 280 Bộ luật dân sự năm 2005 thì
nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thê (gọi chung là bên
có nghĩa vụ) phải chuyền giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tê cógiá, thực hiện cơng việc khác hoặc khơng được thực hiện cơng việc nhất định
vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thé khác (gọi chung là bên có quyền).
<small>Luật Phá sản không đưa ra khái niệm nghĩa vụ tài sản mà chỉ đưa ra</small>
cách xác định nghĩa vụ về tài sản. Theo quy định tại Điều 33 Luật Phá sản thìviệc xác định nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tìnhtrạng phá sản được xác định băng: Các yêu cầu đòi doanh nghiệp, hợp tác xã
thực hiện nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản mà nghĩa vụ này không có bảo đảm; các u cầu địi doanh
nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ về tài sản có bảo đảm được xác lập trước
khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, nhưng quyền ưu tiên thanh<small>tốn đó bị huỷ bỏ.</small>
Nghia vụ về tài sản của doanh nghiệp bị yêu cầu phá san dự được biểuđạt dưới hình thức này hay hình thức khác nhưng đều có các dấu hiệu pháp lý
<small>cơ bản như sau:</small>
Thứ nhát, đây là nghĩa vụ xác định được băng một khoản tiền mà doanh
nghiệp mac nợ (con ng) phải thanh toán cho các tổ chức, cá nhân khác (chủ nợ).
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Nghĩa vụ về tài sản không giống như nghĩa vụ giao vật hay nghĩa vụ<small>thực hiện một công việc. Nghĩa vụ giao vật là nghĩa vụ mà theo đó bên cónghĩa vụ phải hồn trả ngun vẹn một vật nào đó như hai bên đó thoả thuận</small>
cho bên có qun. Cịn nghĩa vụ thực hiện một cơng việc là việc bên có nghĩavụ phải thực hiện một cơng việc mà hai bên đó thoả thuận, có thể là một cơngviệc cho bên có quyền hoặc cho người thứ ba. Các nghĩa vụ này không đượcxác định giá tri và tính thành tiền như nghĩa vụ về tài sản. Ví dụ: Doanh nghiệp
A ký hợp đồng Với Doanh nghiệp B thuê một chiếc xe ô tô tải để phục vụ kinh
doanh. Từ hợp đồng này sẽ phát sinh hai nghĩa vụ đối với Doanh nghiệp A: 1/
Nghĩa vụ hồn trả chiếc ơ tơ khi hết thời hạn th; 2/ Nghia vụ thanh toán tiền<small>thuê. Như vậy, nghĩa vụ hồn trả vật th khơng phải là nghĩa vụ tài sản phát</small>
sinh khi Doanh nghiệp A bị yêu cầu phá sản. Cách thức thực hiện nghĩa vụ
hoàn trả vật thuê khi doanh nghiệp bị yêu cầu phá sản hoàn toàn khác cách
thức thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền thuê. Doanh nghiệp là bên thuê tài sản
phải trả nguyên vẹn tài sản đó cho bên cho th. Cịn đối với khoản tiền th,nếu khơng có bảo đảm thì chỉ được thanh toán khi thanh lý tài sản của doanh<small>nghiệp bị phá sản.</small>
<small>Thứ hai, các nghĩa vụ tài sản này phát sinh từ hoạt động kinh doanh của</small>
doanh nghiệp (Các giao dịch, hợp đồng được doanh nghiệp mắc nợ thiết lập
<small>Với bạn hàng, người lao động hoặc từ việc doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụluật định).</small>
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thé tạo ra các
khoản nợ. Các khoản nợ này có thé phát sinh từ các giao dịch, hợp đồng đượcdoanh nghiệp mắc nợ thiết lập Với bạn hang. Chang hạn như dé mở rộng đầu
tư, doanh nghiệp đó ký hợp đồng vay vốn của ngân hàng. Hợp đồng này đó
làm phát sinh nghĩa vụ về tài sản đối với doanh nghiệp. Theo đó, doanh
nghiệp phải trả nợ cả tiền gốc và tiền lãi đối với ngân hàng khi hết hạn hợp
đồng. Tuy nhiên, đối với chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">hợp danh trong công ty hợp danh vay vốn ngân hang dé xây nhà ở phục vụ cho
nhu cầu sinh hoạt cá nhân thì nghĩa vụ này khơng được coi là nghĩa vụ phát
<small>sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và sẽ không được gọi là nghĩa</small>vụ về tài sản của doanh nghiệp mac nợ bởi vi day la khoản nợ dan sự giữa chu<small>doanh nghiệp tư nhân Với ngân hàng chứ không phải nợ thương sự.</small>
Các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp cũng có thể được phát sinh từviệc ký kết hợp đồng lao động giữa doanh nghiệp Với người lao động. Ví dụ:
Để có thê phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, Doanh nghiệp A đó phải
ký kết hợp đồng lao động Với 50 công nhân làm việc trong các xưởng may của
mình. Hợp đồng này đó làm phát sinh nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp, theo
đó doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, bảo hiểm xã hội và cácnghĩa vụ khác cho người lao động theo thoả ước lao động tập thé và hợp đồnglao động đó ký kết.
Nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp cũng có thé phát sinh từ các khoản
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong q trình hoạt động kinh doanh. Vidụ: Cơng ty gốm sứ A trong quá trình nung các sản phẩm gốm sứ, khói lị đó
làm chết cháy tồn bộ những ruộng lúa của người dân ở gần khu vực lị nunggốm. Do đó, Cơng ty gốm sứ A đó phải bồi thường thiệt hại hoa màu chonhững người dân có ruộng lúa ở gần lị nung sứ vì hoạt động gây ô nhiễm môi<small>trường của Công ty.</small>
<small>Bên cạnh những nguyên nhân làm phát sinh nghĩa vụ tài sản của doanh</small>nghiệp nêu trên, doanh nghiệp cịn có thể thực hiện nghĩa vụ tài sản theo Luật
định đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Chăng hạn nhưdoanh nghiệp phải nộp những khoản thuế cho Nhà nước theo quy định của
Luật thuế áp dụng đối với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, đối với thuế thu nhập cá nhân áp dụng cho chủ sở hữu doanh nghiệp tư
nhân hoặc cá nhân thành viên cơng ty thì khoản thuế này không được coi là
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><small>nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp bởi vì nó là khoản nợ dân sự của chủ sở hữu</small>doanh nghiệp đối với cơ quan thuế Nhà nước.
Thứ ba, đây là các nghĩa vụ tài sản đó đến hạn thanh tốn.
<small>Khi xem xét doanh nghiệp đó lâm vào tình trạng phá sản hay chưa thì</small>Tồ án chỉ căn cứ vào các khoản nợ (nghĩa vụ tài sản) đó đến hạn thanh tốn.
Theo quy định tại Điều 3 Luật Phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản khi khơng có khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn khichủ nợ có yêu cầu. Với quy định này thì chỉ khi nào doanh nghiệp, hợp tác xãkhơng có khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn, khi chủ nợ có yêu cầu<small>mới bị coi là lâm vào tình trạng phá sản. Do đó, các doanh nghiệp mặc dù kinh</small>doanh thua lỗ nhưng vẫn còn khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khichủ nợ yêu cầu thì chưa bị coi là doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Ngồi ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật Phá sản thì Tồ án ra quyết<small>định mở thủ tục phá sản khi có các căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác</small>xã lâm vào tình trạng phá sản. Cũng tại khoản 4 của điều luật này thì Tồ án raquyết định khơng mở thủ tục phá sản nếu xét thấy doanh nghiệp, hợp tác xã
chưa lâm vào tình trạng phá sản. Như vậy, Tồ án chỉ có thể ra quyết định mở<small>thủ tục phá sản khi doanh nghiệp, hợp tác xã khơng có khả năng thanh tốn các</small>khoản nợ đến hạn, khi chủ nợ có yêu cầu.
Sau khi Toà án ra quyết định mở thủ tục thanh lý thì các khoản nợ chưa
đến hạn Cũng được coi là đến hạn (Điều 34 Luật Phá sản). Với quy định nàychúng ta có thể hiểu các nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp mắc nợ dự đếnhạn hay chưa đến hạn thì khi mở thủ tục thanh lý doanh nghiệp đều được coi làcác khoản nợ đó đến hạn thanh tốn. Tuy nhiên, khơng được tính lãi đối với
thời gian chưa đến hạn. Như vậy, nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp bị yêu cầu
phá sản phải là các nghĩa vụ tài sản đó đến hạn thanh toán.
Thứ tư, việc thanh toán nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mặc nợ được<small>thực hiện theo một thủ tục đặc biệt.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Tính chất đặc biệt của thủ tục này thể hiện ở chỗ: Sau khi có quyết định
thanh lý doanh nghiệp mắc nợ, co quan Nhà nước có thâm quyên sẽ tiến hànhphân chia tài sản còn lại của doanh nghiệp mắc nợ cho các chủ nợ tương ứng
Với phần quyền tài sản của họ. Nếu tài sản còn lại của doanh nghiệp mắc nợ
đủ đề thanh tốn hết các khoản nợ thì các chủ nợ được nhận tồn bộ số nợ của
mình. Trong trường hợp tài sản còn lại của doanh nghiệp mắc nợ khơng cịn đủ
dé thanh tốn hết cho các chủ nợ thì các chủ nợ được nhận lại khoản nợ của
mình theo tỉ lệ phần trăm tương ứng Với phần quyền tài sản của họ. Sau khi
thanh toán xong, doanh nghiệp mắc nợ khơng cịn nghĩa vụ tài sản đối với cácchủ nợ cho dự doanh nghiệp mắc nợ vẫn chưa thanh toán hết cho các chủ nợ,ngoại trõ trường hợp doanh nghiệp mắc nợ là doanh nghiệp tư nhân hoặc côngty hợp danh. Quy định này nhằm bao đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cácchủ nợ. Các chủ nợ đều có quyền bình đăng khi nhận lại tài sản của doanhnghiệp mắc nợ, tránh tình trạng có chủ nợ nhận được tài sản của doanh nghiệpmac nợ, có chủ nợ không nhận được do doanh nghiệp mac nợ hết tài sản.
Qua sự phân tích các dấu hiệu pháp lý cơ bản của nghĩa vụ về tài sản của
doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản như trên, luận văn đưa ra khái niệm
nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản như sau:
Nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản lànhững nghĩa vụ xác định bằng tiên, đó đến hạn thanh tốn, được phát sinh từcác giao dịch, hợp dong do doanh nghiệp mắc nợ thiết lập Với bạn hàng,
<small>người lao động hoặc từ việc doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ luật định màdoanh nghiệp phải thanh toán trong thủ tục phá sản.</small>
Với quan niệm như trên thì nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp bị yêucầu tuyên bố phá sản chính là các khoản nợ mà doanh nghiệp phải thanh toáncho bạn hàng, người lao động, Nhà nước và những đối tượng có liên quan khác
trong q trình giải quyết u cầu phá sản doanh nghiệp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">1.1.2. Phân loại nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp bị yêu cầu phá sảnPhân loại nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ là vấn đề có ý nghĩaquan trọng trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp. Việc phân loại nàysẽ giúp Tồ án có thể xác định chính xác doanh nghiệp đó lâm vào tình trạngpha sản hay chưa dé ra quyết định mở thủ tục (hoặc không mở thủ tục) phá<small>sản. Việc xác định chính xác các nghĩa vụ tài sản đảm bảo việc phân chia tài</small>sản của con nợ bị phá sản cho các chủ nợ, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp<small>pháp của họ trong trường hợp doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục thanh lý.</small>
Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản sẽ có rất nhiều nghĩa vụ về
tài sản mà doanh nghiệp mắc nợ phải thực hiện như: Các khoản nợ có bảo đảm
băng tài sản thế chấp, cầm cố; hồn trả lại tài sản cho Nhà nước; những khoảnnợ không có bảo đảm; nợ lương, trợ cấp thụi việc, bảo hiểm xã hội theo quyđịnh của pháp luật và các quyền lợi khác theo thoả ước lao động tập thê và hợpđồng lao động đó ký kết... Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn,tác giả căn cứ vào một số tiêu chí khác nhau dé phân loại các nghĩa vụ tài sảncủa doanh nghiệp mắc nợ như sau:
(i). Căn cứ vào tinh chất nợ phân thành: Nợ có bảo dam, nợ khơng cóbảo đảm và nợ có bảo dam một phan.
* Nợ có bảo đảm là các khoản nợ được bảo đảm băng tài sản của doanh<small>nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba. Thông thường, tài sản này được đảm</small>bảo bằng hình thức cầm có, thế chấp, bảo lãnh hoặc các biện pháp đảm bảo<small>thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Trong các biện pháp bảo</small>
<small>đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự quy định trong Bộ luật dân sự thì các biện pháp</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Thế chấp tai sản là việc một bên (gọi là bên thé chap) dựng tài sản thuộc
sở hữu của minh dé bao đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (gọi làbên nhận thế chấp) và khơng chuyền giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.
Cam cố hay thé chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ thừa nhận cho bên
có quyền những quyên hạn đặc biệt trên một hay nhiều tài sản xác định, theođó bên có quyền được bán những tài sản này dé ưu tiên lay tiền trõ nợ. Chủ nợ
<small>có bảo đảm sẽ được thanh tốn nợ bởi tài sản bảo đảm đó, trong trường hợp tài</small>sản bảo đảm khơng đủ để thanh tốn nợ thì phần cịn thiếu được coi như là<small>khoản nợ khơng có bảo đảm và sẽ được thanh tốn trong q trình thanh lý tàisản của doanh nghiệp.</small>
Theo quy định tại Điều 361 Bộ luật dân sự năm 2005 thì bảo lãnh là việcngười thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) cam kết Với bên có quyền (gọi là bên nhận<small>bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là bên được bảo</small>lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện khơng đúng nghĩa vụ. Các bên Cũng có thé thoả thuận về việc bảo lãnh
<small>chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh khơng có khả năng thực</small>hiện nghĩa vụ của mình. Ví dụ: Cơng ty A bảo lãnh cho Công ty B ký kết hợpđồng ton dụng vay của Ngân hàng C 1 tỷ đồng, thời hạn vay là 12 tháng, lãisuất 1%/tháng. Dé bảo lãnh cho Cơng ty B, Cơng ty A đó thế chap cho Ngân
hàng C một căn nhà trị giá 1,5 tỷ đồng. Trong trường hợp đến hạn thanh tốn<small>mà Cơng ty B không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình, theo tính “có</small>
bảo đảm” của hợp đồng bảo lãnh thì Cơng ty A phải có nghĩa vụ thanh tốn cảtiền gốc và tiền lãi cho Ngân hàng C. Như vậy, khoản nợ của Ngân hàng là
<small>khoản nợ có bảo đảm. Trường hợp Cơng ty A khơng thanh tốn cho Ngân</small>
hàng C theo nghĩa vụ của người bảo lãnh thì Ngân hàng có quyền phát mại tàisan thé chấp là căn nhà trị giá 1,5 tỷ đồng của Công ty A dé tro nợ.
* Nợ có bảo đảm một phần là các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản
<small>của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá tri tài sản bảo dam it</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">hơn khoản nợ đó. Ví dụ: Cơng ty A ký kết hợp đồng tớn dụng vay của Ngân
hàng B 3 tỷ đồng trong thời hạn 12 tháng, lãi suất là 1%/tháng. Cơng ty A đó thếchấp cho Ngân hàng B một bất động sản trị giá 2 tỷ đồng. Như vậy, khoản nợ
của Ngân hàng B chỉ được đảm bảo một phan là 2 tỷ đồng bằng giá trị bat động
sản của Cơng ty A, cịn phan nợ | tỷ đồng là khoản nợ khơng có bảo đảm.
* Nợ khơng có bảo đảm là các khoản nợ khơng được đảm bảo bằng tài
<small>sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.</small>
<small>Cách phân loại các khoản nợ thành nợ có bảo đảm, nợ có bảo đảm một</small>
phần và nợ khơng có bảo đảm nhằm các mục đích sau:
- Xác định dấu hiệu phá sản của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp có số nợ<small>khơng có bảo đảm lớn và khơng có khả năng thanh tốn được các khoản nợ này,</small>
nếu chủ nợ có u cầu thì doanh nghiệp coi như đó lâm vào tình trạng phá sản.
Việc mat khả năng thanh toán chỉ tinh tới các khoản nợ khơng có bao đảm và
những phan nợ khơng có bảo dam trong các khoản nợ có bảo đảm một phan.
- Xác định quyền và nghĩa vụ của chủ nợ khi doanh nghiệp bị yêu cầugiải quyết phá sản.
<small>Các chủ nợ có bảo đảm sẽ được thanh tốn nợ bởi tài sản bảo đảm đó,</small>trong trường hợp tài sản bảo đảm khơng đủ dé thanh tốn nợ thì phần nợ cịn
thiếu được coi như là khoản nợ khơng có bảo đảm và sẽ được thanh tốn trong<small>q trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp. Ngồi ra, các chủ nợ có bảo đảm</small>khơng có quyền biểu quyết trong Hội nghị chủ nợ.
<small>Các chủ nợ khơng có bảo đảm sẽ được phân chia tài sản còn lại của</small>
doanh nghiệp mắc nợ. Nếu tài sản của doanh nghiệp đủ dé tra cho tat cả cácchủ nợ thì các chủ nợ này được nhận đủ khoản nợ của doanh nghiệp mắc nợ
đối với mình. Trong trường hợp tài sản còn lại của doanh nghiệp mac nợ
khơng cịn đủ dé thanh tốn cho các chủ nợ thì các chủ nợ này sẽ được thanh
tốn nợ theo tỉ lệ tương ứng Với phần quyên tài sản của họ. Ngồi ra, các chủ
nợ khơng có bao đảm cịn có quyền biểu quyết trong Hội nghị chủ nợ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Các chủ nợ có bảo đảm một phần sẽ được thanh toán nợ bởi tài sản bảođảm đó, phần nợ khơng có bảo đảm sẽ được thanh tốn trong q trình thanh lýtài sản của doanh nghiệp. Các chủ nợ có bao đảm một phan có quyền biéu quyết
trong Hội nghị chủ nợ tương ứng Với phần nợ khơng có bảo đảm của mình.
- Cách thức (điều kiện và thủ tục) xử lý các khoản nợ.
Đối với các khoản nợ có bảo đảm có thé được thanh toán theo thủ tụcriêng. Chang hạn tài sản bảo đảm là tài sản cầm cô hoặc thé chấp sẽ được chủ
nợ mua lại và trõ vào phần nghĩa vụ của doanh nghiệp mắc nợ hoặc chủ nợ có
thé đem bán đấu giá tài sản đó lấy tiền trõ vào phần nghĩa vụ tài sản của doanh
nghiệp mắc nợ. Nếu giá trị tài sản đó cịn thừa sau khi thực hiện nghĩa vụ bảo
đảm thì phần giá trị thừa đó được nhập vào khối tài sản còn lại của doanhnghiệp. Trường hợp sau khi bán đấu giá tài sản bảo đảm đó mà vẫn khơng đủ
trả nợ cho chủ nợ có bảo đảm thì phần nợ cịn thiếu đó sẽ được coi như khoản
nợ khơng có bảo đảm và được doanh nghiệp mắc nợ thanh tốn trong q trìnhgiải quyết phá sản doanh nghiệp. Trường hợp có người thứ ba bảo lãnh thì
người bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với chủ nợ. Sau khi thực hiện<small>xong nghĩa vụ bảo lãnh thì người bảo lãnh sẽ được tham gia như một chủ nợ</small>
khơng có bảo đảm trong q trình thanh lý doanh nghiệp mắc nợ.
Đối với các khoản nợ khơng có bảo đảm sẽ được thanh tốn nợ theo<small>trình tự và thủ tục được quy định trong Luật Phá sản.</small>
Như vậy, việc phân biệt nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ như
trên có một ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết phá sản doanh
nghiệp. Một mặt, Toà án sẽ sớm xác định được dau hiệu phá sản của doanhnghiệp mắc nợ. Mặt khác, Toà án cũng dé dàng xác định được quyền và nghĩavụ của các chủ nợ, cũng như cách thức xử lý các khoản nợ nhằm bảo đảmquyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và của doanh nghiệp mắc nợ.
(ii). Căn cứ vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ thanh toán chia thành:
No đến hạn thanh toán và nợ chưa đến hạn thanh toán.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">* Nợ đến hạn thanh tốn là khoản nợ mà theo đó doanh nghiệp mắc nợphải có nghĩa vụ thanh tốn ngay cho chủ nợ khi họ có u cầu. Ví dụ: Công tyA ký kết hợp đồng ton dụng vay của Ngân hàng B 1 ty đồng trong thời han 12
tháng, lãi suất là 1%/tháng. Thời hạn vay từ ngày 01/6/2004 đến hết ngày
31/5/2005. Hợp đồng tớn dụng quy định bên vay phải thanh toán tiền gốc va
lãi suất khi đáo hạn. Hết ngày 31/5/2005, Cơng ty A khơng thanh tốn. Người
ta gọi khoản nợ của Công ty A đối với Ngân hàng B là khoản nợ đó đến hạn<small>thanh tốn.</small>
* Nợ chưa đến hạn thanh toán là khoản nợ ma theo đó doanh nghiệp
chưa phát sinh nghĩa vụ thanh tốn. Ví dụ: Cơng ty A ký kết hợp đồng tớn
dụng vay của Ngân hàng B 1 tỷ đồng trong thời hạn 12 tháng, lãi suất là1%/tháng. Thời hạn vay từ ngày 01/6/2004 đến hết ngày 31/5/2005. Hợp đồng
tớn dụng quy định bên vay phải thanh toán tiền gốc và lãi suất khi đáo hạn.
Ngày 01/10/2004, Toà ra ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản
Công ty A. Đây là khoản nợ chưa đến hạn thanh toán nên Cơng ty chưa phátsinh nghĩa vụ thanh tốn đối với Ngân hàng. Do đó, khi giải quyết phá sản
Tồ án không được coi khoản nợ này là căn cứ dé xác định Cơng ty đó lâm vào<small>tình trạng phá sản.</small>
Tuy nhiên, trong trường hợp Toà án ra quyết định mở thủ tục thanh lý
đối với doanh nghiệp thì các khoản nợ chưa đến hạn được xử lý như các
khoản nợ đến hạn, nhưng khơng được tính lãi đối với thời gian chưa đến hạn.Vi dụ: Công ty A ký kết hợp đồng ton dụng vay của Ngân hàng B 1 tỷ đồngtrong thời hạn 12 tháng, lãi suất là 1%/tháng. Thời hạn vay từ ngày 01/6/2004đến hết ngày 31/5/2005. Hợp đồng tớn dụng quy định bên vay phải thanh toántiền gốc và lãi suất khi đáo hạn. Ngày 01/12/2004, Tồ ra ra quyết định mở thủtục thanh lý Cơng ty A. Vậy, khoản nợ của Công ty A đối với Ngân hàng B
được tính như sau: Tiền nợ gốc 1 tỷ đồng; tiền lãi tính đến hết tháng 11/2004 là
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">1 tỷ đồng x 6 tháng x 1%/thang = 60 triệu đồng. Như vậy, tổng số tiền Công tyA nợ Ngân hàng B là | tỷ 60 triệu đồng.
Việc phân biệt nợ đến hạn thanh toán và nợ chưa đến hạn thanh tốn
giúp Toa án có thé xác định chính xác doanh nghiệp đó lâm vào tinh trạng mat
khả năng thanh toán nợ đến hạn hay chưa. Doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là
lâm vào tình trạng phá sản khi có đầy đủ hai điều kiện sau đây: 1/ Có các
khoản nợ đến hạn. Các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có bảo
đảm hoặc có bảo đảm một phần (chỉ tính phần khơng có bảo đảm) đó rõ ràng
được các bên xác nhận, có đầy đủ chứng cứ dé chứng minh và khơng có tranhchấp. 2/ Chủ nợ đó có u cầu thanh tốn nhưng doanh nghiệp, hợp tác xãkhơng có khả năng thanh toán. Yêu cầu của chủ nợ thanh tốn các khoản nợđến hạn phải có căn cứ chứng minh là chủ nợ đó có u cầu nhưng khơng được<small>doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán (như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản</small>khất nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã... ).
(ii). Căn cứ vào vào thời điểm phát sinh nợ có thể phân biệt thành:<small>Nợ cũ và nợ mới.</small>
* Nợ cũ là khoản nợ được phát sinh trước thời điểm doanh nghiệp, hợp
tác xã bị mở thủ tục giải quyết phá sản. Ví dụ: Cơng ty A ký hợp đồng tớn
dụng vay của Ngân hàng B 3 tỷ đồng trong thời hạn 12 tháng Với lãi suất
0,8%/tháng. Thời hạn vay từ ngày 01/4/2005 đến hết ngày 31/3/2006. Hợp
đồng tớn dụng quy định bên vay phải thanh toán tiền gốc và lãi suất khi đáo
hạn. Ngày 01/4/2006 Ngân hàng B vẫn chưa nhận được cả tiền gốc cho vay và
tiền lãi của Công ty A. Ngày 25/4/2006 Toà án ra quyết định Thụ lý đơn yêucầu mở thủ tục phá sản đối với Công ty A. Như vậy, khoản nợ của Ngân hàng
B là khoản nợ phát sinh trước thời điểm doanh nghiệp bị mở thủ tục giải quyết<small>phá sản và được gọi là nợ cò.</small>
* Nợ mới là các khoản nợ doanh nghiệp tạo ra từ hoạt động phục hồidoanh nghiệp. Khoản nợ này được tính từ khi doanh nghiệp bắt đầu thực hiện
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">theo phương án phục hồi được Hội nghị chủ no thơng qua. Thơng thường,người ta chia nợ mới có trong thủ tục phá sản là nợ bắt nguồn từ hợp đồng vànợ ngoài hợp đồng.
- Những khoản nợ trong hợp động: Đa số những khoản nợ mới củadoanh nghiệp bắt nguồn từ hoạt động kinh doanh, hoạt động này có sự giám
sát và kiểm tra của Thâm phán phụ trách giải quyết việc phá sản. Quá trình thi
hành phương án phục hồi, doanh nghiệp tiếp tục thực hiện một số hợp đồng cò
và ký kết thêm hợp đồng mới. Trong những hợp đồng này, bên cựng giao kết
hợp đồng sẽ được hưởng quyền ưu tiên thanh tốn. Có nghĩa là các nghĩa vụ tài
sản của doanh nghiệp phát sinh trong giai đoạn phục hồi phải được thanh tốn.
Do đó, các khoản nợ lương sau ngày Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sảncũng đều được hưởng quyền ưu tiên thanh tốn.
- Những khoản nợ ngồi hợp đồng: Bao gồm các loại Thuế có liên quanđến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tiền phạt hoặc tiền bồi thường<small>thiệt hại do việc vi phạm pháp luật của doanh nghiệp.</small>
+ Thuế: Thơng thường, tất cả các loại Thuế có liên quan đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp sau ngày Toà án ra quyết định mở thủ tục giảiquyết yêu cầu phá sản phải được doanh nghiệp thanh toán đầy đủ và đúng hạn;đặc biệt khi doanh nghiệp được thi hành phương án phục hồi hoạt động sản
xuất kinh doanh. Đây được coi là khoản nợ mới phát sinh trong quá trình
doanh nghiệp thực hiện phương án phục hồi.
<small>+ Những vi phạm pháp luật: Trong quá trình hoạt động của doanh</small>nghiệp, có thể sẽ phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, bị xử phạt hành chínhhay phạt tiền từ những việc làm vi phạm pháp luật của doanh nghiệp đó.
Chắng hạn như doanh nghiệp vi phạm về chất lượng hàng hố hay cạnh tranh<small>khơng lành mạnh... Các khoản nợ này của doanh nghiệp chỉ có từ ngày Tồ án</small>
hay cơ quan Nhà nước có thâm quyền xử phạt doanh nghiệp. Vi vậy, có thé
<small>những vi phạm pháp luật này đó xảy ra trước ngày Toa án mở thủ tục giải</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">quyết yêu cầu phá sản nhưng quyết định xử phat có sau ngày đó thì số tiền phạt
<small>cũng được coi là khoản nợ mới phat sinh của doanh nghiệp.</small>
Việc phân biệt nợ cũ và nợ mới như trên giúp Toa án có thé xác định đúng
quyền và nghĩa vụ của chủ nợ khi giải quyết phá sản doanh nghiệp. Điều này có ý
nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp vì các khoản
nợ mới có thê được ưu tiên thanh tốn so Với các khoản nợ cị.
(iv). Căn cứ vào lĩnh vực phát sinh nợ có thể chia thành: Nợ dân sự và<small>nợ thương sự.</small>
<small>* Nợ dân sự là nợ riêng của chủ sở hữu doanh nghiệp (Cá nhân chủ doanh</small>
<small>nghiệp tư nhân; thành viên công ty; xã viên hợp tác xã). Các khoản nợ này không</small>
<small>liên quan (không phát sinh) từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, không</small>
phải no của doanh nghiệp. Vi dụ: Các khoản nợ phát sinh do nhu cầu sinh hoạt,<small>tiêu dùng của cá nhân thành viên công ty; chủ doanh nghiệp tư nhân.</small>
<small>* Nợ thương sự là các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh của</small>
<small>doanh nghiệp. Là các khoản nợ phát sinh từ các quan hệ pháp luật mà doanh</small>
nghiệp tham gia Với tư cách một chủ thể độc lập.
<small>Việc phân biệt thành nợ dân sự và nợ thương sự có ý nghĩa quan trọng</small>đối với Tồ án trong q trình giải quyết phá sản doanh nghiệp. Để xác định
doanh nghiệp đó lâm vào tình trạng mat khả năng thanh tốn nợ thì Tồ án chỉ<small>căn cứ vào nợ kinh doanh chứ khơng căn cứ vào nợ dân sự.</small>
Ngồi các tiêu chí nêu trên, có thể phân biệt các khoản nợ theo tiêu chíkhác như: Nợ đó được xác định rõ ràng (được chủ nợ, con nợ thống nhất xácnhận) và nợ đang có tranh chấp (chủ nợ và con nợ còn tranh chấp về nợ).
<small>1.2. Vai trò của việc xác định và thực hiện nghĩa vụ tài sản trong thủ</small>
<small>tục phá sản doanh nghiệp</small>
Việc xác định và thực hiện nghĩa vụ tài sản có vai trị rất quan trọng
trong q trình giải quyết yêu cầu phá sản. Bởi lẽ, xác định chính xác số nợ để<small>sau này cịn thanh tốn cho các chủ nợ; xác định đúng tính chât nợ đê xác định</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">pham vi quyén và nghĩa vụ chu nợ được thực hiện. Vi du, chu nợ có bảo dam
sẽ khơng được nộp đơn u cầu phá sản; không được biểu quyết tại Hội nghịchủ nợ. Cịn chủ nợ khơng có bảo đảm thì được nộp đơn và được biểu quyết tại
<small>Hội nghị chủ nợ. Do đó, việc xác định và thực hiện chính xác nghĩa vụ tài sản</small>
sẽ giải quyết tốt việc phân chia tài sản của con nợ bị phá sản cho các chủ nợ,bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Vai trò của việc xác định vàthực hiện nghĩa vụ tài sản trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản được thê<small>hiện như sau:</small>
1.2.1. Đối với chủ nợ
Như chúng ta đó biết, phá sản ở bất kỳ doanh nghiệp nào dự lớn hay nhỏcũng đều gây ra những hậu quả nhất định. Việc thanh lý doanh nghiệp mắc nợtrong nhiều trường hợp không thé dam bao tat cả các quyền lợi cho chủ nợ.
Điều này thường xuyên xảy ra đối với những doanh nghiệp mắc nợ có tài sản
nợ lớn hơn tài sản có. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
nợ cần phải xác định chính xác số nợ dé sau này cịn u cầu thanh tốn. Ngồira, xác định đúng tính chất của nợ dé xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ chủ
nợ được thực hiện trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp,
chăng hạn như:
- Quyên nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp. Các chủ nợkhơng có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đều có quyền nộp đơn yêu cầu mởthủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã khi nhận thấy doanh nghiệp,<small>hợp tác xã lâm vào tinh trạng pha sản. Như vậy, chỉ có các chủ nợ khơng có bao</small>đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần (chỉ tính phần nợ khơng có bảo đảm) mớicó quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp; cịn các chủ nợ cóbảo đảm khơng có quyền nộp đơn u cầu phá sản doanh nghiệp.
- Quyên tham gia Hội nghị chủ nợ, biểu quyết thông qua các vấn dé khácnhau. Tất các các chủ nợ có trong danh sách chủ nợ do Tồ án lập đều có quyền
<small>tham gia Hội nghị chủ nợ. Tuy nhiên, chỉ các chủ nợ khơng có bảo đảm hoặc có</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">bao đảm một phan (chi tinh phần nợ khơng có bảo đảm) mới có quyền biểu
quyết thông qua các van đề khác nhau của Hội nghị chủ nợ. Sở di các chủ nợ cóbảo đảm khơng có quyền biểu quyết tại Hội nghị chủ nợ bởi các khoản nợ củahọ đó được đảm bao bang tài sản của doanh nghiệp mắc nợ hoặc của người thứ
<small>ba và họ sẽ được ưu tiên thanh toán nợ từ chính những tài sản bảo đảm đó.</small>
- Qun nhán lại các khoản no.
Các chủ nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần sẽ được ưu tiên nhận
lại khoản nợ của mình từ những tài sản bảo đảm của doanh nghiệp mắc nợ
hoặc từ bảo lãnh của người thứ ba. Nếu phan giá trị tài sản bảo đảm không đủso Với khoản nợ thì phần nợ cịn thiếu sẽ được thanh tốn trong q trìnhthanh lý doanh nghiệp mắc nợ.
<small>Người lao động sẽ được ưu tiên nhận lại các khoản nợ của mình so Vớicác chủ nợ khơng có bảo đảm.</small>
Các chủ nợ khơng có bảo đảm sẽ được thanh toán nợ theo nguyên tắc
nếu giá tri tài sản đủ dé thanh tốn các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều đượcthanh tốn đủ số nợ của mình; nếu giá tri tài sản khơng đủ dé thanh tốn các
khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh tốn một phần khoản nợ của mình<small>theo tỉ lệ tương ứng.</small>
<small>Như vậy, việc xác định và thực hiện chính xác nghĩa vụ tài sản của</small>doanh nghiệp mắc nợ có vai trị rất quan trọng đối với các chủ nợ. Bởi lẽ, xác
định chính xác khoản nợ dé sau này cịn thanh tốn cho chủ nợ; xác định đúng
tính chất nợ dé xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ chủ nợ được thực hiện.1.2.2. Đối với con nợ
Trước đây, pháp luật phá sản của các quốc gia có xu hướng bảo vệ quyềnlợi cho các chủ nợ mà không quan tâm đến việc bảo vệ lợi ích chính đáng củabản thân doanh nghiệp mắc nợ. Nhưng từ những năm 70 trở lại đây, pháp luậtcủa hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển lại có xu hướng
<small>bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp mặc nợ bởi vì bản chât của việc kinh doanh là</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">có sự rủi ro cao. Việc kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ đến hạn hầu nhưkhông phải do doanh nghiệp cố ý mong muốn như vậy nhằm chiếm đoạt tàisản của các nhà đầu tư mà chủ yếu là do các nguyên nhân khách quan như:<small>thiên tai, rủi ro trong kinh doanh hoặc do nguyên nhân chủ quan là năng lực</small>quản lý, kinh doanh kộm của người đứng đầu doanh nghiệp...
Xác định chính xác số nợ sẽ giúp doanh nghiệp thanh tốn đúng khoản
nợ của mình. Ngồi ra, xác định đúng tính chất nợ dé xác định phạm vi quyềnvà nghĩa vụ của chủ nợ được thực hiện đối với doanh nghiệp mắc nợ nhămbảo đảm quyên rút luihợp pháp, có trật tự ra khái “thương trường ” khi doanh
nghiệp bị “sa cơ, lỡ vận ”. Điều này góp phần đảm bảo quyền tự do kinh doanh
của doanh nghiệp; bởi lẽ, doanh nghiệp có thể tự do tham gia vào thươngtrườngthì cũng có thê tự do rút lui có trật tự khỏi thương trườngkhi khơng cịn
khả năng kinh doanh. Vì vậy, khi doanh nghiệp, hợp tác xã nhận thấy lâm vào<small>tình trạng phá sản, tức là khơng có khả năng thanh tốn được các khoản nợ</small>
khơng có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần (chỉ tính phần khơng có bảo
đảm) đó đến hạn thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với<small>doanh nghiệp, hợp tác xã đó.</small>
<small>Việc xác định và thực hiện đúng nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp trong</small>quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp cũng sẽ tránh được tình
trạng thất thốt tài sản của doanh nghiệp mắc nợ. Mặt khác, tránh được áp lựcđòi nợ của các chủ nợ. Doanh nghiệp mắc nợ chỉ phải thanh toán nợ trongphạm vi tai san cịn lại của mình. Sau khi thanh tốn hết tài sản, các khoản nợ
<small>chưa được thanh toán cũng coi như đó được thanh tốn. Do đó, con nợ được</small>hồn tồn giải phóng khỏi trách nhiệm tài sản đối với các khoản nợ, trõ một số
đối tượng đặc biệt như chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công
ty hợp danh do chế độ trách nhiệm vụ hạn nên vẫn phải tiếp tục trả nợ mặc dù
tài sản của họ đem vào kinh doanh đó đem ra thanh tốn hết.
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">Có thé nói việc xác định và thực hiện chính xác nghĩa vụ tài sản củadoanh nghiệp trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp sẽ gópphần bảo vệ một cách tối đa quyền lợi của doanh nghiệp mắc nợ.
1.2.3. Đối với Toà án
<small>Việc xác định và thực hiện đúng nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp trong</small>quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp khơng chỉ có vai trị quan
trọng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và doanh nghiệp mắc
nợ mà nó cịn có vai trị vụ cựng quan trọng đối với Tồ án. Xác định chính
xác số nợ là cơ sở để Tồ án quyết định cho doanh nghiệp thanh toán nợ; xác
định đúng tính chất nợ, Toa án có thé xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ của<small>chủ nợ, con nợ và những người có liên quan. Việc này sẽ giúp Toà án giải</small>
quyết đúng luật. Chăng hạn như vấn đề xác định doanh nghiệp đó lâm vào tình
trang phá sản hay chưa. Tồ án chỉ có thé xác định được doanh nghiệp đó lâm<small>vào tình trạng phá sản khi: Có các khoản nợ khơng có bảo đảm hoặc có bảo</small>đảm một phần (chỉ tính phần khơng có bảo đảm) đó rõ ràng được các bên xác
nhận, có đầy đủ chứng cứ để chứng minh và khơng có tranh chấp, đó đến hạnthanh tốn; chủ nợ đó có u cầu thanh tốn nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã
khơng có khả năng thanh toán. Yêu cầu của chủ nợ thanh toán các khoản nợ
đến hạn phải có căn cứ chứng minh là chủ nợ đó có u cầu nhưng khơng được<small>doanh nghiệp, hợp tác xã thanh tốn (như văn bản địi nợ của chủ nợ, văn bản</small>khất nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã...). Ngoài ra, việc xác định và thực hiện
đúng nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp trong quá trình giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp cũng sẽ giúp Toà án giải quyết đúng van đề khác như: Quyềntham gia, quyền biểu quyết các vấn đề tại Hội nghị chủ nợ, quyền nhận lại các<small>khoản nợ.v.v.</small>
1.2.4. Duy trì trật tự và ốn định xã hội
Để hoạt động, sản xuất kinh doanh phát triển, các doanh nghiệp khơngthể tự mình mà phải có những mối quan hệ Với các doanh nghiệp khác trên
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">thương trường . Do đó, khi một doanh nghiệp bị phá san thì sẽ có rất nhiều<small>chủ nợ là các doanh nghiệp khác có quan hệ với doanh nghiệp bị phá sản sẽ</small>
chịu sự tác động khơng nhỏ về tài chính. Đặc biệt, là những doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ và ngân hàng. Vì vậy, khi doanh nghiệp
bị phá sản, các chủ nợ sẽ băng mọi cách dé đòi nợ, gây rỗi loạn trật tự xã hội;
người lao động bị mắt việc làm, khơng được thanh tốn tiền lương sẽ phát sinh
những bất ôn định trong xã hội do họ gặp khó khăn trong cuộc sống; doanh
nghiệp bị mắc nợ sẽ bị gây áp lực, khơng có khả năng rút khỏi thương trường
nên sé tau tán tài sản và trồn nợ.
Khắc phục tình trạng trên, Luật Phá sản quy định trình tự giải quyết phá
sản doanh nghiệp rất cơng băng và nghiêm ngặt nhăm đảm bảo quyền lợi chocác chủ nợ liên quan. Dé dam bảo việc giải quyết phá sản doanh nghiệp thật sựcông bang đối với chủ nợ va doanh nghiệp mắc nợ thì vẫn đề xác định và thựchiện nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ có vai trị vụ cựng quan trọng.
Nếu xác định và thực hiện đúng nghĩa vụ tài sản thì các chủ nợ sẽ có cơ hộinhận được khoản nợ của mình cao hơn và họ khơng sợ doanh nghiệp tâu tán tài
sản. Điều này sẽ tránh được những rối loạn trong xã hội do các chủ nợ gây ra
như dựng người đòi nợ thuê, người lao động biéu tinh phá doanh nghiệp... Hơn
nữa, về phía doanh nghiệp cũng được đảm bảo quyền lợi, được xác định và
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình; nếu doanh nghiệp cịn khả năng kinh doanh
thì sẽ được phục hồi lại hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình; nếu doanh<small>nghiệp khơng cịn khả năng kinh doanh sẽ được áp dụng thủ tục thanh lý doanh</small>nghiệp. Sau khi thanh toán xong nợ, tài sản cịn thừa sẽ thuộc về doanh nghiệp;doanh nghiệp khơng bị gây áp lực trong quá trình giải quyết phá sản. Như vậy,doanh nghiệp mắc nợ sẽ chủ động nộp đơn xin phá sản khi thật sự kinh doanh
<small>khơng có hiệu quả. Xã hội sẽ giảm quy mụ những ngành, lĩnh vực kinh doanh</small>
<small>kom hiệu quả; góp phân cơ câu lại nên kinh tê, các nguôn đâu tư sẽ được phan</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">bồ hợp lý hơn và các nhà dau tư sẽ yên tâm dau tư kinh doanh vi họ được pháp
trạng khó khăn về tài chính. Đối với những doanh nghiệp mất khả năng thanhtoán nợ nhưng vẫn có thé phục hồi được hoạt động sản xuất kinh doanh thì
pháp luật sẽ tạo cơ hội tốt nhất cho phộp những doanh nghiệp này được phụchồi. Còn đối với những doanh nghiệp khơng cịn khả năng phục hồi thì phápluật cũng tạo điều kiện thuận lợi dé thanh ly doanh nghiệp trong thời gian sớmnhất nhằm hạn chế tối đa những thiệt hại có thể gây ra cho các chủ nợ, loại bỏnhững doanh nghiệp yếu kộm ra khỏi thương trường , đảm bảo quyền bìnhđăng của các doanh nghiệp trong nên kinh tế thị trường .
Chính vì vậy trong pháp luật về phá sản của các quốc gia thường chứađựng nhiều quy định liên quan đến việc xác định và thực hiện nghĩa vụ tài sản.
Trước đây, các quy định về nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợđược quy định tản mát trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Luật Phásản doanh nghiệp được Quốc hội khố IX nước cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt
<small>Nam thơng qua ngày 30/12/1993 và có hiệu lực từ ngày 01/7/1994; Nghị định</small>
số 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Phá sảndoanh nghiệp; Quyết định số 426/QD ngày 01/7/1994 của Toà án nhân dân tốicao về Quy chế làm việc của tập thé Tham phan phụ trách việc giải quyết yêucầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; Cơng văn số 457/KHXX ngày 21/7/1994của Tồ án nhân dân tối cao về việc áp dụng một SỐ quy định của Luật Phá sản
<small>doanh nghiệp.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Sau 10 năm thi hành, do nền kinh tế của đất nước thay đổi ngày càng
nhanh chóng nên một số quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp (1993)không cịn phù hợp Với thực tiễn. Do đó, Quốc hội khố XI đó họp và thơng
qua Luật Phá sản thay thé Luật Pha sản doanh nghiệp (1993). Nhu vay, một hệ
thống văn bản pháp luật mới về phá sản doanh nghiệp, trong đó có các quy
định về nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ ra đời, bao gồm:
L¡ Luật Phá sản được Quốc hội khố XI thơng qua ngày 15/6/2004 và có<small>hiệu lực từ ngày 15/10/2004;</small>
L¡ Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng
Thâm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy<small>định của Luật Pha sản;</small>
L¡ Quyết định số 01/2005/QĐ-TANDTC ngày 27/4/2005 của Chánh ánToà án nhân dân tối cao về Quy chế làm việc của Tổ thâm phán phụtrách tiến hành thủ tục phá sản;
L¡ Nghị định số 94/2005/NĐ-CP ngày 15/7/2005 của Chính phủ về giảiquyết quyền lợi của người lao động ở doanh nghiệp va hợp tác xã bị
<small>phá sản;</small>
(| Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994; Luật sửa
đối, bô sung một số điều của Bộ luật lao động ngày 02/4/2002 và các
<small>văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật lao động:</small>
(| Pháp lệnh thi hành án dân sự được Uỷ ban thường vu Quốc hội thơng<small>qua ngày 14/01/2004 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2004.</small>
Trong hệ thống các văn bản trên, Luật Phá sản giữ vai trò quan trọngtrong việc xác định nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ. Các quy định về
nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ được ghi nhận cụ thê tại Chương 3
của Luật Phá sản, bao gồm: Xác định nghĩa vụ về tài sản; xử lý các khoản nợ;
thứ tự phân chia tài sản; xác định giá trị của nghĩa vụ không phải là tiền; nghĩa<small>vụ về tài sản trong trường hợp nghĩa vụ liên đới hoặc bảo lãnh. Ngoài ra, các</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">nghĩa vụ này cũng được ghi nhận tại một số điều ở các Chương khác của Luật<small>Phá sản.</small>
Xác định nghĩa vụ về tài sản là những yêu cầu đòi doanh nghiệp mắc nợ
phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản. Theo Luật Phá sản đó là những u cầu địi
doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước khi
Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà nghĩa vụ này khơng có bảo
đảm; các u cầu địi doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ về tài sản cóbảo đảm được xác lập trước khi Tồ án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sảnnhưng quyên ưu tiên thanh tốn đó bị huỷ bỏ.
Xu lý các khoản nợ được quy định khá chi tiết trong Luật Phá sản, baogồm những nội dung như: Xử lý các khoản nợ chưa đến hạn; xử lý các khoảnnợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố; xác định giá trị của nghĩa
vụ không phải là tiền; nghĩa vụ về tài sản trong trường hợp nghĩa vụ liên đới<small>hoặc bảo lãnh.</small>
<small>Thứ tự phân chia tài sản là cách thức phân chia tài sản trong trường hợp</small>doanh nghiệp mắc nợ bị thanh lý. Luật Phá sản quy định rõ thứ tự ưu tiên
thanh toán cho các chủ nợ như sau: Phí phá sản; các khoản nợ lương, trợ cấp
thụi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác
theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đó ký kết; các khoản nợ<small>khơng có bảo đảm phải trả cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ theo nguyên</small>tắc nếu giá tri tai sản đủ dé thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được
nhận đủ số nợ của mình; nếu giá trị tài sản của doanh nghiệp khơng đủ dé
thanh tốn các khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản
<small>nợ của minh theo tỉ lệ tương ứng.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><small>CHUONG 2</small>
CAC QUY DINH PHAP LUAT VE NGHIA VU TAI SAN CUADOANH NGHIEP BI YEU CAU PHA SAN VA THUC TIEN AP DUNG
<small>2.1. Nghĩa vụ tài san có bao dam</small>
<small>2.1.1. Xác định nghĩa vụ tài sản có bảo đảm</small>
Quan niệm về nghĩa vụ tai sản có bảo đảm đó được ghi nhận tại khoản 1
Điều 3 Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 như sau: “Chủ nợ có bảo đảm làchu nợ có khoản nợ được bao dam bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ”.Điều luật này mới chỉ quy định nghĩa vụ tài sản có bảo đảm là khoản nợ được
đảm bảo bằng tài sản cầm cô hoặc thế chấp của doanh nghiệp mắc nợ mà<small>không quy định việc bảo lãnh cũng là một nghĩa vụ bảo đảm. Do đó, trong q</small>
trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, Tồ án thường lúng túng trong việc xác
định tính chất của các khoản nợ đó được bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba.
Khắc phục những hạn chế trên, tại khoản 1 Điều 6 Luật Phá sản quyđịnh: “Chu nợ có bao đảm là chủ nợ có khoản nợ được bao đảm bằng tài sản
<small>của doanh nghiệp, hợp tác xã và của người thứ ba”. Với quy định này thì quan</small>niệm nghĩa vụ tài sản có bảo đảm đó được hiểu theo nghĩa rộng hơn so Với
<small>quy định trong Luật Phá sản doanh nghiệp (1993). Nghĩa vụ tài sản có bảo đảm</small>không chỉ là khoản nợ được bảo đảm băng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã mắc nợ mà còn được bảo đảm băng tài sản của người thứ ba. Luật Phá sản
đó mở rộng quan niệm về nghĩa vụ có bảo đảm, góp phần bảo vệ quyền và lợi<small>ích chính đáng của các chủ nợ, đặc biệt là chủ nợ nhận bảo lãnh. Trong quá</small>trình giải quyết phá sản, việc bảo lãnh của doanh nghiệp cho một người kháccũng khó giải quyết. Vấn đề đặt ra là Tồ án có quyền huỷ bỏ hợp đồng nàykhơng? Nếu trước ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu phá sản, chủ nợ chưa yêucầu doanh nghiệp phải thi hành việc bảo lãnh thì Tồ án chưa có lý do để huỷbỏ cam kết bảo lãnh của doanh nghiệp. Nhưng nếu chủ nợ yêu cầu doanhnghiệp thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thay thế cho người mắc nợ chính thì Tồ
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>án phải xác định món nợ này là của người bảo lãnh hay của người được bảo</small>lãnh. Vấn đề này chưa được quy định rõ ràng trong Luật Phá sản doanh nghiệp(1993) nên trong quá trình giải quyết pha sản doanh nghiệp các Tham phan gặp
rất nhiều khó khăn. Khắc phục những thiếu sót đó, tại khoản 2 và khoản 3 Điều<small>39 Luật Phá sản quy định: “Trường hợp người bảo lãnh lâm vào tình trạng</small>
phá sản thì người được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản đổi với
<small>người nhận bảo lãnh. Trường họp người được bảo lãnh hoặc cả người bảo</small>
lãnh và người được bảo lãnh đêu lâm vào tình trạng phá sản thì người bảolãnh phải thực hiện nghĩa vụ về tai sản đối với người nhận bảo lãnh”. Vớiquy định này chúng ta có thê hiểu rằng trường hợp người bảo lãnh lâm vào tình
<small>trạng phá sản trong khi người được bảo lãnh khơng lâm vào tình trạng phá sản</small>
thì người được bảo lãnh (con nợ) phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản đối với
người nhận bảo lãnh (chủ nợ). Điều này hồn tồn hợp lý bởi vì bảo lãnh là
việc người thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) cam kết Với bên có quyền (gọi là bên<small>nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là bên</small>được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện
<small>hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Trong trường hợp bên bảo lãnh đó lâm</small>vào tình trạng phá sản thì khó có thể còn tài sản để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh
của mình nên bên được bảo lãnh phải gánh vác nghĩa vụ tài sản của mình đối<small>với người nhận bảo lãnh. Luật Phá sản có hiệu lực từ ngày 15/10/2004 nên</small>vấn đề bảo lãnh được hiểu theo tỉnh thần của Bộ luật dân sự năm 1995. Theo
quy định tại khoản 2 Điều 366 Bộ luật dân sự năm 1995 thì người bảo lãnh chỉ
được bảo lãnh bằng tài sản của mình hoặc băng việc thực hiện cơng việc (bảolãnh đối vật). Do đó, tính “có bảo đảm” trong hợp đồng bảo lãnh là giá trị tài
<small>sản bảo đảm của bên bảo lãnh phải lớn hơn giá trị khoản nợ của bên được bảo</small>
lãnh. Giá trị tài sản bảo đảm này phải được xác định ở thời điểm doanh nghiệpđược yêu cầu thanh tốn nợ, chứ khơng phải ở thời điểm các bên xác lập giaodịch bảo đảm. Ngồi ra, tính “có bảo đảm” trong hợp đồng bảo lãnh cịn được
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">thê hiện trong việc chủ nợ có thể thu hồi toàn bộ khoản nợ băng cách xử lý tài<small>sản bảo đảm theo phương án các bên đó thoả thuận khi xác lập giao dịch bảo</small>
đảm hoặc theo quy định của pháp luật. Nhưng đến Bộ luật dân sự năm 2005 đó
thay đổi nhận thức về van dé bảo lãnh. Tại Điều 361 Bộ luật dân sự năm 2005
quy định: “Bảo lanh là việc người thứ ba (goi là bên bảo lãnh) cam kết Vớibên có quyên (gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên cónghĩa vụ (goi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo
<small>lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có</small>
thể thoả thuận về việc bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo
<small>lãnh khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình ”. Quy định này cho phộp</small>
người bảo lãnh không cần phải dựng tài sản của mình để thế chấp đảm bảoviệc bảo lãnh mà chỉ cần cam kết sẽ thanh tốn nợ Với bên có quyền (bảo lãnhđối nhân). Như vậy, quy định trên đó thừa nhận cam kết thanh tốn (bảo lãnh)
<small>được coi là nợ có bảo dam.</small>
Đối với nhà kinh doanh, ký kết hợp đồng là bày tá sự tớn nhiệm của mìnhvào khả năng kinh tế của bên cựng giao kết. Sự tớn nhiệm là yếu tố tâm lý quan
trọng trong việc ký kết hợp đồng: Các bên cựng tin tưởng vào khả năng kinh tế
của nhau, tin vào thiện chí của người cam kết. Nhưng vì khả năng kinh tế của
các doanh nghiệp có thé thay đổi một cách nhanh chóng, dui khi uy ton, đạo đứcvà tài sản của các bên không đủ để cho bên cựng giao kết yên tâm. Đặc biệt,trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay, các bên cần phải ký kết hợp đồng
càng nhanh càng tốt cho nên không có đủ thời gian để đo lưêng hồn tồn khả
năng của bên cựng giao kết. Nhiều khi họ chỉ giao kết qua sự giới thiệu hay gặpgi mà thụi. Do đó, dé đảm bảo sự an tồn thực trong hiện hợp đồng, nhất làtrong các hợp đồng vay mượn, chủ nợ thường buộc bên mắc nợ phải thực hiệnviệc bảo đảm nghĩa vụ như cầm có, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh của người thứ
<small>ba. Bảo đảm được phân biệt thành hai loại như sau:</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">* Bảo đảm đối vật: Là việc doanh nghiệp mắc nợ đem tài sản dé đảmbảo việc thi hành nghĩa vụ của mình băng cách cầm cố hay thé chấp tài sản.Đối với bảo đảm này, doanh nghiệp mắc nợ chỉ có quyền cầm cố các động
sản; cịn bất động sản được gọi là thế chấp. Tài sản đem cầm cô hay thế chấp
phải thuộc quyền sở hữu của người dem cầm có, thế chấp. Tuy theo thoả thuận
giữa các bên, tài sản cầm cố có thé giao cho bên nhận cầm cố giữ hoặc giao
cho người thứ ba hay chính doanh nghiệp mắc nợ giữ. Trong trường hợp thế
chấp, tài sản thường do người chủ sở hữu vẫn giữ, chỉ giao cho chủ nợ giấy tê
gốc chứng nhận quyền sở hữu tài sản.
* Bao dam doi nhân: Là việc căn cứ vào nghĩa vụ bảo lãnh của bên thứba. Khác Với cầm cé va thế chấp tài sản, bảo lãnh là sự bảo đảm đối nhân.Người bảo lãnh đứng ra cam kết Với chủ nợ rằng, nếu bên mắc nợ khơng thanh
tốn thì chính họ sẽ thanh tốn thay thế. Theo định nghĩa về khoản nợ có bảo
đảm của Luật Phá sản “bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba” thì các khoản
nợ được “bảo lãnh đối nhân” khơng được coi là khoản nợ có bảo đảm. Điều
này đó gây ra một số bất hợp lý. Ví dụ: Khoản nợ tuy được bảo lãnh đối nhânnhưng chủ nợ vẫn có thể địi người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ và người bảo
lãnh có thể trả đủ nợ cho chủ nợ. Như vậy, xét về tính chất thì đây phải được<small>coi là nợ có bảo đảm.</small>
Thực tiễn giải quyết phá sản doanh nghiệp những năm qua cho thấy Toà<small>án thường lung túng khi xác định nghĩa vụ tài sản có bảo dam bởi vì giá tri tài</small>
sản bảo đảm thường xuyên biến động tăng lên hoặc hạ xuống. Do đó, thờiđiểm xác định giá trị tài sản bảo đảm là thời gian nào: Khi xác lập giao dịchbảo đảm? Khi chủ nợ yêu cầu doanh nghiệp mắc nợ trả nợ? Khi Toà án ra
quyết định mở thủ tục phá sản hay khi thanh lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ?
Bởi giá trị tài sản so Với giá trị nợ sẽ quyết định tính chất của khoản nợ là nợcó bảo đảm hay nợ có bảo đảm một phần. Ví dụ: Ngân hàng cho doanh nghiệpvay 1 tỷ đồng doanh nghiệp thé chấp tai sản. Khi ký hợp đồng ton dụng, tai sản
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">thế chấp thì được định giá là 1,5 tỷ đồng. Nhưng do có sự biến động trên thị
trường bất động sản nên giá trị tài sản xuống thấp hơn 1 tỷ đồng. Đây là nợ cóbảo đảm hay nợ có bảo đảm một phần?
Theo quy định tại Điều 336 Bộ luật dân sự năm 2005 thì trong trường
hợp đó đến hạn thực hiện nghĩa vụ nhưng bên có nghĩa vụ khơng thực hiện
hoặc thực hiện nghĩa vụ khơng đúng tháa thuận thì tài sản cầm có, thế chấp<small>được xử lý theo phương thức do các bên tháa thuận khi xác lập giao dịch bảo</small>
đảm hoặc được bán đâu giá theo quy định của pháp luật dé thực hiện nghĩa vụ.Do đó, thời điểm xác định giá trị tài sản bảo đảm là thời điểm chủ nợ yêu cầu
doanh nghiệp mắc nợ thanh toán nợ chứ không phải ở thời điểm các bên xác<small>lập giao dich bảo dam. Vi vậy, ở Vi dụ nêu trên, khoản nợ của doanh nghiệp</small>
đối với ngân hàng là nợ có bảo đảm một phan.
<small>Tuy nhiên, khi Tịa án mở thủ tục thanh lý tài sản thì các khoản nợ chưa</small>đến hạn được coi như các khoản nợ đến hạn nhưng khơng được tính lãi đối với
thời gian chưa đến hạn (Điều 34 Luật Phá sản). Nếu khoản nợ này là khoản nợ
có bảo đảm thì sẽ được xử lý theo quy định tại Điều 35 Luật Phá sản như sau:Trường hợp Tham phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc
cầm có xác lập trước khi Tồ án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được
ưu tiên thanh tốn bang tài sản đó; nếu giá trị tài sản thé chấp hoặc cầm cố
khơng đủ thanh tốn số nợ thì phần nợ cịn lại sẽ được thanh tốn trong q
trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị của tài sản thế
chấp hoặc cầm cé lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá tri tài
<small>sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã. Với quy định này thì Luật Phá sản đó</small>ghi nhận thời điểm xác định giá trị tài sản bảo đảm là khi Toà án ra quyết định
mở thủ tục thanh lý doanh nghiệp. Theo đó, nếu giá trị tài sản bảo đảm đủ dé<small>thanh toán khoản nợ thì khoản nợ đó sẽ là khoản nợ có bao dam; trong trường</small>
</div>