Tải bản đầy đủ (.pdf) (203 trang)

Thừa kế theo quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng - Phạm Văn Tuyết (Phần 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.31 MB, 203 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

THỪA KẾ

(UY ĐỊNH CUA PHÁP LUẬT

VÀ THỰC TIEN ÁP DUNG

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small>3.34 (V)</small>

<small>Mã số:</small>

<small>CTQG - 2007</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

TIẾN SĨ PHAM VĂN TUYẾT

THƯA KẾ

QUY ĐỊNH CUA PHÁP LUẬT

VA THUC TIEN AP DUNG

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

CHÚ DẪN NHÀ XUẤT BẢN

Quyền để lại thừa kế và quyền hưởng thừa kế là những

quyần cơ bản của công dân, được Nhà nước và pháp luật baohộ. Xã hội càng phát triển, vấn dé thừa kế càng trở nên đa

<small>dang, sống động và phức tạp.</small>

Nhằm giúp bạn đọc có được những kiến thức nhất định vềvấn đề thừa kế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản cuốn

sách Thửa kế - Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng

của Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết, trường Đại học Luật Hà Nội.Nội dung cuốn sách gồm 5 phần chính:

Những vấn đề chung về thừa kểThừa kế theo di chúc

<small>Thừa kế theo pháp luật</small>

Thanh toán và phân chia di sản

as oh +

Thực trang giải quyết tranh chấp về thừa kế

Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng trong việc sưu tầm,tuyển chọn ví dụ, song vấn đề thừa kế hiện nay rất phức tạp,

muôn màu muôn vẻ, nên chắc chắn không thể bao quát hết

được. Rất mong bạn đọc góp ý kiến để cuốn sách được hoàn

thiện hơn trong những lần tái bản sau.

Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

<small>Tháng 01 năm 2007 _</small>

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

NHUNG VAN DE CHUNG VỀ THỪA KE

Một số van dé lý luận về thừa kếCác quan niệm về thừa kế

Thừa kế và mối liên hệ với sở hữu

Quyền thừa kế và mối liên hệ với quyền sở hữu

Giai đoạn từ 1975 đến nay

Các nguyên tắc cơ bản của thừa kế

Nguyên tắc bình đẳng về thừa kế của cá nhân

Tơn trọng sự tự do ý chí của các bên trong thừa kếtrên cơ sở bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cácchủ thể khác

Một số khái niệm cơ bản trong quy định của pháp

<small>4857608493104</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Người không được quyền hưởng di sản

Thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản

của nhau mà chết cùng thời điểm

Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Quyền và hạn chế quyền của người lập di chúc

Quyền định đoạt của người lập di chúc

Hạn chế quyền định đoạt của người lập di chúc

Phần thứ ha

THỪA KẾ THE0 PHÁP LUẬT

Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

- Ap dụng thừa kế theo pháp luật trong các trường hợp<small>khơng có di chúc hoặc được coi là khơng có di chúc</small>

Áp dụng thừa kế theo pháp luật trong trường hợp có

<small>di chúc nhưng di chúc khơng hợp pháp</small>

Áp dụng thừa kế theo pháp luật trong trường hợp

người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùngthời điểm với người lập di chúc, cơ quan, tổ chứcđược hưởng di sản theo di chúc khơng cịn vào thời

điểm mở thừa kế

<small>233235</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

PP eh = N —

. Áp dụng thừa kế theo luật đối với phần di sản không

<small>được định đoạt trong di chúc</small>

. Ap dụng thừa kế theo luật trong trường hợp ngườithừa kế theo di chúc không được quyền hưởng di sản

. Áp dụng thừa kế theo luật trong trường hợp người thừa

kế theo di chúc từ chối quyền hưởng di sảnDiện và hàng thừa kế theo pháp luật. Diện thừa kế theo pháp luật

. Hàng thừa kế theo pháp luậtThừa kế thế vị

. Khái niệm chung về thừa kế thé vị.2. Các trường hợp thừa kế thế vị

Phân thứ tư

THANH TOAN VA PHAN CHIA DI SAN

Họp mặt những người thừa kếNgười phân chia di sản

Thanh toán di sản

Phân chia di sản thừa kế. Phân chia di sản theo di chúc. Phân chia di san theo pháp luật

Phần thứ năm .

THUC TRANG GIẢI QUYẾT TRANH CHAP VÀ HƯỚNGHOAN THIỆN QUY ĐỊNH CUA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ

Thực trạng tranh chấp và các nguyên nhân tranh chấpvề thừa kế

Các trường hợp tranh chấp về thừa kế và nguyên nhân

<small>305334404</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Phần thứ nhất

NHỮNG VAN DE CHUNG VỀ THỪA KE

1. Một số vấn đề lý luận về thừa kế

1.1. Các quan niệm vé thừa kế

La một thực thể trong xã hội, con người không thể tổn tạivà phát triển nếu tách rời những cơ sở vật chất nhất định.Nói cách khác, con người khơng thể sống khi khơng có tài sảnđể thoả mãn các nhu cầu thiết yếu. Nếu tư liệu tiêu dùng làphương tiện sinh hoạt, tư liệu sản xuất là phương tiện để

thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh thì tài sản nóichung là phương tiện sống của con người. Khi song, con người

khai thác cống dụng của tài sản để thoả mãn cho nhu cầu

của mình, khi chết, tài sản còn lại của họ được dịch chuyểncho người cịn sống. Q trình dịch chuyển đó được gọi là

thừa kế.

Nhìn nhận một cách tổng quan nhất thì “thừa kế là việc

dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người cịn sống”.

Về mặt ngữ nghĩa thì thừa kế là thừa hưởng một cách kế tục.

Theo phương diện này, Từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa:“Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho”.! Về mặt nội

dung thì thừa kế là quá trình dịch chuyển di sản từ người

chết cho người cịn sống.

Q trình dịch chuyển tài sản của người đã chết cho

người cịn sống được hình thành ở bất cứ một xã hội nào và dĩnhiên, khi chưa có nhà nước và pháp luật, nó được thực hiện

theo tập tục xã hội nên được gọi là thừa kế. Khi nhà nướcxuất hiện, bằng pháp luật, nhà nước tác động đến q trình

dịch chuyển tài sản nói trên, trong đó, quyền để lại tài sảncũng như quyền hưởng di sản của các chủ thể được nhà nước

! Trung tâm từ điển học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2000, tr. 938.

<small>11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

ghi nhận và dam bao thực hiện bằng pháp luật nên từ đó, quatrình dịch chuyển di sản được gọi là quyền thừa kế. Nói cách

khác, khái niệm quyển thừa kế là một phạm trù pháp lý mànội dung của nó là xác định phạm vi các quyền, các nghĩa vụ

của các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế. Quyền thừa kế chỉxuất hiện và tồn tại trong xã hội đã có nhà nước. Bên cạnh nộidung kinh tế, quyền thừa kế còn bao hàm ý chí của nhà nước.

Nghĩa là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người

còn sống phải hoàn toàn tuân thủ sự quy định của pháp luật.1.2. Thừa bế va mổi liên hệ uới sở hữu

Vì “Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho” nên thừakế được hiểu là sự tiếp nối giữa việc để lại tài sản của người

đã chết với việc nhận di sản của người cịn sống. Qua đóchúng ta thấy rằng, thừa kế bao giờ cũng là hệ luận củaquyền sở hữu, có sở hữu mới có thừa kế.

Thừa kế và sở hữu là hai phạm trù kinh tế tồn tại songsong trong mọi hình thái kinh tế xã hội. Trong phạm vi một,chế độ xã hội, hai phạm trù này gắn bó chặt chẽ với nhau,mỗi phạm trù là tiền dé và cũng chính là hệ quả đối vớinhau. Nếu sở hữu là yếu tố đầu tiên để từ đó làm xuất hiệnthừa kế thì đến lượt mình, thừa kế lại là phương tiện để duytrì, củng cố và xác định quan hệ sở hữu.Với tư cách là hệluận của vấn đề sở hữu, thừa kế xuất hiện trong xã hội loài

<small>người như một hiện tượng tất yếu. Nếu quan hệ sở hữu cho</small>

thấy tài sản trong xã hội thuộc về ai thì thừa kế phan ánh quá

trình dịch chuyển tài sản của người đó ra sao, nếu họ chết.

Với mối quan hệ biện chứng giữa thừa kế và sở hữu,chúng ta thấy rằng, khi nào xuất hiện vấn đề sở hữu thì khiđó đồng thời xuất hiện vấn đề thừa kế. Bất cứ chế độ xã hộinào cũng đều phải tồn tại trên một cơ sở kinh tế nhất định,nghĩa là sự tổn tại của xã hội bao giờ cũng phải dựa trên mộtchế độ sở hữu. Vì vậy, sở hữu là một quan hệ tất yếu đối với

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

sản xuất và do đó đối với mọi xã hội. Trong một tác phẩm củamình, C. Mác đã chỉ ra răng:

“Bất cứ nền sản xuất nào cũng là việc con người chiếm hữu

<small>những đối tượng của tự nhiên trong một phạm vi, một hình thái</small>

xã hội nhất định và thơng qua hình thái đó và nơi nào khơng cómột hình thái sở hữu nào cả thì nơi đó cũng khơng thể có sảnxuất và do dé cũng khơng có một xã hội nào cả”.

Quan hệ sở hữu luôn mang một nội dung kinh tế. Trongmột xã hội nhất định, quan hệ sở hữu phản ánh mối quan hệgiữa các cá nhân với nhau, giữa tập đoàn này với tập đoàn

kbác, giữa giai cấp này với giai cấp khác về việc nắm giữ các

tư liệu sản xuất và các vật phẩm tiêu dùng.

Ngay trong buổi bình minh của xã hội loài người, dù ýthức về xã hội, về cộng đồng còn hạn chế nhưng con người

nguyên thuỷ đã biết chiếm giữ những gì mà mình có được để

phục vụ cho nhu cầu của mình. Nghĩa là vấn dé sở hữu xuất

hiện ngay từ thời kỳ đó. Tuy nhiên, trong thời kỳ đó “chưa có

sự phân biệt rõ rệt về khái niệm “sở hữu” đối với tư liệu sản

xuất và sức lao dong”.

Như chúng ta đã biết, cơ sở kinh tế của xã hội cộng sảnnguyên thuỷ là chế độ sở hữu cộng đồng về tư liệu san xuất va

các sản phẩm lao động. Ở thời kỳ này, tài sản mà con người

chiếm hữu được chỉ là những công cụ lao động thô sơ và chỉ là

những vật phẩm của tự nhiên mà con người thu nhận được

thông qua việc săn bắn, hái lượm. Mặt khác, nhận thức của

con người trong thời kỳ này còn hết sức thấp kém. “Trong xã

hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ phát triển của lực lượng

san xuất thấp kém, công cụ lao động thơ sơ, con người chưa có

sự nhận thức đúng đắn về thiên nhiên và về bản thân mình,

<small>! C. Mác-Ăngghen Tuyển tập, T1. tr. 247.</small>

<small>2 Lịch sử triết học, Nxb. Văn hố thơng tin, Hà Nội, 1992, tr. 19.</small>

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

họ ln ln trong tình trạng mềm yếu, hoảng sợ và bất lực

<small>trước những tai hoa của thiên nhiên thường xuyên xảy ra,</small>

năng suất lao động thấp... Trong những điều kiện và hồn

cảnh đó, con người khơng thể sống riêng biệt mà phải dựa vào

nhau, cùng chung sống...”!. Từ đó, chế độ quần hơn đã tồn taitrong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản nguyên thuỷ.

Sự tồn tại của chế độ quần hôn không cho phép xác định

được ai là cha của đứa trẻ sinh ra mà chỉ có thể biết được mẹ

nó mà thơi. Vì thế, những đứa trẻ sinh ra chỉ theo dòng họmẹ. Tập hợp những người cùng chung sống theo huyết tộc mẹqua nhiều thế hệ đã hình thành những tổ chức thị tộc nhấtđịnh. Thị tộc là tế bào của xã hội và mỗi một tổ chức thị tộc

đã dần dần trở thành một tổ chức lao động và sản xuất.

“Với một nền sản xuất và tổ chức xã hội giản đơn nên sở

hữu trong thời kỳ nguyên thuỷ chi là một khái niệm để phan

ánh mối quan hệ giữa con người với nhau trong việc chiếm

hữu những vật phẩm của tự nhiên mà họ thu giữ được” ?. Tuyvậy, khi mà thơng qua vấn đề sở hữu có thể phân biệt đượctài sản trong xã hội thuộc về ai, tổ chức thị tộc nào thì từ

đó cũng sẽ xuất hiện quá trình dịch chuyển tài sản củangười đã chết cho người cịn sơng. Tất nhiên, sự chuyển

<small>dịch đó chỉ hồn toàn theo những tập tục của thừa kế</small>

nguyên thuỷ, nghĩa là thừa kế trong thời kỳ này hoàn toàn

<small>do phong tục tập quán của từng thị tộc quyết định. Khi</small>

nghiên cứu về vấn dé này, Ph. Angghen đã viết: (“Theo chế

độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà dòng máu chỉ tính theobên mẹ, và theo tập quán lúc ban đầu trong thị tộc thì chỉ

<small>những thân nhân trong thị tộc mới được kế thừa những thành</small>

<small>! Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận nhà nước vaphúp luật, Nxb. Công an nhân dân, 1998, tr. 28.</small>

<small>? Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Dân sự Việt Nam,</small>

<small>Nxb. Công an Nhân dân năm 2001, tr.148</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<small>viên đã chết của thị tộc. Tài sản phải được giữ lại trong nội bộ</small>

thị tộc. Vì tài sản để lại khơng có giá trị gì lắm nên trong thựctiễn có lẽ là từ xưa người ta vẫn trao những tài sản đó cho

<small>những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người</small>

cùng dòng máu về phía mẹ”). (“Theo chế độ mẫu quyền, nghĩalà chừng nào huyết tộc chỉ kể về bên mẹ và theo tập tục thừakế nguyên thuỷ, người trong thị tộc mới được thừa kế những

<small>người trong thị tộc chết. Tài sản...”).</small>

Kể từ khi hình thái gia đình Punaluan xuất hiện, diệnnhững người có quan hệ tính giao đã được hạn chế hơn nhiều

nhưng huyết tộc vẫn được xác định về bên mẹ. “Và bắt đầu từlúc đó, nhóm ấy, bằng những thiết chế chung khác có tính chấtxã hội cũng như có tính chất tơn giáo ngày càng trở nên vữngchắc và ngày càng có nét phân biệt với các thị tộc khác trongcùng một bộ lạc”?. Mặt khác, trong các thị tộc này người phụ nữchiếm một địa vị quan trọng, là lao động chính và có vai trị

<small>vinh dự trong thị tộc. Họ là thành viên của những người đứng</small>

đầu thị tộc. Địa vị của người phụ nữ lúc đó độc lập, vững vàngvà tính chất của thị tộc lúc này là thị tộc mẫu quyền. Tất nhiên,chúng ta không nói đến “quyền” theo nghĩa pháp lý mà đó chỉlà những quyền lực được tạo ra từ uy tín, địa vị. Chính vì vậy

mà khi so sánh địa vị của người phụ nữ dưới chế độ thị tộc mẫu

quyền với địa vị của người phụ nữ trong xã hội văn minh, Ph.

Ăngghen đã viết:

“Một bà chủ trong thời đại văn minh, được tơn trọng bề

ngồi và xa lạ với mọi lao động thực sự, lại ở vào một địa vịxã hội thấp hơn rất nhiều so với địa vị xã hội của người đànbà thời dã man, là người phải làm lụng cực nhọc nhưng được

nhân dân coi là một bà chủ thật sự”

1.2.3 Tuyển tập Mác - Ang ghen, Nxb. Su thật, Hà Nội, 1984, Tập VI,

<small>tr, 91-99, 85.</small>

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Bằng việc chỉ ra một cách khái quát về tính chất của chếđộ thị tộc mẫu hệ, chúng ta thấy rõ thừa kế trong thời kỳ này

là sự chuyển dịch tài sản của người quá cố sang người cịn

sống khác nhưng khơng được vượt khỏi phạm vi một thị téc.Trong phạm vi đó, người được giao tài sản phải là người cóquan hệ thân thiết nhất với người đã chết và sự thân thiết nàyđược xác định trên cơ sở huyết thống mẫu hệ. Như vậy, thừakế trong thời kỳ này chỉ là một tập tục xã hội thuần tuý.

Ở giai đoạn tiếp theo, qua quá trình lao động sản xuất

<small>với những kinh nghiệm đã được tích luỹ, trình độ lao động</small>

của con người dần dần được nâng cao, nền kinh tế ngày càngphát triển nên đã xuất hiện nhiều ngành nghề khác nhau.Người đàn ông bắt đầu đảm nhiệm những cơng việc chính vớihiệu suất lao động cao, tạo ra được của cải dư thừa. Trongkhi đó người đàn bà vẫn chỉ làm các cơng việc cũ với hiệusuất lao động thấp. Bắt đầu từ đó địa vị của người đàn bà

ngày càng lu mờ. Mặt khác, do tác động của sự phát triển

kinh tế mà những quan hệ hôn nhân cũng thay đổi. Sự phát

triển về mọi mặt của thị tộc đã đến lúc không cho phép sự

tồn tại của chế độ quần hôn. Chế độ hơn nhân với hình tháigia đình đối ngẫu đã xuất hiện thay cho hình thái gia đìnhPunaluan, nghĩa là ở thời kỳ này, chế độ quần hôn đã bị chếđộ gia đình cặp đơi thay thế. Đó là hình thái hơn nhân màtrong đó một người đàn ơng sống với một người đàn bà. Chếđộ hôn nhân này đã tạo ra các điều kiện đủ để xác định ai làcha của đứa trẻ sinh ra, mà theo Ăng ghen: “Còn thật hơnnhiều so với những người “bổ” thời nay”! (thời Tư bản chủnghĩa). Sự biến đổi quan trọng trên đã chuyển từ chế độ mẫu

hệ thành chế độ phụ hệ, và: “thế là dịng đõi tính theo đằngme và quyền thừa kế mẹ bị xố bỏ, dong dõi tính theo đằngcha và quyền kế thừa cha được xác lập”. °

1.2. Tuyển tập Mác - Ăng ghen, Sdd, t. VI, tr. 92, 94.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<small>Như vậy, ngay từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ đã hình</small>

thánh vấn dé thừa kế. Sự phát triển kinh tế xã hội làm cho cácquan hệ sở hữu thay đổi kéo theo su thay đối bản chất về thừakế. Vì vậy, có thể nói rằng thừa kế là một hiện tượng xã hội

<small>tất yếu xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu mà nội dung</small>

kinh tế của nó chính là sự phản ánh quá trình dịch chuyển tài

<small>sản từ những người đã chết sang những người còn sống khác.</small>

1.3. Quyền thừa bế va mối liên hệ uới quyền sở hữuTrong tiến trình phát triển của xã hội loài người, sự xuất

<small>hiện chế độ hơn nhân với hình thái gia đình đơi ngẫu làm cho</small>

kinh tế gia đình đã trở thành một đơn vị kinh tế độc lậptrong thị tộc, khơng cịn phụ thuộc vào thị tộc và cuối cùng

<small>làm tan rã thị tộc.</small>

Ư thời kỳ này gia đình phát triển sang một hình thức

mới hơn (Angghen gọi là hình thức trung gian trong bướcchuyển từ chế độ hôn nhân đối ngẫu sang chế độ hơn nhân

một vợ một chồng), trong đó mọi quyền lực thuộc về ngườichồng, với tư cách là gia trưởng nên tất cả tài sản trong giađình thuộc sở hữu của người chồng, và sở hữu của “gia đình

<small>riêng rẽ... đánh một đòn rất mạnh vào xã hội.”' Xét rộng ra, do</small>

sự phân công lao động, ở thời kỳ này xã hội đã có nhiều biến

đổi sâu sắc. Cùng với sự phân công lao động xã hội, chăn

nuôi và trồng trọt ngày càng phát triển, năng xuất lao động

ngày một nâng cao đã xuất hiện sự dư thừa sản phẩm. Q

trình phân hố của cải trong xã hội được hình thành và dẫn

<small>đến sự phân biệt kẻ giàu người nghèo trong xã hội. Những</small>

người có quyền hành trong thị tộc, bộ lạc tim mọi thủ đoạn để

chiếm hữu số của cải dư thừa đó làm của riêng. Chế độ tưhữu xuất hiện và từ đó chế độ thị tộc, chế độ cộng sản nguyên

thuỷ dần dần bị phá vỡ và hoàn toàn tan rã nhường chỗ cho

một chế độ xã hội mà trong đó. ean Bw Bia} cap.

<small>- - AT HA NOI</small>

` Tuyên tập Mac - Ang ghen, $đ8J/đ,N@6@AI HỌC Lie bà "|

<small>2-TKế QĐCPL 17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Nếu trước đây tổ chức thị tộc đã sinh ra từ một xi hội

<small>không biết đến mâu thuẫn nội tại, trong đó mọi thành viên</small>

xã hội hầu như hồn tồn “hồ tan” vào cuộc sống cộng đồng

<small>thì xã hội mới ra đời đã có su phân chia giai cấp, trong đó các</small>

giai cấp có quyền lợi đối lập nhau, “ln ln mâu thuẫn vàđấu tranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấpmình.”!. Trước bối cảnh đó, dĩ nhiên tổ chức thị tộc trở thànhbất lực trước xã hội, không thể phù hợp được nữa. Lúc này,“xã hội đó địi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức để dập tắt

<small>cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy, hoặc cùng lắm</small>

là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh

tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức đó là nhà

<small>nước và nhà nước đã xuất hiện.”?</small>

Khi chưa xuất hiện nhà nước, thừa kế được dịch chuyển

<small>theo phong tục tập quán thì khi nhà nước xuất hiện, quá trình</small>

dịch chuyển tài sản từ một người đã chết cho người cịn sống

đã có sự tác động bằng ý chí của nhà nước. Giai cấp thống trị

thông qua quyền lực nhà nước để áp dụng các phương pháp

cưỡng chế nhằm tác động đến các quan hệ xã hội, làm cho cácquan hệ đó phát sinh, phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp<small>mình. Nghĩa là khi có nhà nước thì mọi quan hệ cũng như moi</small>

sự kiện xảy ra trong đời sông xã hội đều được pháp luật điềuchỉnh. Thừa kế trong xã hội đã có nhà nước cũng khơng nằmngồi sự điều chỉnh của pháp luật. Vì thế, có thể nói rằng kháiniệm quyền thừa kế được xuất hiện và chỉ xuất hiện chừngnào có sự xuất hiện nhà nước và pháp luật.

Như vậy, nếu thừa kế xuất hiện ngay cả khi xã hội chưaphân chia giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật thì kháiniệm quyền thừa kế chi ra đời và tồn tại trong những xã hộiđã phân chia giai cấp và có nhà nước.

<small>1.2 Trường Dai học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận nhà nước va</small>

<small>pháp luột, Nxb. Công an nhân dân, 2001, Tr.38.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Bằng việc ban hành các văn bản pháp luật. nhà nước quyđịnh quyển để lại thừa kế và nhận thừa kế của các chủ thể,quy định trình tự và các điều kiện dịch chuyển tài sản cũngnhư quy định các phương thức dịch chuyển tài sản từ ngườiđã chết sang những người còn sống khác. Tuy nhiên, mỗi một

<small>chế độ xã hội khác nhau sẽ có sự khác nhau trong quy định</small>

về quyển thừa kế. Thậm chí ngay trong một chế độ xã hội

<small>nhưng ở từng giai đoạn khác nhau sự quy định này cũng có</small>

thể khác nhau. Điều đó có nghĩa rằng chế độ thừa kế phụthuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội của mộtnhà nước và đặc biệt là do chế độ sở hữu quyết định.

Vì vậy, trong mỗi chế độ xã hội, chế độ thừa kế thường

<small>tồn tại tương ứng với chế độ sở hữu.</small>

Tất ca sự quy định cua nhà nước nhằm tác động, điềuchỉnh quá trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chếtsang người còn sống sẽ hình thành khái niệm quyền thừa kế

<small>theo nghĩa khách quan của nó.</small>

Quyền thừa kế là một chế định của ngành luật dân sựbao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước đặt

ra nhằm điều chỉnh q trình dịch chuyển những lợi ích vật

chất từ người chết sang cho những người còn sống khác.

Việc ghi nhận và xác định các quyền, nghĩa vụ nói trên

<small>khơng phải hồn tồn do ý chí chủ quan tuyệt đối của giai</small>

cấp lãnh đạo xã hội, dù rằng pháp luật là ý chí của giai cấpđó. Bằng ý chí chủ quan của mình trên cơ sở dựa vào điềukiện vật chất của xã hội, nhà nước ta đã ghi nhận các quyềncũng như xác định các nghĩa vụ trong lĩnh vực thừa kế chocác cá nhân và các chủ thể khác.

Pháp luật của bất kỳ nhà nước nào cũng phải xuất pháttừ cơ sở kinh tế, phù hợp với thực tế khách quan và do cơ sở

kinh tế của xã hội quyết định. Khi chế độ kinh tế thay đổi sẽ

dẫn đến sự thay đổi tương ứng trong sự quy định của pháp

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

luật. Vì vậy, dẫu rằng pháp luật là ý chí của Nhà nước (doNhà nước đặt ra) nhưng nó vẫn mang tính khách quan. Nhưvậy, khi xem xét quyền thừa kế dưới góc độ một chế địnhpháp luật thì có nghĩa là xem xét, nhìn nhận ở phương điệnkhách quan. Ngoài ra, quyền thừa kế còn được xem xét ở mộtphương diện khác, phương diện chủ quan.

Nhìn nhận theo phương diện này, quyền thừa kế là

quyền năng cụ thể của mỗi một cá nhân trong việc để lại

thừa kế và nhận di sản thừa kế, đó là những khả năng mà

các chủ thể được phép xử sự theo quy định của pháp luật,được để lại thừa kế như thế nào, việc lập di chúc phải tuân

thủ những yêu cầu gì, ai là người được nhận di sản thừa kế,

khi nào thì bị tước quyền hưởng di sản, người lập di chúc cónhững quyền năng gì v.v..

Trong thừa kế, các chủ thể chủ động hiện thực hoá

những quyền năng mà pháp luật quy định để biến các quyền

đó thành những quyền dân sự cụ thể, qua đó đáp ứng nhu

cầu và thực hiện lợi ích cho chính mình.

Vì vậy, quyển thừa kế theo phương diện khách quan

(pháp luật) là điều kiện tiên quyết đối với quyền thừa kế ởphương diện chủ quan. Nghĩa là cá nhân (chủ thể) có được

những quyền gì, phải gánh vác những nghĩa vụ gì trong lĩnhvực thừa kế trước hết là do pháp luật quy định.

Như đã phân tích ở phần đầu, các quan hệ sở hữu, cũng

như thừa kế lúc đầu tồn tại một cách khách quan với ý nghĩa

là phạm trù kinh tế nhưng khi chúng tồn tại trong một xã

hội đã có nhà nước thì trong những quan hệ ấy, các chủ thể

đã bị ràng buộc bởi các quy phạm pháp luật, ý chí của nhà

nước đã tác động đến chúng thông qua pháp luật.

Nếu sở hữu và thừa kế là hai vấn dé liên quan mật thiếtvới nhau, song song tồn tại bên nhau thì quyền sở hữu vớiquyền thừa kế cũng có mối quan hệ hết sức mật thiết với nhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Từ chỗ pháp luật quy định chế độ sở hữu về tài sản củacá nhân và theo đó, cá nhân có được các quyền năng đối với

<small>tài sản của mình thì dựa theo đó pháp luật quy định cho họ</small>

những quyền năng trong lĩnh vực thừa kế. Hay nói cáchkhác, pháp luật về sở hữu là cơ sở cho việc ban hành các văn

<small>han pháp luật về thừa kế. Vì vậy, quyền thừa kế luôn mang</small>

một bản chất giai cấp sâu sắc, ln là phương tiện để duy trì,

<small>củng cố quyền sở hữu ở những xã hội mà chính bản thân nó</small>

dang tồn tại. Nghĩa là, với mỗi một chế độ xã hội khác nhau,thông qua pháp luật, nhà nước quy định một chế định thừa

kế, coi nó là một phương tiện để bảo vệ quyền lợi cho các cá

nhân cũng như quyền lợi của giai cấp lãnh đạo xã hội.

Bản thân thừa kế không tạo nên quyền thống trị cho giai

cấp thống trị. “Thừa kế không sáng tạo ra khả năng chuyển

<small>thành quả lao động từ một người này sang túi người khác,</small>

thừa kế chỉ quan hệ đến sự thay đổi những người có khảnăng đó.”! Tuy nhiên, thừa kế là một trong những phương

tiện để duy trì quyền thống trị.

Ở các nhà nước mà cơ sở kinh tế dựa trên chế độ tư hữu

về tư liệu sản xuất thì pháp luật về thừa kế là một trongnhững công cụ pháp lý quan trọng mà giai cấp thống trị sử

dụng để duy trì và củng cố địa vị thống trị của mình.

Chẳng hạn, trong nhà nước chủ nơ, quyền để lại thừa kế

về nô lệ, quyền nhận thừa kế đối với nô lệ của những người

trong giai cấp chủ nô là việc dịch chuyển lại sự sở hữu của

những người trong giai cấp này đối với những “cơng cụ biết

nói” và cũng chính là truyền lại quyền lực về chính trị để duy

trì sự áp bức bóc lột của giai cấp chủ nô đối với nô lệ.

Tương tự như vậy, ở kiểu nhà nước phong kiến và nhànước tư sản, giai cấp bóc lột sở hữu những tư liệu sản xuất

! Ph. Ăngghen: Nguồn gốc gia đình, chế độ tu hữu va của Nha nước

<small>Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1972, Tr. 97.</small>

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

chủ yếu của xã hội thì di sản của họ để lại cho con cháu cũnglà những tài sản ấy. Và vì thế thừa kế là việc thay đổi kẻthống trị này bằng kẻ thống trị khác trong cùng một giai cấp.

Ở nước ta, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất

quan trọng, cá nhân sở hữu chủ yếu là tư liệu tiêu dùng, nếulà tư liệu sản xuất thì chỉ là những tư liệu sản xuất thông

<small>thường. Những tư liệu sản xuất quan trọng như “Đất đai,</small>

rừng núi, sông hồ, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở

vùng biển, thém lục địa và vùng trời”' đã thuộc về sở hữu của

toàn thể nhân dân lao động nên không trở thành đối tượng

thừa kế.

Vì vậy, pháp luật thừa kế ở nước ta, trước hết nhằm đảmbảo quyền lợi cho người lao động, thành quả lao động của bảnthân họ được tôn trọng, khi họ chết, thành quả đó được

chuyển sang cho những người thừa kế của họ. Mặt khác,quyền thừa kế ở nước ta là một trong những phương tiện đểcủng cố và phát triển các quan hệ hơn nhân gia đình, bảo vệquyền lợi chính đáng của các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế,

qua đó góp phần bảo đảm quyền sở hữu chính đáng của mọi

<small>cá nhân trong xã hội. |</small>

Bằng các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Bộ luậtDân sự, pháp luật về thừa kế ở nước ta bảo vệ lợi ích hợppháp của mọi người lao động trên cơ sở bảo vệ lợi ích chungcủa tồn xã hội, xố bỏ tàn tích mà chế độ thừa kế của thực

dân phong kiến đã để lại hàng bao đời nay, nâng cao ý thức

pháp luật cho mỗi người dân trong lĩnh vực thừa kế nói riêngcũng như trong đời sống xã hội nói chung.

Quyền thừa kế của cá nhân đã được Điều 634 Bộ luật

<small>Dân sự của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam cóhiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 1995 quy định và được quy! Điều 17, Hiến pháp 1992</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

định lại theo Điều 631 của Bộ luật Dân sự sửa đổi 2005 có

<small>hiệu lực từ ngày 10 thang 10 năm 2006 như sau:</small>

“Ca nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của

mình, để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp

luật, hưởng di san theo di chúc hoặc theo pháp luật”'.

Bằng việc quy định trên, pháp luật nước ta tôn trọngquyền tự định đoạt của cá nhân với tư cách là chủ sở hữu đốivới tài sản của họ. Vì vậy, trước khi chết, họ có quyền định

đoạt tài sản của mình cho ai theo ý chí của họ được thể hiện

trong di chúc đã lập. Trong những trưởng hợp vì một lý do

nào đó mà di sản của họ khơng được dịch chuyển theo dichúc, thì di sản của người đó được dịch chuyển cho những

người có quan hệ hơn nhân, gia đình thân thích nhất đối vớihọ. Sự quy định này chính là việc pháp luật phỏng đoán

mong muốn của người chết trong việc dịch chuyển tài sản màhọ để lại cho những ai.

Như vậy, tại điều luật trên, Bộ luật Dân sự của nước ta

trước hết ghi nhận quyền để lại thừa kế của cá nhân. Việc để

lại thừa kế đó do cá nhân định đoạt bằng ý chí trước lúc chết.

Nếu người đó khơng thể hiện ý chí để định đoạt tài sản hoặc

sự định đoạt đó khơng phù hợp với yêu cầu của pháp luật thìdi sản của họ sẽ được phân chia theo pháp luật.

Bên cạnh quyền để lại thừa kế, việc hưởng di sản thừa

kế cũng là một quyền năng mà pháp luật đã quy định cho bất

kỳ một cá nhân nào. Cho nên việc để lại thừa kế, việc nhận

di sản thừa kế là hai phạm trù khác nhau, là hai mặt đối lậpnhưng lại cùng thống nhất với nhau, là hai yếu tố cấu thànhnên khái niệm quyền thừa kế. Hai yếu tố này liên hệ mật

thiết với nhau để qua đó phản ánh quá trình dịch chuyển tài

sản của người đã chết sang những người cịn sống khác.

<small>' Bộ luật Dân sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.</small>

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<small>1.4. Nhận xét chung</small>

Quá trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chết cho

<small>người còn sống được gọi là thừa kế hay được gọi là quan hệ</small>

thừa kế? Tương tự như vậy, quá trình dịch chuyển tài sản từmột người đã chết cho người cịn sơng khi đã có sự tác độngcủa pháp luật được gọi là quyền thừa kế hay được gọi là quanhệ pháp luật về thừa kế?

<small>Việc sử dụng thuật ngữ nào trong những trường hợp nóitrên có ý nghĩa tương đối quan trọng về mặt lý luận. Nếu cho</small>

rằng thừa kế là một quan hệ xã hội thì thừa kế khi có sự điềuchỉnh của pháp luật sẽ là một quan hệ pháp luật dân sự. Vànhư vậy, sẽ động chạm đến một vấn đề tương đối lớn về mặt

<small>lý luận sau đây:</small>

<small>Trong khoa học pháp luật dân sự, người ta thường dựa</small>

vào những tiêu chí khác nhau để phân chia quan hệ pháp

<small>luật dân sự thành các loại khác nhau:</small>

- Nếu dựa vào tính xác định của chủ thé mang quyền vàchủ thể mang nghĩa vụ thì quan hệ pháp luật dân sự được

phân thành quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đôi và quan hệpháp luật dân sự tương đối. Quan hệ pháp luật dân sự tuyệt

đối là quan hệ mà trong đó chỉ xác định được chủ thể mangquyền, tất cả các chủ thể khác là chủ thể mang nghĩa vụ.

Quan hệ pháp luật dân sự tương đối là quan hệ mà trong đó,

tương ứng với chủ thể mang quyền đã được xác định cụ thể làchủ thể mang nghĩa vụ cũng đã được xác định cụ thể, theo đóquyền của chủ thể bên này là nghĩa vụ của chủ thể bên kia

và ngược lại. Như vậy, theo cách phân loại trên và nếu coithừa kế là một quan hệ thì quan hệ pháp luật về thừa kế sẽthuộc nhóm quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối hay tương

đối? Điều này không thể lý giải được bởi lẽ nếu thừa kế là

<small>một quan hệ pháp luật thì trong quan hệ đó bao giờ cũng đã</small>

xác định được cả hai bên chủ thể nên khơng thể xếp nó vào

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<small>nhóm các quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối dược. Mặtkhác, trong quan hệ này khơng có sự tương ứng đôi lập nhau</small>

vé quyền, nghĩa vụ giữa các bên chủ thể nên cũng khơng thể

xếp nó vào nhóm các quan hệ pháp luật dân sự tương đối.- Nếu dựa vào cách thức thực biện quyền dân sự của chủthể mang quyển thì quan hệ pháp luật dân sự được phanchia thành quan hệ vật quyền và quan hệ trái quyền. Quanhệ vật quyền là quan hệ pháp luật dân sự mà trong đó, chủthể mang quyền thực hiện quyền dân sự bằng chính hành vicủa mình mà hồn tồn khơng phụ thuộc vào hành vi củangười khác. Ví dụ: quan hệ pháp luật về sở hữu được coi làquan hệ vật quyền vì trong đó khi thực hiện quyền dân sự

cua mình, chủ sé hữu (chủ thể mang quyền) bằng chính hành

vi của mình tác động trực tiếp đến vật để thực hiện việc

chiếm hữu, việc sử dụng và định đoạt tài sản của mình.Quan hệ trái quyền là quan hệ pháp luật dân sự mà trong

đó, quyền của chủ thể bên này muốn được thực hiện phải

thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên kia. Ví dụ:quan hệ nghĩa vụ vay nợ được coi là một quan hệ trái quyềnvì quyền thu hồi nợ của bên cho vay chỉ được thực hiện chừngnào bên vay thực hiện hành vi tra nợ.

Theo cách phân loại trên và nếu coi thừa kế là một quanhệ thì quan hệ pháp luật về thừa kế sẽ được xếp vào nhóm

quan hệ nào? Trước hết, khơng thể xếp nó vào nhóm các

quan hệ trái quyền vì quyền nhận tài sản của người thừa kế

hồn tồn khơng phụ thuộc vào hành vi của người để lại di

sản, càng không thể thông qua hành vi của người đó được vì

quyền nhận di sản chỉ xuất hiện khi người để lại di sản đã

chết. Mặt khác, cũng khơng thể xếp thừa kế vào nhóm các

quan hệ vật quyền được bởi người thừa kế không thể tác

động đến tài sản của người để lại di sản nếu ở họ chưa xuất

hiện quyền nhận di sản. Kể từ khi họ có quyền nhận di sản

thì di sản đó đã thuộc sở hữu của họ và khi họ bằng hành vi

<small>25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

của mình tác động trực tiếp đến di sản chính là việc họ đang

thực hiện quyền của một chủ sở hữu để chiếm hữu, sử dụng

và định đoạt tài sản của chính mình. Thừa kế chỉ là hệ luậncủa một quan hệ vật quyền và từ đó tạo ra một quan hệ vậtquyền khác. Bởi lẽ, như đã nói ở phần trước, thừa kế chỉ là sự

tiếp nối giữa việc để lại tài sản và việc nhận tài sản mà việc

để lại tài sản của người đã chết (dù có di chúc hay khơng) thì

về bản chất, đều là quyền định đoạt tài sản của một chủ sở

<small>hữu. Việc nhận di sản chính là việc người thừa kế tiếp nhận</small>

quyền định đoạt tài san của người để lại thừa kế.

Như vậy, nếu thừa kế là một quan hệ pháp luật thì nóphải thuộc hoặc nhóm này hoặc nhóm kia theo các cách phânloại trên. Trong khi về mặt lý luận, khơng thể xếp nó vào bấtkỳ một nhóm nào bởi thực chất, thừa kế chỉ là một sự dịch

chuyển tài sản từ một người đã chết sang người còn sống.

Theo quan niệm truyền thống thì quá trình dịch chuyểntài sản của người đã chết cho người còn sống là một quan hệxã hội về thừa kế và thường được gọi quan hệ thừa kế. Đó là

mối quan hệ giữa hai bên chủ thể. Một bên là người để lại di

sản và một bên là người nhận di sản thừa kế. Có lẽ cách gọi

này xuất phát từ quan điểm cho rằng, đối tượng điều chỉnhcủa pháp luật chỉ có thể là các quan hệ xã hội. Thừa kế được

pháp luật điều chỉnh nên nó phải là một quan hệ xã hội và sovới các quan hệ khác, thừa kế là một quan hệ khá đặc biệt.

Chúng tôi cho rằng, khống nên hiểu khái niệm thừa kế

<small>là một “quan hệ pháp luật” với các lý do sau đây:</small>

Thứ nhét, ngoài việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, phápluật còn điều chỉnh rất nhiều các sự kiện khác xảy ra trongthực tế. Khi một quan hệ xã hội phát sinh cũng có nghĩa làđã xuất hiện một sự kiện nhưng một sự kiện xuất hiện chưa

hẳn đã làm xuất hiện một quan hệ xã hội. Trong đa số các

trường hợp thì khi xuất hiện một sự kiện sẽ đồng thời làm

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

xuất hiện một quan hệ xã hội. Tuy nhiên, cũng có rất nhiềusự kiện xuất hiện và đã được pháp luật dự liệu một hậu quảpháp lý nhưng bản thân sự kiện dó khơng phải là một quanhệ xã hội và cũng không làm xuất hiện một quan hệ xã hội

nào. Chang hạn, hành vi từ bỏ quyền sở hữu tài sản là một

sự kiện được pháp luật điều chỉnh (xem Điều 249 Bộ luậtDan sự 2005) nhưng hành vi đó khơng phải là một quan hệ

<small>xã hội. Tham chí, hành vi này chính là sự kiện làm chấm dứt</small>

một quan hệ pháp luật về sở hữu.

Thứ hai, trong một tác phẩm của mình, C. Mác đã viết:“Xã hội - bất cứ dưới hình thức nào - là gì? Nó là sảnphẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người và người.”

Luận điểm trên của C. Mác đã chỉ cho chúng ta thấy

rằng xã hội vốn là tổng hoà các mối quan hệ giữa con người

<small>VỚI con người.</small>

Mặt khác, xã hội được định dạng thông qua hành vi xử sựcủa con người hiện tại. Nói đến xã hội là nói đến sự cấu thành

bởi những con người cụ thể - những cá nhân sống. Vì thế, nếu

quan hệ xã hội là quan hệ giữa người với người thì phải là mốiquan hệ giữa những người đang sống. Với một người đã chết,

người ta chỉ có thể nói rằng người đó đã từng tham gia quanhệ này hay quan hệ khác mà tuyệt nhiên khơng thể nói rằng

người đã chết đang tham gia một quan hệ nào đó, trong khi

thừa kế chỉ phát sinh khi người để lại tài sản đã chết.

Thứ ba, “để tham gia vào quan hệ xã hội nói chung và

quan hệ dân sự nói riêng, cá nhân phải có tư cách chủ thể được

tạo thành bởi năng lực pháp luật và năng lực hành vi’.* Mặtkhác, tại Khoản 3 - Điều 16 - Bộ luật Dân sự đã xác định“Năng lực pháp luật của cá nhân chấm dứt khi người đó chết”.1 C.Mác: Tuyển tập Mác Ang ghen, Nxb. Sự that, Hà Nội 1980, T. 1,

<small># Trường Đại học luật Hà Nội, Sdd, tr.52</small>

<small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Vì thế, nếu nói rằng thừa kế là quan hệ giữa người để lại di sản

với người nhận di san thi vơ hình chung lại thừa nhận rằng, cá

<small>nhân khi khơng cịn năng lực pháp luật và năng lực hành vì</small>

dân sự vẫn là chủ thể của một quan hệ pháp luật dân sự.

Thứ tư, theo nghĩa từ điển: “thừa kế là hưởng của người

chết để lại cho” thì thừa kế được hiểu là sự tiếp nối giữa việcđể lại đi sản của người đã chết với việc nhận di sản của người

đang sông (mà không phải là mối quan hệ giữa họ). Sự tiếp

nối đó chính là q trình dịch chuyển tài sản và được coi là

sự kiện (căn cứ) làm xác lập quyền sở hữu của người thừa kếđối với khôi di sản mà họ đã nhận thừa kế. Xem điều 245 Bộ

<small>luật Dân sự).</small>

Thứ năm, cũng theo Từ điển tiếng Việt thì thừa kế cịn

một nghĩa thứ hai đồng nghĩa với kế thừa là: “thừa hưởng,

giữ gìn và tiếp tục phát huy” (Từ điển tiếng Việt) (nghĩa này

chỉ dùng trong những trường hợp cái được thừa hưởng manggiá trị tinh thần). Vi thế, nếu nói rằng kế thừa những di sản

văn hố của dân tộc thì cần phải hiểu đó là sự thừa hưởng

của thế hệ sau đối với những giá trị tinh thần của thế hệ

trước để lại mà không được hiểu là mối quan hệ giữa thế hệ

trước với thế hệ sau.

Như vậy, thừa kế nói chung là quá trình dịch chuyển disản từ người đã chết cho người cịn sống. Nếu q trình dich

chuyển này được thực hiện dựa trên ý chí của người đã chếtthể hiện trong di chúc mà họ để lại sẽ được gọi là: Thừa kế

theo di chúc. Mặt khác, nếu sự dịch chuyển trên được thực

hiện “theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế dopháp luật quy định” sẽ được gọi là: Thừa kế theo pháp luật.

2. Lược sử về pháp luật thừa kế ở Việt Nam qua các

<small>thời kỳ</small>

Nằm trong mối liên hệ biện chứng với cơ sở hạ tầng,

<small>pháp luật bao giờ cũng hàm chứa một giá trị thơng tin lớn.</small>

Nó như là một bức tranh tồn cảnh mà qua đó, người ta có

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

thể hình dung ra tình trạng văn hố, xã hội, kinh tế của một

<small>nhà nước, của một chế độ xã hội.</small>

Sự phát triển của pháp luật dân sự ở Việt Nam nói

chung và pháp luật về thừa kế nói riêng gắn liền với lịch sửtruyền thống, với chiều dài phát triển kinh tế, văn hoá của

<small>dân tộc Việt Nam.</small>

Dua vào các mốc lịch sử cơ ban của nước ta, chúng tôi

<small>tạm chia thành bốn giai đoạn để xem xét, đánh giá tình hình</small>

của pháp luật thừa kế ở nước ta trong từng giai đoạn.

<small>2.1. Giai đoạn trước năm 1945</small>

Dưới chế độ phong kiến, người dân luôn luôn sống trongcảnh đầu tắt mặt tối, vì chế độ hà khắc mà giai cấp địa chủphong kiến luôn đè nặng lên họ. Người nông dân dù chiếm đasố nhưng luôn bị trói buộc vào ruộng đất, phụ thuộc vào địachủ. Giai cấp dia chủ chỉ là số ít trong xã hội nhưng là giai cấpnắm trọn trong tay ruộng đất và “bao giờ bọn địa chủ phongkiến vẫn cũng được công nhận là giai cấp thông trị duy nhất”.

Nhà nước phong kiến dùng pháp luật để duy trì và củng

cố quyền sở hữu của giai cấp địa chủ đối với ruộng đất. Vì

vậy pháp luật về thừa kế ở thời kỳ này là một phương tiện để

duy trì quyền sở hữu của bọn địa chủ phong kiến từ đời này

sự phát triển về kinh tế, văn hố, đến tư tưởng, tơn giáo

đang thịnh hành ở thời kỳ ấy, nhưng nhìn chung hệ thống

pháp luật của dân tộc Việt Nam phát triển qua từng thời kỳluôn thể hiện một bản sắc dân tộc, một tâm linh truyền

thông đặc thù của con người Việt Nam.

Thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, pháp luật về thừa kế

<small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

được quy định trong nhiều bộ cổ luật (như Quốc triều hình

<small>luật, Hồng Việt luật lệ v.v..) Tuy vậy, khi nói đến pháp luật</small>

về thừa kế ở Việt Nam trước năm 1945 chúng tôi chỉ đề cập vànhận xét sơ bộ về các bộ đân luật cận kề nhất. Những bộ dânluật này (Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931, Bộ Dân luật Trung

<small>Ky năm 1986) là những bộ luật được ban hành trong thời ky</small>

mà nhà nước phong kiến Việt Nam đang nằm dưới sự cai trịcủa thực dân Pháp (chế độ nửa thực dân nửa phong kiến). Vìvậy trong quy định về thừa kế, các bộ luật này vừa mang tưtương của ý thức hệ phong kiến vừa du nhập tư tưởng của bộ

<small>Dân luật Cộng hoà Pháp năm 1804. Tuy nhiên, với tư cách là</small>

<small>pháp luật của nhà nước phong kiến nên mọi quy định nói</small>

chung và các quy định về thừa kế nói riêng trong hai bộ luậtnói trên đều chú trọng vào việc duy trì, củng cố chế độ sở hữuphong kiến, bảo vệ quyền lợi của giai cấp bóc lột.

Mặt khác, do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, vấn đề

<small>trọng nam khinh nữ như là một ý thức hệ bao trùm toàn xã</small>

hội và ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng lập pháp. Pháp luật ởthời kỳ này thừa nhận chế độ gia đình phụ quyền và cơngnhận cho người chồng (người cha) có tất cả các quyền lực cần

thiết để họ thực hiện chức năng chủ gia đình của mình. Vìvậy, thừa kế ở thời kỳ này thể hiện rõ nét sự bất bình đẳng

giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ. Trong gia đình, ngườichồng là gia trưởng có tồn quyền đối với tài sản của gia đình.

<small>Khi “xuất giá” người phụ nữ hồn tồn “tong phu”, bị coi là</small>

khơng cịn năng lực về mặt hộ, thậm chí cịn mất đi tên gọi của

mình. Tại Điều 312 Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Điều 313 Bộ Dânluật Trung Kỳ quy định: Người vợ chỉ được lập di chúc để định

đoạt tài san của mình nếu được người chồng đồng ý.

Các bộ dân luật này còn quy định (tại Điều 113, Bộ Dân

luật Bắc Kỳ và Điều 111 Bộ Dân luật Trung Kỳ) khi người vợchết trước, người chồng là chủ sở hữu duy nhất tất cả tài sảntrong gia đình (trong đó có cả phần tài sản của người vợ)nhưng khi người chồng chết trước, thì người vợ chỉ có quyền

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<small>quan trị khối tai sản chung trong gia đình. Người vợ chi được</small>

quyền hưởng dụng tài sẵn riêng của chồng khi khơng cịnngười thừa kế nào bên nội, bên ngoại của chồng.

Như vậy, theo quy định trên, người chồng hưởng di sản

<small>của vợ không phải với tư cách là người thừa kế của người vợ,</small>

mà với tư cách là người đã có sẵn quyền sở hữu đối với tất cả

của cải của người vợ, kế cả từ khi kết hôn. Người vợ hưởng

tài sản của chồng với tư cách là người thừa kế nhưng đứngsau những người thừa kế bên nội, bên ngoại của chồng.

Tuy rằng pháp luật trong thời kỳ này là phương tiện

pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp địa chủ, phong kiến

là chủ yếu nhưng trong đó, chế độ thừa kế vẫn được xây dựngtrên cơ sở tơn trọng và giữ gìn các truyền thơng của dân tộc.

Để thấy được điều đó, sau đây chúng tơi sẽ xét một cáchkhái qt về tình thần và nội dung của hai bộ dân luật nói trên.

e Bộ Dân luật Bac Kỳ:

Được ban hành bằng một Nghị định của Thông sứ Bắc

Kỳ ngày 30 tháng 3 năm 1931. Vì vậy, nếu xét về thủ tục và

trình tự ban hành Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ, thì thống sứ BắcKỳ đã vượt quá thẩm quyền của mình và vi phạm Hiệp ước

Patenote (Hiệp ước Việt-Pháp ký tại Huế ngày 06 tháng 6năm 1884 về việc thiết lập nền bảo hộ của Pháp) vì hiệp ướcnày đã ghi nhận quyền lập pháp thuộc nhà vua. Tuy nhiên,nội dung của bộ luật này lại phản ánh rất rõ nét và tôn trọngcác phong tục tập quán của con người Việt Nam, đặc biệt lànhững vấn đề thừa kế.

Bộ luật bao gồm 1.464 điều, được chia làm bốn quyển.

Quyển thứ nhất gồm 12 thiên quy định về gia đình, chế độ hơnsản và thừa kế. Trong đó có 17 điều luật quy định về vấn dé

thừa kế theo di chúc. Các thiên này phần nào đã phản ánh được

những tập tục cổ truyền của con người Việt Nam. Việc thờ cúng

tổ tiên là một tín ngưỡng truyền thống và đặc trưng của con

<small>Sài</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

người Việt Nam (trước đây và kể cả hiện nay). Gia đình Việt

<small>Nam truyền thống là sự tiếp nối giữa các thế hệ, là một tập hợp</small>

các truyền thống văn hoá, các giá trị đạo đức cao đẹp mà trong

<small>đó việc gìn giữ và phát huy là một nghĩa vụ đặc biệt thiêng</small>liêng thuộc về các thế hệ con cháu. Việc con cháu thờ cúng tổ

tiên, người đang sống thờ cúng người đã khuất vừa là truyềnthống tâm linh, vừa là truyền thống đạo đức đã được pháp luậtở thời kỳ này đặc biệt tôn trọng. Bộ luật này đã dành nhiều

điều để quy định về chế độ hương hoả. Trong đó, có những điều

khoản quy định về thừa kế mà cho đến bây giờ Bộ luật Dân sựcủa nước ta vẫn tiếp tục chấp nhận như là sự tiếp thu, kế thừa

một truyền thống của dân tộc. Chẳng hạn, người lập di chúc có

quyền dành một phần di sản để thờ cúng mà Bộ luật Dân sự

sửa đổi năm 2005 của nước ta quy định tại Điều 648, là sự kế

thừa truyền thống của dân tộc mà pháp luật trước đây đã quyđịnh. Ngoài ra, với truyền thống hiếu, lễ, hồ, mục; tơn ti trật tựnên việc chăm sóc, ni dưỡng lần nhau giữa những ngườitrong gia đình được coi là bổn phận đạo đức của mỗi người,nguyên tắc sống của con người Việt Nam. Trên cơ sở đó, BộDân luật Bắc Kỳ đã quy định: con cháu không được phân

chia khối tài sản của gia đình (mặc dù đã được cha, mẹ chohưởng thừa kế theo di chúc) khi cha, mẹ còn sống nếu khơngcó sự đồng ý của họ; con cháu của người chết buộc phải nhậndi sản của người đó và thay họ thực hiện các nghĩa vụ về tài

sản mà họ để lại... Mặt khác, cha, mẹ phải có trách nhiệm

ni dưỡng con cái, phải đảm bảo cho cuộc sống lâu dài của

con cái nên họ buộc phải để lại tài san của mình cho những

người ở thế hệ sau, nếu họ chết. Truyền thống này đã đượcBộ luật Dân sự kế tục trong các Điều 643, 669...

<small>e Bộ Dân luật Trung Ky (Hoàng Việt Trung Ky Hộ luật):</small>

Bộ luật này bao gồm 1.709 điều, được chia làm năm quyển.

Có thể nói bộ luật này là sự sao chép lại hầu hết các điều khoản

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

trong Bộ luật Dan luật Bac Kỳ. Tuy nhiên, có một số vấn dé

<small>dược quy định một cách chi tiết hơn nhiều và vì vậy số điều</small>

khoản của bộ dân luật này lớn hơn so với Bộ Dân luật Bắc Kỳ.

Sự ra đời của Bộ dân luật Trung Kỳ là sự thay thế toàn bộ

<small>những quy định trong Bộ luật Gia Long trước đây tại Trung Ky.</small>

Như vậy, kể từ ngày Bộ Dân luật Trung Kỳ được ban hành

<small>thì Bộ luật Gia Long bị chấm dứt hoàn toàn hiệu lực. Nghĩa là</small>

pháp luật về thừa kế ở Trung Ky từ đó có nhiều biến đổi sâu sắc

và gần gũi với phong tục tập quán của người Việt Nam hơn, vìchúng ta biết rằng Bộ luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ 1815)chỉ là phiên bản của Bộ luật Mãn Thanh (Trung Quoc).

<small>2.2. Giai đoạn 1945 - 1954</small>

Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng thang Tam năm 1945 đãkhai sinh ra nước Việt Nam, một nhà nước dân chủ nhân dân

đầu tiên ở Đông Nam Á.

Ngay từ những ngày đầu thành lập, nhà nước non trẻcùng một lúc phải đối phó với bao nhiêu vấn đề phức tạp vềchính trị, văn hố, kinh tế xã hội. Để giữ vững thành quảcách mạng, nhà nước ta phải tiến hành hàng loạt các biệnpháp khác nhau nhằm tập trung quyền lực vào tay nhà nước,

qua đó để đảm bảo quyền lợi của nhân dân lao động. Nếu bạo

lực cách mạng là bà đỡ cho sự ra đời của một chính quyềnnon trẻ, thì các biện pháp củng cố sức mạnh của chính quyềnđó, trong đó bao gồm cả việc ban hành kịp thời một hệ thống

các văn bản pháp luật để điều chỉnh rộng khắp các quan hệ

<small>xã hội theo hướng có lợi cho nhà nước, có lợi cho nhân dân lao</small>

động là những rường cột tơn tạo sự vững chắc của chính

quyền dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, trong một thời gian quá

ngắn, trong một tình thế hết sức khắc nghiệt, nhà nước ta

chưa thể ban hành kịp thời các văn bản pháp luật để điều

chỉnh tất cả các quan hệ xã hội. Do đó, trong thời kỳ này,

những vấn đề trọng đại được điều chỉnh bằng các sắc lệnh,

<small>3-TKé QĐCPL 33</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<small>còn những vấn đề thuộc về đời sống dân sự, nhà nước ta vẫncho phép áp dụng các văn bản pháp luật cũ. Vì lẽ đó, ngày 10tháng 10 năm 1945, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam</small>

dân chủ cộng hoà ban hành Sắc lệnh 90/SL cho phép áp dụngluật lệ cũ nếu nó khơng trái với ngun tắc “Độc lập của nướcViệt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà”.

Nhu vậy, khi giải quyết các tranh chấp về thừa kế trongthời kỳ này, chủ yếu vẫn áp dụng những quy định trong các

<small>bộ dân luật đã nêu trên. Tuy nhiên, với thời gian và sự biến</small>

đổi nhanh chóng, sâu sắc của tình trạng xã hội Việt Nam,

nhiều điều khoản trong các bộ dân luật ấy trở nên lạc hậu,trái với tỉnh thần mới và sự tiến bộ của xã hội. Mặt khác, với

<small>mục tiêu từng bước xoá bỏ tàn tích của chế độ phong kiến,</small>

xố bỏ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, hướng tới điều quantrọng là bảo vệ lợi ích cho nhân dân lao động, ngày 22 tháng

5 năm 1950, nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh 97/SL để sửa

đổi một số quy lệ về chế định trong dân luật cũ. Sắc lệnh nàyđược Chủ tịch Hồ Chí Minh ký cơng bố trên cơ sở tờ trình củaBộ Tư pháp lúc bấy giờ. Trong tờ trình có đoạn viết: “Cuộckhởi nghĩa tháng Tám và sự thành lập chính quyền Dân chủcộng hồ đã đem đến những biến đổi thực sự trong cách thứcsinh hoạt và tư tưởng của nhân dân Việt Nam. Nói chung xãhội ta đang đi mạnh dạn trên con đường tiến hố tất nhiên

của lịch sử. Do đó pháp luật cũng cần phải sửa đổi để thúc

đẩy sự tiến hố đó cho mau chong...”. Những quy định trong

Sắc lệnh 97/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 được coi nhưnhững viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc ban hànhcác văn bản pháp luật Dân sự Việt Nam nói chung và nhữngquy định trong thừa kế nói riêng.

Bằng sắc lệnh này, pháp luật thừa kế ở Việt Nam đã có

những nguyên tắc hết sức tiến bộ, phá vỡ sự cổ hủ, lỗi thời

trong pháp luật thừa kế trước đó. Các nguyên tắc được quy

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

định trong Sac lệnh 97/SL như “con cháu hoặc vợ chồng củangười chết cũng không bắt buộc phải nhận thừa kế người ấy”,“các chủ nợ của người chết khơng có quyền doi nợ q số di

sản để lạt; “vợ chồng có quyển thừa kế di sản của nhau”;

“con trai, con gái đều có quyền thừa kế di san của cha me’;“người đàn bà có chồng có tồn năng về mặt hộ”; “nhữngquyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành xử nóđúng với quyền lợi của nhân dân”; “người ta chỉ được sử dụngvà hưởng dụng những vật thuộc sở hữu của mình một cáchhợp pháp và khơng gây thiệt hại đến quyền lợi của nhândân”..., cho đến ngày nay vẫn cịn được giữ ngun ý nghĩa chuđạo trong việc hình thành và vận dụng các quy định của phápluật về thừa kế nói riêng và pháp luật Dân sự nói chung.

<small>2.3. Giai đoạn 1954 - 1975</small>

Bằng việc quy định trong Hiến pháp 1959 của nhà nước

ta, vấn đề thừa kế đã trở thành một nguyên tắc hiến định.“Nhà nước chiểu theo pháp luật để bảo hộ quyển thừa kế tài

sản của công dân” (Điều 19 - Hiến pháp 1959). Từ nguyên

tắc này, các văn bản pháp luật khác được ban hành để cụ thể

hoá đường lối giải quyết các tranh chấp về thừa kế.

Trong Luật Hơn nhân và Gia đình Việt Nam (được Chủtịch nước ký lệnh công bố ngày 29 tháng 12 năm 1959 và cóhiệu lực từ ngày 13 tháng 01 năm 1960) đã có nhiều quy định

phá bỏ chế độ gia đình phụ quyền trong dân luật cũ nhằm

đảm bảo sự bình đẳng về mọi mặt cho các thành viên trong

gia đình. Theo luật này, chế độ hôn nhân tiến bộ được dựatrên sự tự nguyện giữa một người đàn ơng và một người đàn

bà, trong đó vợ và chồng đều có quyển thừa kế tài sản cuanhau (Điều 16); con cái không phân biệt trai, gái, trong hay

ngồi giá thú đều được đối xử bình đẳng (Điều 23, 24); con

cái có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc ni dưỡng cha mẹ(Điều 17); cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng và giáo

<small>35</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<small>dục con cái, không được ngược đãi con cái (Điều 17, 18). Những</small>

quy định này là cơ sở pháp lý để xác định quyển và nghĩa vụcủa các thành viên trong gia đình về lĩnh vực thừa kế.

Nhằm đáp ứng cho yêu cầu của công tác xét xử trongthực tế, trên cơ sở Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 và trongphạm vi chức năng của mình (do Luật Tổ chức toà án quy

<small>định), Toà án nhân dân tối cao đã ra nhiều thơng tư hướng</small>

dẫn cụ thể để tồ án các cấp có sự thống nhất chung về

đường lối xét xử: Thông tư 594/NCPL ngày 27 tháng 8 năm1968 hướng dẫn đường lối xét xử các tranh chấp về thừa kế,

<small>Thông tư 02/TATC ngày 02 tháng 8 năm 1973 hướng dẫn</small>

giải quyết các tranh chấp về thừa kế đi sản liệt sĩ.

<small>Ngoài ra, trong giai đoạn này các co quan chức năng cịn</small>có những thơng tư, quyết định để hướng dẫn trong những

trường hợp cụ thể có liên quan đến thừa kế:

e Thông tư số 01/NV ngày 05 tháng 01 năm 1974 của BộNội vụ đã quy định việc tổ chức chôn cất, quản lý hồ sơ, disản và mồ mã của cán bộ, đồng bào miền Nam chết ở miền

Bắc do những người thừa kế gần nhất của người chết là vợ,

quyền sở hữu của người thừa kế được pháp luật công nhận.Như vậy, pháp luật về thừa kế trong thời kỳ này vẫn dựatrên cơ sở đạo đức nhưng “theo xu hương thừa nhận vai trịchủ yếu của các mối quan hệ vợ chồng trong cấu trúc gia đìnhhiện đại. Ngồi ra, cha, mẹ từ nay có nhiều nghĩa vụ hơn làquyền hạn đối với con cái. Phụ quyền của pates familias

(người cha) khơng cịn nữa, bởi vậy, việc di chuyển di sản phải

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

bảo đảm việc bảo vệ cuộc sống của vợ (chồng) và con cái củangười chét.”' Mặt khác, cũng như chế độ hơn nhân và gia đình,chế độ thừa kế trong thời kỳ này đã hồn tồn dựa trên

ngun tắc bình đăng.

2.4. Giai doan từ 1975 đến nay

Sau khi miền Nam hồn tồn giải phóng, cách mang Việt

Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc

lập thông nhất... tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, vàkỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá VI đã quyết định đặt tênnước ta là: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mộtnhà nước thông nhất tất yếu phải có một hệ thống pháp luật

để áp dụng một cách thống nhất trên tồn quốc. Vì vậy, ngày

25 thang 3 năm 1977 Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị quyếtsố 76/CP quy định về việc thực hiện thông nhất pháp luật

trên cả nước. Kể từ đó các văn bản pháp luật được thống

nhất áp dụng trên phạm vì tồn quốc. Tuy nhiên, ở giai đoạnnày vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào quy định riêngvề thừa kế.

Mặt khác, để phù hợp với tình hình mới trong sự thayđổi sâu sắc về mọi mặt của đất nước, kỳ họp thứ 7 của Quốc

hội khố VI đã chính thức thơng qua bản Hiến pháp mới của

<small>nước ta.</small>

Hiến pháp năm 1980 là cơ sở, nền tảng cho bước phát

triển mới của pháp luật về thừa kế.

Với tư cách là một đạo luật cơ bản của nhà nưốc ta, Hiếnpháp 1980 dé ra các nguyên tắc đối với mọi vấn dé, mọi mặtcủa đời sống xã hội. Trong đó, việc quy định về chế độ chínhtrị, chế độ kinh tế, quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân có

<small>! Nguyễn Ngọc Điện: Một số suy nghĩ vé thừa ké trong luật dân sựViệt Nam, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.26.</small>

<small>37</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<small>ý nghĩa vô cùng quan trọng đôi với việc ban hành các văn</small>

bản pháp luật về thừa kế sau này.

Điều 27, Hiến pháp 1980 đã xác định cơng dân có quyềnsở hữu những loại tài sản gì và từ đó ghi nhận và bảo hộquyền thừa kế tài sản của cơng dân.

Để có một đường lối thống nhất cho tồ án các cấp trong

cơng tác xét xử giải quyết các tranh chấp về thừa kế, đồng

thời bổ sung một số vấn đề cho phù hợp với quy định củaHiến pháp mới, qua tổng kết rút kinh nghiệm công tác xét

<small>xử, ngày 24 tháng 7 năm 1981, Tồ án nhân dân tối cao đã</small>

ban hành Thơng tư 81/TATC để hướng dẫn giải quyết các

tranh chấp về thừa kế. Thơng tư 81 đã có những đóng gópnhất định trong việc hồn thiện pháp luật về thừa kế. Thơngtư đã quy định đến nhiều vấn dé như: di san, thừa kế theo dichúc, thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế... Tiếp

<small>đó, ngày 29 tháng 12 năm 1986 Luật Hơn nhân và Gia đình</small>

Việt Nam được ban hành. Trong đó có một số điều quy địnhvề quyền thừa kế của vợ chồng.

Trong mối liên hệ phổ biến giữa các ngành luật, Luật

Hơn nhân và Gia đình Việt Nam 1986 có nhiều điều khoảnđược coi là cơ sở quan trọng đối với những quy định của phápluật về thừa kế. Ví dụ: từ việc Luật Hơn nhân và Gia đình

<small>Việt Nam xác định nghĩa vụ ni dưỡng giữa các thành viên</small>trong gia đình mà pháp luật về thừa kế có cơ sở để xác định

ai là người thừa kế được hưởng di san không phụ thuộc vào

<small>nội dung của di chúc. Trong thời gian này, chế độ kinh tế của</small>

nước ta đã có nhiều thay đổi cơ bản. Việc xoá bỏ cơ chế kinhtế tập trung, áp dụng chính sách kinh tế thị trường đã dầndần cho phép cá nhân có quyền sở hữu khơng chỉ các tư liệutiêu dùng, các cơng cụ sản xuất mà cịn cả các tư liệu sảnxuất lớn. Cũng từ đó, thành phần kinh tế trong giai đoạn nàyđã có nhiều biến đổi, pháp luật đã thừa nhận một nền kinh

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

tế có nhiều thành phần, trong đó thừa nhận và bao dam chosự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân (là điều chưa bao

<small>gid được thừa nhận trước đây).</small>

Xã hội càng phát triển, vấn dé thừa kế càng trở nên đadạng, sống động và phức tạp nên Thống tư hướng dẫn củaToa án nhân dân Tối cao khơng cịn đáp ứng được địi hỏi củathực tế. Vì vậy, ngày 30 tháng 8 năm 1990 Hội đồng nhànước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thôngqua Pháp lệnh Thừa kế. Trong những năm đầu của thậpniên 90, Pháp lệnh Thừa kế là một văn bản pháp luật quyđịnh đầy đủ và có hệ thông về lĩnh vực thừa kế.

Pháp lệnh Thừa kế gồm 38 điều, chia làm sáu chương,

trong do đã xác định được những nguyên tắc hết sức cơ bản

về thừa kế, đồng thời, Pháp lệnh này cũng đã đưa ra được rấtnhiều các khái niệm cần thiết.

Chúng ta đều biết, trong những năm 80, chế độ sở hữu ở

nước ta (được xác định thông qua Hiến pháp 1980) chỉ tồn tại

hai hình thức sở hữu: sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể và

nền kinh tế trong thời kỳ này chỉ có hai thành phần kinh tế

được quản lý theo cơ chế tập trung thông nhất kết hợp quảnlý theo ngành, theo địa phương. Trong cơ chế quản lý này,

các tổ chức kinh tế hoạt động theo kế hoạch, sản xuất và tiêuthụ sản phẩm theo địa chỉ có sẵn nên không những làm cho

hoạt động của các đơn vị sản xuất thiếu tính năng động, sángtạo, thiếu hiệu qua mà cịn tạo ra một thói quen trơng cho vàý lại vào Nhà nước. Vì vậy, nền kinh tế của nước ta trong thờikỳ này ln nằm trong tình trạng trì trệ, nếu khơng muốn

nói là ln khủng hoảng. Trước xu thế phát triển của nhân

loại và đòi hỏi khách quan của nền kinh tế nước nha, Dang

ta đã xác định một đường lối kinh tế mới với mục tiêu là làm

cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu

vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi

<small>39</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

nguồn lực sản xuất, phát huy mọi tiém năng của các thànhphần kinh tế. Hiến pháp sửa đổi 1992 thể chế hoá đường lốicủa Đảng đã quy định: “Nhà nước phát triển nền kinh tếhàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sựquản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghia.”!(Điều 15). Với sự xác định này, trong Chương Chế độ kinh tế,Hiến pháp 1992 đã có nhiều quy định để đảm bảo tính thốngnhất hai mặt của sự phát triển kinh tế sao cho nền kinh tếđược phát triển theo cơ chế hàng hoá thị trường với nhiềuthành phần kinh tế khác nhau nhưng vẫn theo định hướngxã hội chủ nghĩa. Sử dụng cơ chế kinh tế thị trường là nhằmtận dụng các mặt tích cực của nó như tận dụng mọi nguồn

lực, phát huy sự cạnh tranh lành mạnh để tăng năng xuấtlao động và hiệu quả sản xuất đồng thời cũng từ đó để thựchiện các mục tiêu cơng bằng, ổn định và tiến bộ xã hội.

Hiến pháp 1992 đã có rất nhiều quy định mới nhằm dam

bảo cho nền kinh tế của nước ta phát triển theo cơ chế thị

trường như: “Phát huy mọi tiểm năng của các thành phần

kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể,

kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước dưới

nhiều hình thức” (Điều 16); “kinh tế cá thể, kinh tế tư bảntư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh,

được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mổ ...;

kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển” (Điều 21);“Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nước ngoàiđầu tư vào Việt Nam”* (Điều 25); các thành phần kinh tế

bình đẳng với nhau trước pháp luật, có quyền hợp tác và

<small>cạnh tranh với nhau một cách lành mạnh...</small>

Mặt khác, Hiến pháp 1992 cũng có nhiều quy định để

<small>' Hiến pháp năm 1992 và các luật tổ chức nhà nướcnước C.H.XH.C.N Việt</small>

<small>Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 11.</small>

<small>2.34 Hiến pháp năm 1992 và các luật tổ chức nhà nước C.H.X.H.C.N</small>

<small>Việt Nam, Sdd, tr12, 13, 15.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

dim bảo cho nền kinh tế luôn luôn phát triển theo định

<small>hướng xã hội chủ nghĩa như xác định hình thức sở hữu tồn</small>

din và hình thức sở hữu tap thé là nền tảng (Điều 15); thànhphần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinhtế quôc dân (Điều 19); Nhà nước thông nhất quản lý nền kinhtế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách (Điều 26);

<small>xu ly nghiêm minh mọi hoạt động sản xuất kinh doanh bất</small>

hợp pháp, bao vệ quyền lợi của người san xuất và người tiêudung (Điều 28)...

Với đường lối kinh tế mới của Đảng đã được Nhà nước ta

thể chế hoá trong Hiến pháp, kinh tế, xã hội của nước tatrong giai đoạn này đã thật sự thay đổi trên mọi bình diện.

Và di nhiên theo đó, các vấn đề trong lĩnh vực dân sự cũng sésong động, đa dang và phức tạp hơn nhiều. Các văn ban phápluật với các hình thức nghị định, pháp lệnh không đủ khả

nang bao quát để điều chỉnh một cách rộng khắp các quan hệ

dân sự nói chung va vấn dé thừa kế nói riêng. Vì vậy, nha

<small>nước ta đã kịp thời ban hành Bộ luật Dân sự. Bộ luật Dân sự</small>

đầu tiên của nhà nước ta đã được Quốc hội nước Cộng hồ xã

<small>hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức thông qua ngày 28 tháng</small>

<small>10 năm1995.</small>

Cùng với sự ra đời của nhiều đạo luật quan trọng, sự ra

<small>đời của Bộ luật Dân sự là bước ngoặt lón trong quá trìnhhồn thiện hệ thống pháp luật nước ta, đáp ứng nguyện vọng</small>

của toàn thể nhân dân lao động trong thời kỳ đổi mới.

Bộ luật Dân sự là kết quả của sự lao động công phu trong

suốt một thời gian dài kiểm nghiệm, sàng lọc thực tiễn sống

động của đời sống xã hội và hệ thống hoá, pháp điển hoá pháp

luật đân sự của chính quyền nhân dân. Với bộ luật này, lầnđầu tiên trong lịch sử lập pháp nước nhà, vấn đề thừa kế được

quy định đầy đủ với trọn nghĩa là một chế định trong một bộ

luật. Trong Bộ luật Dân sự của nhà nước ta, chế định về thừa

kế được quy định ở Phần thứ tư, bao gồm 55 điều luật, quyđịnh tương đối chi tiết và hệ thống về những vấn dé liên quan

<small>41</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

đến thừa kế. Sau một thời gian áp dụng vào đời sống thực tế,

<small>Bộ luật Dân sự 1995 đã bộc lộ khá nhiều bất cập nên nhà nước</small>

ta đã tiến hành thực hiện Dự án sửa đổi và Bộ luật Dân sự

sửa đối đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

<small>Nam, khoá XI, kỳ họp thứ bảy thông qua ngày 14 tháng 6</small>

năm 2005. Về thừa kế, Bộ luật Dân sự 2005 quy định bằng 56điều luật, hầu như tiếp thu và giữ lại toàn bộ những quy địnhcủa Bộ luật Dân sự 1995, trong đó có sửa đổi một số điều vàthêm một điều mới (điều cuối cùng của Phần Thừa kế).

Nói tóm lại, những quy định về thừa kế của pháp luậtnước ta trong giai đoạn nay (từ Thông tư 81 đến Pháp lệnh

Thừa kế và đến Bộ luật Dân sự) đều dựa trên ngun tắc

bình đẳng, tơn trọng quyền tự do ý chí của người để lại thừa

kế cũng như của người thừa kế trên cơ sở bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của các chủ thể khác.

3. Các nguyên tắc cơ bản của thừa kế

Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản củacông dân đã được nhà nước bảo hộ. Mặt khác, quyền thừa kếlà một chế định của Bộ luật Dân sự nên việc thừa kế phảituân thủ các nguyên tắc cơ bản mà bộ luật đã quy định tạiPhần thứ nhất: “Những quy định chung”. Bên cạnh đó, với tưcách là một chế định riêng nên quyền thừa kế cũng có những

ngun tắc riêng của mình. Tuy nhiên, các nguyên tắc nàykhông được trái với nguyên tắc chung của Bộ luật Dân sự.Dựa theo tỉnh thần của các điều luật trong chế định về quyền

thừa kế, có thể thấy rằng pháp luật về thừa kế có một số

nguyên tắc cơ bản sau đây:

3.1. Nguyên tắc bình đẳng uề thừa kế của cá nhânNguyên tắc này được quy định cụ thể tại Điều 635 - Bộ

luật Dân sự 1995 như sau: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về

quyển để lại tài san của mình cho người khác và quyền

hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Quy định

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<small>này dược giữ nguyên tại Điều 632 của Bộ luật Dân sự 2005.’</small>

Đây là sự cụ thể hố ngun tắc bình đẳng đã được quy định

trong Điều 8 của Bộ luật Dân sự, dồng thời cũng là sự cụ thể

hố ngun tắc bình đẳng trước pháp luật của công dân đãđược Hiến pháp 1992 của nước ta quy định tại Điều 52: “Moi

cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc bình

dang về quyền thừa kế của cá nhân là cơ sở, là kim chỉ nam

cho việc xác định những người trong cùng một hàng thừa kếđược hưởng di sản ngang nhau (Điều 676 Bộ luật Dân sự

2005). Các chủ thể tôn trọng và tuân thủ nguyên tắc này

trong thừa kế sẽ gột bỏ được hồn tồn tư tưởng trọng nam

khinh nữ, bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng

trong thừa kế mà chế độ phong kiến đã để lại và từng ăn sâu

vào ý thức hệ của đa số người dân bao đời nay. Theo đó dần

dần sẽ lập lại kỷ cương trong lĩnh vực thừa kế.

Nội dung của nguyên tắc bình đẳng về quyền thừa kế

của cá nhân bao gồm:

- Vợ chồng có quyền ngang nhau trong uiệc định doat tàisản thuộc sở hữu chung hợp nhất cua uợ chồng trước khi chết

Trước đây, pháp luật của Việt Nam thời phong kiến luônghi nhận quyền gia trưởng của người chồng trong gia đình và

tước đi tư cách chủ thể của người phụ nữ khi đã lấy chồng

nên pháp luật về thừa kế ở thời kỳ này thể hiện hết sức rõnét sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc định đoạt

tài sản chung của vợ chồng.

Pháp luật của Nhà nước ta hiện nay luôn ghi nhận và

bảo đảm quyền bình đẳng của người phụ nữ trong mọi lĩnh

vực. Việc đảm bảo cho người người phụ nữ có quyền bình

đẳng với nam giới (vợ bình đẳng với chồng) trong việc định

đoạt tài sản chung được ghi nhận cụ thể tại Điều 666, Bộ

<small>! Xem Bộ luật Dân sự, Nxb. Chính trị quéc gia, Hà Nội, 2005.</small>

<small>43</small>

</div>

×