Tải bản đầy đủ (.pdf) (272 trang)

Sách chuyên khảo: Luận bàn về các hình thức sở hữu và sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng - Phùng Trung Tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.53 MB, 272 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

TS PHUNG TRUNG TAP

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TR] - HANH CHÍNH

<small>Hà Nội - 2011</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

LỜI GIỚI THIỆU

Trong bất kỳ một xã hội nào, con người cũng cân có uật

chất để đáp ứng như cầu tôn tai va phát triển. Khi xã hội phân

chia thành giai cấp, có tư hữu va có nhà nước, thì xung đột vé

các lợi ích trong xã hội ngày càng trở nên gay gắt hơn. Lịch sử

<small>đã chứng minh, giai cấp nào, tập đoàn nào chiếm hữu được</small>nhiều tu liệu sản xuất chính trong xõ hội thì giai cấp đó, tậpđồn đó có qun chỉ phổi các quan hệ xã hội theo ý chí của

<small>minh. Các cuộc xung đột trong một xã hội có tư hữu va có nha</small>

nước, là các cuộc tranh đấu vi các lợi ích va bảo uệ các lợi íchcủa mỗi giai cấp, mỗi tập đồn nhất định. Một trong những lợi

ích quan trọng ln ln được mỗi giai cấp, mỗi tập đồn

quan tâm là sở hữu tài sẵn. Khi sở hữu tai sản được điều chỉnh

bằng pháp luật, thi bản chất của quyên sở hữu đã phản ánhbản chất của một chế độ xã hội. Chế độ sở hữu đã thể hiện sâusắc uà khách quan bản chất của một nhà nước nhất định. Nhà

<small>nước đó được thành lập vi lợi ích của ai, do ai vd vi ai thì</small>

chính sự tơn tại của chế độ sở hữu đã phản ánh bản chất của

nhà nước đó. Với một chế độ sở hữu nhất định, thì các hìnhthức sở hữu là những yếu tố cấu thành bản chất của chế độ sởhữu uà phản ánh đây đủ bản chất của các quan hệ dân sự, lao<small>động, thương mại uà trong những quan hệ kinh tế, xã hội củamột quốc gia nhất định.</small>

Do tầm quan trọng của các hình thức sở hữu, cho nên chế.định vé quyển sở hữu trong Bộ luật Dân sự của Cộng hoà xãhội chủ nghĩa Việt Nam cần phải được xác định cho phù hợp

uới thực tế của đời sống xã hội trong giai đoạn trước mắt uà

trong tương lai. Nhằm góp phan hồn thiện những quy định

vé các hình thức sở hữu trong Bộ luật Dân sự, để hiệu quả.điêu chỉnh của những quy định pháp luật vé quyên sở hữunói chung, vé các hình thức sở hữu nói riêng ngày một cao,phù hợp uới nên kinh tế đa thành phân, sản xuất theo cơ chế

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, Tiến sĩ luật học</small>Phùng Trung Tập biên soạn cuốn sách chuyên khảo này một

mặt, nhằm phục vu cho vige nghiên cứu lý luận uễ cơ sở xácđịnh các hình thức sở hữu trong Bộ luật Dân sự, đồng thời

<small>cũng là một tài liệu có giá trị trong uiệc nghiên cứu, học tập</small>

pháp luật vé các hình thức sở hữu trong các trường đại học

đào tạo luột ở Việt Nam, mặt khác còn nhằm làm rõ những cơsở lý luận để cơ quan lập pháp sửa đổi, bổ sung các quy định

vé hình thức sở hữu trong Bộ luật Dân sự hiện hành phù hợp

uới thực tiễn ở Việt Nam.

Với nội dung phong phú tồn diện nghiên cứu uễ cáchình thức sở hữu trong cuốn sách chuyên khảo này, tác giả đãphân tích, lập luận có những uấn dé liên quan đến chế độ sở

hữu, quyên sở hữu, các hình thức sở hiểu: Sở hữu nhà nước, sdhữu của pháp nhân, sở hữu tư nhân vé sở hữu chung cần

<small>được quy định trong Bộ luật Dân sự. Với những lập luận có co</small>

sở khoa học uà thực tiễn, tác giả đã khuyến nghị nhằm loại bỏ

những quy định vé hình thúc sở hữu tập thể, sở hữu của cáctổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị

xã hội - nghệ nghiệp, tổ chức nghé nghiệp, va sở hữu hỗn hợp;không nên quy định những hiện tượng này là các hình thức sở

hữu trong Bộ luật Dân sự khi được sửa đổi, bổ sung.

<small>Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính trên trọng giới</small>

thiệu cuốn sách chuyên khảo: Luận ban vé các hình thức

sở hữu va số hữu chung hợp nhất của vg chẳng đến đông

đảo độc gid.

Nhà xuất bản Chính trị - hành chính

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

: Phẩn thứ nhất . 5.CO SỬ LÝ LUẬN VỀ SO HỮU, CHE ĐỘ SỬ HỮU

VÀ BAN CHAT CUA CAC HÌNH THUC SỬ HỮU

<small>Chương I</small>

CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ SỞ HỮU

Sở hữu thuộc phạm trù kinh tế tổn tại trong mọi hình<small>thái kinh tế xã hội. Xã hội lồi người đã trải qua 5 hình thái</small>kinh tế - xã hội: Hình thái kinh tế cộng sản ngun thuỷ,hình thái kinh tế chiếm hữu nơ lệ, hình thái kinh tế phongkiến, hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa và hình thái kinh tế<small>xã hội chủ nghĩa.</small>

<small>Sở hữu phát sinh trong xã hội là một quy luật khách</small>

quan và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài

<small>người. Trong một xã hội bất kỳ khi có sản xuất và lưu thơng</small>các thành quả của lao động thì mức độ chiếm hữu tư liệu sảnxuất ở một mức độ nhiều hay ít có ảnh hưởng đến địa vị xã

hội của các chủ thể khác nhau. Lịch sử nhân loại đã cho thấy,

trong một giai đoạn phát triển nhất định thì giai cấp nào, tập

<small>đồn nào chiếm hữu được nhiều nhất những tư liệu sản xuất</small>cơ bản trong xã hội, thì giai cấp đó, tập đồn đó cớ quyền chỉphối và điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của giai cấp,

nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đơng Nam châu Á được

<small>hình thành ở Việt Nam trong bối cảnh lịnh sử nửa thực dân,</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

nửa phong kiến. Dưới chế độ mới, sở hữu phong kiến - thực

dân dan dan bị xoá bỏ và thiết lập một loại quan hệ sở hữu

<small>mới, loại bỏ chế độ người bóc lột người, thực hiện người cày có</small>ruộng và cơng nhân, trí thức, người lao động thủ công làm chủ

chuyên môn, làm chủ tay nghề của mình và chế độ tư hữu tuyvẫn cịn tổn tại nhưng khơng cịn thực trạng người bóc lột

<small>người như thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.</small>

Sau 5 năm kể từ ngày miền Bắc Việt Nam được giải

phóng, việc lựa chọn con đường phát triển xã hội là, tiến

thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư

bản chủ nghĩa và sau thời kỳ khôi phục kinh tế ở miền Bắcsau chiến tranh, miền Bắc da xây dựng chủ nghĩa xã hội, làmhậu phương vững chắc đã tiến hành đồng thời hai cuộc cách

mạng là cách mạng dân tộc và cách mạng dân chủ nhân dân.

Sở hữu trong giai đoạn khôi phục kinh tế ở miền Bắc,chuẩn bị cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn tổn tại

các hình thức sở hữu khác nhau thuộc các thành phần kinh

tế khác nhau.

Với những quan điểm này, sở hữu của các thành phần

kinh tế ngoài nhà nước vẫn được tiếp tục tổn tại, nhưng kinh.

tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo. Nền kinh tế ở miền Bắc nước

ta trong thời kỳ tiền xã hội chủ nghĩa vẫn tổn tại là nền kinh

tế da thành phần. Hình thức sở hữu của các chủ thé trong xã

hội vẫn được bảo đảm thực hiện. Một bộ phận tư liệu sản xuất.quan trọng như đất đai, công cụ sản xuất khác vẫn thuộc về

người lao động trong các thành phần kinh tế khác nhau.

Sự cần thiết phải nhấn mạnh đến công cuộc cải tại xã hộisau ngày giải phóng mién Bắc là sự thực hiện Luật cải cach

ruộng đất được ban hành ngày 19 - 12 - 1953, và được thực

hiện trên phạm vi toàn miền Bắc vào năm 1955, đã thu được

những thành quả đáng kể, mang lại ruộng đất và tư liệu sảnxuất quan trọng khác cho nhân dân lao động. Đánh đổ giai

cấp dia chủ, cường hào, có nợ máu với nhân dân. Đồng thờicũng tịch thu triệt để tài sản của giai cấp tư sản mại bản,

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

qua đó xoá bỏ tương đối triệt để thế lực phản động và thùđịch cách mạng, kẻ thù của nhân dân ở miền Bắc nước ta.

“Trong hoàn cảnh nền kinh tế ở miền Bắc Việt Nam đã lạc

hậu lại phải gánh chịu hậu quả của 15 năm do chiến tranhtàn phá, nhiệm vụ khôi phục kinh tế được đặt lên hàng đầuvà là nhiệm vụ mang tính cấp bách. Theo tỉnh thần Nghịquyết Trung ương lần thứ VII (tháng 3-1955) và Nghị quyết.của Quốc hội tại phiên họp lần thứ IV (tháng 3-1955) đã xácđịnh: “Không chỉ đơn thuần khôi phục cơ sở sản xuất mức sản

xuất, trước chiến tranh, chúng ta còn phải thay đổi quan hệsản xuất cho hợp uới chế độ dân chủ nhân dân, do đó đẩymạnh sản xuất, phát triển kinh tế, phục vu dan sinh”. Trong.

giai đoạn này, thành phần kinh tế tư bản tư nhân được thừanhận và được coi trọng với chủ trương: "Hướng dan, khuyến<small>khích, giúp đỡ kinh doanh tu nhân của tư sản dân tộc. Tư</small>sản ngoại quốc cũng cần được chiếu cố một cách thích đáng.

(Báo cáo kỳ họp Quốc hội lần thứ tư năm 1955).

Trong thời kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh, lực

lượng sản được phục hồi và phát triển. Thị trường nội địa

được mở rộng và ban đầu đã có những dấu hiệu năng động.

Xét về bản chất thì nền kinh tế da thành phần có định hướng.

xã hội chủ nghĩa đã có mầm mống và dần dan được định{ thì ở miền Bắc Vi<small>Nam trong thời kỳ khôi phục kinh tế đạt được những thành</small>

quả: Bắt đầu cdi tạo nên kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã

hội, cụ thể là phát triển từng bước thành phần kinh tế quốc

doanh (có tính chất xã hội chủ nghĩa) phát triển từng bước

thành phân hinh tế hợp tác xã (có tính chất nửa xã hội chủ

nghĩa va xã hội chủ nghĩa) cải tạo từng bước thành phầnkinh tế tư bản tư nhân thành tu bản nhà nước. Như thế nghĩa.

là cải biến dần dân những quan hệ sở hữu cá thể thành quan

hệ sở hữu chung của xã hội uà bước đầu cải tạo công thương<small>nghiệp theo chủ nghĩa xã hội. Như vậy, theo chủ trương trên</small>

thì nền kinh tế đa thành phân ở miền Bắc Việt Nam trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

thời kỳ ngay sau khi chiến tranh kết thúc đã không được bảohộ. Theo chủ trương này, thì hai hình thức sở hữu nhà nướcvà sở hữu của hợp tác xã được ưu tiên củng cố, xây dựng va

phát triển. Vấn để cải tạo công thương nghiệp ở miền Bắc

in và sở hữu cá thé cũng khơng dược khuyến

tư bản tư nh:

<small>khích phát triểi</small>

Kể từ năm 1957 trở đi, việc cải tạo công thương nghiệp ở

miền Bắc Việt Nam theo hướng phát triển mau dịch quốc

<small>doanh và hợp tác xã mua bán với những chính sách: Nhà</small>

nước thi hành chế độ gia công đặt hàng, bao tiêu đối vớinhững mặt hang chủ yếu. Khoanh vùng thu mua đổi vớinhững nguyên liệu can thiết như chè, cà phê, thuốc lá, gỗ...

Thi hành hình thức đại lý bao tiêu đối với một số mặt hàng

thiết yếu phục vụ cho tiêu dùng như xăng, dầu, lốp ô tô, giấy,

đường; thống nhất xuất khẩu đối với những loại hàng hoá màNhà nước cần kiểm soát để trao đối với nước ngoài như cà

phê, sa nhân, hoa hồi, sơn...; đánh thuế thực lãi vào lĩnh vựckinh doanh thương nghiệp tư bản tư nhân và nâng cao thuế.buôn chuyến, đồng thời thu hẹp chênh lệch giá cả giữa cáckhu vực. Chính sách hạn chế và cải tạo kinh tế tư bản tư

doanh đã có những kết quả: “Cơng thương nghiệp tư bản tư

doanh ở miên Bắc đã được cải tạo bước đầu. Về cơng nghiệp,

trên 80% cơ sở tự doanh đã có quan hệ gia công đặt hàng uớikinh tế quốc doanh, 80% giá trị hàng hố của cơng nghiệp tư

bản tư doanh là hàng quốc doanh gia công thu mua. VỀ

thương nghiệp trên 1/3 s‹ thương nghiệp tu bản tư doanh

đã có quan hệ kinh tiêu, đại lý uới mau dịch quốc doanh”. Vớithực tế này, đã có nhận định: “Hiện nay diéu hiện đã chín

mi đểchúng ta chủ động, tích cực va khẩn trương đẩy uiệc

cải tạo xã hội chủ nghĩa đối uới kinh tế tu bản tư doanh va

giai cấp tư sản dân tộc tiến một bước quan trọng có ý nghĩaquyết định”. Với mục tiêu là: “Đưa xí nghiệp tư bản tư doanh:

từ hình thức thấp va vita lên hình thức cao của chủ nghĩa tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

bản nhà nước, chủ yếu là hình thức cơng tư hợp doanh,

chuyển chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa vé căn bản thành

chế độ sở hữu nhà nước va trên cơ sở quan hệ sản xuất mới đóbiến dan người tư sản dân tộc thành người lao động, sống

bang lao động chứ khơng phải sống bằng bóc lột". Với những.chính sách trên, thể hiện rõ tính chất sớm hạn chế thành

phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân theo việc cải tạo để sớm<small>thành lập hệ thống thương nghiệp quốc doanh theo phương.</small>thức bán lẻ. Hệ thống thương nghiệp tư doanh đã dan danđược hệ thống thương nghiệp quốc doanh thay thế. Với những<small>chủ trương như vậy, trong chừng mực nhất dinh đã làm hạn</small>

chế sản xuất và lưu thơng hàng hố trên thương trường, thể

<small>hiện sự nóng vội, duy ý chí buộc các quan hệ khách quan và</small>nhu cầu khách quan của toàn xã hội vào một khn mẫu xã<small>hội chủ nghĩa đích thực, trong khi cơ sở hạ tang của chủ</small>

nghĩa xã hội cần phải có thời gian để củng cố, phát triểnmạnh mẽ hơn nữa theo quy luật phát triển xã hi

Kể từ năm 1958, ở miền Bắc Việt Nam thừa nhận

nhiều thành phần kinh tế và hình thức sở hữu. Tuy nhiên,<small>với chính sách cải tạo công thương nghiệp và khôi phục kinh</small>tế sau chiến tranh, thì nền kinh tế nhiều thành phần này cóhai hình thức sở hữu được ưu tiên phát triển là sở hữu nhà

nước và sở hữu tập thể của nhân dân lao động.

<small>“Trong giai đoạn này, việc cải tạo xã hội chủ nghĩa là cải</small>tạo quan hệ sản xuất trong nông nghiệp được Đảng và Nhà<small>nước chú trọng. Quá trình này được thực hiện theo 3 bu</small>

Bước thứ nhất: Thành lập các tổ đổi công trong các lang

quê đểsản xuất nơng nghiệp. Tổ đổi cơng có mầm mống ban

đầu của xã hội chủ nghĩa. Tổ đổi công là môi trường cho nôngdân nông nghiệp tập trung sức lao động theo nguyên tắc một.<small>người vì nhiều người và nhiều người vì một người trong sảnxuất nơng nghiệp.</small>

<small>Bước thứ hai: Xây dựng hợp tác xã bậc thấp, là hình thứcnơng dân tự nguyện cùng góp ruộng đất, nơng cụ sản xuất</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

khác vào một tổ chức gọi là hợp tác xã để cùng nhau sản xuất

nông nghiệp và cùng phân chia thành quả lao động trongnông nghiệp. Hợp tác xã bậc thấp là hình thức sở hữu hợp tác

<small>xã đã được định hình.</small>

Bước thứ ba: Phong trào hợp tác hố nơng nghiệp đã trỏ

thành cao trào trên mién Bắc với mục dich: “Dựa hẳn uào

ban cố nông va trung nơng lớp dưới, đồn kết chặt chẽ uới

trung nơng, hạn chế đi đến xố bỏ sự bóc lột kinh tế của phúnông, cdi tạo tư tưởng phú nông, ngăn ngừa dia chủ ngóc đầudậy, tiếp tục mở đường cho địa chủ lao động cải tạo thành conngười mới hiên quyết đưa nông dân đi uào con đường hợp tác

hố nơng nghiệp tiến lên chủ nghĩa xõ hội." Theo tỉnh thần

của Nghị quyết Trung ương lần thứ 16 và hợp tác hóa nơng

nghiệp, về thành phần giai cấp vẫn dựa theo thành phần giai

cấp đã quy định trong sửa sai thời cải cách ruộng đất. Xây

dựng hợp tác xã theo nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi và

quan lý dan chủ.

Đối uới nguyên tắc tự nguyện: Nông dan, tự họ so sánh

giữa sản xuất cá thể với sản xuất hợp tác xã để thấy tính hơnhẳn của tổ chức hợp tác xã mà tham gia hợp tác xã, không

<small>được cưỡng ép, ra lệnh cho nông dân tham gia hợp tác xã dưới</small>bất kỳ hình thức nào.

Đổi uới nguyên tắc cùng có lợi: Những tư liệu sản xuấtmà xã viên hợp tác xã góp vào, phải căn cứ giữa lợi ích chungvà riêng trên tinh thần đoàn kết và tương trợ giữa các xã viên

cùng sản xuất trong hợp tác xã.

Đổi uới nguyên tắc dân chủ: Quan lý lao động, sản xuất và

xác định thành quả sản xuất của hợp tác xã đều phải được các xã

<small>viên trong hợp tác xã bàn bạc và thông nhất.</small>

Đổi uới ruộng đất của xã uiên: Xã viên tham gia hợp tác

phải góp tồn bộ ruộng đất vào hợp tác xã để hợp tác xã sử

dụng vào sản xuất nông nghiệp. Mỗi xã viên chỉ có quyền sử

dụng một diện tích đất khơng q 5% diện tích bình qn

của mỗi người trong xã để trồng hoa màu như rau quả, chăn

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>nuôi. Khi hợp tác xã da được xây dựng ở bậc cao thì vấn dé sở</small>

hữu hợp tác xã là một hình thức sở hữu của tập thể người lao

<small>động, mang bản chất xã hội chủ nghĩa.</small>

<small>Như vậy, sở hữu hợp tác xã là một hình thức sở hữu đượcxây dựng trên cơ sở tự nguyện góp tư liệu sản xuất vào tập</small>

thể và tài sản đó là của hợp tác xã. i

<small>hợp tác xã được thực hiện theo nguyên. tắc làm theo năng lực,</small>hưởng theo lao động; đồng thời là một hình thức sở hữu đượcpháp luật bảo vệ và ưu tiên phát triển theo những chính sách

phát triển kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Sở hữu của các loại hợp tác xã nông nghiệp, ngư nghiệp,<small>lâm nghiệp, thương nghiệp, thủ công mỹ nghệ và các ngành.</small>nghề sản xuất tạo ra của cải vật chất khác trên cơ sở tựnguyện đóng góp tư liệu sản xuất như đất đai, công cụ và

công sức để làm ăn tập thể. Việc hưởng thành quả lao dong

<small>căn cứ vào ngày cơng lao động và sự đóng góp công sức của</small>mỗi xã viên hợp tác xã, bên cạnh sự hỗ trợ bằng những chính

sách của nhà nước để xây dựng các loại hợp tác xã đã chuyểnbiến từ các tổ đổi cơng được hình thành trước đó sang làm ăntập thể của người lao động. Việc phân chia lợi ích theonguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo lao động; có những

uu tiên đối với người già yếu, em nhỏ và gia đình neo đơn, giađình có cơng đối với đất nước, gia đình liệt sỹ, thương, bệnhbình trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây là hình<small>thức xoá bỏ chế độ tư hữu, xoá bỏ chế độ người bóc lột người ởnơng thơn và thành thị, thực hiện chính sách người cày córuộng trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.</small>

Về sở hữu đối với đất đai trong giai đoạn này là: “Nhà.nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyên sở hữu vé ruộng đấtva các tư liệu sản xuất khác của nông dân. Nhà nước ra sức<small>hướng dẫn, giúp đỡ nông dân cải tiến kỹ thuật canh tác, phát</small>

triển sản xuất, va khuyến khích nơng dân tổ chức hợp tác xã

sản xuất, hợp tác xã mua bán uà hợp tác xã uay mượn theo

nguyên tắc tự nguyện”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Trong giai đoạn này, sở hữu của những người làm nghềthủ công và những người lao động riêng lẻ khác cũng được

bảo hộ bằng pháp luật. Trong kế hoạch 3 năm (1958-1960)

cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Việt Nam về cơ bản đã

được hoàn thành, thiết lập được một chế độ kinh tế ở miềnBắc từ cơ cấu nhiều thành phan kinh tế thành một chế độkinh tế gồm hai thành phần cơ bản là kinh tế quốc doanh vàtập thể. Như vậy, kể từ năm 1960 ở miền Bắc Việt Nam đã có

những chính sách và cơ chế là bảo vệ và ưu tiên phát triểnhai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu nhà nước và sở tập thể

là các hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa, cịn các hình thức sở

hữu cá thể, tiểu chủ khơng được khuyến khích phát triển vàdẫn dẫn bị thu hẹp theo những chính sách phát triển kinh tế -xã hội ở miền Bắc Việt Nam kể từ năm 1960.

Về sở hữu, trong giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1980 ởViệt Nam vẫn tuân theo nguyên tắc sở hữu toàn dân được ưu

tiên bảo hộ, đồng thời các hình thức sở hữu khác như sở hữucủa các hợp tác xã và của cá nhân cũng được bảo hộ có hiệu

quả, phù hợp với lợi ích của tồn dân.

Khi miền Nam hồn tồn được giải phóng vào ngày 30-4-1975,đất nước thống nhất vào năm 1976, thì cơng cuộc cải tạo cơngthương nghiệp ở miền Nam được tiến hành, đã thu được

những thắng lợi có ý nghĩa quyết định đến việc củng cố nền

<small>dân chủ nhân dân trên phạm vi tồn quốc. Trước tình hình</small>

đó, “nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam can có một

bản hiến pháp thể chế hố đường lối của Đảng Cộng sản Việt

Nam trong giai đoạn mới. Đó là Hiến pháp của thời ky quáđộ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước”.

Trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992, theo quyđịnh của Hiến pháp năm 1980, ở nước ta khơng khuyến khíchsở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất thuộchai thành phần kinh tế cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu

tập thể. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ cơng nghiệp chỉ

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<small>có quyền sở hữu những công cụ sản xuất trong trường hợpđược phép lao động riêng lẻ.</small>

Với quan điểm và lập trường của Đảng Cộng sản và Nhà

<small>nước Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vitoàn quốc, do vậy các hình thức sở hữu ngồi quốc doanh và</small>

tập thể đều khơng được khuyến khích phát triển. Mục đích

của quan điểm này là nhằm để xố bỏ tận gốc chế độ tư hữu

<small>và quan hệ người bóc lột người trong xã hội. Sở hữu toàn dân</small>

và sở hữu tập thể là hai hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa

được ưu tiên phát triển. Người nông dân canh tác trên đồng

<small>ruộng, đất đai của Nhà nước, tài sản thuộc sở hữu của tập.</small>

thể, riêng cá nhân người nông dân chỉ được hưởng theo ngày

công lao động va ban thân người nông dân trong hệ thống sd

hữu này cũng không thể trở thành tư sản được. Theo quy

định tại Điều 24 Hiến pháp năm 1980, thì nhà nước khuyếtkhích, hướng dẫn, giúp đô đến những người làm ăn cá thể,khơng có nghề nghiệp rõ ràng mà chỉ bn bán nhỏ nhằmmục dich ni sống gia đình va bản thân. Nhưng do sự phat

triển của hệ thống mậu dịch quốc doanh, mọi hàng hoá phục

vụ cho tiêu dùng được phân phối theo một hệ thống mậu dịch

thống nhất, do vậy tư thương không thể cạnh tranh được vớihệ thống bán lẻ và phân phối sản phẩm là những nhu câuthiết yếu phục vụ cho nhân dân. Để bảo đảm cuộc sống của

những người bn bán nhỏ, nhà nước có kế hoạch và chính

sách hướng dẫn họ chuyển dần sang lĩnh vực sản xuất tạo ra

của cải vật chất cho xã hội và bảo đảm cuộc sống của họ. Với

hình thức sở hữu cá thể này, khơng được khuyến khích pháttriển trong hệ thống sản xuất xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh chủtrương chuyển đổi ngành nghề cho những người buôn bán

<small>nhỏ, Nhà nước cũng chú ý, quan tâm đến những người lao</small>

động trong lĩnh vực nông nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công

<small>nghiệp, mỹ nghệ, dịch vụ và quy định cho bộ phận người lao</small>

<small>động thuộc các lĩnh vực này trong phạm vi được phép lao</small>

<small>động riêng lẻ.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Theo những quy định của Hiến pháp năm 1980, thì sở

hữu ở Việt Nam trong giai đoạn 1980-1992 được hình thành

và phát triển chủ yếu dựa trên hai hình thức sở hữu cơ bản làsở hữu toàn dân và sở hữu tập thể của nhân dân lao động,

mang bản chất xã hội chủ nghĩa. Những hình thức sở hữu

khác ngồi xã hội chủ nghĩa như sở hữu của những hộ giađình cá thể thuộc mọi lĩnh vực và ngành nghề khác nhau,

khơng được khuyến khích phát triển.

Những quy định hạn chế này đã phản ánh thực trạng

của nền kinh tế tập trung, bao cấp cao độ, nơn nóng nhằm.

xố bỏ ngay lập tức những loại hình sở hữu ngồi quốc doanhvà tập thể. Vì những hình thức sở hữu ngồi quốc doanh vàtập thể đều bị xem là phi xã hội chủ nghĩa. Do nơn nóng, du chí, muốn xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa đích thực

và xã hội đó phải tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên

chủ nghĩa xã hội, do vậy đã bỏ qua những yếu tố cần thiết

cho sự tổn tại và phát triển xã hội ở nhiều hướng, và các hìnhthức sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Vớinhững quan điểm nhận thức về sở hữu trong xã hội như vậy,

trong một chừng mực nhất định đã bảo vệ tuyệt đối sở hữu xãhội chủ nghĩa, bảo vệ người lao động trong hệ thông của nềnkinh tế quốc doanh và tập thể. Tuy nhiên, với những quanđiểm về sở hữu trong xã hội như vậy, đã không tránh khỏi

những cản trở và những yếu tố cản trở và kìm hãm nhất định

đến tốc độ phát triển kinh tế nước nhà. Ngồi ra, những

<small>chính sách diéu chỉnh sở hữu trong xã hội chi tập trung vào</small>

hình thức sở hữu tồn dân và tập thể, mà khơng quan tâm

đến các hình thức sở hữu khác trong xã hội, phát sinh và tồntại rất khách quan, đã phần nào cản trở, kìm hãm năng lực

sản xuất và tiém năng sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh

trong xã hội, dẫn đến tình trạng dân đói nghèo và phần lớnchỉ tập trung vào việc kiếm tìm đủ lương thực, thực phẩm

ni sống mọi người trong xã hội, theo đó mọi cơ hội phat

triển kinh tế, phát triển sản xuất, phát triển thương mại và

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<small>dịch vụ trong toàn xã hội đã vơ tình bị bổ qua, do tư duy duy</small>ý chí, thiếu thực tiễn.

Những sai lầm và sự duy ý chí đã được đánh giá xác đángvà khoa học từ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản

<small>Việt Nam lần thứ VI. Đứng trước những yêu cầu đổi mới tồndiện và mọi mặt của đất nước, trong đó vấn dé sở hữu được</small>Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu. Hiến pháp năm 1992,

Hiến pháp của thời kỳ đổi mới được ban hành. Những quy

định về hình thức sở hữu ở Việt Nam được xác định như một.cuộc cải cách căn bản và khoa học liên quan dén số phận của

mọi tẳng lớp nhân dân. Các thành phần kinh tế và các hình

thức sở hữu được thừa nhận và được bảo hộ phát triển. Ngồi

hai hình thức sở hữu nhà nước và tập thể, các hình thức sởhữu khác cũng được khuyến khích phát triển. Các thànhphần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân được tôntrọng, được bảo hộ. Với sự đổi mới này, năng lực lao độngtrong xã hội được giải phóng tối da, từ đó thúc day nền kinh

tế trong nước phát triển và giao lưu với thế giới được mở

rộng, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam mỗi

<small>năm một tăng cao hơn năm trước.</small>

Các hình thức sở hữu thuộc các thành phần kinh tế quốcdoanh, tập thể được củng cố và phát triển. Bên cạnh hai hình

thức trên, thì hình thức sở hữu tư nhân cũng được khuyến.

khích phát triển gồm: sở hữu cá thể, tiểu chủ và tư bản tưnhân được tự do lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh

doanh; được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy<small>mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế</small>dân sinh @iéu 21 Hiến pháp). Một điều rất quan trọng nhằmbảo đảm cho công dân làm giàu hợp pháp, Điều 28 Hiến pháp

quy “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị

quốc hữu hố.

Trong những trường hợp thật cần thiết lý do quốc<small>phịng va vi lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

dụng có bôi thường tài sẳn của cá nhân hoặc tổ chức theo thời

vậy, những quy định pháp luật về sở hữu ở Việt Nam trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã là động lực thúc đẩynền sản xuất xã hội phát triển ngày một xứng tẩm với tiém

lực vốn cớ của toàn dân.

Il. KHÁI NIỆM QUYỀN SỞ HỮU

Quyển | sở hữu là một phạm trù pháp lý, chỉ xuất "hiệntrong xã hội có tư hữu và có Nhà nước. Ngồi ra, quyền sở

hữu cịn là cơ sở để xác định bản chất giai cấp, bản chất xã

hội do chính những quy định của pháp luật về quyền sở hữuphan ánh. Quyền sở hữu mang bản chất của giai cấp và theođó giai cấp nào nắm chính quyền, đại điện cho Nhà nước thìgiai cấp đó có quyền quy định về quyền sở hữu và nhằm bảo

vệ lợi ích của giai cấp nào, tập đoàn nào phụ thuộc vào ý chícủa giai cấp thống trị trong một xã hội nhất định.

Quyền sở hữu thuộc về phạm trù pháp lý, do vậy được

hiểu dưới hai nghĩa khách quan và chủ quan.

Thứ nhất, quyên sở hữu hiểu theo nghĩa khách quan

(nghĩa rộng) là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định vềcăn cứ phát sinh quyền, trình tự, điểu kiện chiếm hữu, sử

dụng và định đoạt tài sản của chủ thể, đồng thời chủ sở hữu

có quyền khởi kiện hoặc khơng khởi kiện khi quyền sở hữu

của mình bị xâm phạm. Hiểu theo nghĩa này, thì các căn cứxác lập quyển sở hữu của chủ thể dựa trên các căn cứ hợppháp do pháp luật quy định, từ những căn cứ phổ biến theo

thoả thuận, theo thời hiệu, theo bản án có hiệu lực pháp luật,

theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, do

được thừa kế di sản, theo những sự kiện pháp lý mà pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<small>quy dịnh là căn cứ xác lập quyền sở hữu trong nhữngtrường hợp trộn lan, chế biến, sáp nhập tài sản và các căn cứ</small>xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do bị đánh rơi, bị bỏ

qn, bị chơn giấu, bị chìm đấm được tìm thấy và xác lập

quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên;xác lập quyền sở hữu đổi với gia súc, gia cầm bị thất lạc; xáclập quyền sở hữu đối với vật không xác định được chủ sở hữuvà đổi với Nhà nước có quyển sở hữu tài sản trong trường hợp

quốc hữu hoá, tịch thu tai san của tư nhân khơng có dén bị<small>mang tính chất trừng phạt trong những trường hợp.</small>

cần thiết vì lợi ích quốc gia... Như vậy, quyền sở hữu hiểu

<small>theo nghĩa khách quan có tính khả biến, bởi vì các quy phạm</small>

pháp luật quy định về quyền sở hữu có thể được bổ sung,

<small>thay đổi, ban hành quy định mới và theo đó phạm vi, giá trị</small>

tài sản, tính chất, chủng loại tài sản nào thuộc quyền sở hữu

của cá nhân, pháp nhân, nhà nước... có thể được thay đổi để

điều chỉnh quan hệ về quyền sở hữu cho phù hợp không

những với đời sống thực tế, mà còn thể hiện rõ mục đích củaNhà nước bảo vệ lợi ích của ai, của chủ thể nào trong xã hội.

Hơn nữa, nội dung quyền sở hữu được pháp luật quy địnhgồm ba quyền năng là quyền chiếm hữu, quyển sử dụng và

quyển định đoạt tài sản và những hạn chế của chủ thể khi

thực hiện các quyền năng thuộc quyền sở hữu theo luật định.<small>Ngồi ra, chủ sở hữu cịn có nghĩa vụ cho người khác sử dụnghan chế bất động sản liền kể theo quy định của pháp luật.</small>

Thứ hai, quyền sở hữu hiểu theo nghĩa chủ quan (nghĩa

hẹp), là quyền dân sự cụ thể của chủ sở hữu có quyền chiếm<small>hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo ý chí của mình nhưngthực hiện các quyền năng này phải phù hợp với pháp</small>

luật và không trái đạo đức xã hội. Hiểu theo nghĩa này, khiquyền sở hữu của chủ thể bị người khác xâm phạm như cản

trở trong việc thực hiện. quyền sở hữu, chiếm đoạt tài sản<small>hoặc làm hư hỏng tài sản của chủ sở hữu hoặc thực hiện các</small>

hành vi khác xâm phạm đến quyền sở hữu của chủ thể, thì

<small>TRUNG TAM THONG TIN THU VIÊN|</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp tài sản của chủsở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn hành vi xâm phạm.hoặc khởi kiện để yêu cầu Tồ án bảo vệ quyền sở hữu của

mình: u cầu trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại về tài

san khi tài sản bị gây thiệt hại hoặc kiện đòi chấm dứt hànhvi cản trở chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp thựchiện các quyền năng của mình.

II. KHÁI NIỆM CHẾ ĐỘ SỞ HỮU

Khi để cập đến chế độ sở hữu là để cập đến bản chất sởhữu của một chế độ nhất định.

Trong một xã hội có tư hữu và có Nhà nước thì chế độ sd

hữu có chứa đựng bản chất giai cấp. Nhưng chế độ sở hữu.

cũng có thể khơng chứa đựng bản chất giai cấp và bản chatcủa nhà nước, mà chế độ sở hữu là một phạm trù kinh tế

nhằm xác định tính chất của sở hữu trong một xã hội nhất.định. Trong chế độ cộng sản nguyên thuỷ không chứa dung

tư hữu và khơng có nhà nước. Như vậy, chế độ sở hữu là căn.

cứ để xác định trong một xã hội nhất định, thì việc chiếmhữu tài sản, thực hiện quyển sử dụng và định đoạt tài san

như thế nào và vì lợi ích của ai; của tồn xã hội hay của số.đơng cộng déng hay của một nhóm người nhất định. Trongcác chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ tư bản chủ nghĩa và chế.

độ phong kiến thì tư liệu sản xuất thuộc về số ít người có sự

tích luỹ và sự mất bình đẳng giữa người sử dụng lao động và

người lao động làm thuê là cội nguồn của mâu thuẫn xã hộivà đấu tranh giai cấp. Sự phân biệt giữa chủ và tó, giữangười sang trọng và kẻ hèn mon, giữa kẻ bóc lột thì giàu có

với kể bị bóc lột thì ban hàn là một hố sâu ngăn cách giữacác số phận khác nhau trong chế độ dé. Sự ban cùng, khốnkhổ của người lao động bị chính chế độ sở hữu được đẻ ra dosố ít người nhưng lại chiếm hữu đại bộ phận tư liệu sản xuất

chính trong xã hội và là giai cấp thống trị, giai cấp bóc lột.<small>trong xã hị</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Ở Việt Nam, kể từ Hiến pháp năm 1959, về chế độ kinh

<small>tế - xã hội đã được quy định tại Chương II. Tại Điều 9 Hiếnpháp quy định: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiến dẫn</small>

từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cáchphát triển uà cải tạo nên kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xãhội, biến nên kinh tế lạc hậu thành nên kinh tế xã hội chủ

<small>nghĩa uới công nghiệp va nông nghiệp hiện đại, khoa hoc vakỹ thuật tiên tiến." Trong thời kỳ quá độ, theo quy định tại</small>

Điều 12 Hiến pháp là: “O nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu vé tư liệusản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của nhà nước tức là<small>của tồn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình</small>

thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thức sở hữu

<small>của người lao động riêng lẻ, va hình thức sở hữu của nhà tưsản dân tộc". Trong đó “kinh tế quốc doanh thuộc hình thứcsở hữu của tồn dân, giữ vai trị lãnh đạo trong nên kinh tế</small>quốc dân va được Nhà nước bảo đảm phát triển tu tiên. Các

hầm mỏ, sơng ngịi, uà những rừng cây, đất hoang, tài nguyên.

khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc<small>quyên sở hữu toàn dân”.</small>

<small>Căn cứ vào nhưng quy định trên của Hiến pháp nam1959, chế độ sở hữu ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủnghĩa xã hội là chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất</small>chính. Nhưng nếu xét về bản chất của chế độ sở hữu này, thì<small>Nhà nước khơng phải là chủ sở hữu duy nhất đối với những</small>loại tư liệu sản xuất chính trong xã hội, mà chỉ sở hữu nhữngtư liệu sản xuất và các loại tài sản như các hầm mỏ, sơng<small>ngịi, những rừng cây, đất hoang và các tài nguyên khác mà</small>pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc quyền sở hữu.<small>toàn dân.</small>

Nếu sở hữu là điều kiện phát triển xã hội, thì chế độ sở

<small>hữu là nguyên nhân tạo ra những điều kiện đó. Do vậy, chế</small>

độ sở hữu được hiểu như kiến trúc thượng tầng, chỉ phối mọi

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

lĩnh vực của đời sống xã hội. Với quan điểm nhận thức và

dinh hướng cho sự phát triển của xã hội, Điều 15 Hiến phápnăm 1992 quy định: “Nha nước xây dựng nên kinh tế độc lập,tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tếquốc tế; thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nên

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Co cấu kinh

tếnhiều thành phân vdi các hình thức tổ chức sản xuất, binh

doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tap

thé, sở hữu tu nhân, trong đó sở hữu toàn dân uà sở hữu tậpthể là nên tang”.

Với: “Muc đích chính sách kinh tế của Nhà nước là lamcho dân giàu nước mạnh, dap ứng ngày cùng tốt hơn nhu cầuvật chất va tỉnh thân của nhân dân trên cơ sở phát huy moinăng lực sản xuất, mọi tiêm năng của các thành phần kinh tếgôm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu

chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước va kinh

tế có uốn đầu tư nước ngồi dưới nhiêu hình thức, thúc đẩy

xây dựng cơ sở uật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác binh tế,khoa học, kỹ thuật vd giao lưu uới thị trường thế giới" (Điều

16 Hiến pháp năm 1992).

Căn cứ vào những quy định của Hiến pháp, vào chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, thì

chế độ sở hữu ở Việt Nam hiện nay đã được xác định rõ và<small>theo định hướng:</small>

Thứ nhất, Nhà nước phát triển nền kinh tế nhiều thành

phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theođịnh hướng xã hội chủ nghĩa. Với chế độ sở hữu da thànhphần đã tạo ra những khả năng to lớn trong việc giải phóngmọi năng lực sản xuất xã hội, khai thác mọi tiém năng trong

nhân dân để nhằm tạo ra những động lực phát triển kinh tế

da chiểu, da ngành mang lại những giá trị kinh tế cao nhất

từ nội lực của chính xã hội. Nền kinh tế đa thành phần, thuộc

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

nhiều hình thức sở hữu khác nhau, mọi chủ thể đều bìnhđẳng trong sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ. Hiệu quả kinh

tế cao khơng lệ thuộc vào hình thức sở hữu, mà phụ thuộcvào cơ chế, chính sách điều chỉnh vĩ mơ của Nhà nước. Tạo ramôi trường thuận lợi trong sản xuất, kinh doanh của các chủthể thuộc các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế<small>khác nhau. Nhà nước với vai trò chủ đạo điều chỉnh nền kinh</small>

tế đất nước ở bậc vĩ mơ, theo đó các chủ thể thuộc các thành

phần kinh tế khác nhau phát huy được hết năng lực sản xuất.

của mình, tạo ra nhiều chỗ làm việc, giải quyết được nạn thatnghiệp và bớt được những gánh nặng trong việc điều chỉnh

nến sản xuất và phát triển kinh tế của Nhà nước. Tính độc

<small>lập, tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của bất kỳ thành</small>

phần kinh tế thuộc các hình thức sở hữu nào cũng thật cần.thiết. Vì lợi ích của các chủ thể sản xt kinh doanh chỉ có

thể được đảm bảo thực hiện trong một mơi trường của chính

sách kinh tế cởi mổ, phù hợp với cơ chế thị trường và dap tingđược nhu cầu của xã hội. Chế độ sở hữu hiện nay ở Việt Namđã giải quyết được rất nhiều vấn để xã hội mà trước dây

không thể tự giải quyết được. Lợi ích của Nhà nước khơng thể

tách rời lợi ích của các thành phần kinh tế và các hình thứcsở hữu. Những hạt nhân kinh tế vi mô đã có mối liên hệ mat

thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển. Khơng thể cónên kinh tế phát triển khi mà Nhà nước độc quyền với một

chế độ sở hữu khơng nhằm bảo vệ những lợi ích của các chủ

thể khác trong xã hội. Như vậy, chế độ sở hữu phan ánh ban

<small>chất giai cấp trong quan hệ về quyền sở hữu tài sản trên</small>phạm vi toàn xã hội. Hiện nay ở Việt Nam, nhiều thành phầnkinh tế đã tạo ra một cơ hội cho sự phát triển chung của toàn

xã hội. Các thành phần kinh tế thuộc các hình thức sở hữukhác nhau và nằm trong nội dung của chế độ sở hữu được thể

hiện ở những khía cạnh sau đây:

~ Nhà nước có quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chính<small>được quy định tại Điều 17 Hiến pháp và Nhà nước là người</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<small>dai diện cho sở hữu toàn dân. Nhà nước là chủ sở hữu duy</small>nhất đối với đất dai, rừng núi, sơng hổ, nguồn nước, tài

ngun trong lịng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thểm lục địa vàvùng trời. Bên cạnh đó, Nhà nước có quyển sở hữu đối vớiphần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực kinh

tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốcphòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy địnhlà của Nhà nước, déu thuộc sở hữu toàn dân. Chế độ sở hữu

toàn dân là cơ sở vững chắc trong công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ lênchủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì sở hữu tồn dân là cơ ban, là

một nguyên tắc không thể thay đổi: “Kinh tế nhà nước được

củng cố va phát triển, nhất là trong các ngành uà lĩnh vuethen chốt, giữ vai trò chủ đạo, cùng uới kinh tế tập thể ngày

càng trở thành nên tảng uững chắc của nên kinh tế quốc dân”

- Các loại hình kinh tế ngồi quốc doanh là kinh tế cá

thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân không thuộc nền kinh tế xã hội

<small>chủ nghĩa. Nhưng trong thời kỳ quá độ, Nhà nước cho phép</small>

các loại hình kinh tế này phát triển, nhằm phát huy tối đa

khả năng tạo ra các loại hình kinh doanh và được thành lập

doanh nghiệp khơng bị hạn chế về quy mô hoạt động trongnhững ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh, như kinh tế

cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân.

Như vậy, nếu xét về tính đồng nhất của chế độ xã hội chủnghĩa thì chế độ sở hữu ở Việt Nam hiện nay chưa thật sựdung với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Nhưng trong thời ky

quá độ, sở hữu nhà nước là sở hữu toàn dân vẫn là cơ bản vàđóng vai trị chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân cả về mặt

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<small>quy mô cũng như về sức mạnh kinh tế, chi phơi các quan hệtrong xã hội và có vai trò chủ đạo trong việc điểu chỉnh các</small>quan hệ xã hội. Các thành phần kinh tế khác là những hạt

nhân quan trọng, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, đồng

thời các thành phần kinh tế này được Nhà nước bảo hộ phát

triển cả về mặt quy mô và chiều sâu. Chế độ sở hữu xã hội

<small>chủ nghĩa ở Việt Nam đóng vai trị điều chỉnh và chỉ phối các</small>hạt nhân kinh tế thuộc các thành phần kinh tế trong xã hội

phát triển và chế độ sở hữu toàn dân ln là mục dich để

<small>tồn Đẳng, tồn dân phấn đấu thực hiện.</small>

1V. HÌNH THỨC SỞ HỮU

Khi để cập đến hình thức sở hữu là đề cập đến mức độ

chiếm hữu tư liệu sản xuất, năng lực sản xuất và phạm vi ảnh.hưởng của hình thức sở hữu đó trong tổng thể các quan hệ về

tài sản trong xã hội. Dưới góc độ kinh tế, hình thức sở hữu

phản ánh cơ cấu chủ thể trong nền kinh tế quốc dân. Bản thânhình thức sở hữu khơng thể thay thế chế độ kinh tế nhưng nó

<small>lại là hạt nhân phản ánh bản chất của chế độ sở hữu.</small>

Dưới chế độ dân chủ nhân dân kể từ năm 1945 đến nay,

về hình thức sở hữu theo quy định của pháp luật có nhiềubiến đối qua các thời kỳ.

<small>- Giai đoạn từ năm 1946 đến 1960</small>

<small>Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà dược thành lập,năm 1946 bản Hiến pháp dầu tiên của nhà nước dân chủ nhân</small>

dân đầu tiên ở Đông Nam Á được ban hành. Về sở hữu nói

<small>chung và hình thức sở hữu nói riêng bước đầu được quy định.</small>tại Điều 12 Hiến pháp: “Quyển tu hữu tài sản của cơng dân<small>Việt Nam được bảo đảm”.</small>

<small>Như vậy, về hình thức sở hữu theo quy định tại Hiếnpháp năm 1946 chỉ có một điều quy định về việc nhà nước</small>thừa nhận quyển tư hữu của cơng dân Việt Nam. Theo đótrong giai đoạn này, hình thức sở hữu tư nhân vẫn được nhà<small>nước thừa nhận và bảo hộ. Bản chất của sở hữu tư nhân là tu</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

hữu về tư liệu sản xuất trong lao động, sản xuất, kinh doanh,làm dịch vụ và khơng thuộc hình thức sở hữu xã hội chủnghĩa. Sở hữu tư nhân là sở hữu không thuần nhất, mà căn<small>cứ vào sự chiếm hữu những tư liệu sản xuất, phạm vi chiếm.</small>hữu tư liệu sản xuất và mục dích sử dụng tư liệu sản xuất đómà được xác định dưới các mức độ khác nhau của sở hữu tư

nhân gồm: Sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ và tư bản tư nhân.

<small>Trong giai đoạn này, ở Việt Nam chưa có khái niệm uễ hình</small>

thức sở hữu tập thể va sở hữu tồn dân. Vì rằng chế độ xã hội

chủ nghĩa chưa được xây dựng. Tuy nhiên, hình thức sở hữu<small>nhà nước đối với tư liệu sản xuất đã được xác định và là hình</small>thức sở hữu cơ bản ở Việt Nam trong giai đoạn này. Nhà nướcdân chủ nhân dân đã tiến hành nhiều cuộc cải cách nhằmđánh đổ giai cấp địa chủ và tư sản mại bản, tịch thu, quốc<small>hữu hoá tài sản của tư sản mại bản, của đảng phái phanđộng, của việt gian bán nước, của địa chủ có nợ máu với nhân</small>dân. Tài sản do thực hiện chính sách quốc hữu hố thuộc sởhữu của nhà nước. Ngồi ra, cuộc cải cách ruộng đất theoLuật Cải cách ruộng đất ngày 19-12-1953 đã được áp dụng

trên phạm vi miền Bắc Việt Nam, đánh đổ giai cấp dia chủ,

<small>tịch thu ruộng đất và nơng cụ chia cho dân nghèo. Hình thứcsở hữu tư nhân trong giai đoạn này cũng đã được xác định</small>không những trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, mà cịn<small>trong các lĩnh vực thương mại, thợ thủ cơng, bn bán nhỏ,</small>sản xuất thủ cơng và cơ khí nhỏ... Theo quy định của Hiếnpháp năm 1946, về hình thức sở hữu trong giai đoạn từ 1946đến 1960, chỉ bao gồm sở hữu nhà nước uà sở hữu tư nhân.

<small>- Giai đoạn từ 1960 đến 1980</small>

<small>Căn cứ vào những quy định của pháp luật và đời sống xã</small>

hội trong giai đoạn này, có thể đưa ra một nhận xét là trong

giai đoạn từ 1960 đến 1980, ở Việt Nam về các hình thức sởhữu đã được định hình và tồn tại trong hoạt động, san x<small>kinh doanh, làm dich vụ có sự phân biệt đối xử giữa các hình</small>thức sở hữu theo các chính sách xã hội và pháp luật. Do tình

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

hình kinh tế và chính trị trong giai đoạn này có nhiều yếu tốảnh hưởng đến quan điểm lập pháp.

Thứ nhất, Việt Nam còn tạm thời bị chia cắt làm hai

miền Nam - Bắc. Miền Bắc được giải phóng và miền Nam

vẫn cịn tiếp tục chiến đấu chống thù trong, giặc ngoài là Mỹ- Diệm. Với chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền

Bac, là hậu phương lớn và là chỗ dựa vững chắc để tiến hành

cuộc chiến đấu lâu dài bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất<small>đất nước. Với những chủ trương, chiến lược xây dựng và bảo</small>

vệ tổ quốc, trong giai đoạn này nhân dân Việt Nam đồng thời

<small>phải tiến hành hai cuộc cách mạng: Cách mạng dân tộc vàcách mạng dân chủ nhân dân. Với những nhiệm vụ nặng nể</small>

đó, Đại hội đại biểu tồn quốc của Đảng Lao động Việt Nam

lần thứ IIL, đã xác định xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa,

bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên

<small>chủ nghĩa xã hội. Với tư tưởng chỉ đạo đó, hình thức sở hữu</small>

được quy định trong Hiến pháp năm 1960, đã có sự biến đổi

về chất so với cùng quy định về vấn để này trong Hiến pháp

<small>năm 1946.</small>

Tại Điều 11 Hiến pháp năm 1960 quy định: *Ở nước Việt

<small>Nam Dân chủ Cộng hồ trong thời kỳ q độ, các hình thức</small>sở hữu chủ yếu vé tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở<small>hữu của nhà nước tức là của tồn dân, hình thức sở hữu của</small>

hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao

động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, uà hìnhthức sở hữu của nhà tư sản dân tộc”.

Các hình thức sở hữu này đã phản ánh bản chất của chếđộ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở mién

Bắc Việt Nam.

Hai hình thức sở hữu là nhà nước và tap thể được ưu tiên.

phát triển. Đổi với sở hữu tập thể, Nhà nước khuyến khích,

hướng dẫn và giúp đỡ sự phát triển của kinh tế hợp tác xã

(Điều 13 Hiến pháp).

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Đổi với sở hữu cá thể, sở hữu của người lao động riêng lẻtrong các ngành nghề thì nhà nước một mặt, bảo hộ quyền sở

hữu về tư liệu sản xuất mặt khác, có chính sách giúp đỡnhững người làm nghề thủ công và những người lao động

riêng lẻ cải tiến cách làm ăn đồng thời khuyến khích họ tổ

chức hợp tác xã sản xuất và hợp tác xã mua bán theo nguyên

tắc tự nguyện (Điều 15 Hiến pháp). Như vậy, hình thức sởhữu cá thể tuy rằng được nhà nước cho phép tổn tại, nhưng

hình thức sở hữu này không được ưu tiên phát triển, mà nhà

nước vẫn vận động cá nhân người lao động trong hình thức sởhữu này tự nguyện tổ chức hợp tác xã tương ứng với ngành

nghề sản xuất. Chủ trương của nhà nước trong giai đoạn này

là nhằm hạn chế hoặc xố bỏ dần dần hình thức sở hữu phi

xã hội chủ nghĩa, để xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa

đích thực ở miền Bắc Việt Nam, nhằm xố bỏ cơ bản chế độtư hữu về tư liệu sản xuất và ngăn chặn hình thức tư hữu

<small>hố trong xã hội.</small>

Đổi với nhà tư sản dân tộc, một mặt Nhà nước thừa nhậnvà bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, mặt khácdéng thời hướng dẫn họ hoạt động có lợi cho quốc kế dân

sinh, góp phần phát triển kinh tế quốc dân phù hợp với kếhoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời hướng dẫn các nhà tưsản dân tộc di theo con đường cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng

<small>hình thức cơng tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác</small>(Điều 16 Hiến pháp).

Như vậy, các hình thức sở hữu theo quy định của Hiếnpháp trong thời kỳ từ năm 1960 đến năm 1980, tuy các hình.thức phi xã hội chủ nghĩa vẫn được thừa nhận và được bảo hộ,nhưng không được khuyến khích và dưới các biện pháp khác

nhau, nhà nước khuyến khích những chủ thể thuộc các hình

thức sở hữu này tham gia vào hợp tác xã hoặc dưới hình thứccơng tư hợp doanh hoặc dưới những hình thức cải tạo khác

nhằm xố bỏ dẫn hình thức sở hữu cá thể và tư sản dân tộc.

Với tư tưởng chỉ đạo là các hình thức sở hữu trong nhà

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<small>nước xã hội chủ nghĩa chỉ bao gồm sở hữu tồn dân vi hữu</small>

tập thể, là hai hình thức sở hữu chủ đạo trong phát triển kinh

tế, xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn này được ưu tiên phát<small>triển hơn các hình thức sở hữu khác. Vì các hình thức sở hữu</small>

cá thể, tư sản dân tộc không thể thực hiện được kế hoạch hố

tập trung vì nền sản xuất có kế hoạch vận hành khơng theo cơchế thị trường mà theo tư tưởng tập trung cao độ vào sản xuất.và phân phối các sản phẩm xã hội theo mệnh lệnh hành chínhcủa một hệ thống chỉ đạo và điều hành sản xuất xã hội quanliêu và bao cấp. Tuy nhỉ tập trung hố hai hình thức sở<small>hữu cơ bản trong xã hội Việt Nam trong giai đoạn từ năm</small>

1960 đến năm 1980, phần nào cũng thể hiện được những mặttích cực đáng kể, đó là bảo vệ triệt để chế độ xã hội chủ nghĩa,

<small>tiêu diệt chế độ người bóc lột người, tập trung sức người, sức</small>

của để giải phóng mién Nam, thống nhất dat nước. Tính đến

năm 1975, thì hình thức sở nhà nước, sở hữu tập thể đã gop

phần quyết định vào việc động viên sức người, sức của vàocuộc cách mạng dân tộc và là chỗ dựa vững chắc để tiến hànhcuộc cách mạng dân tộc thắng lợi hoàn toàn.

<small>- Giai đoạn 1980-1999</small>

<small>"Trong giai đoạn này, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủnghĩa Việt Nam thống nhất đã chủ trương tiếp tục xây dựng</small>chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn quốc. Nhiều đợt cải tạocông thương nghiệp ở miền Nam dược tiến hành nhằm xố bỏ

triệt để chế độ người bóc lột người ở miền Nam trước đây và

quốc hữu hoá, tịch thu tài sản của tư sản mại bản, của nguyquân, nguy quyền của chế độ Sài Gịn có nợ máu với nhân

dân. Đại hội đại biểu Dang Lao động Việt Nam lần thứ IV

được tổ chức trong điều kiện của một nhà nước thống nhất,

các chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn

quốc đã được thể hiện cụ thể trong các văn kiện của Dai hội

(tại Đại hội đại biểu lần thứ IV của Đảng Lao động Việt Nam,

Đảng được đổi tên là Đảng Cộng sản Việt Nam).

“Trong hoàn cảnh lịch sử, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

phạm vi toàn quốc, Hiến pháp năm 1980 được ban hành. Vềcác hình thức sở hữu được quy định tại Điều 18: “Nha nước

tiến hành cách mạng vé quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sửdung uà cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa,

thiết lập uà củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa uễ tư liệusản xuất nhằm thực hiện một nên kinh tế quốc dân chủ yếu cóhai thành phần: thành phân kinh tếquốc doanh thuộc sở hữutoàn dân va thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tậpthể của nhân dân lao động.

Kinh tếquốc doanh giữ vai trò chủ dao trong nên binh tế

quốc dân uà được phát triển ưu tiên”.

Nhà nước coi trọng phát triển nền kinh tế quốc dân vàxác định kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền

kinh tế đó. Cịn hình thức sở hữu phi xã hội chủ nghĩa khơng

được khuyến khích và phát triển cần phải có điều kiện. TạiĐiều 27 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Nhà nước bảo hộquyên sở hữu của công dân vé thu nhập hợp pháp, của cải để

dành, nhà ở, tu liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuốt dùngtrong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ. Phápluật bảo hộ quyên thừa kế của công dân”.

Do nhà nước không khuyến khích hình thức sở hữu tư nhân

phát triển, cho nên các chủ trương tập thể hoá được coi trọng.

“Nhà nước khuyến khích, hướng dẫn giúp đỡ nơng dân

cá thể, người làm nghề thủ công uà những người lao độngriêng lẻ khác tiến lên con đường làm ăn tập thể, tổ chức hợp

tác xã sản xuất va các hình thức hợp tác, tương trợ khác theo

nguyên tắc tự nguyện.

Những người buôn bán nhỏ được hướng dẫn uà giúp đỡ

chuyển dân sang sản xuất hoặc làm những nghề thích hợp

<small>khác. Pháp luật quy định phạm vi được phép lao động riêng</small>

lẻ trong các lĩnh uực nông nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ cơng

<small>nghiệp, mỹ nghệ, dich vu".</small>

Với chủ trương xố bỏ tư hữu về tư liệu sản xuất một

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<small>cách tuyệt dôi cho nên: "những người buôn bán nhỏ được</small>

hướng dẫn va giúp đỡ chuyển dan sản xuất hoặc làm những

<small>nghề thích hợp khác”.</small>

Quan điểm này đã là một hạn chế vì đã khơng kích

thích quan hệ cung cẩu ngồi quốc doanh. Trong khi đó,

mậu dịch quốc doanh khơng thể cung cấp đẩy đủ nhữnghàng hố thiết yếu phục vụ cho đời sống nhân dân, kể cả

trong sản xuất và tiêu dùng. Đây cũng được xem như một tưtưởng nóng vội nhằm xố bỏ ngay lập tức và triệt để cácthành phần kinh tế ngoài quốc doanh theo ý chí của nhànước. Tuy nhiên, ý chí này đã khơng thể xố bỏ được những.<small>hộ bn bán nhỏ ở thành phố. Vì những hộ bn bán nhỏ</small>

này đã góp phần tích cực vào việc lưu thơng hang hố trong

xã hội, đáp ứng kịp thời nhu cầu thiết yếu của nhân dân<small>trong sản xuất và tiêu dùng.</small>

Tóm lại, về hình thức sé hữu trong giai đoạn từ nam

1980 đến năm 1992, hình thức sở hữu nhà nước và tập thểđược coi trong và ưu tiên phát triển, cịn các hình thức sở hữucá thể và tiểu chủ chỉ được thừa nhận như là một hiện tượng

của đời sống xã hội, cho nên khơng có bất kỳ một ưu tiên nào.

cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mà.ngược lại, bằng những chính sách cu thé đã dan dan làm suy

yếu hình thức sở hữu phi xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong.

<small>giai đoạn này.</small>

<small>- Giai đoạn từ 1999 đến nay</small>

Căn cứ vào những văn kiện của Đảng Cộng sản ViệtNam, căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu của Dang

Cộng sản Việt Nam tại các Đại hội đại biểu toàn quốc của

Dang lần thứ VII, VII, IX, XI... thì nền kinh tế hàng hố

nhiều thành phần sản xuất theo cơ chế thị trường có sự điềutiết của Nhà nước đã được hình thành và phát triển có hiểu

quả. Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thànhphần theo định hướng xã hội chủ nghĩa bản chất là cơ chế thịtrường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật. Trong cơ

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

chế đổi mới, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh

doanh, quan hệ bình dang, cạnh tranh lành mạnh, liên kết,

hợp tác và liên doanh trên cơ sở tự nguyện. Vai trò của Nhà

nước trong cơ chế mới này là người quản lý nền kinh tế nhằm

định hướng cho các thành phần kinh tế và chủ thể thuộc các

hình thức sở hữu khác nhau có môi trường thuận lợi trong

hoạt động, sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo cơ chế thị

trường. Nhà nước thể hiện quyền của mình theo cách kiểm

sốt chặt chẽ và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong

hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế

<small>và phát triển xã hội.</small>

Nhằm thúc đẩy chủ trương phát triển toàn diện đất nướctrên mọi lĩnh vực và nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất.trong xã hội, phát huy tốt nhất mọi khả năng sản xuất, kinhdoanh của các thành phần kinh tế trong xã hội. Hiến pháp

năm năm 1992 được ban hành trong thời kỳ đổi mới toàn

diện này, tại Điều 16 quy định: “Mục đích chính sách kinh tế

của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày

càng tốt hơn nhu cầu vat chất va tỉnh thần của nhân dân trêncơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, mọi tiêm năng củacác thành phân kinh tếgồm kinh tế nhà nước, kinh tếtập thể,kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tu nhân, kinh tế tư bản

Nhà nước va kinh tế có uốn đâu tư nước ngồi dưới nhiều

hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vat chất - kỹ thuật, mở

rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật uà giao lưu uới thịtrường thế giới".

Để khẳng định quan điểm của Nhà nước trong quá trình

xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới và tơn trọng tính quy

luật của nền kinh tế thị trường, về quyền của các chủ thể kinh

tế thuộc các hình thức sở hữu khác nhau được bảo hộ phát

triển bình đẳng trong xã hội. Đó là các hình thức sở hữu:

- Sở hữu nha nước;

~ Sé hữu tập thé;

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<small>~ Sở hữu tư nhân;</small>- Sở hữu chung;

~ Sd hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tochức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

Các hình thức sở hữu trên thuộc các thành phần kinh tếkhác nhau hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theosự chỉ đạo của Nhà nước: “Nha nước thống nhất quản lý nên

kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân

công trách nhiệm va phân cấp quản lý Nhà nước giữa các

ngành, các cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể uới lợi

<small>ích của Nhà nước" (Điễu 26 Hiến pháp).</small>

'Trong giai đoạn này, hình thức sở hữu cá thé, tư bản tưnhân được bảo hộ và không có những quy định nhằm hạn chếhai hình thức sở hữu này. Các thành phần kinh tế thuộc các

hình thức sở hữu khác nhau được nhà nước khuyến khích phát.

triển. Tại Điều 21 Hiến pháp quy định: “Kinh tế cá thể, kinh tế

tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức sản xuất,

kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế uễquy mô hoạt động trong những ngành, nghệ có lợi cho quốc bế

dan sinh. Kinh tếgia đình được khuyến khích phát triểi

Pháp luật cho phép thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ,tư bản tư nhân được phát triển. Tài sản hợp pháp của cánhân, tổ chức khơng bị quốc hữu hố. Hơn nữa, theo quy định

tại Điều 22 Hiến pháp thì: “Cac cơ sở sản xuất, hinh doanh

thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đây đủ nghĩa vuđổi vdi Nhà nước, déu bình đẳng trước pháp luật, uốn va tài

<small>sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ.</small>

Doanh nghiệp thuộc mọi thành phân kinh tế được liêndoanh, liên kết uới cá nhân, tổ chức kinh tế trong uà ngoài

<small>nước theo quy định của pháp luậi</small>

Với chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, việc giải

phóng năng lực sản xuất trong xã hội đã được pháp luật quy

định như một định hướng đúng đắn nhất, phù hợp với quy

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

luật phát triển xã hội mà trước day khơng thể có được. Pháp

luật trong giai doan này không phân biệt dối xử giữa các

thành phan kinh tế quốc doanh và tập thể với thành phần

kinh tế cá thể và tư bản tư nhân. Với cơ chế của pháp luật

hiện hành, đã tạo ra một động lực tích cực phát triển kinh tế,

xã hội và tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong sản.

xuất, kinh doanh, làm dịch vụ giữa các chủ thể thuộc các

hình thức sở hữu khác nhau trong xã hội.

Kinh tế quốc doanh vẫn được coi là nền kinh tế chủ dao,

mũi nhọn và luôn được bảo đảm phát triển có hiệu quả. Nhà

nước nắm vững những lĩnh vực và ngành nghề then chốt để

phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Thực

<small>hiện chính sách này, Nhà nước đã mạnh dạn cho thuê,</small>

chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở sản xuất,kinh doanh thua lỗ kéo dài và khơng có khả năng phát triển.'Tổ chức sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng cơng ty phù

hợp với u cầu sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường.Theo cơ chế này, thì mối quan hệ sở hữu tài sản giữa Nhànước và các công ty của Nhà nước là quan hệ giao vốn, áp

<small>dụng rộng rãi các hình thức khốn trong các công ty thuộc</small>

quyển sé hữu của nhà nước đã mang lại những hiệu quả kinh

tế cao. Bên cạnh phát triển kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu.

nhà nước là hình thức sở hữu tập thé cũng được coi trọng. Sở

hữu tập thể được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện, dânchủ và bình đẳng nhằm phát huy mọi tiềm lực của loại hìnhthức sở hữu này. Tuy nhiên, hình thức sở hữu tập thể phat

triển rất đa dạng và ngày càng được mở rộng theo các hình

thức kinh tế tập thể trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu, thủ

<small>cơng nghiệp, mua bán, tín dụng...</small>

Về sở hữu tap thể được quy định tại các Điều từ 208 đến

210 Bộ luật Dân sự (BLDS). Điều 208 quy định về hình thức

sở hữu tập thể: “Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc

các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia

đình cùng góp uốn, góp sức hợp tác sản xuất, kink doanh

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<small>nhằm thực hiện mục dich chung được quy dinh trong điêu lệ,</small>

theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng quản lý

<small>va cùng hưởng lợi".</small>

Xét về nội dung của Điều 208 BLDS, nhận thấy có nhữngvấn để bất cập ngay chính nội dung của điều luật, vừa với vai<small>trò là quy phạm định nghĩa, vừa với vai trị là quy định nhận</small>

dang hình thức sở hữu tập thể, nhưng vẫn còn thiếu quy dinh

quan trọng trong điều luật.

Thứ nhất, Điều 208 là một quy phạm định nghĩa: “Sở

hữu tập thể le hữu hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tếổn định khác..."

Nhà làm luật đã đánh tráo hai khái niệm tập thể và kháiniệm hợp tác xã. Về thực chất, sở hữu tập thể khác biệt về

<small>bản chất so với nội dung sổ hữu hợp tác xã ở những yếu tố</small>

<small>sau đây:</small>

- Sở hữu tập thể là sở hữu của người lao động góp vốn, tưliệu sản xuất vào làm của chung của tập thể và đại diện chosở hữu tập thể là cơ quan được tập thể bầu ra theo nhiệm kỳ,

<small>thay mặt người lao động điều hành công việc sản xuất tạo ra</small>

của cải vật chất cho tập thể. Việc hưởng những lợi ích vật

chất có được tit sin xuất chỉ dựa trên phần cịn lại sau khitrừ đi những chi phí sản xuất, các nghĩa vụ khác, dé lại

phần gọi là quỹ, và phần tài sản để xây dựng cơ sở vật chấtphục vụ cho cuộc sống và sản xuất của tập thể. Phạm vi sở

<small>hữu tập tỉ rộng, nó bao trùm lên toàn bộ một khu dân</small>

<small>cư hoặc cộng đồng dân cư và được xác định phạm vi bằng địa</small>

<small>giới hành chính của một xã, một làng, một thơn nhất định và</small>đặc biệt sở hữu tập thể được áp dụng phổ biến trong sản xuất.<small>nông nghiệp, ngư nghiệp, làm muối, lâm nghiệp... Sở hữu tập.</small>

thể được hình thành trên cơ sở tự nguyện của người lao động,

sự tự nguyện đó là căn cứ để người lao động trở thành thành

viên chính thức trong sở hữu tập thể. Mục đích của sở hữutập thể là tập trung cao nhất người lao động và tư liệu sản

xuất của người lao động đóng góp ban đầu và tài sản đóng

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

góp đó thuộc quyền sở hữu của tập thể. Người đóng góp

khơng cịn là chủ sở hữu của tài sản do mình đóng góp nữa.

Hình thức sở hữu tập thể nhằm xoá bỏ tư nhân hoá về tư liệusản xuất, người lao động góp vốn ban đầu vào tập thể có thểnhiều, có thể ít hoặc khơng có nhưng đã tự nguyện tham giasở hữu tập thể là đương nhiên trở thành thành viên trong sở

hữu tập thể. Việc hưởng các lợi ích thu được trong sản xuất

khơng dựa trên tỉ lệ giá trị của tài sản mà người lao động gópvào, mà lại dựa trên ngày cơng lao động của cá nhân tham

gia sở hữu tập thể. Như vậy, trên thực tế đã dẫn đến một hệ

quả rất đặc thù của sở hữu tập thể Người lao động ban

đầu có thể góp rất nhiều vốn, tư liệu sản xuất vào sở hữu tập

thể, nhưng lại không tham gia lao động trong tập thể được,

theo đó người này sẽ khơng được phân chia những lợi ích vatchất thu được do sức lao động của người khác, hoặc chỉ được

chia một phần tối thiểu theo định lượng của tập thể. Vì sở

hữu tập thể phân chia thành quả lao động theo ngày công lao

<small>động. Làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Những tư liệu</small>

sản xuất của người tham gia sở hữu tập thể đã được cácthành viên trong tập thể sử dụng vào sản xuất, mà khơng có

việc tính khấu hao, mà sử dụng cho đến khi tài sản bị tiêuhuỷ và khơng có một cơ chế nào đền bù cho người có tài san

đó. Hơn nữa, người tham gia sở hữu tập thể khơng những

người đó là thành viên của sở hữu tập thể, mà các con, các

chau của người đó được sinh ra sau này và khi lớn lên cing

được coi là thành viên đương nhiên của tập thể mà bố, hoặc

mẹ của mình đã là thành viên, nếu các con, các cháu khơng đi<small>thốt ly, làm các công việc chuyên môn khác. Hơn nữa, các</small>

con, các cháu của thành viên thuộc hình thức sở hữu tập thể

được xác định là khơng có khả năng lao động hoặc chưa đến

tuổi lao động thì vẫn được chia một phần vật chất theo chuẩnmực chung của sở hữu tập thể đối với những cá nhân có hồn

cảnh tương tự.

Với những nội dung quan hệ trong nội bộ hình thức sở

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

hữu tập thể như đã phân tích trên day, có thể nhận định.rằng vai trị của hình thức sở hữu tập thể đã góp một phần

<small>quan trọng trong các năm đất nước cịn có chiến tranh chốnggiặc ngoại xâm, sức người sức của cung cấp cho cuộc kháng</small>

chiến, do vậy chính sách tập trung sản xuất tập thể là đúng

đắn. Vì hình thức sở hữu này đã tạo ra sự đùm bọc và giúp đỡ

lẫn nhau giữa những gia đình có người tham gia bảo vệ tổquốc và những người khác thuộc hình thức sở hữu tập thể, đểtập trung cao nhất sức người tham gia bảo vệ tổ quốc. Tuynhiên, trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường, sởhữu tập thể khơng cịn phù hợp với tình hình mới, vi ban chất,của sở hữu tập thể là sở hữu khơng hạch tốn, mà có đặcđiểm là bình quân chủ nghĩa, nhận định này dựa vào thựctrạng sở hữu tập thể trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ởmiền Bắc Việt Nam trong những năm trước đây, cụ thể là từ

những năm 1960 đến năm 1975.

Thứ hai, tại Điều 209 uà 210 BLDS, quy định về tài sản

thuộc sở hữu tập thể, việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.tài sản thuộc sở hữu tập thể. Tuy nhiên, do đã xác định sai về

sở hữu tập thể và sở hữu hợp tác xã cho nên tại hai Điều luật

đã viện dẫn, thì nội dung quy định về sở hữu hợp tác xã, mà

không phải là sở hữu tập thể. Điều 209 quy dinh: “Tai sản

được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành vién, thunhập hợp pháp do sản xuất, kinh doanh, được Nhà nước hỗtrợ hoặc từ các nguồn khác phù hợp uới quy định của pháp

luật là tài sản thuộc sở hữu tập thể đó.". Và tại các khoản 2và 3 Điều 210 Bộ luật dân sự quy định:

“2. Tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể được giao chocác thành uiên khai thác công dụng bằng sức lao động củaminh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhầm phục uụ

nhu câu mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế chung uà lợi ích,nhu câu của các thành vién”.

“3. Thành vién của tập thể có quyền được ưu tiên mua,

thuê, thuê khốn tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể".

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Với những quy định trên, thì sở hữu tập thể hay còn gọi

là sở hữu hợp tác xã theo quy phạm định nghĩa tại Điều 208,là một pháp nhân. Do vậy, có cần thiết phải quy định hình

thức sở hữu tập thể và sở hữu hợp tác xã không, khi mà các

dấu hiệu của hợp tác xã đã thoả mãn là pháp nhân theo quy

định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự?

Theo chúng tôi, khi Bộ luật Dân sự năm 2005 được sửa

đổi, bổ sung thì về hình thức sở hữu tập thể nên loại bổ khỏi

Bộ luật, với những lý do đã phân tích trên dây. Những tổ

chức trong mọi lĩnh vực thoả mãn các điều kiện của pháp

nhân, thì cho dù tổ chức đó thuộc hình thức sổ hữu nào, thuộcthành phần kinh tế nào thì tổ chức đó đều là pháp nhân, theo

đó hình thức sở hữu chỉ cần một tên chung là hình thức sởhữu của pháp nhân là đủ và chặt chẽ trong vấn để lập pháp<small>và cơ cấu của Bộ luật Dân sự.</small>

'Trong giai đoạn từ 1992 đến nay, hình thức sở hữu cá thể

và tư bản tư nhân ở Việt Nam được ghi nhận và phát triển.

Các hình thức sở hữu này đã phát huy được khả năng trong

các lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý và hướng dẫn của Nhà

nước. Hình thức sở hữu cá thể có phạm vi hoạt động rất rộng.và hình thức sở hữu tư nhân cũng được bảo hộ phát triển.

Trong giai đoạn từ khi Hiến pháp năm 1992 được banhành, các hình thức sở hữu ở Việt Nam đã được xác định rõ.

Tuy nhiên cịn một số hình thức sở hữu vẫn cẩn phải đượcxem xét về mặt khoa học và thực tiễn như hình thức sở hữu

của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã

hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp... Vì vậy nên xác định sởhữu của các tổ chức này là sở hữu của pháp nhân là đã hamchứa day đủ tính pháp lý của hình thức sở hữu.

<small>Hiện nay, trong Bộ luật Dân sự năm 2005, tại Chương</small>

XIII quy định về các hình thức sở hữu. Mục 5 Chương này quy

định về: Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội

và Mục 6 quy định về: Sở hữu của tổ chức chính trị xã hội

-nghé nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<small>‘Tai các mục 5 và 6 Chương XIII Bộ luật Dân sự, quy định</small>tại các Điều từ 227 đến 232 về căn cứ xác lập tài sản thuộc

hình thức sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,

<small>-tổ chức xã hội - nghề nghiệp cũng là các căn cứ chung xác lập</small>quyển sở hữu:

- Tài sản được hình thành từ nguồn đóng góp của các

thành viên, tài sản được tặng cho chung và từ các nguồn khácphù hợp với quy định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu

của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính

trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề<small>nghiệp (Điều 228 và 231 BLDS).</small>

Riêng căn cứ xác lập quyền sở hữu của tổ chức chính trị, tổ

<small>chức chính trị - xã hội được quy định khác biệt hơn so với hình.</small>thức sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức

xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, theo quy định tại đoạn 2

khoản 1 và khoản 2 Điều 228 BLDS: “Tai sản thuộc hình thức

sở hữu nhà nước đã chuyển giao quyên sở hữu cho tổ chức

chính trị, tổ chức chính trị - xã hội là tài sản thuộc sở hữu của

tổ chức do”. Va: “Tai sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước giaocho tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội đểquản ly va sửdụng thì khơng thuộc sở hữu của tổ chức đó".

Theo những quy định trên, thì cho dù tổ chức đó là tổchức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hay là tổ chức chính

trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề<small>nghiệp thì đều là những pháp nhân, và hình thức sở hữu của</small>

các tổ chức này là hình thức sở hữu của pháp nhân đối với tài

sản thuộc quyền sở hữu của mình. Việc chiếm hữu, sử dụngvà định đoạt tài sản của các tổ chức này cũng đều phải tuân<small>theo quy định của pháp luật và phù hợp với mục dich hoạtđộng được quy định trong điều lệ (Điều 229 và 232 BLDS).</small>

<small>Căn cứ vào những quy định tại các Mục 5 và Mục 6</small>Chương XIII Bộ luật Dân sự, thì hình thức sở hữu của các tổchức chính trị, chính trị - xã hội hay hình thức sở hữu của tổ

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã

hội - nghề nghiệp thì đều là hình thức sở hữu của pháp nhân.Vi các tổ chức này đều có tư cách pháp nhân. Cho dù tài sảnthuộc quyển sở hữu của các hình thức sở hữu này được xác

lập dựa trên các căn cứ nào, thì cũng đều là căn cứ xác lập.

quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. Với những phântích và lập luận nay, Bộ luật Dân sự năm 2005 khi được sửa

đổi, bổ sung thì khơng nên có quy định về hình thức sở hữucủa tổ chức chính trị, tổ chức chính. ã hội; sở hữu của tổchức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã

hội - nghề nghiệp như hiện nay. Vì rằng, các tổ chức này đều

là các pháp nhân, cho nên thuộc hình thức sở hữu của pháp

nhân và đều chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản như đối với

các pháp nhân khác. Không nên căn cứ vào tính chất hoạt

động nghiệp vụ và vai trị của các tổ chức này trong các quan

<small>hệ xã hội, mà lại quy định cho chúng một hình thức có tên gọi</small>

nào đó cốt sao cho phù hợp là khơng cần thiết, làm rắc rối

thêm các quan hệ. Khi các tổ chức này tham gia vào quan hệ

tài sản và nhân thân trong xã hội, thì đều bình đẳng với các

loại chủ thể khác và đều chịu trách nhiệm bằng tài sản của.

mình trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự phát.

sinh từ những quan hệ do người đại diện cho các tổ chức nàyxác lập với các chủ thể khác trong xã hội.

Trong quan hệ pháp luật dan sự, cho dù chủ thể của

quan hệ thuộc thành phần kinh tế và hình thức sở hữu nào

chăng nữa, thì déu có quyền bình đẳng với các chủ thể khác

trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ

những quan hệ mà chủ thể tham gia. Hoạt động của tổ chức

thì phải thơng qua hành vi của người đại diện hợp pháp củatổ chức đó.

Khi để cập đến hình thức sở hữu là dé cập đến việc xác

lập, sử dụng và định đoạt tài sản của tổ chức đó theo nhữngnguyên tắc và biện pháp nào, mà khơng cần xác định tổ chức

đó thuộc hình thức sở hữu nào hay thành phần kinh tế nào.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Chính bản chất quan hệ sở hữu của tổ chức chỉ phối hình

thức sở hữu của tổ chức, mà khơng thể dựa vào tính chấtchun mơn, vị trí, vai trị và sự ảnh hưởng của tổ chức đang

tôn tại trong xã hội để cô áp đặt cho chúng một cái tên saocho phù hợp với tính chất hoạt chuyên môn, nghiệp vụ của tổ

chức là không phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn, thiếu

cơ sở khoa học, thiếu tính khái quát và phá vỡ tính nhất thé

<small>hố của pháp luật.</small>

Hơn nữa, nếu quy định hình thức sở hữu của tổ chức

chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội

-nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - -nghề nghiệp có

tính chất đặc thù theo ngl vụ và chun mơn, thì ở nước

ta hiện nay cịn rất nhiều loại tổ chức, theo đó các hình thức

sở hữu cũng được áp đặt đúng với tính chất chuyên nghiệp

của tổ chức đó thì thật sự khơng ổn. Nhà nước tơn trọng

quyển tự do tín ngưỡng của cơng dân, tại Diéu 70 Hiến pháp

năm 1992 quy định: "Cơng dân có qun tự do tín ngưỡng, tơn

giáo, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào. Các tơn giáo déu

bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín

<small>ngưỡng, tơn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm</small>

<small>phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng,</small>

tơn giáo để làm trái pháp luật chính sách của Nhà nước”.

Theo quy định trên, các nhà thờ, hoặc nơi thờ tự khác củacác tôn giáo được thừa nhận ở nước ta, đều có tài sản. Như

vậy, tương ứng với các tổ chức tơn giáo này, thì hình thức sởhữu sẽ được quy định bổ sung là hình thức sở hữu của ĐạoPhật, Đạo Hoà Hảo, Đạo Cao Đài... và như vậy, tổ chức nào

<small>thì sẽ có hình thức sở hữu ấy, và hiện nay Bộ luật Dân sự đã</small>

<small>theo lôgic như vay!</small>

Xác định về mặt lý luận và thực tiễn của các quy định về<small>hình thức sở hữu được quy định trong Bộ luật Dân sự năm.</small>

2005, nhằm giúp cơ quan lập pháp có được những căn cứ để

đánh giá hiệu quả điều chỉnh của Bộ luật Dân sự năm 2005

quy định về các hình thức sở hữu, để có căn cứ sửa đổi, bổ

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

sung pháp luật của chế định về quyền sở hữu trong Bộ luậtDân sự năm 2005 cho phù hợp với điểu kiện phát triển kinh<small>tế, xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và lâu dài. Với</small>những lập luận về chế độ sở hữu, các hình thức sở hữu được

<small>quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 đã dé cập trong các</small>

chuyên dé, chúng tôi dé xuất, khi Bộ luật Dân sự năm 2005

được sửa đổi, bổ sung thì cơ quan lập pháp nên xem xét, đánh

giá từng quy định về các hình thức sở hữu để xác định rõ các

hình thức sở hữu cần được quy dinh trong Bộ luật. Loại bỏ

những quy định về hình thức sở hữu khơng cịn phù hợp và

thật sự khơng phù hợp với quan điểm giải phóng mọi năng

lực sản xuất trong xã hội, phát triển nền kinh tế đa thành

phan, nhiéu hình thức sở hữu, sản xuất theo cơ chế thitrường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua nghiên cứu đã chỉ

ra những điểm còn bất cập trong những quy định về hình

thức sd hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2005, và có những kết.

<small>luận như sau đây:</small>

Về các hình thức sở hữu, Bộ luật chỉ nên quy di1) Hình thức sở hữu nhà nước;

2) Hình thức sở hữu của pháp nhân (có sở hữu của các tổ.

chức uà của hợp tác xã);

3) Hình thức sở hữu tư nhân (sở hữu cá nhân, tiểu chủ uà

tu bản tử nhân);

4) Hình thức sở hữu chung (có sở hữu chung theo phần;

sở hữu chung hợp nhất phân chia được uà sở hữu chung hợpnhất của cộng đông không thể phân chia; nên bỏ sở hữuchung hỗn hợp).

<small>ih:</small>

</div>

×