Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.86 MB, 80 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
TRAN THỊ THAM
LUAN VAN THAC SI LUAT HOC
<small>Chuyên ngành: Luật Kinh tếMã số : 60 38 01 07</small>
<small>Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRAN NGỌC DUNG</small>
<small>HÀ NỘI - Tháng 2/2013</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Trước hết, em xin trân trong bày tỏ lòng biết ơn đến các Thay giáo,<small>cô giáo trong Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa sau Đại học, Khoa</small>pháp luật Kinh tế, các phòng, ban, thư viện trong và ngoài trường đã tạo
điều kiện cho em trong suốt quá trình làm luận văn.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến thầy giáo- PGS.TS Tran Ngọc Dũng đã tận tình động viên, hướng dan và giúp đỡ<small>em hồn thành luận văn.</small>
<small>Tac giả luận văn</small>
Tran Thị Thắm
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>lôi xin cam đoan những nội dung trong luận văn nay là do tôi</small>thực hiện dưới sự hướng dan trực tiếp của thay giáo - PGS.TS TranNgọc Dũng. Mọi tham khảo ding trong luận văn đếu được trích dan rõràng tên tác giả, tên cơng trình, thời gian, địa điểm công bố. Các số liệunêu trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn chưatừng được ai cơng bố trong bat kỳ cơng trình nào khác.
<small>Tác giả luận văn</small>
Tran Thị Thắm
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">DANH MUC CAC TU VIET TAT
LOI NOI DAU |
GIẢI QUYET TRANH CHAP THƯƠNG MẠI BẰNGTRỌNG TÀI VỤ VIỆC TẠI VIỆT NAM
Khái niệm, bản chất của trọng tài vụ việc trong giải quyết các 7
tranh chấp thương mại
Hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng 15<small>trọng tài vụ việc ở Việt Nam - Quá trình hình thành và phát</small>
<small>VỤ VIỆC TẠI VIỆT NAM</small>
Quy định về điều kiện giải quyết tranh chấp thương mại bằng 26<small>trọng tài vụ việc</small>
<small>44</small>Quy định về đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc và thi hành
phán quyết của trọng tài vụ việc
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Chuong 3: YEU CAU VA GIAI PHAP HOAN THIEN CAC
QUY DINH VE GIAI QUYET TRANH CHAP THUONG
MAI BANG TRONG TAI VU VIEC O VIET NAMYêu cầu đối với việc hoàn thiện các quy định về giải quyết
tranh chấp thương mại băng trọng tài vụ việc ở Việt Nam
Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về giải quyết tranh
chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc ở Việt Nam
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>Gia tri gia tăng</small>
<small>Luat trong tai thuong mai</small>
<small>Pháp lệnh trọng tài thương mai</small>
<small>Tòa án nhân dân</small>
<small>Trọng tài thương mại</small>
<small>Trọng tài vụ việc</small>
<small>Xã hội chủ nghĩa</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Năm 1986, Nghị quyết Dai hội VI của Dang dé ra đường lối đổi mới.Nền kinh tế nước ta chuyên từ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp sang nềnkinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phan, vận hành theo cơ chế thị trườngcó sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyên đổitư duy kinh tế có ý nghĩa lớn lao này đã đặt nền móng cho sự phát triển, tăngtrưởng kinh tế liên tục của nước ta hơn 25 năm qua. Từ khi chúng ta thực hiện<small>chính sách mở cửa, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 100 nước</small>
trên thé giới, ký kết hàng loạt hiệp định thương mại song phương va đa
phương trong đó tiêu biểu là Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, Hiệp định vềbuôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU, Hiệp định về khu vực mậu dịch tự doAFTA. Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, tham gia tơ chức kinhtế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác kinh tế Á - Âu
(ASEM), thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Bối cảnh đó
đặt ra cho Việt Nam cơ hội dé phát triển nhưng cũng khơng ít thách thức màchúng ta phải đối mặt, đặc biệt là việc giải quyết các tranh chấp thương mai.Vì vậy, việc xây dựng các cơ chế tài phán đa dang, phù hợp với đặc điểm củahoạt động thương mại và đáp ứng nhu cầu của các bên là vấn đề có ý nghĩa
<small>đặc biệt quan trọng.</small>
Khi xảy ra tranh chấp, các bên có thể lựa chọn các phương thức giải
quyết như thương lượng, hoà giải, toà án và trọng tài. Thương lượng hay hồ
giải thành cơng khơng có hiệu lực cưỡng chế. Hồ giải Tại tồ án mới có hiệulực cưỡng chế thi hành. Trên thực tế, Toà án là cơ quan có đủ chức năng đểban hành phán quyết có tính pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp nói chung.
Song, dé phù hợp với đặc tinh gay gắt, phức tạp va song phăng của các hoạtđộng thương mại, bên cạnh Tồ án cịn có những phương thức giải quyếttranh chấp khác có hiệu quả hơn. Một trong những phương thức đó là trọng
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">những nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Tại Việt Nam, phương thức
giải quyết tranh chấp băng trong tài gop phan tích cực vào việc giải quyếtnhanh chóng, kịp thời các tranh chấp trong hoạt động thương mại. Pháp luật
Việt Nam điều chỉnh lĩnh vực này đang từng bước được hoàn thiện theo
hướng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và các cam kết của Nhà nước takhi tham gia các điều ước quốc tế. Tuy nhiên, pháp luật giải quyết các vụtranh chấp cịn có nhiều quy định chưa rõ ràng, chưa dự liệu được hết các
trường hợp xảy ra trên thực tế, đặc biệt khi các bên lựa chọn trọng tài vụ viéc.Vì vậy, việc hồn thiện pháp luật trọng tài, đặc biệt là quy định rõ ràng vềtrọng tài vụ việc là công việc cấp thiết để các bên có thể tin tưởng và lựa chọn
trọng tài vụ việc trong giải quyết tranh chấp thương mại.
Để đáp ứng yêu cầu nói trên, tác giả đã chọn van đề: “Gidi quyết tranhchấp thương mại bằng trọng tài vụ việc tại Việt Nam” làm đề tài luận văn
Thạc sĩ Luật học với mong muốn góp một phan nhỏ vào việc tiếp tục hoàn
thiện các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại băng
trọng tài vụ việc nói riêng và hồn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
kinh tế nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài là vẫn đề có tính thời
sự cao được các doanh nghiệp rất quan tâm. Do vậy, từ trước tới nay cókhơng ít các cơng trình nghiên cứu về van dé này. Có thé chia các cơng trìnhnghiên cứu về giải quyết tranh chấp thương mại băng trọng tài thành hai<small>nhóm lớn sau:</small>
- Nhóm các luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ Luật học: Ở nhóm này
có thé ké ra một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Giải quyết tranh
chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả ĐàoVăn Hội (Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003),
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Nội, 2004), “Hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài và
tịa án ở Việt Nam hiện nay - nhìn từ góc độ so sánh” của tac giả Nguyễn Thị
<small>Thu Hồi (Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011),</small>“Những vấn dé lý luận và thực tiễn về thẩm quyên giải quyết tranh chấp của<small>trọng tài thương mai” của tác giả Lê Thị Nhàn (Luan văn Thạc sĩ Luật học,Trường Đại học Luật Ha Nội, 2011) ... Nhìn chung các cơng trình trên đã</small>nghiên cứu về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài quy chế và
trọng tài vụ việc, nhưng chủ yêu là nghiên cứu hình thức giải quyết các tranhchấp thương mại bằng trọng tài quy chế mà chưa đi sâu nghiên cứu những vấn
dé liên quan đến trọng tai vụ việc.
<small>- Nhóm các bài bao, tap chi chun ngành Luật: Cac cơng trình</small>nghiên cứu thuộc nhóm này chủ yếu được cơng bố trên các tạp chí như Tạpchí Tịa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí<small>Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Khoa học pháp lý, Tạp chí Luật học... Trong</small>đó phải ké đến bài viết của tác giả Phan Thông Anh với nhan đề: “Giải quyếtbang trọng tai adhoc ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ”, Tạp chí Nghiêncứu lập pháp, 2011; “Giải guyết tranh chap bằng phương thức trọng tài ở
Việt Nam” của tac giả Đỗ Văn Đại, tạp chí Khoa học pháp lý, 2007; “Thẩmquyên của hội động trọng tài và vai trị của Tịa án trong qua trình to tụng
trọng tai”, của tác giả Dao Trí Úc, Tạp chí Kinh tế - Luật, 2010; “Giải guyếttranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ của tòa án” của tác giả Bạch Thị
Lệ Thoa, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử ngày 11/8/2009... Các bài viếtthuộc nhóm này, ngoài việc nghiên cứu phương thức giải quyết tranh chấpbang trong tài quy chế, cũng đã dé cập tới trọng tài vụ việc, nhưng chưa
nghiên cứu sâu sắc, toàn diện việc giải quyết tranh chấp băng trọng tài vụ việc<small>ở nước ta.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu, đầy đủ và có
hệ thống vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc ởViệt Nam. Do vậy, đề tài và nội dung của luận văn này hoàn tồn khơng trùnglặp về mặt nội dung với các cơng trình nghiên cứu nêu trên.
<small>3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn</small>
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc. Tác giả luận văn
đi sâu nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật về trọng tài vụ việc
<small>theo Luật Trọng tài Thương mại (2010), so sánh với pháp luật nước ngoài;</small>
nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp thương mai bang trọng tai vụ việc
ở nước ta, đưa ra yêu cầu và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luậttrọng tài vụ việc, đồng thời nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thươngmại băng trọng tài vụ việc trên thực tế.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
<small>Tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ</small>
nghĩa Mac - Lénin, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chi
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và<small>pháp luật.</small>
Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thé, như:phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh, diễn giải, lịch sử, thống kê, quynạp để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài.
<small>5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn5.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn</small>
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng
<small>trọng tài vụ việc ở Việt Nam và một sô giải pháp nhăm nâng cao hoạt động</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">5.2. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài này là trình bày một cách có hệthống và phân tích, chứng minh một cách có căn cứ các quy định của phápluật hiện hành trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tàivụ việc dé thấy được quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện từng bướccác chế định về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc ở nước ta.
Tác giả luận văn cũng trình bày những ưu điểm, thành công của chế
định pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại băng trọng tài vụ việc,đồng thời cũng chỉ ra những nhược điểm, bất cập, hạn chế của các quy địnhpháp lý hiện hành giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc.
Từ đó, tác giả luận văn trình bày yêu cầu và giải pháp cụ thể nhằmhoàn thiện chế định pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại băng trọng tàivụ việc cũng như các giải pháp dé thực thi có hiệu qua các quy định của pháp
luật trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mai bang trọng tài vụ việctrong thực tiến.
<small>6. Những đóng góp mới của luận văn</small>
Nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của phápluật giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc, kết quả nghiêncứu của đề tài sẽ mang lại những đóng góp mới về khoa học pháp lý như sau:
<small>- Nghiên cứu vai trò của trọng tài vụ việc với tư cách là phương thức</small>giải quyết tranh chấp bên cạnh trọng tài quy chế, từ đó chỉ ra được những ưuđiểm nổi bật của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bang trọng tài
<small>VỤ VIỆC.</small>
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh
chấp thương mại băng trọng tài vụ việc được quy định trong Luật Trọng tài
Thương mại (2010) có so sánh với pháp luật nước ngoài về trọng tài vụ việc
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">- Trên cơ sở luận cứ khoa học và thực tiễn, tác giả luận văn đưa ra các
yêu cầu và giải pháp cụ thé nhăm hoàn thiện pháp luật về trong tài vụ việc vànâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại
bang trọng tài vụ việc.
7. Kết cầu của luận văn
Ngồi phần Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo, luậnvăn được kết câu thành ba chương, bao gồm:
Chương 1: Một số van dé lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài vụ việc tại Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng
<small>trọng tài vụ việc tại Việt Nam.</small>
Chương 3: Yêu cau và giải pháp hoàn thiện các quy định về giải quyếttranh chấp thương mại bang trọng tài vụ việc tại Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">TRANH CHAP THUONG MAI BANG TRONG TAI VU VIEC<small>TAI VIET NAM</small>
1.1. Khái niệm, ban chat của trong tài vụ việc trong giải quyếtcác tranh chấp thương mại
<small>1.1.1. Khai niệm trọng tài vụ việc</small>
Có nhiều cách diễn đạt khác nhau về thuật ngữ “Trọng tài vụ việc”
(TTVV). TTVV có thé được hiểu là hình thức trọng tài được lập ra theo yêu
cầu của các đương sự để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thé và tự giải thé khitranh chap đó đã được giải quyết. TTVV có nghĩa là trọng tài không nhất thiếtđược tiến hành theo quy tắc của một tổ chức trọng tài thường trực. Các bênkhông bắt buộc phải tiến hành trọng tài theo quy tắc của một tô chức trọng tàithường trực. Họ có thể tự quy định quy tắc tố tụng riêng. Nói cách khác,
TTVV là trọng tài tự tiễn hành [13].
<small>Giáo trình Luật Thương mại của Trường Đại học Luật Hà Nội định</small>nghĩa “TTVV là phương thức trọng tai do các bên tranh chấp thỏa thuậnthành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấmdit ton tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp” [L5, tr. 446].
<small>Trọng tải vụ việc (trọng tài Ad-hoc) là loại hình trọng tài khơng có cơ</small>quan thường trực, do các bên tranh chấp lập ra dé giải quyết vẫn dé mà họ ucầu. Trọng tài Ad-hoc khơng có quy chế hoạt động riêng và khi giải quyết vanđề xong thì giải tán [4, tr. 24].
Như vậy, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về TTVV, tuy
<small>nhiên trong khoa học pháp lý, TTVV được xem xét dưới hai góc độ: Là một</small>
hình thức giải quyết tranh chấp (hình thức trọng tài) và là cơ quan giải quyết
tranh chấp (tổ chức trọng tài).
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">độc lập với các bên tranh chấp, xem xét và đưa ra phán quyết về vụ việc buộccác bên tranh chấp phải thi hành. TTVV chỉ được thành lập khi phát sinhtranh chấp và tự chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp. Cũnggiống như trọng tài thường trực, cơ chế giải quyết tranh chấp của TTVV là sựkết hợp giữa hai yếu tố: thỏa thuận và tài phán.
Các bên muốn giải quyết tranh chấp bằng TTVV phải có thỏa thuận<small>trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận của các bên có liên quan đưa</small>
tranh chấp đã hoặc có thể sẽ xảy ra để giải quyết tranh chấp thông qua
phương thức TTVV. Thông qua thỏa thuận TTVV, các bên gián tiếp thỏathuận khước từ thẩm quyền xét xử của Tòa án. Như vậy, yếu tố cơ bản nhấttrong phương thức trọng tài phải là yếu tô thỏa thuận. Nếu không có thỏathuận trọng tài, sẽ khơng có hoạt động trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể làmột điều khoản của hợp đồng (điều khoản trọng tài) hay thé hiện trong một
văn bản riêng (hiệp định trọng tài, phụ lục trọng tài...). Quan điểm chung củagiới trọng tài học quốc tế (mà hiện nay đã được cụ thể hóa thành các quy định
trong pháp luật về trọng tài của nhiều quốc gia) là điều khoản trọng tài độc lậpvới hợp đồng chính, sự vơ hiệu của hợp đồng chính khơng tự động làm vôhiệu điều khoản trọng tài.
Cũng giống như Tòa án, việc giải quyết tranh chấp qua trọng tài thường
trực hay trọng tài vụ việc đều mang tính chất tài phán. Tuy nhiên, tính tài
phán trong giải quyết tranh chấp của trọng tài và Tịa án có sự khác biệt cơ
<small>bản là:</small>
Thứ nhất, nêu Tòa án là cơ quan đại diện cho “quyền lực công” nhândanh Nhà nước ra phán quyết có tính bắt buộc đối với các đương sự thì Trọngtài là một tơ chức phi Chính phủ, là một “Toa án tư” nhân danh ý chí của các
bên tranh chấp để giải quyết.
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">mang tính tài phán khi được Nhà nước hỗ trợ thi hành. “Đặc điểm cơ bản của
cơ chế giải quyết tranh chấp bang trọng tài là sự kết hop hai yếu tô thỏathuận và tài phan. Cụ thể, thỏa thuận làm tiền dé cho phán quyết và khơng thécó phan quyết thốt ly những yếu tơ đã được thỏa thuận. Do vậy, vì bất kỳ lýdo gi, nếu một tổ chức trọng tài đưa ra một phan quyết nào đó mà không dựa<small>trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các bên thì đó hồn tồn khơng phải là một</small>phán quyết trọng tài theo đúng nghĩa của nó ” [9, tr.472].
<small>Như vậy, sự thỏa thuận và tài phán làm nên tính hai mặt của trọng tài.</small>
Chính tính hai mặt này tạo nên tính khác biệt của hình thức giải quyết tranh
chấp bằng con đường trọng tài so với các hình thức giải quyết tranh chấp<small>khác.</small>
* Trọng tài vụ việc với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp:<small>TTVV được định nghĩa là: Cơ quan xét xử do các bên đương sự thỏa thuận,</small>thành lập để giải quyết tranh chấp giữa các đương sự đó. Thành phan trọng taido các bên đương sự thỏa thuận quyết định.
Trọng tài là một t6 chức xã hội nghề nghiệp, không nhân danh quyền
lực nhà nước, tôn trọng toi da quyén tự định đoạt của đương sự. Do đó, phanquyết trọng tài khơng đương nhiên được cưỡng chế thi hành nếu khơng có sự
hỗ trợ từ phía cơ quan tư pháp.
Trọng tài có đội ngũ trọng tài viên khơng những am hiểu pháp luật màcịn am hiểu hoạt động kinh doanh. Các trọng tài viên, ngồi việc đáp ứng các
tiêu chuẩn, cịn phải cơng tâm, vơ tư, khách quan. Đương sự có thể lựa chọn
trọng tài viên trong hoặc ngoài danh sách của các trung tâm trọng tài để giảiquyết tranh chấp cho mình.
Trọng tài là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động trên cơ sở lấy thu bù
chi, không nhận được sự hỗ trợ vật chất ban đầu từ Nhà nước, do vậy đã gặp<small>rât nhiêu khó khăn. Trọng tài cân phải tạo được niêm tin đôi với các nhà kinh</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">doanh bằng chính các ưu điểm của mình mà các phương thức giải quyết tranhchấp khác khơng có, như: giải quyết nhanh chóng, dut điểm, bảo vệ được bí<small>mật kinh doanh, thủ tục đơn giản, gọn nhẹ. Đặc biệt, với sự ra đời của Pháplệnh Trọng tài Thương mại năm 2003 (PUT TM), sau đó là Luật Trọng tài</small>Thương mại năm 2010 (LTTTM), phán quyết của trọng tài trong nước đượccưỡng chế thi hành mà không phải thông qua thủ tục cơng nhận của Tịa án.
Tham khảo kinh nghiệm lập pháp của 80 quốc gia trên thé giới cho thay
hầu hết các quốc gia đều có những đạo luật (Trung Quốc, Singapore, lan, Hoa Kỳ, Anh...) hoặc quyền luật trong các bộ luật tố tụng dân sự (Đức,
Thái-Nhật, Pháp) với tên gọi là Luật Trọng tài, không phân biệt tranh chấp dân sự
2, LTTTM cũng giới hạn thâm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài gồm
tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; hoặc tranh chấpgiữa các bên mà ít nhất một bên có hoạt động thương mại; hoặc tranh chấpgiữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Như vậy,<small>pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận trọng tài với tư cách là một hình thức, một</small>
cơ quan giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại chứ
không giải quyết các tranh chấp dân sự theo nghĩa rộng như cách ghi nhận của
pháp luật nhiều quốc gia.
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức TTVV là hình
thức giải quyết tranh chấp thơng qua hoạt động của các trọng tài viên, với tư
cách là bên thứ ba độc lập do các bên tranh chấp thỏa thuận lập ra, nhằm
cham dứt mâu thuần, xung đột băng việc đưa ra phán quyết buộc các bên
tranh chấp phải thi hành.
1.1.2. Bản chất của trọng tài vụ việc
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Bản chất của TTVV được thé hiện qua các đặc trưng cơ bản sau đây:Thứ nhất, TTVV chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và chấmdirt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
Nếu như Trọng tài thường trực có trụ sở riêng, hoạt động theo quy tắcđịnh sẵn thì tính chất “vụ việc” hay “lâm thời” của hình thức TTVV thể hiệnở chỗ Trọng tài chi được thành lập theo thỏa thuận của các bên tranh chấp dégiải quyết vụ tranh chấp cụ thê giữa các bên. Tổ chức trọng tài này chỉ tồn tạivà hoạt động trong thời gian giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên. Khi giảiquyết xong vụ tranh chấp, Trọng tài tự cham dứt hoạt động. Đặc trưng này théhiện sự linh hoạt, chủ động của các bên khi giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, TTVV khơng có trụ sở thường trực, khơng có bộ máy điều
hành (vi chỉ được thành lập dé giải quyết vụ tranh chấp theo sự thỏa thuận của
<small>các bên) và khơng có danh sách trọng tài viên riêng.</small>
Trọng tài viên được các bên lựa chọn hoặc được chỉ định có thể làngười có tên trong hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm
trọng tài nào. Đây cũng chính là ưu điểm lớn của tổ chức trọng tài này vì các
bên có nhiều cơ hội lựa chọn được trọng tài viên có sự am hiểu sâu sắc về lĩnhvực đang xây ra tranh chấp. Từ đó, tạo điều kiện dé các bên có thé giải quyếtvụ tranh chấp một cách nhanh chóng mà khơng tốn nhiều thời gian, tiền của.
Thứ ba, TTVV khơng có quy tắc tố tụng có sẵn dành riêng cho minh.
Trọng tài vụ việc chỉ được các bên thành lập khi phát sinh tranh chấp
nên quy tắc tố tụng dé giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận
xây dựng. Tuy nhiên, để tránh lãng phí thời gian cũng như công sức đầu tư
vào việc xây dựng quy tắc t6 tung, các bên tranh chấp có thé thỏa thuận lựa
chọn bat kỳ một quy tac tố tung phổ biến nào, mà thông thường là quy tắc tốtụng của trung tâm trọng tài có uy tín ở trong nước và quốc tế.
Như vậy, TTVV là hình thức tô chức đơn giản, khá linh hoạt và mềmdẻo về phương thức hoạt động nên phù hợp với tranh chấp ít tình tiết phứctạp, can giải quyết nhanh chóng. Các bên tranh chap có kiến thức và hiểu biết
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">pháp luật cũng như có kinh nghiệm tranh tụng. Tuy nhiên, trên thực tế, số
lượng các vụ tranh chấp được giải quyết thơng qua hình thức TTVV trong
thời gian qua không nhiều.
1.1.3. Uu điểm và hạn chế của trọng tài vụ việc* Uu điểm:
Trọng tài vốn phố biến và được sử dụng rộng rãi trong thương maiquốc tế bởi có nhiều tính ưu việt, đáp ứng được nhu cầu của các doanh
nghiệp. Lợi thế đầu tiên khi doanh nghiệp lựa chọn hình thức giải quyết tranh
chấp này là thủ tục tố tụng linh hoạt. Đây là một trong những tiêu chí mà các
doanh nghiệp thường quan tâm khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp.Luật Trọng tài các nước quy định thủ tục tố tụng trọng tài rất đơn giản, chủ
yếu dựa trên thỏa thuận của các bên. So với trọng tài thường trực, trọng tài vụviệc có một số ưu điểm sau đây:
Ưu điểm cơ bản của hình thức TTVV là quyền tự định đoạt của các bênrất lớn. Thủ tục giải quyết của TTVV hoàn toàn do các bên tự thỏa thuận cho
riêng họ và các trọng tài viên phải tuân theo. Điều này đòi hỏi sự hợp tác của
các bên đề thực hiện một cách đầy đủ, hiệu quả và tốn nhiều thời gian vì cácbên phải thỏa thuận chỉ tiết về việc tiến hành q trình tố tụng.
Bên cạnh đó, việc tiến hành giải quyết tranh chấp thương mại bằngTTVV có chỉ phí thấp và thời gian giải quyết nhanh. Với việc lựa chọn hình<small>thức trọng tài này, các bên sẽ khơng phải trả thêm các khoản chi phí hànhchính cho các trung tâm trọng tài (thơng thường khoản chi phí này khơng</small>nhỏ). Ví dụ, theo Quy tắc tố tụng của Tịa án Trọng tài quốc tế ICC, khi nộp<small>đơn kiện, nguyên đơn phải nộp một khoản phí đăng ký là 2.500 USD và</small>
khoản phí này sẽ khơng được hồn lại trong bất kỳ điều kiện nào. Mức phíhành chính tối da mà ICC yêu cầu các bên phải nộp có thể lên tới 75.800 USD(Biểu phí tơn và các chi phí trọng tài cua ICC có hiệu lực từ ngày 1/1/1998).
Theo Quy tắc Tố tụng của Viện Trọng tài Stockhoml Thụy Điền, khi nộp đơn
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><small>kiện, nguyên đơn cũng phải nộp một khoản phí đăng ký là 1.500 Euro và</small>
khoản phí này sẽ khơng được hồn lại trong bất kỳ trường hợp nào.
Đối với TTVV quyền lựa chọn trọng tài viên của các bên đương sựkhông bị giới hạn bởi danh sách trọng tài viên sẵn có như hình thức trọng tài
thường trực. Các bên có thé lựa chọn bất ky trọng tai viên nào trong hoặcngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào. Điều nàytạo điều kiện thuận lợi cho các bên lựa chọn được trọng tài viên am hiểu vấnđề đang tranh chấp, từ đó có thể giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranhchấp.
Các bên tranh chấp có quyên rộng rãi trong việc xác định quy tắc tốtụng giải quyết tranh chấp giữa các bên. Khi lựa chọn TTVV các bên tranhchấp có thé cùng nhau thỏa thuận xây dựng một quy tắc tố tụng riêng dé giải
quyết vụ tranh chấp của họ. Nhưng để rút ngắn thời gian giải quyết tranhchấp, các bên có thé thỏa thuận lựa chọn một quy tắc tố tụng của trung tâmtrọng tài nào mà họ cho là phù hợp nhất. Trong khi đó, ở hình thức trọng tàithường trực, các bên chủ yếu chịu ràng buộc bởi quy tắc tố tụng của trung tâm<small>trọng tài mà các bên đã lựa chọn.</small>
Theo ông Trần Hữu Huỳnh - Trưởng Ban pháp chế Phòng Thương mại
và Cơng nghiệp Việt Nam (VCCI): “Trong thực tế có ba hình thức xây dựngmột quy tắc tơ tung cho TTVV: Thứ nhất, các bên cùng thỏa thuận thành lập
một số quy tắc tô tụng riêng áp dụng cho vụ kiện; Thứ hai, các bên có thể
chọn một quy tắc tơ tụng trọng tài săn có của các tổ chức quốc tế (hoặc khuvực) dé áp dung; Thứ ba, các bên trong trọng tài vụ việc có thé chọn quy tắcto tụng của một tô chức trọng tài khác để áp dụng, mặc dù điều này khơng cónghĩa là các bên muốn chọn trọng tài thường trực thay cho trọng tài vụ việc ”<small>[16, tr.276].</small>
Ngoài ra, đối với TTVV, các bên có thé thỏa thuận bỏ qua một số thủ
tục tố tụng không cần thiết để rút ngắn thời gian giải quyết vụ tranh chấp.<small>* Hạn chê:</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Bất cứ phương thức giải quyết tranh chấp nào cũng có những ưu điểmvà hạn chế nhất định. Bên cạnh những ưu điểm đã nêu ở trên, so với trọng tảithường trực, TTVV có một số hạn chế như sau:
Nhược điểm lớn nhất của TTVV là phải phụ thuộc vào thiện chí củacác bên. Nếu một bên khơng có thiện chí, q trình tố tụng sẽ có nguy cơ bịtrì hỗn. Nhiều khi không thê thành lập được Hội đồng Trọng tài (HĐTT) bởivì khơng có quy tắc tố tụng nào được áp dụng.
Trong TTVV, khơng có tổ chức nào giám sát việc tiễn hành trọng tài vàgiám sát các trọng tài viên. Vì vậy, kết quả phần lớn phụ thuộc vào việc tiễn
hành t6 tụng va khả năng kiểm soát quá trình tố tụng của các trọng tài viên.
<small>Cả trọng tài viên và các bên sẽ khơng có cơ hội nhận được sự ủng hộ và trợ</small>
giúp đặc biệt từ một tổ chức trọng tài thường trực trong trường hợp phát sinhsự kiện không dự kiến trước và trong trường hợp các trọng tài viên không thểgiải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các bên có thé nhận được là từ
<small>các Tòa án.</small>
Do vậy, chỉ khi có tồn tại một HDTT và một quy tắc tố tụng cụ thể
được xác lập thì quá trình tố tụng mới có thé tiến hành được sn sẻ nhưtrọng tài quy chế trong trường hợp một bên từ chối không tham gia vào quátrình tố tụng.
Nhìn chung, TTVV là phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu
điểm so với trọng tải thường trực cũng như thương lượng, hòa giải và tư pháp.
<small>Vi vậy, trong tương lai, TTVV và trọng tài thường trực sẽ là phương thức giải</small>quyết tranh chấp cơ bản để giảm gánh nặng xét xử cho Tòa án. Tuy nhiên,
khơng có một phương thức giải quyết tranh chấp nào hồn hảo tuyệt đối.
TTVV cũng khơng thê năm ngồi điều đó. Vì thế, chúng ta nhìn nhận những
mặt tích cực nhưng cũng khơng bỏ qua những mặt hạn chế của TTVV dé tìmcách khắc phục và hồn thiện TTVV. Có thê nói, đối với các hạn chế đã phân
tích ở trên thì sự hỗ trợ của Tịa án đối với TTVV là sự trợ giúp vô cùng cầnthiết.
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">1.2. Hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằngTrọng tài vụ việc ở Việt Nam - Quá trình hình thành và phát triển
1.2.1. Hệ thông pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng<small>tài vụ việc ở Việt Nam</small>
Hệ thống pháp luật về TTVV ở Việt Nam được quy định trong các vănbản pháp luật như: Bộ Luật tố tụng Dân sự (2005), Luật Trọng tài Thương<small>mại (2010), Luật Doanh nghiệp (2005), Luật Thương mại (2005), Bộ luậtHàng hải (2005), Luật Bảo vệ mơi trường (2005), Luật Chứng khốn (2006),</small>Luật Chuyển giao cơng nghệ (2006), Luật Sở hữu trí tuệ (2005), Luật Xây<small>dựng (2003), Luật Thị hành án Dân sự (2008)... Các Nghị định của Chính phủ</small>
hướng dẫn thi hành luật về TTVV. Các thông tư, chỉ thị của các Bộ hướngdẫn thi hành luật, nghị định về TTVV.
Các quy định trong các văn bản pháp luật trên quy định về giải quyếttranh chấp băng hình thức trọng tài, các bên tranh chấp có thể lựa chọn hìnhthức trọng tài thường trực hoặc TTVV để giải quyết các tranh chấp. LTTTMnăm 2010, ngoài các quy định chung về giải quyết tranh chấp bang trọng tai,
cịn có một số quy định riêng cho hình thức trọng tài thường trực và TTVV.
Các văn bản pháp luật này quy định về các nhóm vấn đề sau:
Thứ nhất, quy định về điều kiện giải quyết tranh chấp băng TTVV.Trọng tài muốn xem xét tranh chấp có thuộc thâm quyên giải quyết của trọng
tài hay không phải căn cứ vào các điều kiện mà pháp luật quy định. Một tranh
chấp sẽ thuộc thâm quyền giải quyết của TTVV khi có hai điều kiện: Mét /à,
tranh chấp phải thuộc thâm quyên giải quyết của Trọng tài; Hai /d, giữa các
bên có tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài. Điều 2, LTTTM (2010) quyđịnh cụ thé về các trường hợp thuộc thâm quyên giải quyết của trọng tải.
LTTTM cũng quy định cụ thể về hình thức của thỏa thuận trọng tài (Điều 16),thỏa thuận trọng tài vô hiệu (Điều 18), thỏa thuận trọng tài không thực hiện
được (Điều 6). Ngoài các điều kiện giải quyết tranh chấp bằng TTVV được<small>quy định trong LTTTM thì trong các luật khác cũng có quy định cho phép</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Trọng tai giải quyết một số van dé, cụ thé: Luật Doanh nghiệp (Điều 170); Bộ
luật Hàng hải (Khoản 2, Điều 4); Luật Đầu tư (Điều 12); Luật Hàng không
Dân dụng Việt Nam (Điều 32, Điều 173) và trong một số luật chuyên ngành<small>khác.</small>
Thứ hai, quy định về thành lập Hội đồng TTVV và sự hỗ trợ của Tịấn trong việc thành lập Hội đồng TTVV. Khác với việc thành lập HDTT tạicác trung tâm trọng tài thì việc thành lập Hội đồng TTVV có một số quy định
riêng được quy định cụ thé trong LTTTM (Điều 30, Điều 39, Điều 41). Sự hỗ
trợ của Tòa án trong việc thành lập Hội đồng TTVV có vai trị rất quan trọng.
Giải quyết tranh chấp bằng TTVV tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của các
bên. Nhưng nếu các bên không đưa ra được thỏa thuận thích hợp về việc
thành lập HĐTT thì tố tung trọng tài cũng không thé thực hiện được. Dé khắc
phục tinh trạng này, LTTTM quy định các công việc cu thé mà Tòa án hỗ trợđể thành lập HĐTT, đó là: sự hỗ trợ của Tịa án trong việc chỉ định trọng tàiviên va Chủ tịch HDTT (Điều 41), sự hỗ trợ của Tòa án trong việc thay đôi
trọng tài viên (Điều 42).
Tht ba, quy định về đăng ky phán quyết TTVV và thi hành phán quyếtTTVV. Quy định về đăng ký phán quyết TTVV là một quy định mới trongLTTTM (2010) và là một quy định bắt buộc nhằm tăng thêm uy tín cho phánquyết của TTVV thơng qua con dấu của Tịa án (Điều 62). Phán quyết của
trọng tài là chung thâm nên ở Việt Nam phán quyết của trọng tài được thi
hành như các bản án, quyết định của Tòa án (Điều 67). LTTTM (2010) quyđịnh cụ thé về việc thi hành phán quyết trọng tài đã tạo niềm tin cho các
doanh nghiệp khi lựa chọn trọng tài để giải quyết các tranh chấp.
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về trọng tài vụ
<small>việc ở Việt Nam</small>
* Giai đoạn từ 1960 đến trước khi có PLTTTM năm 2003
Lịch sử phát triển của TTTM ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1960 cùngvới sự hình thành của cơ chế hợp đồng kinh tế. Ngay sau khi Nghị định số
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">04/ND-TTg ngày 4/1/1960 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ tạmthời về chế độ hợp đồng kinh tế thì ngày 14/1/1960, Thủ tướng ban hành Nghịđịnh số 20/NĐ-TTg về việc tổ chức ngành Trọng tài kinh tế. Theo Nghị địnhnày thì Trọng tài kinh tế được tơ chức ở Trung ương, Khu (Khu Việt Bắc,Khu tự trị Tây Bắc), Bộ. Sau đó được cải tổ theo cơ cấu: Trọng tai kinh téTrung ương, Bộ, Tinh, rồi lại cải tơ theo dia giới hành chính là Trọng tài kinhtế Trung ương, Tỉnh, Huyện (tương đương với cơ cấu tô chức của Tòa án).Chức năng của Trọng tài kinh tế nhà nước lúc bấy giờ là quản lý chế độ hợpđồng kinh tế; thanh tra, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở thực hiện hợp đồng kinh
tế; xét xử các tổ chức kinh tế. Có thé nói Trọng tài kinh tế nhà nước lúc baygiờ mang bản chất lưỡng tính (lẫn lộn giữa Tịa án và Trọng tài) nên nó khơngphải là hình thức TTTM theo đúng nghĩa (tổ chức phi chính phủ).
Phục vụ cho quan hệ với các nước trong khối XHCN, Uỷ ban Trọng tài<small>Ngoại thương và Uy ban Trọng tài Hang hai đã được thành lập vào năm 1963</small>và 1964. Dé giải quyết tranh chấp giữa các doanh nghiệp nha nước với cácthực thể XHCN khác, một hệ thống “trọng tài kinh tế”, theo mơ hình pháp
luật kinh tế của Liên Xô đã được thành lập từ quận, huyện, tỉnh, thành phó
đến trung ương. Tên gọi của loại hình này có thể gây nhằm lẫn vì trên thực tếthi “trọng tai kinh tế” không thực sự là trọng tài. Đó là một loại cơ quan hànhchính nhà nước để giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các doanh nghiệp
nha nước. Hệ thống “trọng tài kinh tế” được huỷ bỏ vào năm 1994 và mộtnhánh mới trong hệ thống Toà án Nhân dân với tên gọi Toà Kinh tế được
thành lập ở cấp tỉnh và cấp trung ương dé giải quyết các “tranh chấp kinh tế”là tranh chấp giữa các doanh nhân nhằm phân biệt với các tranh chấp dân sự
giữa các cá nhân. Ngày 5/9/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị đinh số
116/ND-CP về tô chức và hoạt động của các tô chức trọng tài, cho phép thành
lập các “Trung tâm trọng tài kinh tế”. Đây là tín hiệu đầu tiên nhằm thừa nhận
<small>loại hình trọng tài theo ý nghĩa đã được thừa nhận trong ban án của Toa ánSài Gòn trước đây [6].</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Đối với tổ chức trọng tài được thành lập theo Nghị định số 116/CP, cơchế thi hành quyết định trọng tài cũng khơng được đề cập đến. Thậm chí, mộtsố quy định của Nghị định đã dé lại hậu quả xấu, trái han với nguyên tắc giảiquyết của Trọng tài. Điều 31 của Nghị định số 116/CP quy định “7rongtrường hợp quyết định trọng tài không được một bên chấp hành thì bên kia cóqun u cau Tồ án nhân dân có thẩm quyên xét xử theo thủ tục giải quyếtcác vụ án kinh tế”. Quy định này đã phá bỏ nguyên tắc giải quyết của Trọngtài là quyết định trọng tài có giá trị chung thâm, làm cho pháp luật trọng tài<small>của Việt Nam hoàn toàn khác biệt với pháp luật trọng tài của các nước khác,</small>
đồng thời làm triệt tiêu tính ưu việt của phương thức trọng tài là tính chungthâm [7]. Trọng tài vốn được các bên ưu tiên lựa chọn bởi thủ tục đơn giản,linh hoạt, thời gian ngắn. Trong khi đó, Nghị định số 116/CP đã đi ngược lại
nguyên tắc này, gây tốn kém thêm chi phí về thời gian và tiền bạc của các<small>bên.</small>
Thực tiễn pháp lý của hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận
TTVV như là một hình thức khơng thể thiếu bên cạnh trọng tài quy chế. Xuất
phát từ những ưu điểm như trên, hình thức trọng tài này được nhiều nhà kinh
<small>doanh ưa chuộng. Tuy nhiên, ở Việt Nam trong giai đoạn này các văn bản</small>
pháp luật về trọng tài mới chỉ quy định cụ thể về trọng tài thường trực màchưa có quy định về việc áp dụng hình thức TTVV. Mặc dù có một số văn
bản pháp luật thừa nhận quyền lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp băng
trọng tài do các bên thành lập như tại Điều 4, Điều 5 Bộ luật Hàng hải, Điều
122 Nghị định số 124/2000/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư nước
ngồi tại Việt Nam ... nhưng chưa có quy định cụ thê về việc áp dụng hình
thức trọng tài này như thế nào trên thực tế. Đây có thể coi là một hạn chế rất
<small>lớn trong lĩnh vực pháp luật trọng tai ở nước ta giai đoạn này [11, tr.61].</small>* Giai đoạn từ khi có PLTTTM năm 2003 đến nay
Ngày 25/2/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thơng qua Pháp lệnhTrọng tài Thương mại (có hiệu lực từ ngày 1/7/2003) khắc phục được những
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">hạn chế trên. Sự ra đời của PLTTTM (2003) đã đánh dấu một bước tiễn mới
trong việc hình thành và hoàn thiện pháp luật về trọng tài tại Việt Nam, đáp
ứng nhu cầu lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của cộng đồngdoanh nghiệp. TTVV lần đầu tiên được quy định tại PLTTTM một cách cụthé, rõ ràng về cách thức hình thành, quy trình tố tụng cũng như giá trị củaphán quyết và cơ chế bảo đảm thi hành quyết định của TTVV. Trước khi ban<small>hành PLTTTM, hình thức TTVV mới chi được ghi nhận là một phương thức</small>giải quyết tranh chấp mà chưa có bất kỳ quy định nào về cơ chế giải quyếttranh chấp bằng TTVV. Bởi vậy, pháp luật về TTVV ở Việt Nam suốt thời
gian dài vẫn “dậm chân tại chỗ”, chỉ đến khi ban hành PLTTTM thì “diện
mạo” của TTVV ở Việt Nam mới được khắc họa rõ nét [5, tr. 448].
Cũng giống như quy định của các nước có hệ thống pháp luật trọng tài<small>hồn thiện, Việt Nam thừa nhận hai hình thức trọng tài: trọng tài vụ việc</small>(adhoc) và trọng tài thường trực (trọng tài quy chế). Sự thừa nhận hai hìnhthức trọng tài là điểm đổi mới đáng kế trong nội dung của pháp luật về trọng
<small>tài. Trước ngày 01/7/2003, ở nước ta chỉ thừa nhận một hình thức trọng tài</small>
duy nhất là trọng tài thường trực. Đây là lần đầu tiên hình thức TTVV được<small>thừa nhận chính thức trong một văn bản pháp luật quan trọng áp dụng giải</small>quyết tranh chấp trong quan hệ kinh tế trong nước và quan hệ kinh tế quốc tế.Quy định tại Điều 19, PLTTTM tạo điều kiện cho các bên tranh chấp toàn
quyên tự do lựa chon cho mình những người có hiểu biết pháp luật và chunmơn, có uy tín tham gia giải quyết tranh chấp.
Nhìn chung, PLTTTM về cơ bản phù hợp với pháp luật và thông lệ
quốc tế trong việc điều chỉnh các vấn đề chủ yếu của trọng tài như: quy định
về hiệu lực của thoả thuận trọng tài, điều kiện trở thành trọng tài viên, vềTTVV, mở rộng thâm quyền chọn trọng tài viên, ghi nhận mối quan hệ giữaTrọng tai va Toa án bang một loạt các quy định cu thể, như: hỗ trợ thi hành
thoả thuận trọng tài, chỉ định trọng tài viên, giải quyết khiếu nại về thâmquyền của HĐTT, áp dụng biện pháp khan cấp tạm thời, giải quyết yêu cầu
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">huỷ quyết định trong tài, lưu trữ h6 sơ trọng tài v.v. Thực tiễn áp dụng
PLTTTM trong hơn 6 năm cho thấy, tuy được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ
cùng với sự xuất hiện của nhiều nhân tố mới (như: Việt Nam đã là thành viêncủa Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), với sự xuất hiện của các đạo luậtmới như Luật Thương mại năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005.. .), nhưng mộtsố quy định của Pháp lệnh đã bộc lộ sự bat cập như: Tham quyền của Trọngtài còn hạn chế về phạm vi, hiệu lực pháp lý của phán quyết trọng tài không
rõ ràng, sự hỗ trợ của Toà án trong việc thu thập chứng cứ và áp dụng các
biện pháp khan cấp tạm thời là chưa hiệu quả; đội ngũ trọng tài viên ở trong
nước chưa phát triển, chưa đạt trình độ và uy tín bảo đảm sự tin cậy của cácbên tranh chấp, nhất là các bên nước ngoài....[10]. Ngày 17/6/2010, LTTTM
đã được Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 7 thơng qua và chính thức có hiệu lựctừ ngày 01/01/2011, với mục tiêu khắc phục những bat cập đang ton tại vàtiếp cận những chuẩn mực quốc tế về TTTM, phù hợp hơn với những cam kếtquốc tế của Việt Nam. LTTTM (2010) quy định rõ về các hình thức trọng tài.
LTTTM sử dụng thuật ngữ “trọng tài quy chế” va “trọng tài vụ việc” dé chỉ
<small>hai hình thức trọng tài được thừa nhận ở Việt Nam thay cho hai khái niệm cũ</small>là “trung tâm trọng tài” và “hội đồng trọng tài do các bên thỏa thuận thànhlập”. Tên gọi mới này thê hiện rõ và đúng bản chất của hai hình thức trọng tàithương mại mà Việt Nam và nhiều nước trên thế giới thừa nhận [2, tr.10].
LTTTM (2010) được kỳ vọng là một hành lang pháp lý hoàn thiện nhất và là
động lực quan trọng cho sự phát triển của TTTM nói chung và TTVV nói<small>riêng trong giai đoạn hiện nay.</small>
1.3. Các yếu tổ ảnh hưởng tới sự phát triển của trọng tài vụ việc và<small>pháp luật trọng tài vụ việc ở Việt Nam</small>
Sự phát triển của TTVV ở Việt Nam bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như
Thứ nhất, ảnh hưởng của chế độ chính trị và trình độ phát triển kinh
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Yếu tô đầu tiên có ảnh hưởng quyết định tới su ra đời của TTTM va
pháp luật về TTTM nói chung trong đó có TTVV là chế độ chính trị. Điều
này thể hiện rõ nét ở chỗ: Trước đây, bản chất của trọng tài ở các nước xã hộichủ nghĩa (XHCN) và bản chất trọng tài ở các nước tư bản chủ nghĩa hoàntoàn khác nhau. Ở các nước XHCN, Trọng tài là cơ quan tài phán nhà nước.
Trong khi đó, ở các nước tư bản chủ nghĩa, trọng tài là tô chức tài phán tư.
Như vậy, về thực chất, ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây khơng có trọng<small>tài theo đúng nghĩa của nó.</small>
Việt Nam, với mơ hình một nước XHCN, trọng tai và pháp luật về<small>trọng tài ở nước ta ra đời khá sớm. Nhưng trọng tài với đúng nghĩa của nó (là</small>
tổ chức phi Chính phủ) thì chỉ đến khi Nhà nước ta xây dựng nền kinh tế thịtrường định hướng xã hội chủ nghĩa mới có điều kiện để phát triển. Hình thức
TTVV cũng đã xuất hiện rất sớm nhưng pháp luật về TTVV mới chi được ghi<small>nhận từ khi có PLTTTM (2003).</small>
Trong nên kinh tế tập trung bao cấp, các tô chức kinh tế chủ yếu thuộcsở hữu nhà nước nên họ khơng có quyền tự do hợp đồng, khơng có quyền tựdo định đoạt các cơng việc của mình. Hợp đồng kinh tế được ký kết là để thực
hiện các mệnh lệnh, nhiệm vụ kinh tế của Nhà nước chứ không xuất phát từ
nguyện vọng của nhà kinh doanh. Do đó, tranh chấp cũng ít khi xảy ra hoặcnếu có xảy ra thì cũng chỉ giải quyết ở những cơ quan theo sự chỉ định của
Nhà nước, đó là Trọng tài Kinh tế Nhà nước hoặc Tịa án. Điều này cũng giải
thích vì sao thời kỳ này khơng có các tổ chức trọng tài phi chính phủ. Theo đó<small>thì hình thức TTVV cũng chưa được ghi nhận trong pháp luật trọng tài ở nước</small>ta. Khi Nhà nước ta thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phầnkinh tế thì nhiều loại hình doanh nghiệp đã ra đời. Các doanh nghiệp này hoạtđộng vì mục tiêu kinh doanh, thu lợi nhuận và cạnh tranh gay gắt với nhau
trên thị trường. Vì thế, các tranh chấp cũng thường xuyên xảy ra và nhu cầugiải quyết tranh chấp một cách dứt điểm, hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo giữ
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">duoc méi quan hệ lâu dài được coi trọng hon bao giờ hết. Điều này đã tạođiều kiện cho sự ra đời của TTTM ở Việt Nam với tư cách là cơ quan tài phảntư và yêu cầu hoàn thiện về TTTM, trong đó có TTVV ở nước ta, trở thànhmột yêu cầu bức thiết hiện nay. Do đó, có thé khang dinh rang, ché d6 chinhtrị, chế độ kinh tế có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến sự hình thành và phát
triển của pháp luật TTTM nói chung và TTVV nói riêng.
Trình độ phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển
của TTTM. Ở các giai đoạn phát trién khác nhau của nền kinh tế thì TTTM vàpháp luật TTTM cũng có sự phát triển khác nhau. Kinh tế càng phát triển thì
hoạt động thương mại càng đa dạng, từ đó các tranh chấp xảy ra ngày càng
nhiều và phức tạp. Điều này đòi hỏi phải có đội ngũ trọng tài viên giàu kinh
nghiệm, am hiểu pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế để giải quyết các
tranh chấp đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp. Chính điều này là nguyênnhân thúc day sự phát triển của TTTM và pháp luật về TTTM ở mỗi quốc gia.Đó cũng là lý do tại sao cùng là nền kinh tế thị trường nhưng pháp luật TTTMở các nước có trình độ phát triển khác nhau là khác nhau. Ngay trong mộtquốc gia, ở các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế thì sự phát triển<small>của TTTM cũng khác nhau [5, tr. 25, 26].</small>
Ở Việt Nam, Trọng tài phi chính phủ và pháp luật TTTM chỉ ra đời khiNhà nước thực hiện công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nên kinh tế hàng hóa nhiều thành phan
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cịn TTVV ra đời muộnhơn nhiều và chưa được các doanh nghiệp quan tâm lựa chọn. Hiện nay, sốlượng các vụ việc được giải quyết bằng TTTM ở nước ta ngày càng nhiều.
Chất lượng trọng tài ngày càng cao theo sự phát triển của nền kinh tế. Tuy
nhiên, các vụ việc chủ yếu được giải quyết qua các Trung tâm trọng tài
(doanh nghiệp lựa chọn trọng tài quy chế để giải quyết tranh chấp), số lượng
các vụ việc năm sau thường cao hơn năm trước. Điển hình như Trung tâmTrọng tài Quốc tế Việt Nam năm 2009 đã tiếp nhận và giải quyết 48 vụ, năm
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">2010 là 63 vụ, đến năm 2011 lên đến 83 vụ [14]. Việc các doanh nghiệp ViệtNam đang có xu thế sử dụng TTTM để giải quyết tranh chấp ngày càng nhiều
đã chứng minh trình độ phát triển của nền kinh tế ảnh hưởng đến hiệu quả
chất lượng của hoạt động trọng tài. Đối với pháp luật điều chỉnh hoạt động
của TTVV thì sự phát triển biểu hiện ở chỗ: Trước đây pháp luật diéu chỉnh
các hoạt động của TTM là các nghị định và chưa có quy định về hình thứcTTVV. Năm 2003, các nghị định được thay thế băng PLTTTM đã lần đầu
tiên ghi nhận hình thức giải quyết tranh chấp băng TTVV bên cạnh trọng tài
quy chế. Hiện nay, TTTM được thống nhất điều chỉnh bằng LTTTM năm
2010 với nhiều nội dung được mở rộng phù hợp hơn với pháp luật quốc tế.Thứ hai, ảnh hưởng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với
Việt Nam là phải hình thành một hệ thống pháp luật về TTTM tương đồngvới pháp luật TTTM quốc tế, tạo điều kiện cho việc phát triển thương mạigiữa các quốc gia. Đồng thời, việc các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam trên nhiều lĩnh vực ngày càng phát triển đã tạo ra thực tiễn kinh
doanh sôi động nên các tranh chấp thương mại phát sinh ngày càng nhiều và
phức tạp hơn. Quá trình hội nhập kinh té quốc té cũng tạo động lực cho hoạt
động giải quyết tranh chấp của TTTM ở nước ta ngày càng phát triển. Đâycũng là xu thế tất yếu đối với các nước khi tham gia hội nhập. Yêu cầu đặt ra
đối với pháp luật trọng tài của các nước là pháp luật về TTTM phải ngày cànghoàn thiện hơn, thống nhất với Luật mẫu về TTTM Quốc tế của UNCITRAL.
Chính vì vậy, từ năm 1986 đến nay, Luật Trọng tài đã được ban hành ở nhiềunước, trong đó hầu hết các nước đều vận dụng các quy định của Luật mẫu
UNCITRAL. Điển hình như: ở Thái Lan có Luật Trọng tài năm 1987; ởMalaysia có Luật Trọng tài 1952 (được sửa đổi năm 1972 và 1980); ởSingapore có Luật Trọng tài 1970 (được sửa đổi năm 1980); ở Philippines có
Luật về Trọng tài năm 1953; ở Trung Quốc có Luật Trọng tài năm 1995; ởCộng hồ Liên bang Nga có Luật Trọng tài thương mại quốc tế năm 1993...
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">Hình thức TTVV đã được quy định từ rất sớm trong pháp luật trọng tàiở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam trước đây, hình thức TTVV chưađược ghi nhận trong các văn bản pháp luật về trọng tài. Nhưng cùng với quátrình hội nhập kinh tế quốc tế, hình thức trọng tài này đã được ghi nhận lầnđầu tiên trong PLTTTM năm 2003. Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 cónhiều quy định về TTVV hồn thiện hơn. Quy định này đã làm cho pháp luậttrọng tài Việt Nam khá tương đồng với pháp luật trọng tài của các nước trênthế giới. Đây là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vàoViệt Nam yên tâm hơn trong việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp.
Như vậy, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thì sự ra đời vàphát triển của pháp luật TTTM nói chung và TTVV nói riêng ở nước ta ngàycàng phù hợp hơn với pháp luật về trọng tài của các nước trên thế giới. Đây
cũng là một yêu cầu tất yếu khách quan khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chứcThương mại Thế giới WTO.
Thứ ba, nhận thức của các chủ thể kinh doanh về trọng tài vụ việcCác chủ thể kinh doanh chính là những người trực tiếp lựa chọn, sửdụng TTVV trong việc giải quyết các tranh chấp của mình. Nếu các chủ thé
kinh doanh không biết đến, không tin tưởng lựa chọn trọng tải thì hoạt động
trọng tài khơng thê phát triển được. Ở Việt Nam, nhất là những năm gần đây,TTTM đã có bước phát triển nhất định, nhưng so với các nước trên thé giới
thì TTTM Việt Nam vẫn chưa có một chỗ đứng xứng đáng, TTVV lại càng
chưa được chú ý tới. Điều này một phần là do các chủ thê kinh doanh chưa cónhận thức đúng dan về phương thức giải quyết tranh chấp này. Có doanhnghiệp chưa từng biết đến pháp luật về TTTM và cơ chế giải quyết tranh chấp
băng TTTM nói chung cũng như TTVV nói riêng. Có doanh nghiệp biết đến
TTVV nhưng cịn sơ sài. Đặc biệt, có doanh nghiệp biết rõ về TTTM nhưng
lại không tin tưởng vào phương thức giải quyết tranh chấp này. Ở nước ta, các
thương nhân cũng như các doanh nghiệp chưa chú ý đến hình thức TTVVtrong giải quyết tranh chấp. Chỉ khi doanh nghiệp nước ngồi lựa chọn hình
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">thức trọng tài này thì doanh nghiệp Việt Nam mới phải thực hiện theo dé giữ
mối quan hệ làm ăn lâu dài.
Dé TTTM, trong đó có TTVV, thực sự có chỗ đứng thích hợp cũng như
hoạt động được hiệu quả thì nhận thức của các chủ thể kinh doanh phải thực
sự thay đơi. LTTTM năm 2010 có một nhiệm vụ quan trọng là làm thay đôi
nhận thức của các thương nhân về TTTM. Chủ trương khuyến khích các bênsử dụng trọng tài, trong đó có TTVV, trong giải quyết các tranh chấp giữa cácbên trước hết xuất phát từ nhu cầu của các chủ thé kinh doanh, các thé nhânvà pháp nhân muốn giải quyết vụ việc của mình một cách thuận lợi, nhanhchóng và có hiệu quả. Các chủ thể kinh doanh sử dụng phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại bằng TTVV khơng chỉ mang lại lợi ích cho các
<small>thương nhân mà cịn mang lại lợi ích cho xã hội và giảm tải cho Tịa án.</small>
Một yếu tố nữa khơng kém phan quan trọng ảnh hưởng đến TTVV làchất lượng của đội ngũ trọng tài viên. Trọng tài vụ việc hoạt động có hiệu quảhay khơng, có hấp dẫn đối với các nhà kinh doanh hay không phụ thuộc rấtnhiều vào chất lượng đội ngũ trọng tài viên, vì trọng tài viên là người trực tiếp
tham gia giải quyết tranh chấp. Nếu trọng tài viên có năng lực, có uy tín, có
đạo đức nghề nghiệp sẽ mang lại hiệu quả cao khi giải quyết tranh chấp, từ đóthúc day sự phát triển của TTVV. Ở nước ta, năng lực của các trọng tài viênchưa cao, chưa đồng đều, chỉ có Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam là có
đội ngũ trọng tài viên đơng đảo, có chất lượng cao. Khi lựa chọn TTVV, các
bên có thê lựa chọn trọng tài viên trong hoặc ngoài danh sách trọng tài viên<small>của các trung tâm. Vì vậy, các trọng tài viên phải không ngừng nâng cao năng</small>lực, khả năng xét xử để thu hút các doanh nghiệp lựa chọn TTVV dé giải
quyết tranh chấp.
Tóm lại, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng, tác động tới sự phát trién của
TTVV và pháp luật về TTVV ở Việt Nam. TTVV và pháp luật về TTVVcũng là những yếu tố có sự tác động qua lại, hỗ trợ cho sự phát triển của nhau.
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><small>Chương 2</small>
THUC TRẠNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYÉT TRANH CHAP
THUONG MẠI BẰNG TRỌNG TAI VỤ VIỆC TẠI VIỆT NAM
2.1. Quy định về điều kiện giải quyết tranh chấp bằng TTVV
Trọng tài Việt Nam chỉ có thâm quyền giải quyết tranh chấp thươngmại khi các bên có thỏa thuận lựa chọn một cách hợp pháp trọng tài dé giảiquyết tranh chấp. Tuy nhiên, bản thân thỏa thuận trọng tài chưa đủ để trao choTrọng tài thẩm quyền xét xử. Dé Trọng tài có thâm quyền thì tranh chấp phải
thuộc thâm quyên của Trọng tài. Cũng giống như Trọng tài thường trực thìmột tranh chấp sẽ thuộc thâm quyên giải quyết của TTVV khi có hai điều
<small>kiện sau:</small>
Thứ nhất, tranh chấp phải thuộc thâm quyền giải quyết của Trọng tài.Thứ hai, giữa các bên có tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tải.2.1.1. Tranh chấp thuộc thẩm quyên giải quyết của Trọng tài
Theo quy định tại Điều 1, PLTTTM (2003) “Pháp lệnh này quy định về
tổ chức và tô tung trọng tai để giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh tronghoạt động thương mại theo sự thỏa thuận cua các bên ”. Như vậy, tranh chấpcó thé được giải quyết bằng phương thức trong tài là “anh chấp phát sinh<small>trong hoạt động thương mại `.</small>
Trong quá trình xây dựng LTTTM (2010) có nhiều ý kiến về những
tranh chap có thé giải quyết bằng phương thức trọng tài. Có ý kiến cho rang,
cần mở rộng phạm vi thấm quyền của TTTM theo hướng trọng tài Việt Nam
được giải quyết các tranh chấp liên quan đến lợi ích của các bên phát sinh từ
nghĩa vụ hợp đồng hoặc nghĩa vụ ngoài hợp đồng, không phân biệt tranh chấpthương mại với tranh chấp dân sự, trừ các tranh chấp liên quan đến nhân thân,quan hệ hơn nhân gia đình, thừa kế, phá sản, bất động sản. Tuy nhiên, theo
kết luận của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu tại Kỳ họp thứ 7, Quốchội khóa XII về những tranh chấp thuộc thâm quyền của Trọng tài, “da số ý
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">kiến, có thể nói là tuyệt doi, đồng tình với phạm vi diéu chỉnh tại Điều 2 củaLuật, trong đó quy định ba van dé: Một là tranh chấp trong hoạt động thươngmại, hai là tranh chấp mà ít nhất một bên có hoạt động thương mại và cácloại tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật có quy định được giải quyết
bằng phương thức trọng tài. Phạm vi như vậy phù hợp với tình hình kinh tế
<small>hiện nay cua chúng ta”.</small>
Theo Điều 2, LTTTM, trong tài có thâm quyên (nếu có thỏa thuận) đối
với “I. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. 2. Tranhchấp phát sinh giữa các bên, trong đó ít nhất một bên có hoạt động thươngmại. 3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyếtbằng trọng tài `.
Theo khoản 1, Điều 2, LTTM Trọng tài có thâm quyền giải quyết
“tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mai”. Với quy địnhnày, việc xác định thế nào là hoạt động thương mại rất cần thiết. Theo khoản1, Điều 3, PLTTTM thì “Hoat động thương mại là việc thực hiện một haynhiễu hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gom mua bánhàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại điện, đại lý thương mai; ky gửi,thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật, li-xăng; đâu tu; tàichính, ngán hàng, bảo hiểm; thăm dị, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hànhkhách bằng đường hàng khơng, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành<small>vi thương mại khác theo quy định cua pháp luật”. LTTTM không theo cach</small>tiếp cận này và không cho biết tranh chấp nào là phát sinh từ hoạt động
thương mại. Trong pháp luật hiện hành, hoạt động thương mại được đề cập
trong hai văn bản quan trọng là Luật Thương mại và Bộ luật Tó tụng Dân sự<small>[5, tr.40, 41].</small>
Theo khoản 1, Điều 3, Luật Thương mại (2005), “Hoat động thương
mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua ban hàng hóa, cungứng dịch vụ, đâu tư, xúc tiễn thương mại và các hoạt động nhằm mục đíchsinh lợi khác”. Trong Bộ luật Tó tụng Dân sự, những tranh chấp về kinh
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">doanh, thương mại thuộc thâm quyền giải quyết của Tòa án được quy định rất
rộng, bao gồm:
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữacá nhân, tổ chức có đăng kỷ kinh doanh với nhau và déu có mục dich lợinhuận, bao gom: Mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện,đại ly; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tu vấn, kỹ thuật; vậnchuyển hàng hóa, hành khách bằng đường đường sắt, đường bộ, đường thủynội dia; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đườngbiển; mua ban cô phiếu, trải phiếu và giấy tờ có giá khác; dau tư, tài chính,ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác.
2. Tranh chấp về qun sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ giữa cdnhân, tổ chức với nhau và đêu có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa cácthành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giảithể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy
Khi Luật Trọng tài Thương mại khơng có quy định cụ thể về hoạt động
thương mại, thì bat kỳ hoạt động nào được coi là hoạt động thương mai trongmột văn bản pháp luật khác ở Việt Nam đều thuộc khái niệm “hoạt động
thương mại” của LTTTM. Như vậy, các tranh chấp phát sinh từ hoạt động này
có thê được giải quyết bằng phương thức trọng tài.
Theo khoản 2, Điều 2, LTTTM, Trọng tài có thâm quyền giải quyết
“tranh chấp phát sinh giữa các bên trong do ít nhất một bên có hoạt động
thương mại ”. Ở đây, chỉ cần tranh chấp có một bên hoạt động thương mại thìtranh chấp có thể được giải quyết bằng phương thức trọng tài. Ví dụ, tranh
chấp về nhà ở, một bên có dau tư phát triển nhà thương mại thì đây là tranhchấp có ít nhất một bên có hoạt động thương mại và có thé được giải quyếtbăng phương thức trọng tài. Tương tự đối với tranh chấp phát sinh từ hợp
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">đồng mà theo đó một cá nhân nhận đặt mua sản pham của một công ty thương
mại. Trong trường hợp này, cá nhân mua sản phẩm dé phục vụ sinh hoạt cịn
cơng ty là chủ thé có hoạt động thương mại nên tranh chấp có thé được giảiquyết băng trọng tải.
Theo khoản 3, Điều 2, LTTTM, Trọng tài có thâm quyên giải quyết đốivới “tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyếtbằng trọng tài ”.
Hiện nay, có một số luật đã quy định những trường hợp tranh chấp tuy<small>không phát sinh từ hoạt động thương mại nhưng cho phép các bên lựa chọn</small>trọng tai. Vì vậy, việc quy định như tại khoản 3, Điều 2, LTTTM là ghi nhận
một thực tế đang tơn tại. Khơng có quy định này cũng khơng ảnh hưởng tớithâm quyền của Trọng tài. PLTTTM khơng có quy định như khoản 3, Điều 2,
LTTTM nhưng điều này không cản trở việc sử dụng các văn bản chuyênngành khác, trong đó có ghi nhận khả năng giải quyết tranh chấp băng Trọng<small>tai.</small>
Khi ap dung khoan 3, Điều 2, LTTTM chi can căn cứ vào các điều kiện
của quy định này để xác định Trọng tài có thể giải quyết tranh chấp hay
<small>không và không phải quan tâm tới các tiêu chí được quy định tại khoản 1, 2,</small>
Điều 2, LTTTM.
<small>Luật Doanh nghiệp năm 2005 có quy định cho phép Trọng tài giải</small>
quyết một số vẫn đề. Cụ thể, Điều 107 quy định, “7rong thoi hạn chín mươingày kể từ ngày nhận được biên bản họp Dai hội đông cổ đông hoặc biên bảnkết quả kiểm phiếu lấy ý kiến Đại hội dong cô đông, cổ đông, thành viên Hộiđồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Ban kiểm sốt có quyền ucau tịa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ
<small>dong trong các trường hop sau đáy: 1. Trình tự và thu tục triệu tập họp Đại</small>
hội dong cô đông không thực hiện đúng theo quy định của Luật này và Điềulệ cơng ty; 2. Trình tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định vi phạmpháp luật hoặc Điều lệ công ty”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Bộ luật Hàng hải cũng có quy định về khả năng giải quyết tranh chấp
băng phương thức trọng tài. Khoản 2, Điều 4, Bộ luật Hàng hải năm 2005 quyđịnh “Các bên tham gia trong hop dong liên quan đến hoạt động hàng hải màtrong đó có ít nhất một bên là tổ chức hoặc cá nhân nước ngồi thì có qunthỏa thuận áp dụng luật nước ngoài hoặc tập quán hàng hải quốc té trong cácquan hệ hợp đông và chọn Trọng tài, tòa án ở một trong hai nước hoặc ở mộtnước thứ ba để giải quyết tranh chấp ”. Tương tự, liên quan đến tai nạn đâmva, khoản 6, Điều 208 quy định “các bên liên quan đến tai nạn dam va đượcquyền tự do thỏa thuận dé xác định mức độ lỗi và trách nhiệm bồi thường tồnthất xảy ra đối với tai nạn đâm va đó; nếu khơng thỏa thuận được có quyềnkhởi kiện tại trong tài hoặc toa an có thẩm quyền 7,
Luật Đầu tư năm 2005 cũng có quy định cho phép giải quyết tranh chấpbăng trọng tài tại Điều 12. Cụ thể, tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tưtại Việt Nam được giải quyết thơng qua thương lượng, hịa giải, trọng tài hoặctòa án theo quy định của pháp luật (khoản 1). Tranh chấp giữa các nhà đầu tư
<small>trong nước với nhau hoặc với cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam liên quan</small>
đến hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thơng qua trọngtài hoặc tịa án Việt Nam (khoản 2). Tranh chấp mà một bên là nhà đầu tưnước ngồi hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc tranh chấp giữacác nhà đầu tư nước ngồi với nhau có thê được giải quyết thơng qua trọng tài<small>Việt Nam (khoản 3).</small>
<small>Trong các đạo luật khác như: Luật Hàng không Dân dụng Việt Nam</small>(Điều 32, Điều 173), Luật Các công cụ chuyển nhượng (Điều 79), LuậtChứng khốn (Điều 131), Luật Chun giao Cơng nghệ (Điều 55), Luật Xâydựng (Điều 110) đều có quy định cho phép giải quyết tranh chấp bằng phương
thức trọng tài. Luật Sở hữu trí tuệ (Điều 198) cũng có quy định tương tự như
<small>Luật Bảo vệ Mơi trường năm 2005 cũng có quy định cho phép giải</small>quyết vấn đề bồi thường thiệt hại tại Điều 133: Việc giải quyết bồi thường
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">thiệt hai về môi trường được quy định như sau: 1. Tự thỏa thuận của các bên;2. Yêu cau trọng tài giải quyết. 3. Khởi kiện tại tòa án. Ở đây, tranh chấpthường mang tính chất dân sự và thường là quan hệ ngoài hợp đồng nhưngđược giải quyết bằng phương thức trọng tài theo quy định của pháp luật.
Các hoạt động được điều chỉnh trong các luật này tuy không thuần túy<small>là hành vi thương mại như nêu trong Luật Thương mại, nhưng khi có tranh</small>chấp thì Luật quy định các bên được lựa chọn trọng tài để giải quyết.
<small>2.1.2. Có thỏa thuận trọng tài cịn giá trị pháp lý</small>
Thỏa thuận trọng tài là điểm mau chốt tiếp theo trong việc xác định
thâm quyền của Trọng tài; bởi vì, khơng có thỏa thuận trọng tài thì khơng thécó việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nếu khơng có thỏa thuận trọngtài thì Trọng tài khơng có thâm quyền cho dù tranh chấp có thể được giải
quyết bằng phương thức trọng tài. Điều này khăng định giá trị của thỏa thuậntrọng tài, ý nghĩa quyết định của sự tự nguyện biểu thị ý chi của các bên khiký kết hợp đồng. Thỏa thuận tự nguyện là nguyên tắc nền tảng trong việc xácđịnh thâm quyền của Trọng tài, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình giải quyết
tranh chấp, là cơ sở cho sự phát triển của trọng tài [4, tr.53-54].
Tuy nhiên, bản thân sự ton tại của thỏa thuận trọng tài là chưa đủ. Dé
Trọng tài có thâm qun giải quyết tranh chấp thì thỏa thuận này phải có giátrị pháp lý ở thời điểm phát sinh tranh chấp.
Luật Trọng tài Thương mại có định nghĩa về thỏa thuận trọng tài. Theokhoản 2, Điều 3, LTTTM quy định “Théa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa
các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đãphat sinh”. Thỏa thuận trọng tài có thé được xác lập trước khi phát sinh tranh
chấp. Day là trường hợp phổ biến nhất trong thực tế. Thỏa thuận trọng tai
cũng có thé chỉ được xác lập sau khi tranh chấp đã phát sinh.
Sau khi thỏa thuận trọng tài được xác lập, có thể có những thay đôi lớn
liên quan đến một bên. Trong trường hợp này, LTTTM quy định thỏa thuậntrọng tài tiếp tục có hiệu lực. Cụ thể: Khoản 3, Điều 5, LTTTM quy định
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">“Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài la tổ chức phải cham dứthoạt động, bi phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyểnđổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trong tài van có hiệu lực đối với tổ chứctiếp nhận quyên và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hop các bên có thỏa
thuận khác”. Theo khoản 2, Điều 5 “Trường hợp một bên tham gia thỏa
thuận trọng tài là ca nhân chết hoặc mắt nang lực hành vi, thỏa thuận trongtài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật<small>của người đó, trừ trường họp các bên có thỏa thuận khác ”. Các sự kiện pháp</small>lý khi xảy ra, không dẫn đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu mà vẫn có hiệu lựcđối với t6 chức, cá nhân kế thừa nghĩa vụ. Nội dung nay được quy định khátương đồng với luật trọng tài nhiều nước, Điều 5 Luật Trọng tài của
Singapore quy định thỏa thuận trọng tài sẽ không bị hủy khi một bên chết mà
sẽ tiếp tục có hiệu lực đối với người đại diện hợp pháp của bên đó, thầmquyền của trọng tài đã được các bên chỉ định sẽ không bị hủy bỏ bởi việc quađời của bat kỳ bên nào [2, tr.12].
Trong thực tế, đã xảy ra trường hợp sau khi xác lập thỏa thuận trọng
tài, một bên thay đôi tên, trụ sở nên bị khởi kiện cho rằng hợp đồng cũng nhưthỏa thuận trọng tài có trong hợp đồng đã ký khơng ràng buộc họ. Lập luậnnày khơng thể được chấp nhận vì những thay đổi về tên hay trụ sở của phápnhân không ảnh hưởng tới hợp đồng cũng như thỏa thuận trọng tài có trong
hợp đồng: chủ thể được thay đổi tên và địa chỉ vẫn chịu sự ràng buộc cũngnhư viện dẫn hợp đồng và thỏa thuận trọng tài có trong hợp đồng.
<small>e Hình thức của thỏa thuận trọng tài</small>
Luật Trọng tài Thương mại (2010) đã khắc phục được sự không rõ ràngvề các dạng tồn tại của thỏa thuận trọng tài quy định trong PLTTTM (2003).Điều 16 LTTTM quy định:
“1. Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoảntrọng tài trong hop đơng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>2. Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dang van ban. Các hìnhthức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:</small>
a) Thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram,<small>fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;</small>
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản<small>giữa các bên;</small>
c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc t6 chức có thẩmquyên ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cau của các bên;
d) Trong giao dich các bên có dan chiếu đến một văn bản có thể hiệnthỏa thuận trọng tài như hợp dong, chứng từ, diéu lệ công ty và những tài liệu
trọng tài hay các trọng tài viên dé dàng tiếp nhận các vụ tranh chấp mà khơng
phải dè dặt suy đốn với một vài khác biệt về hình thức của thỏa thuận trọngtài như quy định trong PLTTTM [5, tr 41]. Đồng thời, nó cũng tạo nên sựtương đồng của LTTTM Việt Nam với Luật mẫu UNCITRAL và Luật Trọng
tài của nhiều nước trên thế giới. Khoản 2, Điều 7, Luật mẫu UNCITRAL quy
<small>định “Thoa thuận trọng tài phải được lập thành văn ban. Thỏa thuận là văn</small>bản nếu nó nằm trong một văn ban được các bên ky kết hoặc bằng sự trao đổiqua thư từ, telex, điện tín hoặc các hình thức trao đổi về đơn kiện và về bản
biện hộ mà trong đó thể hiện sự tơn tại của thỏa thuận do một bên dua ra và
bên kia không phản đối. Việc dan chiếu trong hợp đồng tới một văn bản ghinhận điễu khoản trọng tài lập nên thỏa thuận trọng tài với diéu kiện hợp đồngnày phải là văn bản và sự dân chiếu đó là một bộ phận của hợp đồng này”.Điều 19 Luật Trọng tài của Thủy Điển, Điều 5 Luật Trọng tài của Anh, Điều
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">9 Luật Trọng tài của Malaysia, Điều 16 Luật Trọng tài của Trung Quốc ...
cũng đều quy định thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản.e_ Vé théa thuận trong tài vô hiệu
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu là trường hợp các bên thỏa thuận về việcgiải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nhưng thỏa thuận đó không được công
nhận hiệu lực. Điều 18 LTTTM đã quy định các hình thức thỏa thuận trọng tai
vơ hiệu gồm: “J. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩmquyên của Trọng tài quy định tại Diéu 2 của Luật này. 2. Người xác lập thỏathuận trọng tài khơng có thẩm qun theo quy định của pháp luật. 3. Người
<small>xác lập thỏa thuận trọng tài khơng có năng lực hành vì dân sự theo quy địnhcủa Bộ luật Dân sự. 4. Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với</small>
quy định tại Diéu 16 của Luật này. 5. Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa,cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bốthỏa thuận trọng tài đó là vơ hiệu. 6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm diéu cam<small>của pháp luật ”.</small>
<small>So với các trường hợp thỏa thuận trọng tài vơ hiệu quy định trong</small>
<small>PLTTTM thì LTTTM đã thu hẹp các trường hợp thỏa thuận trọng tài vơ hiệu</small>
liên quan đến lĩnh vực tranh chấp, vì lúc này phạm vi tranh chấp đã được Luật
mở rộng hơn trước. Đối với nội dung của thỏa thuận trọng tai, thì trừ trườnghợp vi phạm điều cấm, cịn lại Luật không buộc các bên phải quy định rõ đối
tượng tranh chấp hay phải chỉ rõ tổ chức trọng tài có thâm quyền giải quyếttranh chấp như trong PLTTTM. Quy định này có tác dụng ngăn chặn và giảm
<small>bớt tình trạng thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc không có cơ quan nào giải</small>quyết tranh chấp dù khơng được xác định cụ thê trong thỏa thuận trọng tài.
Điều 17 Luật Trọng tài của Trung Quốc cũng có những quy định tươngtự về các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu: 1. Thỏa thuận trọng tài vượtquá thâm quyền của trọng tài theo quy định của pháp luật; 2. Người ký thỏa
thuận trọng tài khơng có hoặc hạn chế về năng lực hành vi dân sự; 3. Một bênký kết thỏa thuận trọng tài bị ép buộc.
</div>