Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.76 KB, 13 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘIKHOA LUẬT</b>
<b> Nội, ngày 01 tháng 11 năm 2023</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Con người là một trong những loài động vật phát triển bậc nhất trong thế giới tự nhiên khơng như các lồi động vật cấp thấp sinh tồn phát triển mang nặng lối sống bản năng, hành vi được điều khiển bằng trí nhớ ngắn hạn thường sẽ đem đến các thành quả tức thời hoặc thành quả được hình thành theo thời gian ngắn, con người thì khác là một trong những chi phát triển nhất trong họ linh trưởng, con người có khả năng tư duy, học hỏi, và sáng tạo đặc biệt phát triển. Bộ điều khiển khơng có khả năng xử lý tạp chất thôngtin phức tạp và giải quyết vấn đề ở mức độ cao hơn so với các động vật khác. Sự phát triển ngôn ngữ và khả năng giao tiếp qua ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên các tổ hợp văn hóa và xã hội phức tạp, xây dựng hệ thống xã hội, giá trịvà quy tắc để tổ chức cuộc sống và tương tác với nhau. Đi cùng với đó là bản chất tự nhiên của con người chính là những hoạt động những hành vi đã ở trong gen của mỗi cá thể người từ thuở sơ khai và còn tồn tại đâu đó trong bộ gen của con người cho đến tận bây giờ đã và đang ít nhiều tác động lên những hành vi của mỗi chúng ta trong đó chứa đựng cả những hành vi xâm phạm đến lợi ích, quyền lợi của các cá nhân khác nói riêng và xã hội nói chung, các hành vi “tội phạm” xâm hại đến quyền được sống là một trong những hành vi tiêu biểu trong các hành vi phạm tội bởi vì quyền bảo vệ tính mạng là một trong những quyền cơ bản, quan trọng nhất của con người, đóng vai trị quan trọng trong việc đánh giá tình trạng nhân quyền của một quốc gia và mức độ tiến bộ xã hội. Khi xã hội đã phát triển đến một mức độ nhất định khái niệm về pháp luật cũng bắt đầu được khởi sinh để phục vụ cho việc bảo vệ quyền lợi cho một số hay toàn bộ cá nhân tồn tại trong xã hội lúc bấy giời khi đó để đánh giá độ hồn thiện của hệ thống pháp luật cần phải dựa vào tính khả thi khả năng thực tế cũng như sự phù hợp của pháp luật đối với cácquyền của cá nhân đồng thời là nghĩa vụ mà các ca nhân khác phải thực hiên đặc biệt là pháp luật hình sự. Trên toàn cầu, hầu hết các quốc gia xem xét các tội phạm liên quan đếnviệc vi phạm tính mạng của con người như các tội phạm có nguy cơ cao và áp đặt hình phạt nghiêm khắc. Đối với hệ thống pháp luật hình sự của Việt Nam, các tội xâm phạm tính mạng của con người ln được xem xét là những tội phạm có nguy hiểm cao đối với xã hội. Trong Bộ Luật Hình sự năm 2015, các tội phạm liên quan đến tính mạng của con người được quy định trong Chương XIV, ngay sau Chương XIII, nơi quy định về tội phạm liên quan đến an ninh quốc gia. Chương XIV này bao gồm các điều từ 123 đến điều133 BLHS và đã được sửa đổi và bổ sung một số điểm quan trọng so với Bộ Luật Hình sự năm 1999. Những sửa đổi và bổ sung này nhằm cụ thể hóa việc bảo đảm và thực thi quyền con người trong bối cảnh thực tế, dựa trên Hiến pháp năm 2015.. Có thể thấy các tội xâm phạm đến quyền được bảo vệ tính mạng là một trong những tội xâm hại nghiêm trọng đến mỗi cá nhân và cả xã hội chỉ sau các tội về an ninh quốc gia, bởi lẽ quyền được sống là các quyền cơ bản, là quyền khởi sinh là quyền tiên quyết để con người có cũng như thực hiện được các quyền khác. Các tội xâm phạm tính mạng của con người là vấn đề cực kỳ quan trọng trong lĩnh vực pháp luật và nhân quyền. Nghiên cứu về các tội phạm liên quan đến những quyền này đóng góp vào việc nâng cao nhận thức về nhân
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">quyền và phát triển hệ thống pháp luật công bằng. Các tội xâm phạm tính mạng có thể đa dạng và phức tạp, liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc sống xã hội. Để có thể hình thành cũng như hoàn thiện pháp luật liên quan đến quyền “cơ bản” trên đòi hỏi một thời gian dài trong sự phát triển của xã hội loài người. Mỗi cá nhân đều mang trong mình trác nhiệm hồn thiện hơn hệ thống pháp luật của nước nhà qua đó đóng góp cơng sức của mình vào sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước vì vậy đề tài em chọn để làm là “các tội xâm phạm đến quyền được bảo vệ tính mạng của con người”.
Mỗi người là một cá nhân riêng biệt tồn tại đọc lập trong thế giới, song song với đó là những cuộc sống khác nhau phát triển dựa vào điều kiện sống cũng như môi trường xung quanh họ từ đó hình thành, phát triển nên những cá nhân đặc biệt, ở những con người khác nhau đấy sẽ nảy sinh ra vô số các hành vi khác nhau, trong hằng hà sa số các hành vi xảy ra mỗi ngày ấy tiềm ẩn vô số các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội được các nhà làm luật gọi là “tội phạm”. Câu hỏi đặt ra cho các nhà làm luật lúc bấy giời chính là phân biệt, nhận biết các “tội phạm” trong rất nhiều hành vi đang tồn tại. Để giải bài toán trên các nhà làm luật dã đưa ra khái niệm “dấu hiệu pháp lý” có thể hiểu dấu hiệu pháp lýlà một bức tranh tổng quan phác họa chi tiết, rõ ràng về các tội phạm có thể nói cấu thành
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">tội phạm là kim chỉ nam cho những ai tìm hiểu về tội phạm. Có thể hiểu cấu thành tội phạm (crime elements) là những yếu tố hoặc điều kiện cần thiết mà hành vi phạm tội phảicó để bị xem xét là một tội phạm trong hệ thống pháp luật. Cấu thành tội phạm giúp xác định và mô tả chi tiết hành vi nào là vi phạm luật và cái gì khơng phải. Để xác định một tội phạm, cần phải có sự cân nhắc đầy đủ về các yếu tố quan trọng, và phần lớn quốc gia có hệ thống pháp luật riêng của họ để quy định cấu thành tội phạm.
Vậy cấu thành tội phạm – bức tranh tổng quan của các tội xâm phạm đến tính mạng của con người gồm nhữung gì?.
Khái niệm "khách thể" (object) trong cấu thành tội phạm đề cập đến sự tác động hoặc vật thể, đối tượng mà hành vi phạm tội được thực hiện đối với hoặc ảnh hưởng đến. "Khách thể" là phần mà tội phạm áp đặt hành vi hoặc sự kiện của người thực hiện tội phạm lên. Trong cấu thành tội phạm của tội phạm xâm phạm đến tính mạng của người khác đó là quyền đuọc tơn trọng vào bảo vệ tính mạng của con người. Con người sống trong xã hội có quyền tự nhiên là quyền được sống đòi hỏi các chủ thể phải tôn trọng. Đốitượgn của tội giết người là thân thể của con người đang sống mà hành vi phạm tội tác động vào để xâm phạm đến quyền sống của họ. Thời điểm được coi là sống của một người tính từ khi được sinh ra, độc lập với cơ thể mẹ và chấm dứt khi có cái chết về mặt sinh học( lưu ý chết khi bị quyên bố chết theo quy định của luật dân sự khơng có nghĩa là họ chết sinh học dấu hiệu của tội giết người).
Như vậy thai nhi còn trong cơ thể người mẹ và tử thi đã chết không phảu là đối tượgn của tội giết người cũng như các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe , danh dự, nhân phẩm nói chung. Tác động vào đối tượng thai nhi như phá thai, hay tử thi như đâm chém tử thi không phải là giết người trừ trường hợp người phạm tội sai lầm về đối tượng thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự (tưởng nạn nhân chưa chết nên bắn nhưng thực ra người đó đã chết). Khách thể của các tội xâm phạm tính mạng con người đóng vai trị quan trọng trong việc xác định và truy cứu tội phạm. Hệ thống pháp luật sử dụng các chứng cứ và chứng minh để đảm bảo rằng tội phạm đã xảy ra và để áp đặt hình phạt thíchhợp cho người phạm tội.
Mặt khách quan trong cấu thành tội phạm là một khái niệm trong lĩnh vực pháp luật về tội phạm để mô tả tình huống tại thời điểm phạm tội cùng với hành vi, công cụ phương tiện, hậu quả của kẻ phạm tội . Mặt khách quan này liên quan đến những yếu tố bên ngoài mà kẻ phạm tội, trong mặt khách quan bao gồm cả tính nhân quả của hành vi và hậu quả trong tội phạm.
Mặt khách quan của các tội phạm xâm phạm tính mạng của con người: hành vi khách quan của các tội xâm phạm tính mạng của người khác. Hậu quả của các tội xâm phạm
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">tính mạng của con người đều là thiệt hại về thể chất – hậu quả chết người. Tuy nhiên dấu hiệu chết người chỉ là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội: giết người, giết con mới đẻ, giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, giết người do vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng, làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính và khơng cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Trong các tội khác, hậu quả chết người không phải là dấu hiệu bắt buộc.
Chủ thể của các tội xâm phạm tính mạng của con người có thể là chủ thể bình thường – bất kì người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định khi thực hiện tội phạm. Chủ thể này có thể là bất kỳ người nào từ 14 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự, chủ thể của tội giết người là chủ thể thường, nghĩa là những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định nếu có khả năng trở thành chủ thể của tội giết người. Theo quy định của Bộ luật hình sự, thì người từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Từ 16 tuổi trở lên: Chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Nhưng cũng có thể là chủ thể đặc biệt. Ví dụ: chủ thể của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ phải là người đang thi hành công vụ; chủ thể của tội bức tử phải là người mà nạn nhân lệ thuộc hay ở tội giết con mới đẻ: chủ thể của hành vi giết người phải là người mẹ đang còn trong trạng thái mới sinh con nghĩa là cịn đang trong trạng thái tâm, sinh lý khơng bình thường do tác động của việc sinh con. Xác định trạng thái này ở từng trường hợp cụ thể khơng đơn giản. Do vậy, các hướng dẫn, giải thích của cơ quan có trách nhiệm về điểm này đều quy định khoảng thời gian mà người mẹ được coi còn trong trạng thái mới sinh con. Theo hướng dẫn của Tịa án nhân dân tối cao thì khoảng thời gian mà người mẹ được coi là còn trong trạng thái mới sinh con là khoảng thời gian từ khi sinh con đến ngày thứ bảy. Nạn nhân của hành vi giết người phải là con mới sinh (trong vòng 7 ngày tuổi) của người phạm tội. Việc giết con là do hoàn cảnh bất đắc dĩ (do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc do hoàn cảnh khách quan đặc biệt khác).
Mặt chủ quan trong cáu thành tội phạm là một khái niệm thường được sử dụng trong lĩnh vực pháp luật để đánh giá tâm lý và tình cảm của kẻ phạm tội tại thời điểm họ thực hiện hành vi phạm pháp. Mặt chủ quan này liên quan đến trạng thái tâm trạng, thái độ, hoặc ý muốn của kẻ phạm tội tại thời điểm họ thực hiện hành vi phạm pháp đặc biệt yếu tố lỗi ở mặt chủ quan là một trong yếu tố quan trọng trong việc định tội.
Mặt chủ quan của các tội xâm phạm tính mạng con người: Lỗi của người phạm các tội xâm phạm tính mạng của con người hầu hết là lỗi cố ý. Trừ hai tội – tộ vô ý làm chết người và tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, lỗi của người hạm tội là lỗi cố ý. Động cơ và mục đích phạm tội của đa số các tội
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">xâm phạm tính mạng của con người đều không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng ngồi yếu tố chính là lỗi ở mặt chủ quan trong cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm tính mạng cịn chứa mục đính hành vi của người phạm tội. Đây là một phần quan trọng trong hệ thống pháp luật. Mục đích trong mặt chủ quan là ý định của người phạm tội. Để coi một hành vi là tội phạm xâm phạm tính mạng, cần phải chứng minh rằng người phạm tội có ý định giết người hoặc gây thương tích. Ý định này phải được chứng minh một cách rõràng để xác định mức độ tội phạm. việc áp dụng mặt chủ quan trong cáu thành tội phạm đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng và các bằng chứng rõ ràng để chứng minh tình trạng tâm trạng của kẻ phạm tội tại thời điểm tội phạm. Điều này có thể được đánh giá thông qua chứng cứ từ các bên liên quan, và thẩm quyền pháp luật.
1
1.1, Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi giết người là một hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm trực tiếp đến tính mạng người khác bị xã hội kịch liệt lên án.
2.1, Các yếu tố cấu thành tội giết người:
Khái niệm về đối tượng của tội giết người liên quan chặt chẽ đến quyền được tơn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Con người sống trong xã hội được công nhận quyền tự nhiên là quyền sống và yêu cầu các chủ thể khác phải tôn trọng và bảo vệ quyềnnày. Đối tượng của tội giết người là thân thể con người, mà hành vi phạm tội tác động vàođể xâm phạm quyền sống của họ. Thời điểm mà một người được coi là sống bắt đầu từ khi họ ra đời, độc lập với cơ thể mẹ, và kết thúc khi họ trải qua cái chết về mặt sinh học (lưu ý rằng cái chết dưới quy định của luật dân sự không đồng nghĩa với cái chết về mặt sinh học trong ngữ cảnh của tội giết người).
Mặt khách quan của tội giết người có những đặc điểm sau đây:
+) Hành vi làm chết người: Điều này thể hiện qua việc sử dụng mọi phương tiện và biện pháp để làm cho người khác mất tính mạng. Tuy nhiên, cần phân biệt rằng:
- Nếu người phạm tội tự làm chết bản thân mình, thì đây khơng được xem là tội giết người, mà thường được coi là tự tử hoặc tự sát.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">- Nếu việc làm chết người xảy ra trong bối cảnh tự vệ, thì hành vi đó thường được xem là vượt quá giới hạn của tự vệ và có thể cấu thành tội giết người.
+) Hành vi làm chết người có thể thực hiện qua các hình thức sau:
- Hành động: Điều này thể hiện khi người phạm tội tự ý thực hiện các hành động mà pháp luật không cho phép, như dùng dao để đâm, sử dụng súng để bắn, sử dụng gậy hoặc vật thể khác để tấn cơng cơ thể của nạn nhân nhằm tước đi tính mạng của họ.
- Không hành động: Điều này xảy ra khi người phạm tội không thực hiện nghĩa vụ cần thiết để đảm bảo tính mạng của người khác, dẫn đến cái chết của họ. Thường, tội giết người này xảy ra trong các trường hợp khi người phạm tội lợi dụng vị trí hoặc nghề nghiệp của họ.
+) Sử dụng hoặc khơng sử dụng vũ khí, hung khí: Hành vi làm chết người có thể liên quan đến việc sử dụng hoặc không sử dụng vũ khí hoặc hung khí, bao gồm:
- Khơng sử dụng vũ khí hoặc hung khí: Trong trường hợp này, người phạm tội thường sử dụng sức mạnh cơ thể của họ, ví dụ như dùng tay để tấn cơng nạn nhân, bóp cổ, đánh đập, hoặc đẩy nạn nhân vào tình huống nguy hiểm như đâm vào nước hoặc giao thơng đơng đúc.
- Có sử dụng vũ khí, hung khí hoặc các tác nhân gây cái chết khác: Trong trường hợp này, người phạm tội thường sử dụng các cơng cụ gây thương tích như súng, lựu đạn, bom,dao, gậy gộc, hoặc các chất gây chết người như thuốc độc hoặc điện.
+) Hành vi làm chết người có thể thể hiện dưới hình thức sử dụng vũ lực hoặc không sử dụng vũ lực, bao gồm:
- Sử dụng vũ lực: Điều này thường xảy ra khi người phạm tội sử dụng sức mạnh vật lý (có hoặc khơng có vũ khí hoặc công cụ tấn công) để tác động vào cơ thể của nạn nhân. Việc sử dụng vũ lực có thể bao gồm việc dùng tay, chân, hoặc các công cụ phạm tội khác nhau.
- Không sử dụng vũ lực: Điều này xảy ra khi người phạm tội sử dụng các phương pháp khác mà không cần sử dụng sức mạnh vật lý để gây hại cho nạn nhân, chẳng hạn như sử dụng chất độc để làm hại, hoặc sắp đặt các tình huống mạo hiểm đưa nạn nhân vào nguy cơ đối với tính mạng của họ.
+) Về hậu quả: Các hành vi nêu trên thường gây ra hậu quả trực tiếp là cái chết của nạn nhân (tức là dẫn đến cái chết của họ). Tuy nhiên, chỉ cần hành vi thực hiện với mục đích làm chấm dứt sự sống của người khác (hoặc làm cho người khác chết), thì nó được xem là cấu thành tội giết người, dù hậu quả chết người có xảy ra hay khơng
Tuy nhiên, có một số tình huống khi việc sử dụng vũ lực khơng gây ra cái chết mà chỉ đưa nạn nhân vào tình huống nguy hiểm đối với tính mạng và có thể dẫn đến cái chết
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">(như việc đẩy nạn nhân xuống sông và bỏ lỡ cơ hội cứu giúp, hoặc đẩy nạn nhân vào đường đông đúc giao thơng), thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người nếu có bằng chứng chứng minh rằng người phạm tội có mục đích làm chết người. Đây có thể được xem là hậu quả gián tiếp.Thơng thường, trong trường hợp tội giết người cố ý gián tiếp, việc xử lý hậu quả phụ thuộc vào mức độ hại cho tính mạng của nạn nhân (nếu có hậu quả chết người thì xử lý tội giết người, nếu khơng có hậu quả chết người thì xem xét tội cố ý gây thương tích)..
+,)**Giết người với lỗi cố ý gián tiếp:** Trong trường hợp này, người phạm tội hiểu rõ rằng hành vi của họ có nguy cơ gây hậu quả chết người, nhưng họ không mong muốn hậuquả đó xảy ra. Tuy nhiên, họ bỏ mặc cho hậu quả xảy ra và không thực hiện bất kỳ biện pháp nào để ngăn chặn.
Mặc dù việc chết người không phải lúc nào cũng là dấu hiệu cấu thành bắt buộc, trong một số tình huống nó vẫn có thể được xem xét như một dấu hiệu cấu thành để phân biệt với các trường hợp sau:
+) **Gây thương tích dẫn đến chết người:** Trong trường hợp này, người phạm tội khơng có mục đích giết người, mà họ gây thương tích và hậu quả chết người là kết quả khơng dự tính của hành vi gây thương tích.
+) **Nạn nhân bị tấn công bằng các chất độc hoặc hung khí nguy hiểm:** Trong trường hợp này, nạn nhân bị tấn công bằng các chất độc mạnh như axit hoặc hung khí nguy hiểmnhư dao nhọn, lưỡi lê vào các vị trí nhạy cảm trên cơ thể, nhưng chỉ bị thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe (khơng gây cái chết). Để xác định tính cố ý của hành vi, cần xem xét mục đích của tấn cơng, nếu mục đích là giết người thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm về tội giết người, ngược lại, nếu khơng có mục đích giết người, họ có thểbị kết án tội cố ý gây thương tích nếu có hậu quả.
+) **Nạn nhân bị vướng bẫy điện dẫn đến tử vong:** Trong trường hợp này, việc sử dụng bẫy điện có thể xảy ra với mục đích chống trộm (khi người bị tác động là con người) hoặc diệt chuột (khơng có biển báo nguy hiểm). Việc xem xét tính cố ý dựa vào mục đích của việc sử dụng bẫy điện và hậu quả. Nếu mục đích là giết người, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người với lỗi cố ý trực tiếp. Nếu nạn nhân không chết mà chỉ bị thương tích, thì xử lý tội cố ý gây thương tích. Nếu nạn nhân khơng bị thương tích hoặc khơng gặp thiệt hại gì, thì khơng phạm tội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Lưu ý: Lỗi cố ý là trạng thái tâm lý thể hiện cách người phạm tội đánh giá về hànhvi và hậu quả của họ trong tâm trí họ. Việc xác định lỗi cố ý trong tội giết người cần dựa vào sự tổng hợp của các yếu tố, đặc biệt là những dấu hiệu khách quan như sự mãnh liệt của hành vi tấn cơng, sự sử dụng hung khí hoặc cơng cụ phạm tội, vị trí tấn cơng và mục đích của hành vi.
Chủ thể của tội giết người bao gồm tất cả cá nhân từ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Chủ thể của tội giết người thường là những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi theo quy định, có khả năng trở thành người chịu trách nhiệm cho tội giết người. Theo Bộ luật hình sự, người từ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệmhình sự đối với các tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Từ 16 tuổi trở lên, họ chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi tội phạm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">20 giờ ngày 20-6-2007, Hoàng Ngọc Mạnh đi cùng Nam (là bạn Mạnh; không xác định được địa chỉ) lên Hà Nội gặp Đồng Xuân Phương thống nhất là sẽ đánh anh Soi vào ngày21-6-2007; sau đó Phương đưa thêm 500.000 đồng để Mạnh thuê chỗ ngủ. Đến Khoảng 9giờ ngày 21-6-2007, Phương dẫn Mạnh và Nam đến đoạn đường anh Soi sẽ qua để đi họpvào đầu giờ buổi chiều hơm đó; rồi quay về Cơng ty. Khoảng 11 giờ, Hoàng Ngọc Mạnh đến quán nước tại ngã ba quốc lộ 5 - 1B (quán của chị Phạm Thị Miến) thuê điện thoại di động của chị Miến gọi điện thoại cho Đồng Xuân Phương yêu cầu mô tả đặc Điểm nhận dạng và thông báo số điện thoại di động của anh Soi; Phương đã thực hiện theo yêu cầu của Mạnh.
Đến Khoảng hơn 13 giờ chiều, Mạnh lại thuê điện thoại di động của chị Miến gọi cho Phương thông báo là đã nhận dạng được anh Soi và Mạnh sẽ thực hiện một mình vì hiện Nam đã bỏ đi đâu khơng thơng báo lại, Đồng Xuân Phương đồng ý.Khoảng 14 giờ 16 phút cùng ngày, Mạnh đã thuê máy điện thoại di động của chị Miến gọi điện thoại hẹn gặp anh Soi tại khu vực đúc dầm bê tông. Khi anh Soi đến, Mạnh đã dùng dao nhọn chuẩn bị từ trước đâm 02 nhát vào mặt sau đùi phải, làm anh Soi chết.
Tại Bản giám định pháp y số 146/PC21-PY ngày 17-7-2007, Phịng Kỹ thuật hình sự - Cơng an thành phố Hà Nội kết luận: nạn nhân bị 02 vết thương tại mặt sau đùi phải, vết phía trên xuyên vào cơ đùi 3cm. Vết phía dưới cắt đứt động mạch, tĩnh mạch đùi sau gây chảy mất nhiều máu. Nguyên nhân chết: sốc mất máu cấp không hồi phục do vết thương động mạch.
Ngồi ra, trong q trình Điều tra Đồng Xn Phương cịn khai: ngồi lý do mâu thuẫn giữa bị cáo và anh Soi, việc thuê đâm anh Soi cịn có ngun nhân do bị anh Ngơ Văn Toản (là Phó Ban Điều hành dự án cầu Thanh Trì) kích động, vì trước đó anh Toản cũng có mâu thuẫn với anh Soi. Cơ quan Điều tra đã lấy lời khai của anh Toản, nhưng anh Toản không thừa nhận việc này. Kết quả Điều tra không có cơ sở kết luận anh Toản có liên quan đến vụ án.
Đoàn Đức Lân và Hoàng Ngọc Mạnh bỏ trốn, Cơ quan Điều tra đã có quyết định truy nã và quyết định tạm đình chỉ Điều tra bị can đối với Đoàn Đức Lân và Hoàng Ngọc Mạnh, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
Trong quá trình Điều tra, cán bộ và Công ty cổ phần xây dựng 204 đã tự nguyện quyên góp, trợ cấp cho gia đình người bị hại tổng cộng 123.000.000 đồng, trong đó có chi phí mai táng 63.000.000 đồng và 03 sổ Tiết kiệm cho gia đình anh Soi, với tổng số tiền gửi là60.000.000 đồng.