Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

phân tích các giá trị của văn hóa chính trị việt nam truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 14 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

HỌC VIỆN CÁN BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

<b>KHOA LÝ LUẬN CƠ SỞ</b>

<b>***</b>

<b>NỘI DUNG THUYẾT TRÌNH</b>

<b>Đề tài : PHÂN TÍCH CÁC GIÁ TRỊ CỦA VĂN HĨA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM</b>

<b>TRUYỀN THỐNG</b>

<b> Nhóm 2 Lớp: K05 - CTH</b>

<b> Giảng viên: Th.s Nguyễn Thị Thanh Huyền</b>

TP. HCM, tháng 12/2022

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 2ST</b>

<b>1</b> Phạm Thị Ngọc Anh <sup>20201001</sup>

8 <sup>Thân dân, đề cao dân và các giá trị dân sinh</sup>

<b>2</b> Trịnh Quỳnh Dao <sup>20201000</sup>1

Những hạn chế của nền văn hóa chính trị Việt Namtruyền thống

<b>3</b> Kiều Minh Châu <sup>20201002</sup>4

Tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc và chủ quyềnquốc gia

<b>4</b> <sup>Nguyễn Võ Thùy</sup>

Cơ sở hình thành văn hóa chính trị Việt Namtruyền thống

<b>5</b> Tạ Thị Thùy Trang <sup>20201271</sup>2

Nền văn hóa chính trị đề cao và tơn trọng hiền tàitrong việc trị nước

<b>6</b> Nguyễn Trung Kiên <sup>20201269</sup>5

Vừa đề cao đức trị vừa đề cao pháp trị, hình thànhtư tưởng về một nền chính trị pháp quyền

<b>7</b> Phan Thái Ngân <sup>20201000</sup>7

Vừa đề cao đức trị vừa đề cao pháp trị, hình thànhtư tưởng về một nền chính trị pháp quyền;

<b>8</b> Võ Kim Ngọc <sup>20201270</sup>7

Kế thừa và phát huy văn hóa chính trị Việt Namtruyền thống

<b>9</b> Huỳnh Thanh Tân <sup>20201001</sup>0

Kế thừa và phát huy văn hóa chính trị Việt Namtruyền thống

<b>10</b> <sup>Nguyễn Hồng Thảo</sup>

9 <sup>Thân dân, đề cao dân và các giá trị dân sinh</sup>

<b>11</b> Võ Thị Kim Xn <sup>20201269</sup>4

Nền văn hóa chính trị truyền thống giàu tinh thầnkhoan dung; Tổng hợp nội dung của nhóm

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>PHÂN TÍCH CÁC GIÁ TRỊ CỦA VĂN HĨA CHÍNH TRỊ VIỆT NAMTRUYỀN THỐNG</b>

1. Cơ sở hình thành văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống2. Một số giá trị văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống

2.1.Tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia2.2.Thân dân, đề cao dân và các giá trị dân sinh

2.3.Nền văn hóa chính trị truyền thống giàu tinh thần khoan dung2.4.Nền văn hóa chính trị đề cao và tôn trọng hiền tài trong việc trị nước2.5.Vừa đề cao đức trị vừa đề cao pháp trị; hình thành tư tưởng về một nền

chính trị pháp quyền

3. Những hạn chế của nền văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống4. Kế thừa và phát huy văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>Bài làm</b>

<b>1. Cơ sở hình thành văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống</b>

Việt Nam là một nước văn hiến. Văn hóa chính trị Việt Nam là tồn bộ những thái độ,lịng tin, chủ nghĩa u nước, tình cảm của con người Việt Nam với tư tưởng cốt lõi là“Khơng có gì q hơn độc lập tự do”. Nó là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo,đấu tranh ngoan cường dựng nước và giữ nước của dân tộc, là kết quả của giao lưu vàtiếp thu của nhiều nền văn minh thế giới.

Văn hóa chính trị Việt Nam hình thành từ khi nhà nước sơ khai đầu tiên – nhà nướcVăn Lang, dưới thời đại các vua Hùng ra đời. Tư tưởng giữ vững, bảo vệ nền độc lập dântộc gắn liền với giữ nước, là vấn đề chính trị lớn nhất, thường xuyên đặt ra trước tất cảcác nhà nước Việt Nam trong lịch sử.

Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống được hình thành trên những điều kiện nhấtđịnh về tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội.

Điều kiện tự nhiên

Vị trí địa lý: Việt Nam nằm ở phía đơng của bán đảo Đơng Dương, “cửa ngõ” của khuvực Đơng Nam Á, vì vậy sớm trở thành nút giao lưu, hội tụ của nhiều nền văn minh thếgiới, góp phần hình thành và làm phong phú văn hóa chính trị của nước ta. Nằm trong đớikhí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, nắng lắm mưa nhiều, đã hình thành ở nước ta những consơng lớn, phù sa màu mỡ. Ở ven con sông này, người Việt cổ đã sớm định cư và pháttriển nền văn minh nông nghiệp lúa nước, được đặc trưng bởi ý thức và lối sống đề caocộng đồng. Để thích ứng với cuộc sống đó, một loại cơng xã nơng thơn (làng) xuất hiệnvà tồn tại với nét văn hóa đặc sắc và đó cũng là những nét đặc sắc góp phần vào việc hìnhthành vwan hóa chính trị đặc sắc Việt Nam sau này.

Điều kiện kinh tế: Người Việt Nam đã phát triển nền kinh tế chủ đạo là nơng nghiệptrồng lúa nước, trong đó, đắp đê trị thủy là một trong những vấn đề hàng đầu mà quy mơto lớn của cơng việc này ln địi hỏi phải có sự trợ giúp dưới hình thức nhà nước và lao

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

động tập thể. Chính điều kiện kinh tế này đã ảnh hưởng đến sự hình thành các truyềnthống dân tộc như đoàn kết, tương trợ nhau và nguyên tắc cá nhân tồn tại phụ thuộc vàocộng đồng,

Điều kiện chính trị: Nhà nước của người Việt cổ ra đời sớm, vào khoảng thế kỷ thứVII– VI TCN. Nhà nước sơ khai đầu tiên – Nhà nước Văn Lang dưới thời đại vua Hùngđã ra đời, chủ yếu do nhu cầu tập hợp lực lượng, chỉ huy dân tộc xây dựng và quản lý cáccơng trình đê điều, thủy lợi và yêu cầu tự vệ chống ngoại xâm. Chính điều này đã quyđịnh việc sử dụng quyền lực nhà nước ở thời kỳ dựng nước chưa phải để thống trị giaicấp, mà chủ yếu là để cố kết dân tộc, tập hợp lực lượng, chỉ huy dân tộc đánh giặc ngoạixâm và chống thiên tai xây dựng và bảo vệ đất nước. Đây là những nét độc đáo mangđậm tính nhân văn sâu sắc của lịch sử chính trị Việt Nam.

Lịch sử đấu tranh chống xâm lược của Việt Nam là liên tục và lâu dài với nhiều kẻ thùlớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Đặc điểm đó hình thành nên một nền văn hóa chính trị nổibật lên những giá trị đặc sắc như tinh thần u nước, truyền thống đồn kết dân tộc, ý chíquật cường bất khuất, niềm tự tôn dân tộc …

Điều kiện văn hóa – xã hội

Sự thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa dân tộc là đặc điểm nổi bật. Thời cổ đại,trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay hình thành ba trung tâm văn hóa với sự ra đời của ba nhànước sơ khai: văn hóa Đơng Sơn với nước Văn Lang – Âu Lạc ở miền Bắc, văn hóa SaHuỳnh với vương quốc Champa cổ ở miền Trung, văn hóa Ĩc Eo với vương quốc PhùNam ở khu vực Nam Bộ. Trài qua nhiều biến thiên lịch sử, ba dịng văn hóa và lịch sử đóhịa nhập vào dịng chảy chung, lấy dịng chảy văn hóa Đồng Sơn làm dịng chủ lưu.

Do điều kiện địa hình phức tạp, sự phân hóa tộc người ở Việt Nam nói riêng và ĐơngNam Á nói chung diễn ra rất mạnh và rất nhanh, tạo nên tính đa tộc người. Mỗi dân tộccó văn hóa riêng, tạo nên những vùng địa – tộc người phong phú, đa dạng. Đây là cơ sởcăn bản cho một nền văn hóa chính trị đa tâm lý, đa tính cách, nhiều ước mơ, khát vọng,nhiều xu hướng tư tưởng. Tuy nhiên nhờ tuyệt đại bộ phận có cùng nguồn gốc và trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

đó có một tộc người có dân số vượt trội là người Việt nên văn hóa và hệ giá trị dân tộc cótính thống nhất cao.

<b>2. Một số giá trị văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống2.1.Tinh thần u nước, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia</b>

Văn hóa chính trị Việt Nam được hình thành từ rất sớm, gắn liền với sự hình thành vàphát triển ý thức dân tộc, ý thức quốc gia và với việc hình thành nền văn hóa Việt Nam.Tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân và dân tộcViệt Nam Giáo sư Trần Văn Giàu đã khẳng định: “Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏxuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Namđược biểu lộ rõ ràng đầy đủ, tập trung nhất, hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước thànhmột triết lý nhân sinh của người Việt Nam, và, nếu dùng từ đạo với nguyên nghĩa của nólà “đường”, là hướng đi, thì chủ nghĩa u nước đích thật là đạo Việt Nam”.

Văn hóa chính trị Việt Nam có từ rất sớm và trước hết là văn hóa u nước, là văn hóavì Tổ quốc. u nước là giá trị cơ bản, là cơ sở để tích hợp, tiếp biến tất cả những giá trịtừ bên ngoài vào. Nó được thể hiện thành ý thức bảo tồn, củng cố bản sắc dân tộc, chốnglại sự đồng hóa của những nước đến xâm lăng. Là một quốc gia đất khơng rộng, ngườikhơng đơng, có vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam đã phải chịu sức ép và ý đồ thơn tính củacác thế lực ngoại bang.

Trong hồn cảnh đó, chủ nghĩa yêu nước đã tạo nên sức mạnh đồn kết dân tộc, kiêntrì chiến đấu, lấy yếu tháng mạnh, lấy ít địch nhiều, lấy nhân nghĩa để thắng bạo tàn. “Tưtưởng yêu nước Việt Nam là hiểu sinh mà không hiếu sát, luôn luôn làm chiến tranh mộtcách kiên quyết mà cũng ln ln nhằm mục đích xây dựng hồ bình lâu dài để cho dânchúng an cư lạc nghiệp”. Bởi vậy, trong cả ngàn năm bị đô hộ, nước ta luôn xuất hiệnnhững cuộc khởi nghĩa thể hiện ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc ta. Cũng từ đó,q trình hình thành và phát triển văn hóa chính trị Việt Nam đã tỏ rõ khí phách giành vàgiữ độc lập dân tộc, xây dựng một quốc gia phong kiến tự cường. Ý thức về quốc gia -dân tộc trở thành một nguyên tắc sống của mọi người con đất Việt. Chính quyền phong

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

kiến đã có thể đứng vững, lịng dân cũng hướng về nhà nước như hướng về nền tảngchính trị của một quốc gia. Dân với nước, nước với dân đã gắn kết với nhau trong tìnhcảm dân tộc, tình yêu quê hương, đất nước. Tư tưởng yêu nước Việt Nam không tách rờinước với dân mà dân là dân nước, nước là nước dân, thời loạn lạc thì giành độc lập, bảovệ sức dân, thời bình thì kế giữ nước hay nhất là nuôi dưỡng sức dân, làm cho thơn cùngxóm vắng khơng cịn tiếng ốn hờn.

Như vậy, chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam,là chuẩn mực cao nhất đứng đầu trong hệ giá trị văn hóa Việt Nam

<b>2.2.Thân dân, đề cao dân và các giá trị dân sinh</b>

Thân dân xuất phát từ vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Tư tưởng thân dân, khoan dân, yêu dân, dựa vào dân được xem là điều kiệnsống còn của Nhà nước. Thực tiễn chứng minh, những cuộc chiến tranh giành độc lập haybảo vệ đất nước chỉ khi nào huy động được sức mạnh của cả dân tộc mới làm nên chiến thắng.

Quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, là lực lượng lao động sảnxuất, tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Trong các công cuộc giữ nước,chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, nhờ vào sức mạnh đơng đảo và tinh thần unước, ý chí quyết tân giữ nước, quần chúng nhân dân đã tạo nên sức mạnh to lớn, đánhbại được mọi kẻ thù. Ví dụ như trong cuộc cách mạng tư sản Anh, quần chúng nhân dancó vai trị quan trọng trong sự phát triển cách mạng, là lực lượng chủ yếu đấu tranh đưacách mạng lên đỉnh cao như phá ngục Baxti, tranh giành quyền lợi ruộng đất, lật đỗ nềncộng hòa phái Gi-rông-đanh dẫn đến cách mạng chấm dứt.

Trong mỗi triều đại phong kiến Việt Nam đều có quan điểm về dân và mối quan hệvới dân đúng đắn, tích cực được nhân dân ủng hộ tập trung được sức mạnh của dân, đánhthắng được giặc ngoại xâm, bảo vệ được đất nước. Ví dụ như thời nhà Lê, tư tưởng khoandân, lo cho nhân, dựa vào dân được phát triển cao, thân dân là mục đích tối cao trong việcdựng nước và giữ nước. Trong khi các triều đại lấy dân làm gốc thì dưới thời nhà Hồ,

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

những cải cách của Hồ Quý Ly mặc dù có những tiến bộ, nhưng khơng đồn kết đượctồn dân, lịng dân ly tán nên nhanh chóng bị thất bại khi kháng chiến chống quân Minhxâm lược. Và một trong những nguyên nhân để đưa đến thắng lơi cuộc kháng chiếnchống quân Minh là do Nguyễn Trãi đoàn kết được tướng sĩ, tập hợp lực lượng quầnchúng ở khắp nơi.

Từ những nhận thức, những tư tưởng thân dân được thể hiện rõ qua những hành độngchăm lo nhân dân, lắng nghe các ý kiến của nhân dân, bồi dưỡng sức dân...Ý chí vànguyện vọng của nhân dân trở thành xuát phát điểm trong đường lối chính trị. Thấy đượctrong văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống, tư tưởng thân dân, khoan dân, yêu dândựa vào dan là một trong những giá trị đặc sắc, độc đáo có từ lâu đời đã được thể hiện rõqua hành động, chính sách trị nước của các triều đại phong kiến.

<b>2.3.Nền văn hóa chính trị truyền thống giàu tinh thần khoan dung</b>

Trong chính trị, đối với những kẻ lầm đường lạc lối, khoan dung là có thể tha thứ cho lỗi lầm của họ.

Ví dụ: Thời Trần, Hồng Cự Đà chỉ vì khơng được vua Trần Thái Tơng ban cho mónxồi ngon, mà tỏ ra giận dỗi, thậm chí tỏ ý phạm thượng, sinh lòng phản trắc lại được vuatha tội và thậm chí cịn làm vua phải ăn năn. Hay vụ Trần Khánh Dư nhiều tật xấu và lỗilầm từng bị cách chức xuống làm nghề bán than cuối cùng lại được vua Nhân Tông banáo ngự, cho bàn việc binh lại hạ chiếu phục chức và phong làm Phó Đơ tướng quân. Rồichính sách khoan hồng thời hậu chiến Nguyê - Mông của vua Trần như cho đốt hết thưxin hàng giặc của tướng lĩnh nhằm yên lòng kẻ phản trắc... Đó là những ứng xử đẹp, đầynhân văn.

Đối với kẻ địch, khoan dung thể hiện ở việc mặc dù kẻ thù đã gây nên rất nhiều tội ácvới dân ta, nhưng khi giành được chiến thắng, đạt được mục đích độc lập, hịa bình, takhơng giết giặc mà tạo điều kiện để chúng rút quân về nước, chấm dứt chiến tranh.

Ví dụ: Khởi nghĩa Lam Sơn. Tha chết cho 10 vạn giặc Minh – Người Việt từng là mộtdân tộc “đại nghĩa”, khơng chỉ thế cịn sửa sang đường xá, cung cấp ngựa, thuyền cũng

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

như lương thực đầy đủ để đội quân địch về nước khiến kẻ xâm lăng chỉ có thể cảm kíchđến chảy nước mắt, dù nhục nhã thua trận vẫn chỉ có thể cúi đầu tâm phục khẩu phục

Khoan dung còn thể hiện ở việc nền văn hóa chính trị Việt Nam tiếp biến những giátrị văn hóa chính trị ngoại sinh và biến đổi nó cho phù hợp với nền văn hóa chính trị củadân tộc

Điển hình:

Đón nhận Phật giáo từ thế kỷ II, tư tưởng của phật giáo đi vào chính trị chứa đựngtinh thần nhân văn. Ví dụ: thời Lý – Trần, hình phạt có sự khoan dung, nhân đạo để cảmhóa người có tội. Pháp luật được xây dựng cũng mang tinh thần từ bi.

Mặc dù Nho giáo được xem là công cụ của kẻ thù nhưng khi giành được độc lập thìcác triều đại phong kiến đã tiếp nhận những giá trị tích cực trong Nho giáo để phục vụcho việc xây dựng và tổ chức nhà nước (cách tổ chức triều đình, hệ thống thi tuyển ngườitài, sử dụng chữ Hán,…)

Đạo giáo vào Việt Nam từ thế kỷ III hịa quyện với văn hóa tín ngưỡng dân gian, đivào chính trị đã ảnh hưởng đến tư tưởng của các quan lại, quý tộc. Đặc biệt như Vua TrầnNhân Tông với triết lý “cư trần lạc đạo” (ở đời mà vui đạo) là một hướng kết hợp một vịchân tu với nhà chính trị khơn ngoan. Coi trọng vai trò cư sĩ trong các hoạt động chính trịcủa Phật giáo với tư cách tơn giáo dân tộc, với phương châm ln đặt lợi ích dân tộc lêntrên hết. Triết lý kết hợp đạo với đời thể hiện rõ hơn, nhân văn hơn đặc trưng khoan dung,vị tha.

<b>2.4.Nền văn hóa chính trị đề cao và tơn trọng hiền tài trong việc trị nước</b>

Có thể nói hiền tài là người vừa có cả tài năng và vừa có đức hạnh. Họ sử dụng nhữngtài năng đó của mình để phục vụ cho đất nước. Cũng giống như bây giờ nói người hiềntài là người vừa có tài vừa có đức. Theo ơng Thân Nhân Trung nói thì những hiền tài sẽcần có tài năng, học rộng, và gương mẫu về đạo đức, có phẩm hạnh tốt. Trong bất kì thờiđại nào, hiền tài cũng đều là lực lượng then chốt, nắm giữ và thực hiện các trọng trách mà

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

đất nước giao phó, có những đóng góp vơ cùng to lớn, tài đức và trí tuệ của họ thật sự làtài sản quý giá của dân tộc.

Lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta cho thấy, trong mọi giai đoạn, đất nướcluôn xuất hiện nhân tài đứng ra đảm đương, gánh vác sứ mệnh lịch sử. Trong Bình NgơĐại cáo (năm 1428), một trong những bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam,Nguyễn Trãi - chiến lược gia chính trị, qn sự của dân tộc từng nói: Đất nước Đại Việt“tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có”.

Trong lịch sử, các triều đại phong kiến rất quan tâm, chú trọng “chiêu hiền đãi sĩ”, tìmkiếm, chiêu mộ những người tài, giỏi, có phẩm chất vào làm việc trong triều đình, phịvua, giúp nước. Việc tuyển chọn, sử dụng nhân tài được thực hiện có hệ thống quy củ từthời nhà Lý. Việc lựa chọn người hiền tài được tổ chức bài bản, chặt chẽ qua các khoa thi.Nhà vua trực tiếp ra đề và chấm thi. Những nhân tài dưới thời nhà Lý được gọi là tầnglớp tinh hoa (tầng lớp trí thức Nho học). Đến thời nhà Lê, việc lựa chọn nhân tài được tổchức thành những kỳ thi, mỗi sĩ tử trải qua ba đến bốn kỳ thi.

Trong văn bia “Đề danh tiến sĩ, khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (năm1442)”, Thân Nhân Trung viết: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thìthế nước mạnh mà hưng thịnh, ngun khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế cácbậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ,vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết”... Thông điệp này được khắc trênbia tiến sĩ đầu tiên dựng tại Văn miếu Quốc Tử Giám và vẫn có tính thời sự hiện naytrong xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp đối với việc trọng dụng nhân tài.

Kế thừa tư tưởng về trọng dụng nhân tài của ông cha trong lịch sử, Chủ tịch Hồ ChíMinh đã có nhiều quyết sách đúng đắn, hợp lý để chiêu dùng người tài vào sự nghiệpcách mạng. Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành cơng, ngày 20-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Tìm người tài đức” đăng trên báo Cứu quốc số411. Người nêu rõ “Nhà nước cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trongsố 20 triệu đồng bào chắc khơng thiếu người có tài, có đức”. Với những chính sách, biện

</div>

×