Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

BÀI TIỂU LUẬN HỌC PHẦN Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.31 KB, 13 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BÀI TIỂU LUẬN HỌC PHẦNGiáo dục đại học thế giới và Việt </b>

<b>Nam GV Ngô Thị Trang</b>

Câu hỏi: Thầy (cô) hãy cho biết quan điểm của mình về ý kiến sau “Muốn phát triển nền giáo dục nước này, hãy nhập khẩu nền giáo dục của nước khác phát triểnhơn”.

Nhập khẩu nền giáo dục của nước khác có thể là một ý tưởng tốt để phát triển giáodục nếu được thực hiện một cách đúng đắn. Tuy nhiên, việc áp dụng nền giáo dục của một nước khác vào môi trường giáo dục của một nước khác có thể gặp phải nhiều thách thức.

Trước tiên, nền giáo dục của một nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm lịchsử, văn hóa và xã hội. Vì vậy, việc nhập khẩu nền giáo dục của một nước khác cóthể khơng phù hợp với mơi trường giáo dục ở nước đích. Điều này có thể dẫn đếnviệc giáo dục đó khơng hiệu quả hoặc khơng thể thực thi một cách hiệu quả. Trongbối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, việc học tập và tiếp thu các điểm tiêntiến của một nền giáo dục để áp dụng vào một nước khác là điều hồn tồn bìnhthường, thậm chí cần được khuyến khích. Thí dụ, cần nghiên cứu tổng thời gianhọc tập trên lớp của học sinh cùng lứa tuổi, cùng bậc học để xem xét xem việcphân bổ thời gian học tập của học sinh nước ta đã phù hợp chưa; trong đó, thờigian dành cho học văn hóa là bao nhiêu, tự học là bao nhiêu, rèn luyện thể chất làbao nhiêu… Hay cần thiết xem cách đánh giá học sinh của các nước như thế nào,bằng điểm số hay bằng xếp loại, nếu bằng điểm thì dùng thang điểm nào (điểm 5,10, 20 hay 100)… Tất cả các điều đó cần được nghiên cứu thấu đáo để vận dụnglinh hoạt chứ không phải là áp dụng máy móc, tràn lan.

Xét cho cùng, một nền giáo dục tiến bộ của một nước dù thành công ở nước đónhư thế nào thì cũng khơng có nghĩa là sẽ thành công tương tự khi áp dụng vàomột nước khác, bởi còn rất nhiều yếu tố khác tác động đến. Chẳng hạn, yếu tố gầnnhư có tính quyết định là điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước đó. Thí dụ, so với

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Nếu có sự “nhập khẩu giáo dục” từ Bắc Âu thì e rằng một vòng luẩn quẩn mới sẽ tái diễn, khi q trình thực hiện bộc lộ những hạn chế, địi hỏi phải thay thế, có khi lại bằng một mơ hình giáo dục được nhập khẩu từ một đất nước, một khu vực khác.</b>

Phần Lan, nước ta có nhiều điểm khác biệt rõ nét: về dân số là 4,5 so với 95 triệungười, mật độ dân số là 18 so với 308 người/km2; GDP là 224 so với 594 tỉ USD(tính theo sức mua tương đương), thu nhập bình qn là 49.780 so với 6.253 USD/người/năm. Từ những đặc điểm này sẽ tác động đến những đặc điểm khác, nhưtrình độ văn hóa, trình độ tay nghề, lối sống, sự chênh lệch về điều kiện kinh tếgiữa các vùng miền, khả năng tiếp cận với các phương tiện/thiết bị kỹ thuật hiệnđại, việc đi lại, nhu cầu giáo dục và nhu cầu hưởng thụ… Hay trong giáo dục, mộtđứa trẻ ở Phần Lan có thể sẽ có điều kiện thụ hưởng những thành tựu về giáo dụccó nhiều điều khác với đứa trẻ ở Việt Nam cùng độ tuổi; một giáo viên ở Phần Lancó thu nhập (trong tương quan với thu nhập chung của xã hội Phần Lan) khác vớithu nhập của giáo viên Việt Nam; điều kiện dạy và học của giáo viên và học sinh ởPhần Lan cũng sẽ rất khác so với ở Việt Nam… Vì vậy, mơ hình giáo dục củaPhần Lan sẽ rất khó áp dụng được ở Việt Nam bởi những điểm khác biệt đó.

2. Một vấn đề khác là văn hóa và nền tảng xã hội, giữa Việt Nam và các nước BắcÂu do sự cách biệt về địa lý, sự ít giao lưu trong tiến trình lịch sử, các điểm chunggần như khơng nhiều. Vậy liệu những nước có đặc điểm xã hội - xã hội tương đồngvới Việt Nam thì có nên tiếp nhận các điểm tiến bộ về giáo dục của nước đókhơng, chẳng hạn với Nhật Bản, Hàn Quốc? Hoặc những nước từng có những liênhệ nhất định với Việt Nam hiện đang có nền giáo dục khá tiến bộ như Nga,Pháp, Mỹ,

Úc… thì liệu có nên học cái hay của họ không? Đâycũng là điều cần suy nghĩ, khi đặt ra vấn đề “nhậpkhẩu giáo dục”.

Trong khi đó, Việt Nam cũng đã từng có những lần“nhập khẩu giáo dục” khi lãnh đạo ngành giáo dục cácthời kỳ đi tham quan mơ hình giáo dục nước nào thìmang về một số điểm mới nào đó. Những điểm mới đókhơng phải là khơng có ích, khơng thiết thực nhưng lạikém hiệu quả bởi việc áp dụng khá máy móc và chưađược nghiên cứu thấu đáo. Chẳng hạn, mơ hình giáodục VNEN là một thí dụ. Hoặc sự duy trì tính liên tục,

có hệ thống cũng khơng được thực hiện, bởi mỗi kỳ bộ trưởng có một quan điểmkhác nhau và thường chọn một mơ hình mới thay thế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Do đó, nếu có sự “nhập khẩu giáo dục” từ Bắc Âu thì e rằng một vịng luẩn quẩnmới sẽ tái diễn, khi q trình thực hiện bộc lộ những hạn chế, đòi hỏi phải thay thế,có khi lại bằng một mơ hình giáo dục được nhập khẩu từ một đất nước, một khuvực khác.

3. Xét cho cùng, việc tiếp thu cái mới khó đạt kết quả như mong muốn nếu bảnthân khơng có một nền tảng thực sự vững chắc. Hiện nay, nền tảng của giáo dụcnước ta vốn dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội còn thiếu bền vững, chẳnghạn, cơ sở vật chất còn quá thiếu thốn, trường lớp còn tạm bợ, thiếu nhiều trangthiết bị cần thiết phục vụ dạy và học; nhiều nơi sĩ số quá đông, trong lớp có sựchênh lệch nhiều về giới tính, đặc điểm thể trạng, thể chất, năng lực…; giáo viêncó nơi thiếu nhưng có nơi thừa, chất lượng chưa đồng đều, thu nhập khơng bảođảm sự tồn tâm toàn ý cho hoạt động giáo dục; nhận thức của nhiều người dân đốivới việc học của con em còn hạn chế… Với những điều đó thì dù đem một mơhình giáo dục tiên tiến nào vào áp dụng ở nước ta cũng khó mang lại hiệu quả thựcsự.

Trong bối cảnh đó, nên chăng cần lo củng cố nội lực - tức là khắc phục các vấn đềhạn chế mang tính căn cơ của nền giáo dục - trước khi nghĩ đến việc vận dụng mộtmơ hình giáo dục nào đó? Hay chỉ là tiếp thu từng phần nhỏ lẻ, thực sự phù hợp,cần thiết, còn hơn bê ngun một mơ hình rồi loay hoay theo kiểu “gọt chân chovừa giày”? Đây chính là vấn đề mà ngành giáo dục cần quan tâm trong tiến trìnhđổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà!

<b>Nhập khẩu giáo dục giúp rút ngắn khoảng cách với các nước</b>

Việc nhập sách giáo khoa, chương trình giáo dục ở các nước tiên tiến, đã có nghiêncứu trên cơ sở khoa học là việc tốt, giúp rút ngắn khoảng cách giáo dục của ViệtNam và các nước, kế thừa thành tựu của họ, mình cũng khơng phải mày mị đổimới từng chút một. Tuy nhiên, sách giáo khoa của họ được xây dựng dựa trên nềnkinh tế – xã hội đã phát triển, tâm sinh lý lứa tuổi của học trò khác nhiều so vớiđiều kiện Việt Nam.

Cần có cơ chế Việt hóa, chọn lọc các yếu tố có lợi và phù hợp hồn cảnh trongnước. Nên nhập khẩu các mơn khoa học tự nhiên vì đó là thế mạnh của họ, nhưngcần cẩn trọng với các môn khoa học xã hội. Ngồi ra, việc thay đổi chương trìnhgiáo dục phải đi liền với thay đổi năng lực nhận thức của giáo viên, phụ huynh,học sinh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Phải thừa nhận rằng phụ huynh, học sinh, thậm chí giáo viên cịn chạy theo thànhtích, điểm số mà qn đi ý nghĩa thực chất của việc học là vui vẻ, tăng hiểu biết, kỹnăng và phẩm chất con người.

<b>Cẩn thận xung đột giữa cái mới và cái cũ</b>

Trước khi nghĩ tới việc nhập khẩu chương trình giáo dục của Phần Lan, hay thựchiện bất cứ cải cách nào khác ở quy mô cả nước, Bộ GD-ĐT cần phải tổ chức đánhgiá thành cơng hay thất bại của chương trình VNEN một cách thực sự nghiêm túc,khách quan, công bằng.

Câu hỏi mà chúng ta cần trả lời không phải đơn giản chỉ là VNEN đã thành cônghay thất bại mà là với những thành tựu VNEN đạt được? Đâu là nguyên nhân vàvới những thất bại của VNEN, đâu là khó khăn, trở ngại, thách thức, và liệu chúngta có thể có cách làm nào khác để vượt qua những khó khăn đó?

Dù Phần Lan hay bất kỳ nước nào đi nữa thì những xung đột giữa mới và cũ cũngsẽ xảy ra, địi hỏi chúng ta tìm cách giải quyết, chứ khơng thể xem nó như khơngcó, hoặc vì vậy mà thơi khơng làm nữa.

<b>Khơng có đội ngũ, nguồn nhân lực giỏi thì khó có thể thành cơng</b>

Ngày nay, u cầu về chất lượng đối với người thầy cũng rất cao. Đồng thời với dạy chữ, người thầy còn phải dạy người. Dạy chữ không chỉ đơn thuần là truyền đạt kiến thức, mà quan trọng hơn là phải tạo cho người học khả năng sáng tạo, khảnăng tự thích nghi với mọi hoàn cảnh. Muốn vậy người học phải nắm được những điều bản chất nhất, những cái cơ bản nhất. Người thầy cịn phải là một điển hình tốt về tinh thần tự học, tự vươn lên, một tấm gương sáng ngời về đạo đức, về nhâncách đối với học sinh. Như vậy, chất lượng đòi hỏi ở người thầy là rất cao, rất toàndiện.

Sau đây sẽ đi sâu phân tích thêm về tình hình đội ngũ giảng viên đại học của Việt Nam. Trong mấy chục năm qua các trường đại học của ta đã có những bước tiến vượt bậc. Giáo dục đại học đã có những đóng góp đáng kể trong cơng tác đào tạo cán bộ cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ giảng viên đại học đã trưởng thành nhanh chóng, trong đó có một số cán bộ xuất sắc, đạt trìnhđộ quốc tế. Tuy nhiên, bước vào giai đoạn mới và trước yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, đội ngũ giảng viên của ta cịn có nhiều nhược điểm cả về số lượng và chất lượng. Cả nước ta có khoảng 22000 giảng viên đại học và cao đẳng, trong đó chỉ có khoảng 3000 (chiếm 13,6%) có trình độ trên đại học. Số người có học vị tiến sĩ chỉ vào khoảng trên 200 (chiếm gần 1%). Các tỷ

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

lệ trên đây rất thấp so các nước. Và như vậy là, sắp sang đến thế kỉ XXI rồi mà tình trạng người chỉ có trình độ đại học dạy đại học đang còn phổ biến trong các trường đại học của ta. Ở các nước tiên tiến trên thế giới và ở nhiều đại học trong khu vực, phần lớn giảng viên đại học có trình độ trên đại học. Đội ngũ giảng viên đại học của họ không những hơn ta về chất lượng mà cịn nhiều gấp đơi, gấp ba ta về số lượng, trên cùng số đầu sinh viên. Ở ta còn một tình hình đã ở trên mức báo động là tuổi của giáo viên quá cao. Hầu hết các giáo sư đã sắp đến tuổi nghỉ hưu. Số giảng viên đại học ở tuổi dưới 35 chỉ chiếm vài phần trăm. Với tình hình này chỉ trong vịng mười năm nữa, các trường đại học của ta sẽ thực sự bị khủng hoảngvề đội ngũ giảng dạy. Do vậy, vấn đề rất cấp bách đối với nước ta là phải nhanh chóng nâng cao trình độ giảng viên, tăng cường mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ có trình độ trên đại học, đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, khẩn trương đào tạo,bồi dưỡng cán bộ trẻ và giỏi, có những chính sách đặc biệt để khuyến khích nghề dạy học, ngành sư phạm, tạo những điều kiện thuận lợi cho việc du học và giao lưuquốc tế.

Sẽ rất tốt nếu chúng ta làm được điều này, nhưng để có thể làm được thì vấn đềmấu chốt vẫn phải là con người. Chương trình hay mà chẳng có đội ngũ giỏi đểthực thi thì cũng như khơng. Bài học về VNEN vẫn cịn đó, nên biết thêm rằng ởPhần Lan, giáo viên muốn được tuyển dụng dạy tiểu học phải có trình độ thạc sĩ.Trong khi đó ở ta thì chỉ cần đạt 12,5 điểm cho 3 môn thi là đã đủ chuẩn vào Đạihọc sư phạm để ra làm thầy.

Giáo dục Phần Lan là đẳng cấp đã được thế giới công nhận trong mục tiêu pháttriển tư duy học trị. Chương trình đã phù hợp với trình độ và hệ thống giáo viênPhần Lan, nhưng trong mối tương quan với trình độ giáo viên Việt Nam cịn chênhq lớn.

Để có được nền giáo dục chất lượng đứng đầu thế giới như bây giờ, người PhầnLan đã tập trung đầu tư rất nghiêm túc cho công tác đào tạo giáo viên trong suốtnhiều thập niên từ thế kỷ trước đến nay. Còn ta, sau hơn 70 năm ở miền Bắc và 40năm ở miền Nam, chất lượng đội ngũ sư phạm chỉ thấy càng ngày càng xuống dốcvà vẫn đứng ngoài lề những chuẩn mực chung của các nền giáo dục tiến bộ. Nhậpkhẩu giáo dục sẽ không dễ dàng như nhập khẩu thực phẩm hay xăng dầu!

Với tất cả niềm lạc quan, tin tưởng chúng ta có thể hi vọng đến một thời giankhơng lâu nữa, giáo dục ở nước ta sẽ trở thành một ngành cách mạng chất xám đồsộ, hiện đại với đội ngũ giáo viên hùng hậu - những người có trí tuệ cao, có đờisống vật chất dồi dào, được tôn vinh trong xã hội. Sư phạm sẽ trở thành ngành họchấp dẫn đối với thế hệ trẻ. Giáo dục sẽ thực sự trở thành một động lực phát triểnđất nước. Các vùng lãnh thổ của nước ta, kể cả nông thôn, miền núi, hải đảo sẽ

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

phát triển đồng đều trên cơ sở một nền học vấn được nâng cao đáng kể của toàndân, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2</b>

<b>BÀI TIỂU LUẬN</b>

<b>MÔN: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>Chủ đề: Thầy (cơ) hãy cho biết quan điểm của mình về ý kiến sau“Muốn phát triển nền giáo dục nước này, hãy nhập khẩu nền giáo dục củanước khác phát triển hơn”.</b>

<b>Bài làm:</b>

Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, việc học tập và tiếp thucác điểm tiên tiến của một nền giáo dục để áp dụng vào một nước khác là điềuhồn tồn bình thường, thậm chí cần được khuyến khích. Thí dụ, cần nghiên cứutổng thời gian học tập trên lớp của học sinh cùng lứa tuổi, cùng bậc học để xemxét xem việc phân bổ thời gian học tập của học sinh nước ta đã phù hợp chưa;trong đó, thời gian dành cho học văn hóa là bao nhiêu, tự học là bao nhiêu, rènluyện thể chất là bao nhiêu… Hay cần thiết xem cách đánh giá học sinh của cácnước như thế nào, bằng điểm số hay bằng xếp loại, nếu bằng điểm thì dùngthang điểm nào (điểm 5, 10, 20 hay 100)… Tất cả các điều đó cần được nghiêncứu thấu đáo để vận dụng linh hoạt chứ khơng phải là áp dụng máy móc, trànlan.

Nhập khẩu nền giáo dục của nước khác có thể là một ý tưởng tốt để pháttriển giáo dục nếu được thực hiện một cách đúng đắn. Tuy nhiên, việc áp dụngnền giáo dục của một nước khác vào môi trường giáo dục của một nước khác cóthể gặp phải nhiều thách thức.

Việc nhập sách giáo khoa, chương trình giáo dục ở các nước tiên tiến, đãcó nghiên cứu trên cơ sở khoa học là việc tốt, giúp rút ngắn khoảng cách giáodục của Việt Nam và các nước, kế thừa thành tựu của họ, mình cũng khơng phảimày mị đổi mới từng chút một. Tuy nhiên, sách giáo khoa của họ được xâydựng dựa trên nền kinh tế – xã hội đã phát triển, tâm sinh lý lứa tuổi của học tròkhác nhiều so với điều kiện Việt Nam. Cần có cơ chế Việt hóa, chọn lọc các yếutố có lợi và phù hợp hồn cảnh trong nước. Nên nhập khẩu các mơn khoa học tựnhiên vì đó là thế mạnh của họ, nhưng cần cẩn trọng với các mơn khoa học xãhội. Ngồi ra, việc thay đổi chương trình giáo dục phải đi liền với thay đổi nănglực nhận thức của giáo viên, phụ huynh, học sinh.

Về bản chất, một nền giáo dục tiến bộ của một quốc gia dù thành cơng ởnước đó như thế nào thì cũng khơng có nghĩa là sẽ thành cơng khi áp dụngchương trình giáo dục ấy vào một nước khác, bởi còn rất nhiều yếu tố khác tácđộng đến. Chẳng hạn, yếu tố gần như có tính quyết định là điều kiện kinh tế - xãhội của đất nước đó. Từ những đặc điểm này sẽ tác động đến những đặc điểmkhác, như trình độ văn hóa, trình độ tay nghề, lối sống, sự chênh lệch về điều

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

kiện kinh tế giữa các vùng miền, khả năng tiếp cận với các phương tiện/thiết bịkỹ thuật hiện đại, việc đi lại, nhu cầu giáo dục và nhu cầu hưởng thụ… Haytrong giáo dục, một đứa trẻ ở Phần Lan có thể sẽ có điều kiện thụ hưởng nhữngthành tựu về giáo dục có nhiều điều khác với đứa trẻ ở Việt Nam cùng độ tuổi;một giáo viên ở Phần Lan có thu nhập (trong tương quan với thu nhập chung củaxã hội Phần Lan) khác với thu nhập của giáo viên Việt Nam; điều kiện dạy vàhọc của giáo viên và học sinh ở Phần Lan cũng sẽ rất khác so với ở Việt Nam…Vì vậy, mơ hình giáo dục của Phần Lan sẽ rất khó áp dụng được ở Việt Nam bởinhững điểm khác biệt đó. Một vấn đề khác là văn hóa và nền tảng xã hội, giữaViệt Nam và các nước Bắc Âu do sự cách biệt về địa lý, sự ít giao lưu trong tiếntrình lịch sử, các điểm chung gần như khơng nhiều. Vậy liệu những nước có đặcđiểm xã hội - xã hội tương đồng với Việt Nam thì có nên tiếp nhận các điểm tiếnbộ về giáo dục của nước đó khơng, chẳng hạn với Nhật Bản, Hàn Quốc? Hoặcnhững nước từng có những liên hệ nhất định với Việt Nam hiện đang có nềngiáo dục khá tiến bộ như Nga, Pháp, Mỹ, Úc… thì liệu có nên học cái hay củahọ khơng? Đây cũng là điều cần suy nghĩ, khi đặt ra vấn đề “nhập khẩu giáodục”.Trong khi đó, Việt Nam cũng đã từng có những lần “nhập khẩu giáo dục”.Những điểm mới đó khơng phải là khơng có ích, khơng thiết thực nhưng lại kémhiệu quả bởi việc áp dụng khá máy móc chưa vận dụng được vào điều kiện cụthể của nước ta và chưa được nghiên cứu thấu đáo. Hoặc sự duy trì tính liên tục,có hệ thống cũng khơng được thực hiện, bởi mỗi kỳ bộ trưởng có một quan điểmkhác nhau và thường chọn một mơ hình mới thay thế.

Do đó, “nhập khẩu giáo dục” có thể sẽ trở thành một vịng luẩn quẩn mới,khi trong q trình tổ chức thực hiện bộc lộ những hạn chế, đòi hỏi phải thaythế. Tóm lại, việc tiếp thu cái mới khó đạt kết quả như mong muốn nếu bản thânkhơng có một nền tảng thực sự vững chắc. Hiện nay, nền tảng của giáo dục nướcta vốn dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội còn thiếu bền vững, chẳng hạn,cơ sở vật chất còn quá thiếu thốn, trường lớp còn chưa được xây lại mà kế thừacơ sở vật chất từ hàng chục năm về trước, thiếu nhiều trang thiết bị cần thiếtphục vụ dạy và học; nhiều nơi sĩ số q đơng, trong lớp có sự chênh lệch nhiềuvề giới tính, đặc điểm thể trạng, thể chất, năng lực…; giáo viên có nơi thiếunhưng có nơi thừa, chất lượng chưa đồng đều, thu nhập không bảo đảm sự toàntâm toàn ý cho hoạt động giáo dục; nhận thức của nhiều người dân đối với việchọc của con em cịn hạn chế… Với những điều đó thì dù đem một mơ hình giáodục tiên tiến nào vào áp dụng ở nước ta cũng khó mang lại hiệu quả thực sự.Trong bối cảnh đó, nên chăng cần lo củng cố nội lực - tức là khắc phục các vấnđề hạn chế mang tính căn cơ của nền giáo dục - trước khi nghĩ đến việc vậndụng một mơ hình giáo dục nào đó? Hay chỉ là tiếp thu từng phần nhỏ lẻ, thựcsự phù hợp, cần thiết, còn hơn bê nguyên một mơ hình rồi loay hoay. Đây chính

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

là vấn đề mà ngành giáo dục cần quan tâm trong tiến trình đổi mới căn bản, tồndiện nền giáo dục nước nhà. Việc nhập khẩu chương trình, tài liệu, cơng nghệdạy học hiện đại của nước ngồi nhằm đáp ứng một nhu cầu giáo dục nào đótrong nước là một nhu cầu trong quá trình hội nhập và phát triển. Việc nhậpkhẩu này cũng sẽ giúp chúng ta thu hẹp khoảng cách. Tuy nhiên, giáo dục luônsong hành, phát triển trên nền tảng văn hóa. Do đó, một trong những điều kiệnđể việc nhập khẩu thành cơng đó là sản phẩm, cơng nghệ đó phải phù hợp vớivăn hóa và đối tượng sử dụng. Việc nhập khẩu một chương trình tiên tiến củanước ngồi là tốt, nhưng chúng ta làm như thế nào để khi triển khai nó mang lạihiệu quả như chúng ta mong muốn. Vì thế trước khi nhập khẩu một chương trìnhmới, chúng ta cần nghiêm túc rút kinh nghiệm những lần nhập khẩu chươngtrình trước đây.

Nhập khẩu giáo dục giúp rút ngắn khoảng cách với các nước. Việc nhậpsách giáo khoa, chương trình giáo dục ở các nước tiên tiến, đã có nghiên cứutrên cơ sở khoa học là việc tốt, giúp rút ngắn khoảng cách giáo dục của ViệtNam và các nước, kế thừa thành tựu của họ, mình cũng khơng phải mày mò đổimới từng chút một. Tuy nhiên, sách giáo khoa của họ được xây dựng dựa trênnền Kinh tế – Xã hội đã phát triển, tâm sinh lý lứa tuổi của học trò khác nhiều sovới điều kiện Việt Nam. Cần có cơ chế Việt hóa, chọn lọc các yếu tố có lợi vàphù hợp hồn cảnh trong nước. Nên nhập khẩu các mơn khoa học tự nhiên vì đólà thế mạnh của họ, nhưng cần cẩn trọng với các mơn khoa học xã hội. Ngồi ra,việc thay đổi chương trình giáo dục phải đi liền với thay đổi năng lực nhận thứccủa giáo viên, phụ huynh, học sinh. Phải thừa nhận rằng phụ huynh, học sinh,thậm chí giáo viên cịn chạy theo thành tích, điểm số mà qn đi ý nghĩa thựcchất của việc học là vui vẻ, tăng hiểu biết, kỹ năng và phẩm chất con người.Cẩnthận xung đột giữa cái mới và cái cũ trước khi nghĩ tới việc nhập khẩu chươngtrình giáo dục của Phần Lan, hay thực hiện bất cứ cải cách nào khác ở quy môcả nước, Bộ GD-ĐT cần phải tổ chức đánh giá thành cơng hay thất bại củachương trình VNEN một cách thực sự nghiêm túc, khách quan, công bằng. Câuhỏi mà chúng ta cần trả lời là về những thành tựu VNEN đạt được ? Đâu lànguyên nhân và với những thất bại của VNEN, đâu là khó khăn, trở ngại, tháchthức, và liệu chúng ta có thể có cách làm nào khác để vượt qua những khó khănđó? Dù Phần Lan hay bất kỳ nước nào đi nữa thì những xung đột giữa mới và cũcũng sẽ xảy ra, địi hỏi chúng ta tìm cách giải quyết, chứ khơng thể xem nó như

</div>

×