Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.37 KB, 11 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>MỤC LỤC </b>
<small>Lời nói đầu ... 3 </small>
<small>I. Khái quát chung ... 3 </small>
<small>II. Những giá trị cơ bản của tư tưởng chính trị phương Đơng. ... 4 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>Lời nói đầu </b>
Chính trị là một vấn đề hết sức phức tạp. Mỗi người, mỗi thời đại đều có những cái nhìn khác nhau về các khía cạnh của chính trị. Một số triết gia chính trị thì tin vào những khả năng duy lý của mình. Một số khác dựa trên những quan sát và kinh nghiệm thực tiễn. Song về cơ bản, các lý thuyết họ đưa ra đều có tác dụng trong việc tỏ chức và hoạt động của nhà nước đương thời.
Cũng như mọi học thuyết chính trị khác, các tư tưởng của chính trị đều như là một phần của tư tưởng triết học, được phát triển theo chiều dài của lịch sử nhân loại và được chia thành hai dịng chính là phương Đông và phương Tây. Bài tiểu luận này sẽ nói về tư tưởng chính trị phương Đơng. Mặc dù phát triển từ rất sớm nhưng phương Đông dừng lại ở thời cổ đại của Trung Quốc và Ấn Độ.
<b> Chủ đề lựa chọn “Những giá trị cơ bản của tư tưởng chính trị phương Đông. Liên hệ thực tiễn hiện Việt Nam hiện nay”. </b>
<b>I. Khái quát chung </b>
Người cổ đại xưa tin rằng thần thánh là những người trị vì tối thượng của nhà nước, và rằng những người có quyền lực đối với họ là những người đã trực tiếp nhận được quyền lực từ thần thánh. Họ còn có niềm tin khơng chút nghi ngờ rằng những điều luật điều hành cuộc sống của họ là do những thần thánh ban ra cho cha ông họ, và do đó chúng khơng thể được thay đổi dù là nhỏ nhất<sup>1</sup>.Tất cả những dân tộc tiền sử cũng có chung niềm tin này.
<small> </small>
<i><small>Giáo trình Chính trị học Nguyễn Đăng Dung, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Trong quan hệ với thể chế chính trị, hệ tư tưởng chính trị là mục đích, là nội dung của thể chế đó. Hệ tư tưởng chính trị nào thì xác định thể chế chính trị đó; trong quan hệ với hệ thống chính trị, hệ tư tưởng chính trị là là “hạt nhân tinh thần”, là phần “linh hồn” của hệ thống đó.
Tư tưởng chính trị đã nảy sinh và bắt đầu phát triển cung với sự xuất hiện của Nhà nước chiếm hữu nô lệ đầu tiên và các hệ thống pháp luật ở phương Đông cổ đại. Những nét đặc thù của các nhà nước phương Đông do đặc điểm của chế độ kinh tế của những nhà nước ấy quyết định<sup>2</sup>.
<b>II. Những giá trị cơ bản của tư tưởng chính trị phương Đơng. </b>
Xã hội và quốc gia chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc cổ đại đã xuất hiện từ lâu (cuối thiên niên kỶ thứ II - đầu thiên niên kỷ thứ I TCN). Lịch sử xã hội chiếm hữu nô lệ Trung Quốc cổ đại là lịch sử đấu tranh tàn khốc giữa chủ nô và nô lệ, tầng lớp thượng lưu của xã hội chiếm hữu nô lệ với những nông dân bị phá sản, bị nô dịch và trở thành thụ thuộc; giữa tầng lớp quý tộc gia truyền bị bần cùng hóa với những thương nhân và trọc phú tiếm quyền. Những xung đột giai cấp trong quốc gia chiếm hữu nô lệ Trung Quốc trở nên sâu sắc (thiên niên kỷ II TCN) đã tạo điều kiện cho các cuộc đấu tranh các trường phái tư tưởng chính trị khác nhau.<small>3</small>
Từ Khổng, Mặc trở đi, lịch sử Trung Quốc cổ đại mới thực sự bước vào thời đại vạch thời kỳ. Trước Khổng, Mặc cũng đã có những tư tưởng chính trị nhưng còn rất tản mạn, chưa thành những học phái nhất định. Nổi bật là tư tưởng thần quyền, đề cao tính siêu nhiên của quyền lực chính trị; tư tưởng thiên ý (ý vua là ý trời).
<b> Khổng tử ( 551 – 479 TCN) – Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ<sup>4</sup></b>
<small> </small>
<i><small> Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 10. </small></i>
<i><small> Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới, Lưu Kiếm Thanh và Phạm Hồng Thái dich, Nxb Văn hóa </small></i>
<small>thơng tin, Hà Nội, 2001, trang 54 </small>
<small>4</small><i><small> Giáo trình Chính trị học Nguyễn Đăng Dung, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Khổng Tử mở đầu cho phong trào mà sau này được gọi là Nho giáo. Ông xuất thân từ tầng lớp quý tộc sa sút, là nhà tư tưởng nổi bật nhất của Nho
<i>giáo. Tư tưởng chính trị của ơng tập trung trong “Ngũ kinh” (Kinh dịch, Kinh thi, Kinh thư, Kinh lễ và Kinh xuân thu) và “Tứ thư” (Luận ngữ, Trung dung, </i>
Đại học, Mạnh Tử).
Tư tưởng chính trị của Khổng được thể hiện tập trung trong quan niệm về Nhân, Lễ, Chính danh. Tư tưởng ấy lấy nhân làm gốc, hướng dẫn và giáo dục người dân cái lễ. Bậc cai trị cần chính trực trong lời nói, việc làm và biết các hướng hiện để thu phục nhân tâm. Cai trị đất nước tức là phải biết hành sự cho đúng. Mỗi người sống phải thi hành bổn phận phù hợp với vai trò của mình bằng cách tu nhân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.<sup>5</sup>
- Nhân: khơng có định nghĩa, chỉ có lịng thương người; là nền móng, là gốc từ đó nảy sinh ra các phẩm chất đạo đức khác “Người có nhân khơng thể không giữ lễ”
- Lễ: là các chuẩn mực Các chuẩn mực đạo đức và hình thức xử sự trong quan hệ giữa con người với con người. Vừa là nội dung, cơ chế, phương thức để điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội. Thực chất là sự quy tắc hóa chữ Nhân (thể hiện thực chất quan hệ giữa người với người)
Nhân và lễ là đức tính của người qn tử, khơng có ở tiểu nhân. Sự thống nhất giữa Nhân và Lễ, thể hiện ra trên bình diện chính trị là Chính danh (Khơng ở vị thế khác thì khơng mưu việc của người ở vị thế ấy).<sup>6</sup>
<b> Mạnh Tử (khoảng 372 - 289 TCN) được coi là người kế thừa xuất sắc và "chính thống" học thuyết của Khổng Tử<sup>7</sup>. Học thuyết của ông là sự </b>
phản ánh thực trạng xã hội thời đó theo khuynh hướng cải lương điều hoà <small> </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">mâu thuẫn giai cấp có lợi cho bọn địa chủ quý tộc hơn là bọn quý tộc chủ nơ đã đến bước đường cùng. Tư tưởng chính trị của ông tập trung chủ yếu trong những vấn đề sau:
- Tư tưởng hai hạng người và thuyết tính thiện: "quân tử" là những người "lao tâm cai trị người" và được người "cung phụng"; "tiểu nhân là những người "lao lực" bị người "cai trị" và phải "cung phụng" cho người. Xã hội cần có sự phân cơng thành "người cai trị" và "người bị cai trị”. Tính thiện là bốn đức tính tốt: nhân, nghĩa, lễ, trí. Đây là điểm tích cực hơn so với tư tưởng của Khổng Tử.
- Chính trị "vương đạo, nhân chính và được lòng dân”. Mạnh Tử đề cao "vương đạo", kịch liệt phê phán "bá đạo". Ông coi "vương đạo" là dùng nhân nghĩa mà trị dân con "bá đạo" thì dùng bạo lực để cai trị mà mục đích là "tranh lợi". "Tranh lợi" là nguồn gốc của mọi rối ren, cướp đoạt lẫn nhau, bất nhân bất nghĩa. Trong quan hệ vua tôi, Mạnh Tử tiến bộ hơn Khổng Tử, ông coi thái độ của vua đối với bề tơi như thế nào thì thái độ của bề tơi đối với vua như thế ấy<small>8</small>
<i>mình. Thái độ tự tư, tư lợi đó được Mặc Tử gọi là “biệt”. Tư tưởng chính </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">- Thuyết “thương yêu lẫn nhau” (kiêm ái) và cùng có lợi (hỗ trợ): “Bất trung”, “bất hiếu”, “bất kính” đều là do không kiêm ái. Trị nước như trị bệnh. người quản lý đất nước phải biết được loạn dấy lên từ đâu, nếu không biết loạn nổi lên từ đâu thì vơ phương cứu chữa, giống như thầy thuốc trị bệnh vậy. Nếu như Khổng Tử kêu gọi nhân dân trung thành với quân vương Thì Mặc Tử kêu gọi các vị quân vương “hãy yêu nhân dân bằng lịng trung thành của mình. Hãy mang lại lợi ích cho nhân dân bằng sự chính trực của mình”.
- Tơn trọng người hiền và học tập người trên: “Tôn trọng người xứng đáng và trừng
phạt những kẻ bất nhân, không phụ thuộc vào những quan hệ thân thuộc” - phản đối quyết liệt chế độ cha truyền, con nối (thân thân), chủ trương tồn dân tuyển cử, phá bỏ sự gị bó về tính đẳng cấp trong chính trị. Người “đứng đầu chính trị” là do muôn dân lựa chọn ra để nắm chính quyền, cho nên người đó phải đem lịng trung thành vơ hạn để mưu hạnh phúc cho nhân dân. Song nhân dân phải tỏ rõ lòng trung thành vơ hạn của mình đối với người ấy.
<b> Lão Tử (khoảng 700-500 TCN) – “Trị đại quốc nhược phan tiểu tiên, vô vi nhi trị”<sup>1</sup></b>
<b> Sống cùng thời với Khổng Tử, là người sáng lập Đạo gia. Ông từng làm </b>
quan dưới triều đại nhà Chu. Triết lý chính trị của lão Tử thao tóm trong hai chữ “vơ vi nhi trị”. Lão Tử cho rằng, đối với bậc thánh nhân thì đều u q tất cả, khơng phân thiện ác. Còn phân thiện ác là người chưa thức tỉnh. Thánh nhân cũng như mặt trời: soi sáng mọi vật, không riêng cho vật nào cả. Giúp sự sống cho vạn vật mà vạn vật không hay. Bậc thánh nhân cứu giúp người mà không ai biết mình được cứu giúp. Thánh nhân giúp người cũng không giúp riêng ai, vì vậy khơng có người nào bị bỏ. Một việc làm được gọi là toàn - thiện thì làm mà khơng ai nhận thấy dấu vết của việc làm. Đó là hành động
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">hồn tồn của vơ vi, đối lập với hữu vi. “ Vô” là không, “vi” là làm. “Vô vi” nghĩa là khơng làm gì trái với tự nhiên , mà khơng phải là khơng làm gì.
<b> Hàn Phi Tử (khoảng 280-233 TCN) – pháp trị<sup>10</sup></b>
Ông là đại diện lớn nhất của trường phái pháp trị. Ơng cho rằng những luật khơng cịn phù hợp với thời đại phải được thay thế bằng luật mới. Luật pháp chứ không phải ý kiến cá nhân, không phải sự chuyên quyền của vua chúa, phải là cơ sở cho việc điều hành của nhà nước. Hàn Phi phủ nhận thuyết nhân trị: Con người bị chi phối bởi lợi ích cá nhân,ln mưu mơ, tính tốn để kiếm lợi ích ích kỉ cho mình, cho nên khơng thể cai trị bằng nhân, lễ, nghĩa được và phủ nhận chính trị thần quyền: “Người cai trị mà mê tín quỉ thần tất nhiên phải mất nước”.
Tư tưởng chính trị của ơng chủ yếu thể hiện qua: Trọng pháp (pháp luật phải công khai, nghiêm chỉnh), Trọng thuật (thủ đoạn điều khiển quan lại phải giữ gìn pháp luật và tuân theo mệnh lệnh, sử dụng nhân tài), Trọng thế. “Pháp luật” là trung tâm, còn “thuật” và “thế” chỉ là điều kiện tất yếu để thực hành “pháp luật”. Bên cạnh đó, cịn có phạt nặng và thưởng hậu để chấp hành “pháp luật”, nâng cao hiệu lực của “pháp luật” và bảo vệ “pháp
luật”.
<b>III. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay </b>
Từ những tư tưởng chính trị cơ bản của phương Đơng nêu trên, có thể rút ra được một vài giá trị thừa kế đối với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Trong bất kỳ thời đại nào thì cùng tơn trọng quy tắc “lấy dân làm gốc”, coi trọng giáo dục, hoàn thiện đạo đức. Đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. Nhà nước luôn phấn đấu để bất kỳ ai cũng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Đảm bảo mỗi cơng dân ai cũng được học hành, ấm no và mưu cầu hạnh <small> </small>
<small>10</small><i><small> Giáo trình Chính trị học, Nguyễn Đăng Dung, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020 </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">phúc, bình đẳng trên mọi phương diện. Cụ thể rút ra từ giá trị tư tưởng chính trị của Nho giáo:
- Coi trọng việc học tập, có học mới có thể là quan, những người tham gia quản lý đất nước phải là những người có học.
- Tư tưởng xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, mọi người thực hiện đúng và đủ quyền, nghĩa vụ và lợi ích của mình.
- Tư tưởng về cuộc sống thanh đạm, thực hành tiết kiệm, chống xa hoa lãng phí.
- Tư tưởng coi trọng đời sống, mọi người sống trong cộng đồng phải có trách nhiệm thương yêu đùm bọc lẫn nhau và lo chung đời sống cộng đồng.
- Coi trọng chữ trung, hiếu; coi trọng mối quan hệ gia đình, xây dựng mơ hình gia đình gắn bó chặt chẽ giữa các thành viên trong đó.
Bên cạnh những yếu tố nêu trên, chúng ta còn thấy các nhà chức trách, cán bộ ln ln phải liêm chính, gắn liền với cuộc sống của nhân dân, lắng nghe nhân dân và thực hiện mọi quyết sách bình đẳng, dân chủ. Có kỷ cương, kỷ luật chuẩn mực, đúng nguyên tắc. Gần đây nhất đó chính là dịch bệnh COVID 19 hồnh hành, chính phủ ra quyết định thực hiện chỉ thị 16 đối với khu vực có dịch nhằm hạn chế dịch bệnh bùng phát, giải cứu nông sản cho nhân dân Bắc Giang,…
Nói tóm lại, lấy dân làm gốc vẫn là mục tiêu được đặt lên hàng đầu đối với nhà nước ta hiện nay. Luôn tôn trọng, lắng nghe và thấu hiểu nhân dân để đất nước ngày một phát triển hơn, cuộc sống nhân dân ấm no, hạnh phúc.
<b>Tổng kết </b>
Trải qua nhiều thế kỷ, nhiều giai đoạn với rất nhiều tư tưởng chính trị khác nhau. Song chúng ta có thể thấy mọi học thuyết của phương Đông đều tập
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">trung vào việc giải quyết mối quan hệ giữa con người và xã hội, trong đó, nhà nước là một thực thể quan trọng. Các nhà tư tưởng hồi bấy giờ đã đi tìm kiếm những phương thức cai trị xã hội hữu hiệu, dùng pháp luật hay đạo đức,
<i>lễ, nhạc... Nho giáo do Khổng Tử sáng lập, lúc đầu chủ trương "nhân trị", "lễ </i>
<i>trị" hoàn tồn nhưng về sau đã phải tìm kiếm đến những yếu tố thích hợp của </i>
tư tưởng pháp trị. Lễ trị của Khổng Tử có tác dụng rất sâu sắc và bao qt, nó
<i>vừa là sự cụ thể hố, vừa là công cụ, biện pháp để thực hiện đức trị và "chính </i>
<i>danh" , nhằm tạo ra một trật tự trong các quan hệ gia đình và xã hội. Theo </i>
Mạnh Tử, vua vâng mệnh Trời để trị dân, nhưng mệnh Trời phải hợp lòng dân, vai trò chủ chốt là của dân và sự phụ thuộc của nhà cầm quyền vào nhân dân. Cịn Tn Tử thì đã kết hợp "lễ trị với luật" để trị nước, có thể coi đây là chiếc cầu nối giữa tư tưởng nhân- lễ trị của Khổng- Mạnh và tư tưởng pháp trị sau này. Phái Mặc gia do Mặc Tử khởi xướng lại lý giải: con người có quyền bình đẳng tự nhiên với nhau và quyền lực tối cao trong xã hội thuộc về dân. Là một học thuyết được xây dựng từ thời Xuân Thu- Chiến Quốc nhưng Nho giáo đã được coi là hệ tư tưởng trong suốt hơn 2000 năm cai trị của giai cấp thống trị phong kiến nhằm củng cố địa vị thế tập của mình.
Từ đó, kế thừa được những giá trị tích cực từ những tư tưởng ấy đối với cuộc sống thực tiễn hiện nay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>Danh mục tài liệu tham khảo </b>
<i>1, Nguyễn Đăng Dung, Giáo trình Chính trị học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà </i>
Nội, 2020.
<i>2, Lưu Thanh Kiếm và Phạm Hồng Thái (dịch), Lịch sử các học thuyết chính </i>
<i>trị trên thế giới, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 2001. </i>
3, Nguyễn Văn Vĩnh, Các lý thuyết chính trị trong lịch sử,
4, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luât, Đề cương ơn tập mơn Chính trị học
<i>5, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Chính trị, Tập </i>
<i>bài giảng Chính trị học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. </i>
<i>6, Học viện Hành chính Quốc gia, Giáo trình Chính trị học, Nxb Đại học </i>
Quốc gia Hà Nội, 2001.
</div>