Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.43 KB, 15 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>CHƯƠNG II: ĐẢNG CẦM QUYỀN ... 6 </b>
2.1. Khái niệm đảng cầm quyền ... 6
2.2. Sự ra đời của đảng cầm quyền ... 7
2.3. Đặc điểm của đảng cầm quyền: ... 8
<b>CHƯƠNG III: VAI TRỊ CỦA CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ HIỆN ĐẠI ... 9 </b>
3.1. Vai trị của các đảng chính trị trong tổ chức và hoạt động Bộ máy nhà nước ... 10
3.2. Vai trị của các đảng chính trị với bầu cử ... 12
3.3. Vai trị của đảng chính trị với văn minh chính trị ... 13
<b>KẾT LUẬN ... 13 </b>
<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO... 14 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>LỜI MỞ ĐẦU </b>
Cơ chế thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được thể hiện thông qua tổ chức và hoạt động của hệ thống tổ chức quyền lực chính trị, bao gồm các đảng chính trị, thể chế Nhà nước (cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp), thể chế và các tổ chức chính trị - xã hội. Các bộ phận này tham gia vào q trình chính trị nhằm thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền trong xã hội. Nhà nước giữ vai trò trung tâm trong hệ thống chính trị của mỗi quốc gia. Nhìn chung trên thế giới, các đảng chính trị là lực lượng hoạt động ở hậu trường nhưng có vai trị chi phối hoạt động của Nhà nước. Tùy thuộc vào truyền thống và thể chế chính trị của mỗi quốc gia, các đảng chính trị có các phương thức khác nhau để thể hiện ý chí chính trị của đảng và tích cực tham gia vào các công việc của Nhà nước. Sự tồn tại của một đảng gắn bó với cuộc đấu tranh để giành chính quyền, thỏa mãn những lợi ích giai cấp và đạt tới mục tiêu cuối cùng của nó là trở thành đảng cầm quyền.
Việc nghiên cứu các đảng chính trị, đảng cầm quyền và vai trị của đảng trong đời sống chính trị có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong khoa học xã hội nói chung và khoa học hiến
<i><b>pháp nói riêng. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Đảng chính trị và Đảng cầm quyền – Vai trị của </b></i>
<i><b>các đảng chính trị trong đời sống chính trị hiện đại” làm tiểu luận kết thúc học phần. </b></i>
Kết cấu bài tiểu luận gồm 3 chương: Chương I: Đảng chính trị
Chương II: Đảng cầm quyền
Chương III: Vai trị của các đảng chính trị trong đời sống chính trị hiện đại
Trong q trình nghiên cứu và hồn thành tiểu luận chắc chắn cịn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của thầy cơ để nội dung của bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn./.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>CHƯƠNG I: ĐẢNG CHÍNH TRỊ 1.1. Khái niệm đảng chính trị </b>
Cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về đảng chính trị, một nhà khoa học
<i>chính trị nổi tiếng người Mỹ là Anthony Downs có đưa ra định nghĩa: “Một đảng chính trị là một đội ngũ, gồm nhiều người, tìm kiếm việc kiểm sốt chính quyền một cách chính danh, thơng qua việc thực hiện một cuộc bầu cử”. </i>
<i>Một người khác là Neumann thì cho rằng đảng chính trị là: “Một tổ chức cơng khai của các nhà hoạt động chính trị trong xã hội có liên quan đến việc kiểm soát quyền lực của nhà nước, những người này cạnh tranh với nhau trong việc tìm kiếm sự ủng hộ từ một hay nhiều nhóm khác nhau. Thơng thường, đảng chính trị đóng vai trị trung gian để kết nối giữa các lực lượng trong xã hội với các hệ thống giá trị từ các định chế nhà nước và liên quan đến đảng chính trị đó thơng qua các hành động chính trị trong một cộng đồng chính trị rộng hơn”. </i>
Đảng chính trị là một tổ chức được liên kết dựa trên một hệ thông tư tưởng, thể hiện lợi ích của một giai cấp hay tầng lớp xã hội, bao gồm những người tiêu biểu nhất của giai cấp hay tầng lớp xã hội ấy, với mục tiêu, lý tưởng nhất định. Đảng chính trị là sản phẩm của các cuộc đấu tranh giai cấp đã đạt tới trình độ tự giác cao: có cương lĩnh, chương trình hành động, nghệ thuật tổ chức, đấu tranh chính trị. Đảng chính trị cịn được hiểu là một nhóm những người được tổ chức nhằm mục đích giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Khái quát lại, đảng chính trị là một thiết chế tổ chức quy tụ những người có chung lợi ích và khuynh hướng tư tưởng nhằm vươn tới quyền lực chính trị để hiện thực hóa lợi ích cũng như khuynh hướng đó trên quy mơ xã hội.
<b>1.2. Sự ra đời của đảng chính trị 1.2.1. Sự ra đời đảng ở Anh </b>
Hệ thống đảng xuất hiện ở nước Anh thời kỳ đầu hiện đại được coi là một trong những hệ thống đảng xuất hiện đầu tiên trên thế giới, với nguồn gốc từ các phe phái xuất hiện từ Cuộc khủng hoảng loại trừ và Cách mạng Vinh quang cuối thế kỷ XVII. Hai đảng đầu tiên
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">được biết đến với cái tên là đảng Whig và đảng Tory<small>1</small>. Giữa hai Đảng này ln có sự đối lập về tư tưởng.
Về sau, Nghị viện Anh đã nắm quyền kiểm sốt vương quyền, cịn đảng Whig và đảng Tory đã trở thành những đảng được tổ chức chặt chẽ. Giai đoạn từ năm 1832 – 1846 là giai đoạn hình thành hệ thống chính trị lưỡng đảng ở Anh quốc. Năm 1830 đảng Whig đổi tên là đảng Bảo thủ và có một số thay đổi mới.
Tuy nhiên, một nhánh của đảng Whig đã tách ra và phát triển theo một hướng khác và hình thành nên đảng Tự do (Liberal). Đến năm 1918 thì đảng Tự do suy thoái dần dần. Và một đảng mới xuất hiện thay thế vai trị của đảng Tự do, đó chính là Cơng đảng. Hiện nay, hệ thống chính trị Anh quốc có hai đảng thay nhau cầm quyền (nên các nhà nghiên cứu gọi là hệ thống chính trị lưỡng đảng) là Công đảng và đảng Bảo thủ.
<b>1.2.2. Sự ra đời đảng tại Mỹ </b>
Còn tại Mỹ, Alexander Hamilton và một số người ủng hộ muốn xây dựng một chính quyền trung ương mạnh, cho nên, năm 1787, họ đã thành lập một liên minh chính trị và gọi đó là đảng Người liên bang (the Federalists), đây chính là đảng chính trị đầu tiên ở Hoa Kỳ. Năm 1796, một nhóm đối lập với quan điểm của Người liên bang đã tập hợp lại dưới sự lãnh đạo của Thomas Jefferson, họ muốn hạn chế quyền lực của chính quyền liên bang. Các thành viên trong nhóm này đã gọi tên đảng của họ là đảng Cộng hoà – Dân chủ.<small>2</small>
Kể từ 1820 trở đi, đời sống chính trị Hoa Kỳ đã có những sự thay đổi đáng kể, xuất hiện thêm nhiều quan điểm đối chọi nhau của các chính khách trên khắp đất nước. Các tranh chấp chính trị của Mỹ được tổ chức chủ yếu xung quanh các đảng chính trị, những tranh cãi chính trị vào đầu những năm 1790 về phạm vi quyền lực của chính phủ liên bang. Chính điều đó đã dẫn tới cuộc nội chiến Hoa Kỳ.
Sự chia rẽ của Đảng Cộng hòa - Dân chủ sau cuộc bầu cử Tổng thống năm 1824 gây tranh cãi đã dẫn đến sự tái xuất hiện của các đảng chính trị. Hai đảng lớn sẽ thống trị bối cảnh
<small>1</small><i><small> Bách khoa tồn thư mở - Đảng phái chính trị, truy cập trên Bách khoa toàn thư mở - Đảng phái chính trị, truy cập trên class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">
chính trị trong một phần tư thế kỷ tiếp theo: Đảng Dân chủ, do Andrew Jackson, và Đảng Whig, do Henry Clay thành lập từ Đảng Cộng hịa Quốc gia và từ các nhóm Anti-Jackson khác. Khi Đảng Whig tan rã vào giữa những năm 1850, vị trí là một đảng chính trị lớn của Hoa Kỳ đã được Đảng Cộng hòa lấp đầy.
Lúc này Hoa Kỳ gồm rất nhiều đảng chính trị, lịch sử ghi nhận giai đoạn này Hoa Kỳ có 6 đảng chính trị khác nhau, tuy nhiên sau cuộc Đại suy thoái 1929 – 1933, Hoa Kỳ đã chuyển sang giai đoạn lưỡng đảng chi phối tồn bộ nền chính trị Hoa Kỳ dù vẫn cịn có những đảng chính trị khác cùng tồn tại. Cho đến nay, mặc dù có nhiều đảng chính trị cùng tồn tại, nhưng thực chất Hoa Kỳ chỉ là hệ thống chính trị lưỡng đảng, với hai đảng thay nhau và cạnh tranh với nhau để cầm quyền là đảng Dân chủ và đảng Cộng hịa.
<b>1.2.4. Sự lan rộng ra tồn cầu </b>
Dưới sự ảnh hưởng của học thuyết Marx và bối cảnh ra đời của nhiều đảng xã hội ở các nước châu Âu, cho đến nay, nước Đức đã có 7 đảng chính trị, bao gồm: Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo; đảng Dân chủ xã hội; đảng Dân chủ tự do; đảng Xanh; đảng Cánh tả; Liên minh Xã hội Thiên chúa giáo; đảng Hải tặc.
Tại Pháp, sau cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789, đã dẫn đến việc thành lập các đảng chính trị, ở Pháp hiện nay bao gồm 6 đảng chính trị khác nhau.
Sau đó, ảnh hưởng của nền dân chủ phương Tây cùng với việc thực hiện các chương trình bầu cử đã lan rộng đến nhiều nơi trên thế giới. Từ Tây Âu cho tới Bắc Mỹ, cũng như nhiều quốc gia tại Châu Mỹ La tinh và Châu Á, nền dân chủ được tổ chức thực hiện dựa trên sự cạnh tranh của các đảng chính trị đã trở thành một khn mẫu cho các thể chế chính trị khác học tập và xây dựng. Nhưng ở một số nước tại khu vực Đông Âu cùng với Nga và Trung Quốc đã thay đổi từ một quốc gia quân chủ tuyệt đối sang một hệ thống chính trị dựa trên một đảng duy nhất cầm quyền.
Trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa phát triển mạnh mẽ trên thế giới, các hệ thống chính trị độc đảng ở Đông Âu đã thất bại trong việc duy trì phát triển kinh tế quốc gia, trong khi đó các hệ thống chính trị lưỡng đảng và đa đảng của các nước phương Tây lại
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">đạt được nhiều thành tựu lớn trong quá trình phát triển. Cho đến cuối những năm 1980, trước sự thất bại của mơ hình chính trị độc đảng, sau sự kiện bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, nhiều quốc gia Đông Âu đã phải chuyển từ chế độ độc đảng sang chế độ đa đảng để kiến tạo và phát triển nền dân chủ. Cũng trong thời gian này, nhiều quốc gia châu Á cũng như châu Phi đã phải chịu nhiều áp lực trong việc dân chủ hóa hệ thống chính trị của họ.
<b>CHƯƠNG II: ĐẢNG CẦM QUYỀN 2.1. Khái niệm đảng cầm quyền </b>
Khái niệm đảng cầm quyền xuất hiện rất sớm trong đời sống chính trị các nước tư bản chủ nghĩa ngay sau khi các đảng chính trị đầu tiên ra đời, các đảng đó đã trở thành chỗ dựa chính trị cho các đại biểu tư sản nắm giữ, chi phối các cơ quan nhà nước như chính phủ, quốc hội. Sự ra đời của Đảng Tô-ry và Đảng Uých (nước Anh) sau những năm 1688 là ví dụ điển hình.
Đảng cầm quyền là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm trước hết phục vụ lợi ích của giai cấp mình. Khái niệm đảng cầm quyền lần đầu tiên được V.I.Lênin nêu ra. Sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thuật ngữ này để nói về vai trị cầm quyền của Đảng như: Đảng giành được chính quyền, Đảng nắm chính quyền, Đảng
<i>lãnh đạo chính quyền, Đảng cầm quyền. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><i>ta là một đảng cầm quyền”. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội toàn quốc lần thứ X, XI thông qua cũng ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền”. </i><small>3</small>
Đảng nắm giữ chính quyền (ruling party/ governing party hay chấp chính đảng), lại gọi tắt đảng cầm quyền hoặc đảng lãnh đạo, là chỉ chính đảng thơng qua bầu cử mang tính chế độ hoặc cách mạng bạo lực mà nắm giữ và quản lí chính quyền của một nước, nó có thể là một chính đảng, cũng có thể là liên minh của nhiều chính đảng.
<b>2.2. Sự ra đời của đảng cầm quyền </b>
Lịch sử ra đời của các chính đảng tư sản trong cách mạng tư sản cho thấy, do cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống phong kiến, nhiều đảng tư sản đại diện cho các tập đoàn tư bản khác nhau, cùng hợp tác đấu tranh chống chế độ chuyên chế phong kiến, nên thành quả của cách mạng là thành quả chung, được phân chia cho các chính đảng khác nhau tuỳ theo thế và lực của mỗi đảng. Từ đó, hình thành chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, các đảng vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau cho mục tiêu cầm quyền của đảng mình. Hiện nay, để trở thành đảng cầm quyền ở các nhà nước dân chủ tư sản, vận hành trong khuôn khổ pháp quyền tư sản, các đảng chính trị nhất thiết phải qua đấu tranh nghị trường giành sự tín nhiệm của cử tri, thông qua việc nhân dân bầu cử cho đảng, hoặc cho các đại biểu của đảng vào Nghị viện (Quốc hội), đảng nào giành được đa số các ghế trong nghị viện, sẽ đứng ra lập chính phủ và trở thành đảng cầm quyền. Nếu không giành được số ghế cần thiết thì phải liên minh với một trong các đảng chính trị khác để thành lập chính phủ (liên minh cầm quyền).
Về vấn đề đảng cộng sản cầm quyền, tuy C.Mác và Ph.Ăng-ghen chưa dùng cụm từ
<i>“Đảng Cộng sản cầm quyền” nhưng các cụm từ “giai cấp vơ sản giành lấy chính quyền”, “giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị”, “chun chính của giai cấp vơ sản”… được </i>
các ông sử dụng khá thường xuyên và phân tích ở những khía cạnh khác nhau. Trong Tun
<i>ngơn của đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ ra rằng: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vơ sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành </i>
<small>3</small><i><small> Bài viết “Một số vấn đề về đảng cầm quyền”, đăng tải trên web </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><i>chính quyền”. Trong Lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương gửi Liên đoàn những người cộng sản, tháng 3-1850, C.Mác và Ph.Ăng-ghen nhấn mạnh: “Lợi ích của chúng ta và nhiệm vụ của chúng ta là phải làm cho cách mạng trở thành cách mạng không ngừng, cho đến khi tất cả các giai cấp ít hay nhiều hữu sản đều bị gạt ra khỏi chính quyền, cho đến khi giai cấp vơ sản giành được chính quyền nhà nước”. Đặc biệt, khi tổng kết kinh nghiệm của Công xã Pa-ri (1871), tư tưởng cơ bản về “đảng cộng sản cầm quyền” đã được thể hiện trong tác phẩm </i>
Nội chiến ở Pháp và một số lời tựa Ph.Ăng-ghen viết cho các lần xuất bản các tác phẩm của
<i>C.Mác thời kỳ này. C.Mác viết: “Giữa những hành vi đớn hèn và phản bội của giai cấp thống trị, những người vô sản Pa-ri đã hiểu rõ rằng đã đến lúc phải tự mình quản lý lấy cơng việc xã hội để cứu vãn tình thế… Giai cấp vơ sản hiểu rõ rằng nghĩa vụ tối cao và quyền tuyệt đối của mình là phải tự mình làm chủ vận mệnh của mình, tự mình nắm lấy chính quyền”. </i>
Trước Cách mạng Tháng Mười, trong một số tác phẩm, V.I.Lê-nin đã khẳng định vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng; đi sâu làm rõ nội hàm của khái niệm nhà nước chun chính vơ sản, một nhà nước kiểu mới, chỉ xuất hiện sau thắng lợi của cách mạng vô sản do đảng tổ chức và lãnh đạo. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười năm 1917, V.I.Lê-nin thường dùng các thuật ngữ: Người cộng sản giành chính quyền, giữ
<i>chính quyền, đảng cầm quyền, đảng chấp chính ... V.I.Lê-nin cho rằng: “Sự phát triển của Đảng Bơn-sê-vích, là đảng hiện nay đang cầm quyền ở Nga, đã chỉ ra một cách đặc biệt rõ ràng cho chúng ta thấy rằng bước ngoặt lịch sử mà chúng ta đang trải qua - cái bước ngoặt nói lên đặc điểm của tình thế chính trị hiện nay và địi hỏi chính quyền Xơ-viết phải tìm ra phương hướng mới tức là cách thức mới để đề ra những nhiệm vụ mới là như thế nào”. </i>
Như vậy, có thể hiểu, đảng cộng sản cầm quyền là thuật ngữ phản ánh thời kỳ cách mạng thành cơng, chính quyền thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng được giai cấp công nhân và nhân dân uỷ quyền xây dựng, bảo vệ và sử dụng chính quyền cách mạng để thực hiện mục tiêu xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của nhân dân.
<b>2.3. Đặc điểm của đảng cầm quyền: </b>
Giữa các đàng cầm quyền, khơng phân biệt chế độ chính trị, cũng có những điểm giống nhau, tạo nên tính phổ biến mang tính quy luật là:
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">- Thực hiện sự cầm quyền vì lợi ích giai cấp và lợi ích quốc gia mà đảng đại diện - Lấy việc cầm quyền lâu dài là mục tiêu để chăm lo xây dụng, củng cô và phát tnên đảng tồn diện
- Có cương lĩnh cầm quyền được sự ùng hộ đa số cử tri
- Sự cầm quyền của đảng tuân thủ những nguyên tấc vận hành của nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự
- Tăng cường giám sát những người nắm giữ quyền lực, ngăn ngừa sự tha hóa quyền lực dẫn đến quan liêu, tham nhũng
- Thích ứng và điều chỉnh phù hợp với những thay đổi của môi trường và điều kiện cầm quyền
- Quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ với nhà nước, với xã hội, với các đảng đối lập khác (ở những nước có chế độ đa đảng), và trong nội bộ đảng; mở rộng quan hệ quốc tế với các đảng cầm quyền và các đảng khác trên thế giói
- Tìm mọi biện pháp xóa bỏ sự đe dọa đến vị trí cầm quyền của đảng.
<b>CHƯƠNG III: VAI TRÒ CỦA CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ HIỆN ĐẠI </b>
Đảng chính trị là một nhân tố hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị của các nước. Nó có vai trị là một trong những thành phần cơ bản của chế độ chính trị, của xã hội cơng dân hiện đại, có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, từ cơ cấu tổ chức đến sự vận hành của hệ thống chính trị. Ngày nay, trên thế giới khơng có quốc gia nào lại khơng có đảng chính trị. Sự ra đời và phát triển của các đảng chính trị có liên quan chặt chẽ với quyền tồn tại của các nhóm khác nhau trong xã hội, quyền các nhóm được kiểm sốt, chi phối lãnh đạo và hạn chế quyền của đảng cầm quyền. Chúng phải có tổ chức, phải ln tìm kiếm sự ủng hộ từ dân chúng và phải khác biệt với các nhóm khác.
</div>