Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Báo cáo khoa học: Những thách thức pháp lý về vấn đề công nhận tiền mã hóa tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.93 KB, 17 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT </b>

<b>BÁO CÁO KHOA HỌC </b>

<b>THAM GIA XÉT KHEN THƯỞNG </b>

<b> "CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP KHOA LUẬT </b>

<b>NĂM HỌC 2021-2022” </b>

<b>NHỮNG THÁCH THỨC PHÁP LÝ VỀ VẤN ĐỀ CÔNG NHẬN TIỀN MÃ HÓA TẠI VIỆT NAM </b>

<b>Họ và tên đồng tác giả: </b>

1. Đỗ Tiến Dũng 2. Trang Thị Dung 3. Nguyễn Thảo Vi

<b>Giảng viên hướng dẫn: TS. Đỗ Giang Nam </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Legal challenges of cryptocurrency recognition in Vietnam </b>

<b>Abstract: From the perspective of comparative law and civil law, the article focuses on </b>

examining legal viewpoints of cryptocurrencies in certain countries throughout the world, as well as in Vietnam. It can be said that "cryptocurrency" is a new object, so each country's perspective differs, but most countries recognize it as a property. Because Vietnam has yet to recognize cryptocurrencies and lacks a legal framework to regulate them, this is still a subject that needs to be researched further. Cryptocurrencies can be considered property in Vietnam under civil law, but they should be classified as a "non-traditional" property because they have distinct characteristics compared to other classes of property. In the coming years, views on property in civil law will probably need a change to recognize and regulate cryptocurrencies while also meeting the requirements of diversifying new forms of non-traditional property that may emerge in the future.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>Những thách thức pháp lý về vấn đề cơng nhận tiền mã hóa tại Việt Nam Tóm tắt: Từ góc độ luật so sánh và pháp luật dân sự, bài nghiên cứu tập trung khảo cứu </b>

các quan điểm pháp lý về tiền mã hóa tại một số quốc gia trên thế giới và tại Việt Nam. Có thể nói rằng, tiền mã hóa là một đối tượng mới, vậy nên mỗi một quốc gia lại có những quan điểm khác biệt nhưng hầu hết đều coi nó là tài sản. Việt Nam hiện vẫn chưa có một quan điểm cụ thể về bản chất pháp lý hay khung pháp luật để điều chỉnh tiền mã hóa, vì vậy đây vẫn đang là một đối tượng cần phải được nghiên cứu thêm. Dưới góc độ luật dân sự, tiền mã hóa cũng có thể coi là tài sản tại Việt Nam, nhưng nó nên được xếp vào là loại tài sản “phi truyền thống” bởi chúng mang trong mình những đặc điểm riêng biệt so với các loại tài sản truyền thống khác. Trong thời gian tới, các quan điểm về tài sản trong pháp luật dân sự có lẽ sẽ cần sự thay đổi để công nhận và điều chỉnh đối với tiền mã hóa, đồng thời thích nghi và đáp ứng được yêu cầu đa dạng hóa các dạng thức của tài sản phi truyền thống có thể xuất hiện trong tương lai.

<b>Các từ khóa: Tiền mã hóa, Bitcoin, tài sản, Việt Nam </b>

TÁC GIẢ: Đỗ Tiến Dũng<small>1</small>, Trang Thị Dung, Nguyễn Thảo Vi

<b>Lời cảm ơn: Để có được thành quả nghiên cứu như hơm nay, nhóm tác giả xin gửi lời cảm </b>

ơn chân thành đến Ban chủ nhiệm Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đã xây dựng môi trường chia sẻ học thuật hữu ích cho sinh viên. Đồng thời, nhóm tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới Bộ môn Luật Dân sự đã hỗ trợ, định hướng để sinh viên có điều kiện tiếp cận với các tri thức bổ ích, là nền tảng giúp chúng tơi có thể thực hiện được bài nghiên cứu này. Nhóm nghiên cứu cũng gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới giảng viên hướng dẫn – TS. Đỗ Giang Nam, người đã truyền động lực, cảm hứng và đồng hành cùng chúng tơi trong suốt q trình phát hiện, phát triển và hồn thiện đề tài. Bên cạnh đó, nhóm cũng cảm ơn các chuyên gia luật học, chuyên gia kinh tế học và các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác đã có những bài viết đóng vai trị là cơ sở để chúng tơi kế thừa và hồn thiện bài nghiên cứu của mình. Đây là những yếu tố cần thiết, quan trọng, là định hướng, dẫn dắt để chúng tơi có thể hồn thành tốt được báo cáo nghiên cứu khoa học này.

<b>I. Phần dẫn nhập 1.1. Đặt vấn đề </b>

Song song với sự phát triển ngày càng hiện đại của cuộc sống là sự hoàn thiện, cải tiến nhanh chóng của khoa học – cơng nghệ và ứng dụng của chúng trong tất cả lĩnh vực.

<small>Tác giả liên hệ. ĐT.: 0356096318 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Một trong các thành tựu to lớn của khoa học máy tính có thể kể đến là sự ra đời của tiền mã hóa với cơ sở nền tảng là cơng nghệ blockchain – nền tảng góp phần tạo nên một làn sóng mới trong lĩnh vực kinh tế - tài chính.

Trong hệ thống khơng gian ảo ngày nay tồn tại rất nhiều loại tiền mã hóa mà phổ biến nhất là Bitcoin, Litecoin, Manecoin, Neo, … với số người sử dụng và tham gia vào các giao dịch tiền mã hóa ngày càng tăng, tạo ra nguồn vốn hóa thị trường tiền mã hóa vơ cùng lớn. Mặc dù đang hoạt động mạnh mẽ trên thị trường nhưng tiền mã hóa vẫn tồn tại nhiều rủi ro. Vì vậy tất cả các quốc gia trên thế giới đều tỏ ra rất thận trọng đối với những vấn đề liên quan đến tiền mã hóa. Bên cạnh nhiều nước công nhận và ban hành các cơ sở pháp lý điều chỉnh tiền mã hóa như Nhật Bản, Mỹ, Liên minh Châu Âu, …. thì cũng có một số quốc gia coi tiền mã hóa là bất hợp pháp như: Trung Quốc, Bangladesh, Ai Cập,… Tại Việt Nam vẫn chưa có một khung pháp lý cơ bản và đầy đủ nào điều chỉnh các vấn đề về tiền mã hóa, trong khi nhiều hoạt động giao dịch vẫn diễn ra hàng ngày. Phó Thống đốc NHNN cho biết “Bitcoin và một số loại tiền số khác không phải là đồng tiền pháp lệnh, nó là loại tài sản ảo, tiền ảo được mã hóa, là sản phẩm hiện đại của sự phát triển cơng nghiệp. Nó khơng phải phương tiện thanh tốn và pháp luật Việt Nam khơng cho phép thực hiện chức năng của đồng tiền pháp lệnh tại Việt Nam.” Điều này đã tạo ra lỗ hổng pháp lý liên quan đến tiền mã hóa khiến tình trạng giao dịch, đầu tư tiền mã hóa vẫn diễn ra tràn lan, không được quản lý gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực như lừa đảo, lôi kéo đầu tư, đầu cơ tiền mã hóa dưới hình thức đa cấp,...

Từ những lý do trên, nhóm tác giả nhận thấy việc nghiên cứu đề tài “Những thách thức pháp lý đối với việc cơng nhận tiền mã hóa tại Việt Nam” là vơ cùng cần thiết, qua đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia vào giao dịch liên quan đến tiền mã hóa, sự ổn định của nền kinh tế và an tồn của quốc gia.

<b>1.2. Mục đích của bài nghiên cứu: </b>

Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến tiền mã hóa, phân tích quy định của các nước trên thế giới và của pháp luật Việt Nam hiện hành về tiền mã hóa, thực trạng các hoạt động liên quan đến loại tiền này. Từ đó đưa ra quan điểm về vấn đề cơng nhận tiền mã hóa tại Việt Nam, một số kiến nghị để xây dựng, hoàn thiện khung pháp luật về tiền mã hóa và giải pháp khắc phục những thách thức mà nhà nước ta gặp phải nếu lựa chọn công nhận loại tiền này.

<b>1.3. Phương pháp nghiên cứu: </b>

Phương pháp luận: Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu chủ yếu được nhóm sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Lenin. Ngồi ra cịn có sử dựng kết hợp một số phương pháp khác: so sánh tổng hợp, so sánh, thống kê để giải quyết các nội dung cụ thể.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp nghiên cứu so sánh pháp luật, phương pháp phân tích số liệu, phương pháp thảo luận nhóm được nhóm tác giả sử dụng như những phương pháp độc lập hoặc kết hợp để làm sáng tỏ từng phần trong báo cáo.

<b>II. Phần thảo luận và kết quả nghiên cứu chính 1. Mở đầu </b>

Năm 2008, Satoshi Nakamoto công bố bài viết “Bitcoin - A peer-to-peer Electronic Cash System” (Bitcoin - Một hệ thống tiền điện tử ngang hàng), trong đó giới thiệu và quảng bá một hệ thống thanh toán ngang cấp sử dụng hệ thống sổ cái phân tán kết hợp kỹ thuật mật mã và cơ chế đồng thuận phi tập trung để lưu trữ thông tin [1]. Kể từ đó trở đi, tiền mã hóa dần trở nên phổ biến hơn trên toàn thế giới nhưng nó cũng kéo theo rất nhiều vấn đề phát sinh. Trong các vấn đề đó, bản chất pháp lý của loại “tài sản” phi truyền thống này được coi là vấn đề quan trọng nhất và gây rất nhiều tranh cãi. Nếu không xác định được bản chất pháp lý, các cơ chế pháp lý hiện hành sẽ không thể áp dụng được với tiền mã hóa và đặt loại “tài sản” mới này ở “ngồi vòng pháp luật”, trong khi nhiều cá nhân và pháp nhân đã và đang tham gia mạnh mẽ vào việc kiến tạo, lưu trữ, và giao dịch tiền mã hóa bất chấp các rủi ro cho bản thân và xã hội.

Hiện nay nhìn chung có hai quan điểm cơ bản về vấn đề bản chất pháp lý của tiền mã hóa. Thứ nhất, đó là khơng chấp nhận tiền mã hóa nên ra quyết định cấm tiền mã hóa để hạn chế các rủi ro từ chúng. Thứ hai, coi tiền mã hóa là tài sản và đưa ra các quy định quản lý cũng như khuyến khích tiền mã hóa phát triển.

Trong bối cảnh đó, bài viết sẽ tiến hành nhận diện các đặc trưng của tiền mã hóa dưới góc nhìn cơng nghệ để chỉ ra các đặc trưng, ưu nhược điểm của nó, sau đó, tập trung phân tích các thách thức pháp lý trong việc nhận diện bản chất và cơng nhận nó tại Việt Nam. Phương pháp tiếp cận của bài viết là sử dụng phương pháp luật học so sánh để đánh giá quan điểm, hệ thống pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. Sau đó nhìn nhận tiền mã hóa dưới góc độ pháp luật dân sự Việt Nam, đồng thời đưa ra những quan điểm, ý kiến cá nhân của nó về vấn đề này.

<b>2. Khái niệm và một số đặc điểm của tiền mã hóa </b>

Cho đến nay có rất nhiều quan điểm, định nghĩa về tiền mã hóa được đưa ra bởi các tổ chức, quốc gia trên thế giới., các định nghĩa này được tiếp cận dưới những khía cạnh, hình thức khác nhau, theo ghi chú Fintech của IMF năm 2021, tiền mã hóa (Crypto currency) được định nghĩa là loại tài sản kỹ thuật số được thiết kế để hoạt động như một phương tiện trao đổi, trong đó quyền sở hữu đồng tiền cá nhân được lưu trữ trong một sổ cái hiện có dưới hình thức một cơ sở dữ liệu máy tính sử dụng mật mã mạnh để bảo mật hồ sơ giao dịch, kiểm soát việc tạo ra các đồng tiền bổ sung và để xác minh việc chuyển nhượng quyền sở hữu. Nó thường

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

khơng tồn tại ở dạng vật chất (như tiền giấy) và thường không được phát hành bởi một cơ quan Trung ương [2]. Dù được gọi là “tiền” thế nhưng bản chất của nó thì hồn toàn khác so với những đồng tiền

<i><b>truyền thống. Thứ nhất, tiền mã hóa </b></i>

khơng tồn tại dưới dạng vật chất (vơ hình) mà chỉ tồn tại trong mơi trường kỹ thuật

<i><b>số; Thứ hai, tiền mã hóa là một đại diện kỹ thuật số có giá trị; Thứ ba, tiền mã hóa </b></i>

được lưu trữ dưới dạng mã hóa bằng ứng

<i><b>dụng cơng nghệ sổ cái phân tán; Thứ tư, </b></i>

tiền mã hóa có tính chất phi tập trung và không do nhà nước nào phát hành. Công nghệ sổ cái phi tập trung là một những điểm mạnh và đặc trưng của tiền mã hóa. Cơng nghệ này đảm bảo tính xác thực, không thể bị sửa đổi cho mọi thông tin giao dịch, minh bạch hoá chúng với tất cả mọi người tham gia hệ thống và lưu trữ vô thời hạn. Đồng thời, công nghệ mã hoá cùng các cơ chế bảo vệ đa tầng khiến tiền mã hóa có tính bảo mật gần như tuyệt đối. Những ưu thế này giúp “tiền ảo” có khả năng lưu trữ giá trị, và nổi lên là một loại “tài sản” hứa hẹn phát triển nhất hiện nay. Tiền mã hóa, tiền ảo, tiền điện tử,.. đây là những cụm từ mà ta có thể dễ dàng tìm thấy trên các trang mạng xã hội hay trên google, vậy nhưng không phải ai cũng hiểu rõ và phân biệt được chúng. Tiền điện tử hay tiền điện tử pháp định là loại tiền tương đương với tiền tệ quốc gia, được phát hành bởi các tổ chức phát hành tiền tệ nhưng ở hình thức điện tử, kỹ thuật số. Ví dụ tiền trong tài khoản ngân hàng được công nhận ở Việt Nam, tiền trong các ví điện tử được công nhận như Momo, Viettel Pay, … Nó mang trong mình đầy

<i>đủ ba chức năng của tiền là dự trữ (Solve </i>

<i>value), trao đổi (medium of exchange) và hạch toán (unit of account), đồng thời, </i>

được thể hiện dưới dạng giá trị của tiền pháp định của một quốc gia (VND, USD, SGD, …) và được Ngân hàng Trung ương bảo đảm. Tiền điện tử có thể do ngân hàng phát hành hoặc do tổ chức phi ngân hàng phát hành. Đây chính là điểm khác biệt cơ bản giúp ta phân biệt tiền điện tử với tiền mã hóa bởi những đồng tiền mã hóa khơng được phát hành bởi nhà nước hay tổ chức tín dụng nào, nó cũng khơng được thừa nhận và bảo đảm bởi Ngân hàng trung ương. Đối với tiền ảo (Virtual Currency), đây là những đồng tiền được phát hành nội bộ bởi các tổ chức, cơng ty và họ có tồn quyền kiểm sốt số tiền này; khơng được hoặc rất hạn chế đổi ra các loại tiền pháp định và chỉ quy đổi trong một cộng đồng hẹp với nhau. Một vài ví dụ của tiền ảo là tiền sử dụng trong game mua bán vật phẩm. Về mặt nào đấy ta có thể tiền mã hóa và tiền ảo khá giống nhau, điểm khác nhau của chúng đến từ bản chất và mục đích sử dụng.

<b>3. Quy định pháp luật về tiền mã hóa của một số quốc gia trên thế giới. </b>

<i>3.1. Pháp luật Mỹ </i>

Các cơ quan khác nhau ở Hoa Kỳ có quyền hạn và trách nhiệm quản lý khác nhau, thế nên mỗi cơ quan lại có xu hướng phân loại tiền mã hóa một cách khác nhau để phù hợp với lĩnh vực quản lý của mình:

<i>Thứ nhất là Mạng lưới thực thi tội phạm tài chính Mỹ - FinCEN: FinCEN </i>

tuy không đưa ra cách phân loại cụ thể nhưng có thể thấy cơ quan này đang coi tiền mã hóa như một loại tiền tệ khi cho rằng việc trao đổi tiền mã hóa là hoạt động

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

kinh doanh dịch vụ tiền tệ, yêu cầu các quản trị viên tiền mã hóa phải đăng ký như một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tiền tệ (MSB) theo Đạo luật Bảo mật Ngân hàng (BSA) [3]. Theo đó bất kì cá nhân nào muốn tham gia vào hoạt động giao dịch tiền mã hóa thì đều phải tn thủ các quy định trong Đạo luật bảo mật ngân hàng như đăng ký, báo cáo và lưu giữ các số liệu, dữ liệu về các giao dịch này.

<i>Cơ quan thứ hai là Sở thuế vụ Mỹ - IRS: Trong thông báo vào tháng 4 năm </i>

2014, IRS đã tuyên bố họ sẽ coi tiền mã hóa là tài sản [4], do đó việc nhận tiền mã hóa thơng qua khai thác hay các khoản lãi, lỗ khi trao đổi tiền mã hóa đều sẽ bị đánh thuế. Theo IRS, các giao dịch tiền mã hóa có giá trị từ 600 USD trở lên sẽ bị đánh thuế như các tài sản thông thường.

<i>Thứ ba là Ủy ban giao dịch hàng hóa tương lai – CFTC: CFTC đã tuyên bố </i>

vào tháng 9 năm 2015 rằng tất cả các loại tiền mã hóa đều được coi là một loại hàng hóa và được cơ quan này quản lý [5]. Năm 2017, CFTC đã cho phép công ty LedgerX – LLC [6] điều hành một sàn giao dịch các hợp đồng phái sinh có tài sản cơ sở là đồng tiền mã hóa Bitcoin, sản phẩm phái sinh Bitcoin của sàn này là Hợp đồng hoán đổi (Swap) và Hợp đồng quyền chọn (Option).

Mặc dù Hoa Kỳ chưa có cách tiếp cận nhất quán với tiền mã hóa nhưng có thể thấy quan điểm chính của Hoa Kỳ là xác định tiền mã hóa là tài sản sau đó tiến hành quản lý thơng qua các quy định sẵn có.

<i>3.2. Pháp luật Nhật Bản </i>

Sau sự kiện của sàn giao dịch tiền mã hóa Mt. Gox vào năm 2014, Nhật Bản đã đã quyết định phải có những quy định cụ thể để quản lý tiền mã hóa, qua đó bảo vệ khách hàng của các sàn giao dịch cũng như ngăn chặn hoạt động tài trợ khủng bố và rửa tiền liên quan đến tiền mã hóa. Tháng 4 năm 2017, sau khi sửa đổi Đạo luật các cơng cụ thanh tốn ban hành năm 2009, Nhật bản đã bổ sung thêm 1 chương quy định về tiền ảo là chương III-2 (từ Điều 63-2 đến 63-22), chính thức cơng nhận tiền ảo như một phương thức thanh toán trả trước. Tuy nhiên sau đó năm 2019, Đạo luật này tiếp tục được sửa đổi với một số nội dung chủ yếu là, thay thế thuật ngữ tiền ảo thành tài sản mã hóa, tăng cường quy định của các dịch vụ lưu ký tiền mã hóa, và thắt chặt các quy định quản lý nhà cung cấp dịch vụ trao đổi tiền mã hóa [7].

Quy định của Nhật Bản về tiền mã hóa có một số điểm chính như sau:

<i><b>Thứ nhất, Nhật Bản đã đưa ra một </b></i>

khái niệm pháp lý chính thức về tài sản mã hóa [8] và công nhận đây là một phương tiện thanh toán hợp pháp.

<i><b>Thứ hai, quy định về dịch vụ trao </b></i>

đổi tài sản mã hóa: Nhật Bản yêu cầu bất kỳ pháp nhân nào đang cung cấp dịch vụ trao đổi tài sản mã hóa đều phải gửi hồ sơ đăng ký trực tiếp đến Thủ tướng Chính phủ và chỉ khi được Thủ tướng chấp thuận mới có thể hoạt động trong phạm vi Nhật Bản. Sau khi được cấp phép hoạt động các nhà cung cấp dịch vụ trao đổi tiền mã hóa có nghĩa vụ phải: quản lý, bảo mật thông tin; thực hiện các biện pháp bảo vệ khách hàng; quản lý tài sản của người dùng tách

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

bạch với tài sản của nhà cung cấp; thực hiện kiểm toán...

<i><b>Thứ ba, các quy định về thuế đối </b></i>

với các hoạt động liên quan đến tiền mã hóa: Sau khi được cơng nhận là một cơng cụ thanh tốn hợp pháp thì tiền mã hóa và các giao dịch liên quan phải chịu thuế theo các quy tắc tiêu chuẩn: thu nhập mà một cá nhân nhận được dưới dạng tiền mã hóa phải chịu thuế thu nhập; lợi nhuận mà pháp nhân thu được bằng tiền mã hóa phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp; việc bán tiền mã hóa phải tuân theo quy định tương tự của Nhật Bản về Thuế tiêu dùng.

<i>3.3. Pháp luật Trung Quốc </i>

Trung Quốc đã từng là một trong những thị trường lớn nhất về việc khai thác và giao dịch các đồng tiền mã hóa như Bitcoin. Sàn BTC China đã từng chiếm hơn 1/3 khối lượng giao dịch Bitcoin trên tồn cầu. Do lo ngại về rủi ro có thể xảy ra cũng như liên quan đến các hoạt động rửa tiền, Trung Quốc đã ban hành thơng báo về phịng ngừa rủi ro của Bitcoin vào tháng 12 năm 2013. Theo quan điểm của chính phủ nước này, các đồng tiền mã hóa, cụ thể như là Bitcoin khơng được coi là “tiền tệ”, bản chất của Bitcoin là của một "hàng hóa ảo" từ đó cấm giao dịch như một loại tiền tệ trên thị trường.

Sau đó, Trung Quốc đã có những động thái mạnh tay trong việc hạn chế sự phát triển của tiền mã hóa tại lãnh thổ quốc gia của mình thơng qua hàng loạt các quy định nhắm trực tiếp vào Bitcoin nói riêng và các đồng tiền mã hóa khác nói chung như:

• Ngày 4/9/ 2017, Ngân hàng trung ương Trung Quốc tuyên bố hoạt động ICO là hành vi phạm pháp, hoạt động giao dịch trên các sàn giao dịch tiền ảo bị cấm quy đổi sang tiền Nhân dân tệ và tiền ảo cũng không được phép dùng làm tiền tệ trên thị trường.

• Chưa dừng lại ở đó, cơ quan chức năng Trung Quốc khẳng định muốn đóng cửa tất cả sàn giao dịch tiền mã hóa tại nước này.

• Đến tháng 9/2021 Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã công bố cấm tất cả các giao dịch và dịch vụ bằng tiền mã hóa.

Chính phủ Trung Quốc cho rằng tiền mã hóa đã gây gián đoạn trật tự kinh tế và tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động rửa tiền, gây quỹ trái phép và gian lận.Tiền mã hóa khơng thể có vị thế tương đương như tiền thơng thường và có thể khơng được lưu thơng trên thị trường. Tiền mã hóa được coi là mối đe dọa độc quyền đối với đồng nội tệ mà trong trường hợp này là đồng nhân dân tệ khi các đồng tiền mã hóa được thúc đẩy mạnh mẽ bởi nền kinh tế trong nước. Việc cấm tất cả các giao dịch nói trên cũng sẽ giúp mở đường cho đồng tiền mã hóa riêng của chính phủ nước này, vừa phần nào ngăn chặn được các hành vi phạm tội thơng qua tiền mã hóa.

<i>3.4. Pháp luật Pháp </i>

Vào tháng 3 năm 2013, Ngân hàng trung ương Pháp đã đưa ra cảnh báo về rủi ro liên quan đến tiền mã hóa và tiền ảo tại

<i>Pháp như: có nhiều rủi ro; chưa có các cơ </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>quan quản lý trung ương; là khởi nguồn đối với các hoạt động đầu cơ; thiếu các văn bản điều chỉnh; có thể sử dụng làm tiền tệ cho các hoạt động bất hợp pháp. </i>

Tuy nhiên, Pháp lại sẵn sàng cho phép các công ty tiền tệ hoạt động như những nhà cung cấp dịch vụ thanh toán. Khách hàng thực hiện các giao dịch trên sàn tiền ảo sẽ phải thực hiện các yêu cầu xác minh danh tính nhằm làm minh thị các giao dịch và phòng chống các hoạt động tội phạm, rửa tiền và các hoạt động bất hợp pháp khác. Trong quyết định ban hành năm 2018, Hội đồng Nhà nước Pháp (Conseil d’État) đã khẳng định tiền mã hóa có đặc tính của tài sản, cụ thể là động sản vơ hình một phần vì lí do chúng khơng giống bất động sản. Vì lẽ đó, trong lần sửa đổi năm 2019 Luật Tiền tệ và Tài chính Pháp (CMF) đã gọi tiền mã hóa là “tài sản ảo” (les actifs numériques) và ghi nhận hai chức năng căn bản của chúng.

<i>• Thứ nhất, tiền mã hóa có thể là xu </i>

(les jetons), một loại tài sản vơ hình (bien incorporel) đại diện cho một hoặc nhiều quyền mà có thể được tạo ra và chuyển giao qua sổ cái điện tử phi tập trung và có thể xác định được chủ sở hữu.

<i>• Thứ hai, tiền mã hóa có thể là cơng </i>

cụ tài chính, là bất kỳ loại đại diện số hố nào của giá trị (khơng được phát hành bởi ngân hàng nhà nước hay tổ chức công) được chấp nhận bởi cá nhân và pháp nhân như phương tiện thanh tốn và có thể lưu trữ và chuyển giao thông qua phương tiện điện tử [9].

Cùng với đó, Pháp cũng ban hành các quy định liên quan đến tiền mã hóa như:

<i>- Quy định về thuế: Các giao dịch </i>

giữa tiền mã hóa và tiền pháp định đều phải chịu mức thuế cố định là 30% đối với số tiền thu được. Ngoài ra đối với những người khai thác tiền mã hóa thơng qua hình thức đào tiền cũng phải chịu thuế áp dụng cho thu nhập phi thương mại. Đối với thuế VAT thì việc trao đổi tiền mã hóa với tiền pháp định hoặc các loại tiền điện tử khác được miễn thuế VAT.

<i>- Quy định về việc quản lý các tổ chức trung gian cung cấp dịch vụ tiền mã hóa: Các nhà cung cấp dịch vụ trao đổi </i>

tiền mã hóa bắt buộc phải đăng ký với Cơ quan quản lý Thị trường Tài chính Pháp (AMF) và đổi lại sẽ có được độc quyền đối với các dịch vụ được cung cấp. Để được đăng ký, các nhà cung cấp dịch vụ phải cung cấp khá nhiều thông tin. Họ phải cung cấp thông tin về danh tính của các giám đốc và các chủ sở hữu được hưởng lợi; Các giám đốc và chủ sở hữu thụ hưởng phải cung cấp giấy chứng nhận rằng họ khơng bị bất kỳ hình thức xử phạt hình sự nào hoặc bị cấm quản lý một pháp nhân. Những người này cũng phải chứng minh rằng họ có đủ kiến thức và kỹ năng để thực hiện nhiệm vụ của mình và hiểu các hoạt động được thực hiện.

<i>- Quy định về các chế tài hình sự: </i>

Các trường hợp không tuân thủ các quy định về chống rửa tiền và chống lại việc tài trợ cho chủ nghĩa khủng bố liên quan đến tiền mã hóa được quy định tại Bộ Luật

<b>Hình sự của Pháp và trách nhiệm hình sự </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

đối với các tội danh này đều được áp dụng cho cả cá nhân và pháp nhân.

<b> 4. Thực trạng tiền mã hóa và vấn đề cơng nhận tiền mã hóa tại Việt Nam </b>

<i>4.1. Thực tiễn hoạt động của thị trường tiền mã hóa tại Việt Nam </i>

Tiền mã hóa đang ngày một phổ biến hơn tại Việt Nam, người dân cũng có những góc nhìn và quan điểm rộng mở với chúng và đang có xu hướng coi đây là một loại hình đầu tư mới. Theo một khảo sát của trang Finder.com vào tháng 11 năm 2021, Finder đã tiến hành một khảo sát khác với đối tượng là người dùng Internet ở 23 quốc gia về việc có nghe nói đến tiền mã hóa và nghĩ rằng tiền mã hóa là một phương tiện đầu tư tốt. Việt Nam đứng ở nửa trên về nhận thức chung về tiền mã hóa như một phương tiện đầu tư, với 68% người dùng Internet tại Việt Nam cho biết họ đã nghe nói đến tiền mã hóa. Một khảo sát khác của Finder vào tháng 12 năm 2021 với 42.000 người đến từ 27 quốc gia, Việt Nam đứng thứ 1 trong số 27 quốc gia được nghiên cứu về tỷ lệ sử dụng tiền mã hóa. Tỷ lệ sở hữu tiền mã hóa tại Việt Nam là 28,6%, cao hơn Ấn Độ (23,4%) và Úc (22,9%). Con số này cao hơn cả mức sở hữu trung bình trên tồn cầu là 15,5%. Dù phổ biến là vậy, thế nhưng hiện nay Việt Nam vẫn chưa có những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh tiền mã hóa. Động thái chủ yếu của nhà nước hiện nay là đưa ra những khuyến cáo, cảnh báo về những rủi ro mà tiền mã hóa có thể đem lại. Quan điểm rõ ràng nhất về tiền mã hóa của Nhà nước Việt Nam có lẽ là ở việc Việt Nam khơng chấp nhận tiền mã hóa là phương tiện thanh toán hợp

pháp. Theo quy định pháp luật hiện hành, phương tiện thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam được Ngân hàng nhà nước phát hành gồm: Tiền giấy, Tiền kim loại. Căn cứ theo khoản 6 Điều 4 Nghị định 101/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 80/2016/NĐ-CP phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán bao gồm: Séc, Lệnh chi, Ủy nhiệm chi, Nhờ thu, Ủy nhiệm thu, Thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Đồng thời, tại khoản 7 Điều 4 Nghị định 101/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung tại Nghị định

<i>80/2016/NĐ-CP quy định: “Phương tiện thanh toán khơng hợp pháp là các phương tiện thanh tốn khơng thuộc quy định tại Khoản 6 Điều này”. Bên cạnh đó, Ngân </i>

hàng nhà nước Việt Nam từ năm 2014 đến nay khẳng định các đồng tiền như Bitcoin (tiền mã hóa) khơng phải là phương tiện thanh tốn hợp pháp tại Việt Nam và việc phát hành, cung ứng, sử dụng các loại tiền mã hóa làm phương tiện thanh toán là hành vi cấm tại Việt Nam. Việc khẳng định này là những động thái của nhà nước nhằm ngăn chặn những hành vi sử dụng phương tiện thanh tốn khơng hợp pháp trước tình hình có một số đơn vị cho phép thanh tốn bằng bitcoin, có thể kể đến các vụ như Trường Đại học FPT ra quyết định cho phép sinh viên nước ngoài nộp học phí bằng bitcoin vào năm 2017, hay cũng vào năm 2017, một số đơn vị kinh doanh quán cà phê, nhà hàng tại đường Bùi Viện, Đặng Tất (Quận 1, TP HCM) đã chấp nhận cho khách Việt Nam và nước ngồi thanh tốn bằng Bitcoin.

</div>

×