Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tiểu luận: Bầu cử trong đời sống chính trị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.07 KB, 16 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

MỤC LỤC

1 Đặt vấn đề ... 1

2 Nội dung chính ... 1

2.1 Những vấn đề xoay quanh đến bầu cử ... 1

2.1.1 Những lý thuyết về đại diện ... 1

2.1.2 Khái niệm bầu cử... 4

2.1.3 Vai trò của bầu cử... 5

2.1.4 Bầu cử có nên bắt buộc hay không ... 6

2.2.5 Ưu nhược điểm của một số hệ thống bầu cử ... 10

2.2.6 Xu hướng đổi mới hệ thống bầu cử của các nước trên thế giới ... 12

2.3 Thực trạng bầu cử ở Việt Nam ... 13

3 Kết luận ... 14

Tài liệu tham khảo: ... 14

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small>1 </small>

<b>1 Đặt vấn đề </b>

Thơng qua bầu cử, nhân dân thể hiện ý chí của bản thân để lựa chọn ra các chức danh đại diện cho mình thực hiện quyền lực trong bộ máy nhà nước. Bầu cử tự do và công bằng được xem là tiền đề của dân chủ, là phương pháp hợp pháp nhất để hình thành nên một chính quyền. Bầu cử với ý nghĩa quan trọng như vậy ln là một sự kiện chính trị trọng đại ở mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, đã 75 năm trôi qua kể từ cuộc bầu cử dân chủ lần đầu tiên được diễn ra, hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi nhưng ý nghĩa của nó vẫn khơng hề thay đổi, như lời Bác nói: “dân ta sẽ tự do lựa chọn và bầu ra những người xứng đáng thay mặt cho mình, và gánh vác việc nước”.

Bài tiểu luận dưới đây được hồn thành với mục đích nghiên cứu những vấn đề liên quan đến bầu cử, tìm hiểu một số hệ thống bầu cử trên thế giới rồi liên hệ tới thực tiễn ở Việt Nam.

<b>2 Nội dung chính </b>

<b>2.1 Những vấn đề xoay quanh đến bầu cử </b>

Từ trước tới nay, trong mỗi kỳ bầu cử, dù là Quốc hội ở nước ta hay Nghị viện ở nước ngoài, chúng ta chắc hẳn cũng đã nghe qua những câu cổ động, tuyên truyền có nội dung chung là: “Đi bầu cử để chọn ra những người có đức, có tài đại diện cho nhân dân để phát triển đời sống xã hội và đất nước”. Có thể thấy việc bầu cử có liên quan đến việc chọn ra những người đại diện cho chúng ta. Muốn hiểu về bầu cử trước hết cần tìm hiể về vấn đề “đại diện”. Vậy thế nào là “đại diện”.

<b>2.1.1 Những lý thuyết về đại diện </b>

Hiện nay, khơng có một lý thuyết về đại diện nào là đơn nhất và được đồng ý bởi tất cả các học giả. Có rất nhiều các học thuyết khác nhau từ những hệ tư tưởng chính trị khác nhau tranh cãi về vấn đề đại diện. Có 4 quan điểm chủ yếu về đại diện:

<b>Mơ hình người trông nom, quản lý hộ cho người khác (trustee) </b>

Một “trustee” là người có kiến thức rộng, được giáo dục tốt và bài bản hơn những người khác và sử dụng những kiến thức ấy để hành động, làm việc thay mặt cho những người khác. Cách diễn giải kinh điển về “trusteeship” được đề cập bởi Edmund Burke trong bài phát biểu của ông với cử tri ở Bristol năm 1774. Với Burke, bản chất của đại diện là việc phụng sự cử tri bằng những quyết định chín chắn và lương tâm được khai sáng. Nói một cách ngắn gọn, đại diện là nghĩa vụ đạo đức: Những người may mắn được hưởng nền giáo dục tốt và tân tiến nên hành động vì lợi ích của những người kém may mắn hơn. Quan điểm này có sự ảnh hưởng lớn của nhóm người theo chủ nghĩa những người ưu tú nhất trong xã hội. Những người theo quan điểm này chỉ ra và nhấn mạnh rằng một khi được đắc cử, những người đại điện này chỉ nên nghĩ cho bản thân mình, thực hiện những quyết định mang tính cá nhân trên cở sở phần đông người dân không biết đến quyền lợi của mình. Quan điểm cảu nhóm người này dựa trên lí lẽ rằng, mặc dù mọi người đều có quyền được người khác đại diện cho mình nhưng khơng phải quan điểm chính trị nào cũng có giá trị như nhau. John Stuart Mill là một trong những người ủng hộ quan điểm của phái này. Ông cũng đề xuất ra một hệ thống bầu cử mà những người có khuynh hướng giáo dục cao sẽ có nhiều

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>2 </small>

phiếu bầu hơn những người ít được giáo dục hoặc giáo dục thấp hơn. Ông cũng chỉ ra rằng những cử tri có lý trí sẽ bầu cho những chính trị giia có thể hành động một cách khơn ngoan thay mặt cho bọn họ hơn những người chỉ đơn thuần biểu hiện cho ý kiến của một tập thể người. Đại diện theo “trustee” do đó miêu tả những chính trị gia chuyên nghiệp như những người đại diện tới mức họ là thành viên của những người có nền giáo dục ưu tú. Điều này dựa trên niềm tin rằng, kiến thức và hiểu biết không phân chia đều trong xã hội, do đó, khơng phải người dân nào cũng biết được cái gì là tốt nhất cho họ.

Quan điểm này của Burke đã chịu nhiều phản ánh dữ dội. Nó rõ ràng là có ngụ ý phản dân chủ. Nếu những chính trị gia chỉ biết nghĩ cho bản thân họ bởi phần lớn công chúng là ngu dốt, thiếu hiểu biết, thiếu giáo dục, vậy thì chắc chắn rằng để cho công chúng bầu cử họ ra đại diện cho mình là một điều hồn tồn sai lầm. Thứ hai, sự liên quan giữa việc đại diện và vấn đề giáo dục vẫn còn là một ẩn số. Trong khi, giáo dục có thể có giá trị trong việc giúp một người hiểu ra những vấn đề chính trị phức tạp và những rắc rối về kinh tế, nhưng lại khơng có gì là rõ ràng liệu giáo dục có giúp những chính trị gia đưa ra những quyết định đúng đắn về lợi ích của những người khác. Có rất ít bằng chứng để ủng hộ cho những luận điệu cảu Burke và Mill. Thomas Paine chỉ ra rằng nếu những chính trị gia được cho phép thực thi những phán xét, quyết định của mình, họ sẽ sử dụng quyền lực đó để theo đuổi lợi ích cá nhân. Khi đó, đại diện sẽ trở thành vật thay thế cho nền cộng hịa.

<b>Mơ hình người được ủy quyền (delegate) </b>

Theo đó, một “delegate” là người mà hành động như thể một cái dây dẫn giúp truyền tải ý kiến của những người khác. Những người này có rất ít hoặc khơng có khả năng thực hiện những phán xét của riêng mình. Ví dụ có thể kể đến như những người sales bán hàng hay đại sử của 1 quốc gia ở 1 nước khác. Họ không được phép, không được cấp quyền để nói theo sở thích, mong muốn của họ. Những người ủng hộ mơ hình “delegate” này thường ủng hộ cơ chế đảm bảo rằng những chính trị gia sẽ liên quan một cách chặt chẽ nhất có thể đối với ý kiến người được họ đại diện. Thêm vào đó, những người cấp tiến theo chế độ dân chủ ủng hộ việc sử dụng những cuộc trưng cầu ý dân và “quyền hủy bỏ” (hủy bỏ ở đây là một quy trình các nơi bầu cử có thể u cầu những công chức mà người dân cảm thấy không hài lịng đến giải trình những hành động của mình, thậm chí có thể loại bỏ họ khỏi bộ máy công quyền) nhưu những cách thức để cơng chúng có quyền kiểm soát nhiều hơn đối với các chính trị gia. Ưu điểm của cái gọi là “delagate” là nó mang lại cơ hội rộng lớn để mọi người cùng tham gia và kiểm tra q trình hoạt động của những chính trị gia. Điều này khiến nó tiến gần hơn với lý tưởng về chủ quyền nhân dân (nguyên lý mà quyền lực lớn nhất chính là ý chí của người dân). Về nhược điểm của mơ hình này, thứ nhất, bởi vì những người đại diện phải đảm bảo việc gắn kết một cách chặt chẽ nhất với ý kiến, quyền lợi của cử tri mà cử tri thì rất đơng, mỗi người một ý kiến nên mơ hình này sẽ tạo ra những cuộc xung đột, khơng có sự đồn kết. Thứ hai, vì các chính trị gia khơng được tin tưởng để thực thi những quyết định của chính họ, sự ủy quyền này đã làm giới hạn tầm nhìn của những người lãnh đạo, quản lý Nhà nước. Các chính trị gia bị buộc phải phản ánh y hệt ý kiến của công chúng do vậy mà không thể nào tạo ra sự động viên, huy động người dân bằng tầm nhìn và niềm cảm hứng.

<b>Mơ hình “mandate” </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small>3 </small>

Hai mơ hình phía trên ra đời trước khi có sự xuất hiện của các đảng phái chính trị hiện đại và do đó, xem xét những người đại diện như những diễn viên độc lập. Những ứng cử viên hiếm khi được người ta bầu chọn đơn thuần chỉ vì tài năng và phẩm chất của họ mà vì họ là thành viên của một đảng nào đó, được đảng đó ủng hộ ra tranh cử hoặc đại diện cho chính sách cảu một đảng nào đó. Từ đây, mơ hình thứ ba về đại diện ra đời. Mơ hình này dựa trên một cơ sở đó là, khi mà một đnagr chính trị giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử, họ sẽ có quyền lực để tiến hành thực thi những chính sách đã được đề ra trong chiến dịch tranh cử của mình. Các chính trị gia phục vụ cử tri của họ khơng phải bằng việc nghĩ cho lợi ích của cử tri, không phải như một kênh truyền đạt ý kiến của họ mà bằng cách trung thành với đảng phái chính trị và chính sách của đảng phái đó. Điểm mạnh của mơ hình này đó là nó đã tính đến tầm quan trọng thực tiễn không thể chổi bỏ của đảng phái chính trị và những chính sách của đảng đó. Hơn vậy, nó cung cấp một phương thức áp đặt một thứ ý nghĩa nào đó lên kết quả của cuộc bầu cử. Tuy vậy, lý thuyết này vẫn bị chỉ trích dữ dội. Đầu tiên, quan điểm này dựa trên một kiểu mẫu về hành vi bầu cử đáng ngờ tới độ những người bầu cử lựa chọn các đảng phải dựa vào chính sach và các vấn đề. Cử tri thì khơng phải lúc nào cũng lý tính và có hiểu biết như quan điểm này đề ra. Họ có thể bị ảnh hưởng bởi những nhân tố phi lý tính như: tính cách của người lãnh đạo, điều kiện xã hội, hình ảnh của đảng… Thứ hai, ngay cả khi cử tri bị ảnh hưởng bởi các chính sách, có vẻ như là họ bị thu hút bởi một vài lời tun ngơn hay cam kết nào đó vàít có hứng thú hơn thâm chí là đối lập với những cái còn lại. Một phiếu bầu cho đảng khi đó khơng thể được coi là sự tán thành dành cho tồn bộ tun ngơn của đảng ấy hay bất kì một lời hứa bầu cử nào. Thứ ba, cái lý thuyết này tạo ra sự kìm hãm, gị bó. Nó tạo ra hạn định đối với các chính sách củ chính phủ, khơng chừa khoảng trống cho sự ứng biến.

<b>Mơ hình resemblance </b>

Lý thuyết cuối cùng về người đại diện ít dựa vào cách thức mà người đại diện được chọn so với việc có hay khơng việc tương tự hoặc là điển hình cho tổ chức mà họ đại diện. Một chính phủ đại diện sẽ tạo ra một mơ hình thu nhỏ của xã hội, gồm những thành viên từ mọi giai tầng trong xã hội với số lượng tương đương với số lượng bên ngồi của xã hội. Ý tưởng của mơ hình này được tán thành bởi các những người theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa, nữ quyền và một số khác. Mơ hình này cho rằng chỉ những người đến từ một giai tầng nhất định, trong xã hơi, sống trong hồn cảnh ấy thì mới hiểu được những người khác cùng có hồn cảnh tương tự như vậy. Đây là sự khác biệt giữa đặt mình vào hồn cảnh người khác và thực sự tự mình trải qua hồn cảnh ấy. Ví dụ như, một người đàn ông tỏ ra đồng cảm với những khó khăn của người phụ nữ và ủng hộ nữ quyền nhưng họ sẽ không bao giờ nhìn nhận những vấn đề của nữ giới nghiêm túc như chính người phụ nữ bởi vì họ khơng phải là phụ nữ. Nhược điểm của học thuyết này là nó thu hẹp định nghĩa về đại diện. Theo đó, chỉ có phụ nữ mới đại diện được cho phụ nữ, công nhân mới đại diện được cho công nhân, người da đen mới đại diện được cho người da đen. Cứ theo cách diễn giải như vậy thì kết quả sẽ là sự chia rẽ xã hội, những cuộc đấu tranh gay gắt không ngừng, không ai hướng tới lợi ích chung cho tồn thể cộng đồng.<sup>1</sup>

<small> </small>

<small> Politic the fourth edition- Andrew Heywood </small>

<small>Vì tính phức tạp của vấn đề, cũng như một số thuật ngữ Tiếng anh khó có thể dịch sang Tiếng Việt một cách chính xác và cũng vì khả năng dịch thuật cịn hạn chế nên mong thầy cô khi đọc thông cảm. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>4 </small>

<b>2.1.2 Khái niệm bầu cử </b>

Bầu cử được xem là trái tim của dân chủ, là chế định trọng tâm của dân chủ đại diện. Xét từ khía cạnh thực tế, bầu cử được xem là quy trình chính trị-pháp lý trong đó người dân tự do tiến hành lựa chọn những người đại diện mình thực hiện quyền lực nhà nước, quản lý xã hội. Đó là một quy trình, một sự kiện gồm nhiều công đoạn và công việc khác nhau để tổ chức cho người dân đi bầu chọn người nắm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước trong một danh sách bao gồm các ứng cử viên. Mỗi cuộc bầu cử thường gắn yới việc bầu ra một cơ quan trong bộ máy nhà nước. Vì thường có một số lượng lớn người dân tham gia vào các cuộc bầu cử và quy mô của các cuộc bầu cử cũng cộ thể diễn ra trên phạm vi lãnh thồ rộng lớn nên công tác tổ chức các cuộc bầu cử địi hỏi nhiều cơng đoạn và cơng việc phức tạp, thường được tiến hành trong một thời gian dài, có thể tính bằng tháng hoặc thậm chí hàng năm.

Trong bộ máy nhà nước hiện đại có một số cách thức phổ biến để lựa chọn một người vào một chức vụ nào đó trong bộ máy nhà nước, bao gồm: bầu cử, bầu và bổ nhiệm. Bổ nhiệm là việc một cá nhân có chức vụ cao hơn trong bộ máy nhà nước chọn một người vào vị trí cấp dưới của mình, ví dụ, một vị bộ trưởng bổ nhiệm một vị lãnh đạo cấp cục hay tổng cục thuộc quyền quản lý của mình. Bầu cử là cách thức lựa chọn người nắm giữ chức vụ do một cơ quan nhà nước thực hiện theo chế độ tập thể. Khác với bầu và bổ nhiệm, bầu cử là việc chọn lựa người nắm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước được thực hiện bởi người dân thông qua con đường bỏ phiếu tập thể. Người được người dân lựa chọn sẽ là người nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Sự khác biệt ở đây là hết sức cơ bản và nó nằm ở chủ thể thực hiện việc lựa chọn. Chủ thể thực hiện việc bầu hay bổ nhiệm đều là cơ quan nhà nước hoặc người đang nắm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước. Chủ thể thực hiện việc bàu cử là người dân, tức là những người không nắm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước. Họ là thành viên trong cộng đồng tiến hành bầu cử để lựa chọn người sẽ cai trị mình.

Ngồi cách hiểu như một phương thức lựa chọn người bầu cư thi quyều lực nhà nước, thuật ngữ “bầu cử” cũng được dùng để chỉ quyền của người dân bong lĩnh vực chính trị - Quyền bầu cử. Chữ “quyền” ở đây có thể được hiểu ở hai góc độ. Thứ nhất, quyền có nghĩa là sự đúng đắn, sự chính đáng, có nghĩa là việc người dân bầu chọn người cai trị minh là một điều đúng đắn, một quyền tự nhiên phải có nếu một xã hội được coi là dân chủ. Thứ hai, quyền bầu cử là một quyền cơ bản của người dân lựa chọn người cầm quyền. Quyền bầu cử thường được ghi nhận trong hiến pháp của các quốc gia cũng như các điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người, ví dụ, Điều 25 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966. Ở nghĩa rộng, quyền bầu cử bao gồm quyền bầu cử, tức là quyền bầu chọn hoặc không bầu chọn, và quyền ứng cử, tức là quyền được bầu chọn. Chủ thể của các quyền này đều là người dân. Tất nhiên điều kiện cụ thể để người dân được hưởng và thực hiện quyền bầu cử thường được quy định chi tiết trong hiến pháp và pháp luật quốc gia.

Tóm lại, bầu cử là một hoạt động chính trị của con người, qua đó người dân tiến hành chọn lựa những người mà họ cảm thấy là phù hợp đại diện cho mình thành lập nên chính quyền hợp pháp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small>5 </small>

<b>2.1.3 Vai trò của bầu cử </b>

Với tư cách là một cách thức để lựa chọn người nắm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước và là một quyền bầu chọn của người dân, bầu cử có tầm quan trọng đặc biệt trong nhà nước và xã hội hiện đại, thể hiện ở hai khía cạnh sau:

Bầu cử là cơ sở của nền dân chủ hiện đại.

Bầu cử là cơ sở hình thành bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Thứ nhất, bầu cử là cơ sở của nền dân chủ hiện đại. Dân chủ trong tiếng Anh là Democracy, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “Demokratỉa” và được hợp thành bởi hai từ “Demos”, có nghĩa là người dân, và “Kratos”, có nghĩa là quyền lực nhà nước. Như vậy có thể hiểu đơn giản nền dân chủ là một chế độ chính trị trong đó quyền lực nhà nước thuộc về người dân, ý chí của người dân là ý chí quyết định trong việc giành, giao và thực hiện quyền lực nhà nước. Bầu cử là quá trình lựa chọn và trao quyền lực nhà nước cho một hoặc một nhóm người để thực hiện đối với toàn xã hội. Việc ai được giao thực hiện quyền lực nhà nước, đặc biệt là đối với những nhóm quyền lực trọng yếu nhất như quyền lập pháp, hành pháp, quyền đại diện quốc gia trong đối nội và đối ngoại..., là những vấn đề hệ trọng. Quyền lực nhà nước được trao như thể nào cũng quyết định việc quyền lực nhà nước được thực hiện như thế nào. Quyền lực nhà nước được trao bằng con đường bầu cử cũng có nghĩa là bằng việc khơng bầu chọn, người dân cũng có thể tước quyền lực nhà nước từ tay người đang nắm quyền và qua đó tác động tới cách thức thực hiện quyền lực nhà nước của người đang nắm quyền. Quyền lực nhà nước được người dân gửi gắm cũng có nghĩa là quyền lực nhà nước phải được thực hiện vì lợi ích của nhân dân và khi đó mới có nền dân chủ thực sự.

Thứ hai, bầu cử là cơ sở hình thành chính quyền đại diện, bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trung tâm của bất kì hệ thống chính trị nào cũng đều là bộ máy chính quyền hay bộ máy nhà nước. Bản chất của bộ máy chính quyền quyết định tính dân chủ của hệ thống chính trị. John Stewart Mill, một học giả nổi tiếng của Anh quốc thế kỉ XIX, cho rằng mơ hình chính quyền lý tưởng nhất của nền dân chủ là khi mọi người dân trực tiếp tham gia việc đưa ra quyết định và tổ chức thực thi các quyết định đó, tương tự mơ hình ở các thành bang Hy Lạp cổ đại đề cập trên đây. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng hình thức này chỉ phù họp với những thành bang có quy mơ như các đơ thị nhỏ; đối với các quốc gia hiện đại, mơ hình chính quyền lý tưởng nhất là chính quyền đại diện, tức là chính quyền do người dân bầu ra thông qua con đường bầu cử. Ngày nay, quan điểm về chính quyền đại diện được phát triển thành quan điểm bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong bộ máy nhà nước lý tưởng này, các cơ quan nhà nước không những có nguồn gốc hình thành từ nhân dân mà cịn phải hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Cho dù có sự phát triển về quan điểm như vậy thì vai trò của bầu cử vẫn khơng thay đổi. Chính qua bầu cử mà hình thành một cách trực tiếp hay gián tiếp toàn bộ các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Chính qua bầu cử mà mối quan hệ chặt chẽ giữa người dân và những người được họ bầu chọn frong các cơ quan nhà nước được thiết lập để rồi từ đó người dân thực thi được quyền theo dõi, giám sát và bầu chọn lại của mình đối với người mà họ đã bầu chọn, qua đó bảo đảm các cơ quan nhà nước, hay chính xác hơn là những người họ đã bầu chọn, phải hoạt động vì lợi ích của người dân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<small>6 </small>

<b>2.1.4 Bầu cử có nên bắt buộc hay khơng </b>

<b>Những người ủng hộ có dựa vào những lí lẽ sau </b>

Gia tăng tỉ lệ tham gia: Việc bắt buộc đi bầu cử tất yếu sẽ dẫn đến hệ quẩ đó là gia tăng tỉ lệ tham gia bầu cử. Tuy nhiên, thông qua việc bát buộc đi bầu cử, người dân sẽ có cơ hội tham gia tiếp xúc vào những vấn đề chung của đất nước, bày tỏ được nguyện vọng, ý chí của mình.

Tạo ra tính chính danh lớn hơn: Một nhà nước hình thành dựa trên việc bắt buộc bầu cử sẽ có thể dựa vào sự ủng hộ của đa số người dân hơn là sự ủng hộ đa số của chỉ những người đi bầu. Vì được ủng hộ của đa số quần chúng nên việc hình thành nhà nước ấy sẽ có tính chính danh hơn.

Là nghĩa vụ của cơng dân: Một cơng dân có quyền bầu cử thì đồng thời cũng phải có nghĩa vụ bầu cử, vì theo họ quyền không tách rời nghĩa vụ.

Chống lại những bất công của xã hội: Xã hội có những người yếu thế, những người nghèo, ít được giáo dục. Bắt buộc bầu cử giúp cho những thành phần này có quyền được lên tiếng, này tỏ nguyện vọng của mình, bầu ra những người có thể giúp đỡ họ thay đổi cuộc đời.

<b>Những người phản đối bắt buộc bầu cử dựa vào những lí lẽ sau </b>

Lạm dụng quyền tự do cá nhân: Bắt buộc kể cẩ khi là dưới danh nghĩa của dân chủ thì vẫn là sự xâm phạm quyền tự do cá nhân trắng trợn. Quyền không bỏ phiếu cũng quan trọng như quyền bỏ phiếu cho một ai đó vậy. Việc khơng bỏ phiếu là hành động xuất phát từ lý trí của người đó, là hành động có chủ đích

Việc ép buộc đi bầu cử chỉ tạo nên một nền dân chủ giả tạo, bởi những lá phiếu ấy không xuất phát từ thật tâm của họ. Việc bắt ép này chỉ có thể tạo ra con số cao về lượng người bầu cử, chỉ giải quyết được triệu chứng bên ngồi chứ khơng chữa được gốc rễ sâu xa.

Bắt ép đi bầu cử chỉ tạo ra những lá phiếu vô giá trị. Thơng thường, những người khơng đi bầu thường khơng có hứng thú về chính trị. Việc bắt ép những người này bỏ phiếu chỉ đơn giản là tăng lên số lượng những lá phiếu bầu một cách ngẫu nhiên và thiếu suy nghĩ. Bởi họ khơng có hứng thú nên sẽ chọn bừa các ứng viên.<sup>2</sup>

<b>2.2 Một số hệ thống bầu cử phổ biến 2.2.1 Hệ thống theo đa số </b>

Nguyên lý của hệ thống này rất đơn giản, ứng cử viên (hoặc đảng phái chính trị) nào thu được nhiều phiếu hơn sẽ trúng cử (ở mỗi “biến cách”, có thể có thêm những quy định bổ sung). Hệ thống này có năm “biến cách” sau:

<b>Phương pháp ai về trước là người thắng cuộc (First Past The Post -FPTP) </b>

Đây là phương pháp có nguyên lý đơn giản nhất trong các phương pháp theo hệ thống đa số. Theo đó, ai nhận được nhiều phiếu nhất là trúng cử, kể cả số phiếu họ nhận được chưa quá nửa số phiếu hợp lệ. Về lý thuyết, có thể xảy ra tình trạng có ứng cử viên nhận được rất

<small> </small>

<small>2 Politic the fourth edition- Andrew Heywood </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>7 </small>

ít phiếu nhưng vẫn trúng cử. Để hạn chế tình trạng này, pháp luật bầu cử một số nước đưa ra những quy định bổ sung khác nhau, chẳng hạn quy định tỉ lệ tối thiểu phải đạt được. Phương pháp này thường áp dụng đối với đơn vị bầu cử một thành viên (single – member districts) và thường áp dụng để lựa chọn ứng cử viên hơn là các đảng phái chính trị.

Phương pháp bầu cử này, nếu mang tính nguyên thủy, được áp dụng ở Anh quốc và một số nước trước đây là thuộc địa hoặc bị ảnh hưởng của Anh như Canada, ấn Độ, Mỹ. Nó cũng được áp dụng ở một số nước châu á, như Bangladesh, Burma, Malaysia, Nepan và nhiều quốc gia đảo ở nam Thái Bình Dương. Ngồi ra, phương pháp này cịn được áp dụng tại một số nước vùng Caribê ở châu Mỹ La tinh và 15 nước ở châu Phi.

<b>Phương pháp lá phiếu khối (Block Vote -BV) </b>

Đây là một hình thức của hệ thống bầu cử đa số được áp dụng theo đơn vị bầu cử nhiều đại diện (multi – member districts). Cử tri bỏ phiếu để bầu một số lượng đại biểu được phân bổ cho đơn vị bầu cử đó (hoặc ít hơn, nếu họ muốn). ứng cử viên nào nhận được số phiếu cao hơn thì trúng cử. Phương pháp bầu cử này thường được áp dụng để bầu các đại biểu hơn là bầu các đảng phái chính trị. Phương pháp này được áp dụng tại nhiều nước như Bermuda, Laos, Thailand, Mandives, Kuwait, Philippines. Nó cũng đã từng được áp dụng tại Jordan vào 1992, Mongolia vào 1992. Tuy nhiên, sau đó hai nước này đã thay đổi bằng việc áp dụng phương pháp hỗn hợp.

<b>Phương pháp bầu cử lá phiếu khối theo đảng phái chính trị (Party Block Vote -PBV) </b>

Cũng giống như hệ thống lá phiếu khối, đây là một hình thức của hệ thống bầu cử đa số được áp dụng cho các cuộc bầu cử quốc hội. Theo đó, mỗi đơn vị bầu cử không bầu một đại biểu mà bầu một số lượng đại biểu nhất định, thường là cử tri chọn đảng phái chính trị và đảng nào chiến thắng thì đảng đó chiếm tồn bộ số ghế trong đơn vị bầu cử đó. Cũng giống như trong phương pháp FPTP ở trên, khơng có quy định người thắng cuộc phải nhận được đa số tuyệt đối phiếu bầu, chỉ cần ai nhiều phiếu hơn thì người đó thắng cử. Phương pháp này hiện nay được áp dụng ở Djibouti, Lebanon. Ngồi ra, nó cịn được thực hiện trong hầu hết các cuộc bầu cử ở Singapore, Tunisia và Senegal.

<b>Lá phiếu thay thế (Alternative Vote -AV) </b>

Phương pháp này thông thường áp dụng đối với đơn vị bầu cử đơn danh (single – member districts). Cử tri có nhiều sự lựa chọn. Họ đánh dấu các ứng cử viên mà họ lựa chọn theo thứ tự ưu tiên. Chẳng hạn, họ đánh dấu “1” cho ứng cử viên mà họ thích nhất, số “2” cho ứng cử viên họ thích thứ nhì, số “3” cho ứng cử viên tín nhiệm thứ ba (hệ thống này còn gọi là bầu cử theo ý thích). Khi tổng kết, nếu số phiếu dành cho các ứng cử viên có ưu tiên một khơng đưa đến kết quả là có một ứng cử viên nào đạt đươc đa số phiếu bầu thì ứng cử viên thứ nhất sẽ bị loại và số phiếu dành cho ứng cử viên này sẽ đem chia cho các ứng cử viên xếp thứ hai trên phiếu bầu. Cách thức này được áp dụng cho đến khi tìm ra được ứng cử viên đạt được đa số phiếu. Hệ thống này đang được áp dụng tại Australia, Papua New Guinea và được áp dụng biến thể tại một số nước ở châu Đại Dương. Phương pháp này cũng được áp dụng bầu cử tổng thống ở Cộng hồ Ireland.

<b>Phương pháp hai vịng (Two-Round System -TRS) </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>8 </small>

Như tên gọi của nó, phương pháp này thường khơng tổ chức một lần, mà là hai vòng, lần hai thường được tổ chức cách lần một khoảng thời gian từ một đến hai tuần. Vòng một được áp dụng theo nguyên lý của phương pháp đa số. Nếu có ứng cử viên nào nhận được đa số tuyệt đối số phiếu bầu, thì ứng cử viên đó thắng cuộc mà khơng cần tổ chức bầu cử vịng hai. Nếu khơng có ứng cử viên nhận được số phiếu đa số tuyệt đối, thì một cuộc bầu cử thứ hai được tổ chức. Tuy nhiên, việc quy định cụ thể như thế nào ở vịng hai thì ở mỗi nước là khác nhau. Thơng thường, vịng hai, cử tri lựa chọn trong số hai ứng cử viên nhận được số phiếu cao nhất trong vòng một, và ứng cử viên nào nhận được nhiều phiếu hơn thì thắng cử, như ở Ukraine. Ở Pháp, trong các cuộc bầu cử quốc hội, chỉ những ứng cử viên nào nhận được trên 12,5% số phiếu bầu trên tổng số danh sách cử tri tại cuộc bầu cử vòng một mới được vào vòng hai. Tại vòng hai, ứng cử viên nào nhận được số phiếu cao nhất thì thắng cử, khơng kể số phiếu mà họ nhận được là đa số tuyệt đối hay khơng.

Hệ thống hai vịng hiện nay được áp dụng trên 22 quốc gia trong việc bầu cử quốc hội và phổ biến hơn trong việc bầu cử tổng thống. Ngồi Pháp là quốc gia điển hình, nhiều nước như Mali, Togo, Gabon, Egypt, Cuba, Haiti, Iran… và một số nước thời kỳ hậu Xô viết (Belarus, Kyrgyzstan, Turkmenistan and Uzbekistan) cũng áp dụng.

<b>2.2.2 Hệ thống đại diện tỉ lệ </b>

Hệ thống này đương nhiên được áp dụng để bầu cơ quan lập pháp. Nguyên lý của hệ thống này là cơ quan lập pháp được bầu trên cơ sở các đảng phái chính trị. Các đảng phái chính trị nhận đươc số ghế theo tỉ lệ số phiếu bầu mà đảng phái mình nhận được. Thực ra, nguyên lý cơ bản của hệ thống này là cơ quan lập pháp được thành lập trên cơ cở phải bảo đảm tính cân đối – hợp lý số lượng các đại biểu đại diện cho các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, địa phương, tơn giáo, lứa tuổi… Tuy nhiên, hiện nay tiêu chí để phân chia đại biểu (ghế) của hệ thống này thường là theo đảng phái chính trị, khối cử tri mà ít theo các tiêu chí khác như địa phương, dân tộc, lứa tuổi… Cơ quan được bầu được tính toán theo tỉ lệ phiếu bầu mà các đảng phái chính trị nhận được như đã nói ở trên.

Hệ thống đại diện tỉ lệ đòi hỏi mỗi đơn vị bầu cử phải bầu ít nhất là hai đại biểu và nếu số lượng đại biểu được bầu càng nhiều thì tính cân đối, hợp lý càng cao. Về ngun lý, nếu cả quốc gia là một đơn vị bầu cử thì tính dân chủ, tính hợp lý về đại diện được bảo đảm nhất. Phương pháp này có hai biến cách là:

<b> Phương pháp đại diện tỉ lệ theo danh sách (List Proportional Representation – List PR) </b>

Các đảng phái chính trị đưa ra một danh sách các ứng cử viên, cử tri bỏ phiếu cho các đảng phái chính trị. Các đảng phái chính trị nhận được số ghế tỉ lệ với tổng số phiếu nhận được theo đơn vị bầu cử. Tuy nhiên, có ba cách thức khác nhau giữa các nước trong việc lựa chọn các ứng cử viên cụ thể: danh sách “đóng” (closed lists), danh sách “mở” (open lists) và danh sách “tự do” (free list).

Phổ biến nhất ở các nước khi áp dụng phương pháp List PR là theo cách thức “đóng”. Cử tri không bỏ phiếu cho các ứng cử viên cụ thể mà bỏ phiếu cho các đảng phái chính trị. Các đảng phái trình một danh sách các ứng cử viên của đảng phái mình. Trong lá phiếu ghi tên đảng phái chính trị, nhưng khơng có tên của các ứng cử viên. Các ứng cử viên do các

</div>

×