Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

thực trạng công tác giáo dục sức khỏe của điều dưỡng cho người bệnh điều trị nội trú tại trung tâm y tế huyện tân sơn phú thọ năm 2023

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.14 KB, 38 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

LỜI CẢM ƠN

Sau 2 năm học tập, giờ đây khi chuyên đề tốt nghiệp đang được hồn thành, tơixin bày tỏ lịng biết ơn chân thành và sâu sắc tới ThS.– Giảng viên Trường– người đãtận tình hướng dẫn tơi trong q trình học tập và thực hiện chuyên đề tốt nghiệp này.

Tôi xin chân thành cảm ơn các Bác sĩ, Điều dưỡng tại Trung tâm Y tếhuyện Tân Sơn, Phú Thọ đã quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thựchiện chuyên đề tốt nghiệp này.

Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cám ơn tới Ban Giám hiệu, các thầy côgiáo trường, gia đình và bạn bè đã ln giúp đỡ tơi trong quá trình học tập vàthực hiện chuyên đề.

Xin chân thành cảm ơn!

HỌC VIÊN

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Hà Thị Mai Loan xin cam đoan đây là cơng trình của riêng tơi, do chínhtơi thực hiện, tất cả số liệu trong báo cáo này chưa được công bố trong bất cứ cơng trìnhnào khác. Nếu có gì sai trái tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.

Người cam đoan

Hà Thị Mai Loan

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

1. Cơ sở lý luận...4

2. Cơ sở thực tiễn...14

Chương 2. 17MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT...17

2.1. Giới thiệu về Trung tâm Y tế huyện Tân Sơn tỉnh Phú Thọ...17

<small>2.2. Thực trạng công tác GDSK của điều dưỡng cho NB điều trị nội trú Trung tâm Y</small>tế huyện Tân Sơn, Phú Thọ...17

Chương 3 21BÀN LUẬN...21

<small>3.1 Thực trạng công tác giáo dục sức khỏe của điều dưỡng cho người bệnh điều trị nội</small>trú tại Trung tâm Y tế huyện Tân Sơn, Phú Thọ...21

3.2. Phân tích những điểm mạnh, hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện công tácGDSK của điều dưỡng tại Trung tâm Y tế huyện Tân Sơn, Phú Thọ...22

ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC SỨCKHỎE CỦA ĐIỀU DƯỠNG CHO NGƯỜI BỆNH...25

KẾT LUẬN...27

TÀI LIỆU THAM KHẢO...

Phụ lục 1BỘ CÂU HỎI ĐIỀU TRA ...

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Bộ Y tế

Chăm sóc sức khỏe ban đầuĐiều dưỡng

Điều trị tích cựcGiáo dục sức khỏeHồi sức cấp cứuHội đồng người bệnhNgười bệnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.2 Đánh giá chất lượng tư vấn giáo dục sức khỏe qua kênh

18phiếu khảo sát người bệnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

ĐẶT VẤN ĐỀ

Giáo dục sức khỏe đã được tuyên ngôn Alma - Ata (1978) coi như giải pháphàng đầu để thực hiện chiến lược toàn cầu "Sức khỏe cho mọi người đến năm 2000"và vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Ngành Y tế Việt nam cũng đã đưa giáodục sức khỏe vào vị trí số 1 trong 10 nội dung CSSKBĐ [1].

Giáo dục sức khỏe là một bộ phận công tác y tế quan trọng nhằm làm thayđổi hành vi sức khỏe. Nó có vai trị to lớn trong việc góp phần bảo vệ và nângcao sức khỏe cho con người. Nếu giáo dục sức khỏe đạt hiệu quả, nó sẽ giúp làmgiảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tàn phế và tỷ lệ tử vong, nhất là ở các nước đang pháttriển [1],[2].

Hiện nay, công tác giáo dục sức khỏe chưa thực sự quan tâm. Do đó đánhgiá thực trạng giáo dục sức khỏe cho người bệnh, đề xuất giải pháp nâng caocông tác giáo dục sức khỏe cho người bệnh là thực sự cần thiết.

Công tác giáo dục sức khỏe của điều dưỡng cho người bệnh có vai trị rấtquan trọng, để làm tốt rất cần đến kiến thức và kỹ năng giáo dục sức khỏe của điềudưỡng. Mặt khác điều dưỡng chiếm số đông trong nhân lực của bệnh viện và cónhiều thời gian chăm sóc, tiếp xúc người bệnh trong quá trình nằm viện. Nếu làm tốtsẽ đạt mục tiêu tăng cường chất lượng điều trị, tăng khả năng phục hồi và cải thiệnchất lượng cuộc sống cho người bệnh, giảm số lần nhập viện, tiết kiệm chi phí chođiều trị. Thay đổi hành vi từ có hại sang có lợi, có kỹ năng yên tâm sống chung vớibệnh. Nếu làm không tốt, người bệnh không nhận thức đầy đủ về bệnh, không tuânthủ điều trị, không thay đổi hành vi, kết quả điều trị không tốt, không cải thiện đượcchất lượng cuộc sống, số lần nhập viện tăng, chi phí điều trị tăng, bệnh sẽ nặng lêncó thể tử vong [6].

Công tác giáo dục sức khỏe của Trung tâm Y tế huyện Tân Sơn, Phú Thọ đãđược sự quan tâm của Đảng ủy, Ban giám đốc bệnh viện. Tuy nhiên, qua kết quả đánhgiá công tác điều dưỡng của các khoa theo Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Namcủa Bộ Y tế phiên bản 2.0 với đánh giá theo 83 tiêu chí đã cho thấy cơng tác giáo dụcsức khỏe còn nhiều hạn chế, chỉ đạt mức 3/5. Bên cạnh đó, tại Trung tâm Y tế huyệnTân Sơn, Phú Thọ chưa có chuyên đề, đề tài nào về

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

công tác giáo dục sức khỏe của điều dưỡng cho người bệnh do vậy, chúng tôi

<i>thực hiện chuyên đề “Thực trạng công tác giáo dục sức khỏe của Điều dưỡng</i>

<i>cho người bệnh điều trị nội trú tại Trung tâm Y tế huyện Tân Sơn, Phú Thọ năm2023” nhằm chỉ ra thực trạng của công tác giáo dục sức khỏe của điều dưỡng cho</i>

người bệnh, để từ đó đề xuất giải pháp giúp điều dưỡng thực hiện tốt nhiệm vụgiáo dục sức khỏe cho người bệnh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Chương 1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1. Cơ sở lý luận

<i>1.1. Giáo dục sức khỏe</i>

<i>1.1.1. Khái niệm về Giáo dục sức khỏe</i>

Giáo dục sức khoẻ (GDSK): là một q trình tác động có mục đích và có kếhoạch lên tình cảm và lý trí của con người nhằm tạo ra hành vi có lợi hoặc làm thay đổihành vi sức khỏe (từ có hại thành có lợi) cho cá nhân và cộng đồng [1].

Mục đích chủ yếu của GDSK là giúp cho đối tượng tự nguyện tự giác thayđổi hành vi sức khỏe của chính mình.

Hành vi sức khỏe là hành vi con người có liên quan tới việc tạo ra sứckhỏe tốt, bảo vệ và phục hồi sức khỏe [1],[2],[15].

<i>1.1.2. Tầm quan trọng của GDSK</i>

GDSK là một bộ phận công tác y tế quan trọng nhằm làm thay đổi hành visức khỏe. Nó có vai trị to lớn trong việc góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe chocon người. Nếu GDSK đạt hiệu quả, nó sẽ giúp làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tànphế và tỷ lệ tử vong, nhất là ở các nước đang phát triển.

GDSK không thay thế được các cơng tác chăm sóc sức khỏe khác, nhưngGDSK rất cần thiết để thúc đẩy những người sử dụng các dịch vụ y tế, cũng nhưthúc đẩy phát triển các dịch vụ này.

Trong thực tế đã thấy rõ, nếu không làm tốt GDSK thì nhiều chương trình y tếsẽ đạt kết quả thấp và khơng bền vững, thậm chí có nguy cơ thất bại.

So với các giải pháp dịch vụ y tế khác, GDSK là một cơng tác khó làm vàkhó đánh giá kết quả, nhưng nếu làm tốt sẽ mang lại hiệu quả cao nhất với chi phíít nhất, nhất là ở tuyến y tế cơ sở.

Vì thế:

GDSK là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của hệ thống y tế, là một chứcnăng nghề nghiệp bắt buộc của mọi cán bộ y tế và của mọi cơ quan y tế từ

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Trung ương đến cơ sở. Nó là một chỉ tiêu hoạt động quan trọng của một cơ sở ytế [11],[15].

<i>1.1.3. Các phương pháp GDSK</i>

<i>1.1.3.1. Phương pháp GDSK trực tiếp [1],[2].</i>

Phương pháp GDSK trực tiếp là phương pháp người GDSK trực tiếp tiếp xúc vớiđối tượng GDSK. Đây là phương pháp tốt nhất, tiết kiệm nhất nhưng đạt hiệu quả caonhất đối với cá nhân, tập thể, cộng đồng. Người GDSK có thể nhanh chóng nhận đượccác thơng tin phản hồi từ đối tượng giáo dục nên tính điều chỉnh cao và có hiệu quả tốttrong việc giúp đỡ đối tượng thay đổi hành vi.

Cách thức

+) Tư vấn trong GDSK:

Là một hình thức thường được sử dụng trong GDSK, đặc biệt đối với cánhân và gia đình.Trong tư vấn, người tư vấn cung cấp thông tin cho đối tượng,động viên đối tượng suy nghĩ về vấn đề và chọn các hành động riêng để giảiquyết vấn đề. Tư vấn còn hỗ trợ tâm lý cho đối tượng khi họ hoang mang, lo sợvề vấn đề sức khỏe nghiêm trọng khi họ chưa hiểu rõ chúng.

+) Nói chuyện phổ biến kiến thức y học thường thức:

Tổ chức các cuộc nói chuyện sức khỏe giúp mọi người trực tiếp được nghenhững thông tin mới nhất về các vấn đề sức khỏe liên quan tới cá nhân, gia đình và cộngđồng nhằm giúp các đối tượng suy nghĩ và hướng tới việc thay đổi hành

vi. Tuy nhiên phương pháp này cần kết hợp các phương pháp và sự hỗ trợ khác. Khi tổ chức một buổi nói chuyện cần làm các việc sau:

- Xác định rõ chủ đề nói chuyện và chỉ nên khu trú vào một chủ đề nhấtđịnh.

- Xác định đối tượng tham dự, ngày giờ, địa điểm và thông báo trước để họchuẩn bị tới dự (chọn thời gian và địa điểm thích hợp).

- Xác định nội dung cốt lõi cần trình bày.- Xác định thứ tự trình bày.

- Chuẩn bị các phương tiện hỗ trợ thích hợp với chủ đề và thực tế tại địa phương.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Khi nói chuyện cần:

- Phải tôn trọng đối tượng.

- Xây dựng mối quan hệ với đối tượng trước khi nói chuyện.- Nên sử dụng ngôn ngữ địa phương rõ ràng, mạch lạc.- Cần kết hợp với tranh ảnh, mơ hình và ví dụ minh họa.

- Cần bao quát, quan sát đối tượng để điều chỉnh, giải đáp thắc mắc đầy đủ khi đối tượng yêu cầu.

- Kết thúc buổi nói chuyện cần tóm tắt những vấn đề mấu chốt nhất cho đối tượng dễ nhớ.

+) Tổ chức thảo luận nhóm:

Rất có hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe ban đầu cũng như trong GDSK.

<i>Thảo luận nhóm trong GDSK là ứng dụng nguyên lý "sự tham gia của cộng đồng"</i>

trong CSSKBĐ. Một nhóm thảo luận tốt nhất là từ 6 - 10 người để tạo cơ hội chotất cả các thành viên có thể trình bày và thảo luận làm sáng tỏ những vấn đề chưahiểu biết và nêu ra các biện pháp giải quyết các vướng mắc của họ hay của cộngđồng trong đó có họ sinh sống.

Các điểm cần thực hiện khi tổ chức thảo luận nhóm:- Xác định chủ đề, nội dung trọng tâm.

- Xác định mục tiêu của thảo luận nhóm.- Xác định đối tượng mời vào thảo luận nhóm.

- Cần chuẩn bị trước câu hỏi trọng tâm cho chủ đề thảo luận dựa trên những thông tin phù hợp với tình hình thực tế.

Trong một số trường hợp, tư vấn cần đáp ứng nhu cầu bí mật cho các đối tượng bị các bệnh xã hội có định kiến như bệnh lây qua đường tình dục.

+) Đối thoại trực tiếp giữa người làm GDSK với từng cá nhân trong lúc tiến hành các dịch vụ y tế.

<i>1.1.3.2. Phương pháp GDSK gián tiếp [1],[2]</i>

GDSK gián tiếp là phương pháp giáo dục mà người giáo dục không trựctiếp tiếp xúc với các đối tượng giáo dục, các nội dung giáo dục cần được chuyểntải qua các phương tiện thông tin đại chúng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Phương pháp này có tác dụng tốt khi chúng ta cung cấp, truyền bá các kiếnthức thông thường về bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho quảng đại quần chúngnhân dân một cách có hệ thống. Đó là phương pháp hiện nay vẫn được sử dụngkhá rộng rãi trên thế giới cũng như ở nước ta.

Phương pháp này kém hiệu quả và tốn kém, đòi hỏi kỹ thuật cao để vậnhành sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng.

Các phương tiện đại chúng thường được sử dụng trong phương phápGDSK gián tiếp là:

- Đài phát thanh, vơ tuyến truyền hình, video.- Tạp trí, sách báo, tranh ảnh, tranh lật, tờ rơi.- Pano, áp phích.

- Sách chuyên đề, sách hỏi đáp về sức khỏe bệnh tật.

<i>1.1.4. Phương tiện GDSK [1],[2],[15]</i>

Phương tiện GDSK là công cụ mà người GDSK sử dụng để thực hiện mộtphương pháp GDSK và qua đó truyền đạt nội dung GDSK cho đối tượng phânloại các phương tiện GDSK bao gồm:

Phương tiện bằng lời nói: Lời nói là cơng cụ sử dụng rộng rãi và rất hiệuquả trong GDSK nhất là lời nói trực tiếp với đối tượng. Sử dụng lời nói có thểtruyền tải các nội dung GDSK một cách linh hoạt phù hợp với đối tượng. Lời nóirất tiện lợi và mang lại hiệu quả cao, có thể sử dụng ở mọi nơi, mọi chỗ, với mọingười, với 1 gia đình, 1 nhóm nhỏ, 1 cộng đồng... Lời nói có thể dùng trực tiếphay gián tiếp, lời nói còn được dùng để hỗ trợ, phối hợp với các phương tiệnGDSK khác như tranh ảnh, pano, áp phích, mơ hình...Người nói nếu khơng nắmchắc được nội dung truyền đạt có thể dẫn đến việc cung cấp thơng tin khơngchính xác và gây hiểu lầm cho đối tượng

Phương tiện bằng chữ viết.

Phương tiện tác động qua thị giác (phương tiện GDSK trực quan) tranh, ảnh, pano...

Phương tiện nghe, nhìn: ti vi, ...

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i>1.1.5. Lựa chọn nội dung GDSK</i>

Nội dung GDSK là những thơng tin chính cần trao đổi với đối tượng GDSK trong một thời gian nhất định.

<i>Ví dụ: Nội dung GDSK về phịng chống một bệnh nào đó thường theo </i>

trình tự sau:

+ Ảnh hưởng xấu do bệnh gây ra.

+ Tầm quan trọng của việc phòng chống bệnh đó.+ Nguyên nhân của bệnh, đường lây truyền.

+ Cách phát hiện và xử trí thơng thường tại nhà và các phương pháp phịngbệnh thơng thường khác [1],[2],[3].

<i>1.2. Vai trị của GDSK trong cơng tác điều dưỡng</i>

Chức năng nhiệm vụ chính của cơng tác điều dưỡng là chăm sóc ngườibệnh. Để nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh và tăng cường sự hài lịngngười bệnh thì điều dưỡng phải thực hiện tốt 12 nhiệm vụ của điều dưỡng đượcqui đinh tại thông tư 07/2011 của BYT hướng dẫn cơng tác điều dưỡng về chămsóc người bệnh trong bệnh viện. Trong đó, nhiệm vụ thứ nhất là tư vấn GDSK,có vai trị to lớn trong việc góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho con người.Nếu GDSK đạt hiệu quả nó sẽ giúp làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tàn phế và tỷlệ tử vong.

Điều dưỡng chiếm gần 50% trong tổng số nhân lực của bệnh viện và có nhiềuthời gian tiếp xúc với người bệnh từ khi mới vào viện đến khi ra viện. Do đó vai trị củaGDSK trong cơng tác điều dưỡng là rất quan trọng, nếu điều dưỡng làm tốt giúp ngườibệnh thay đổi hành vi từ có hại sang có lợi, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc,điều trị và tăng cường sự hài lòng người bệnh [3].

1.2.1. Giáo dục sức khỏe cho người bệnh

- GDSK nhằm giúp người bệnh hiểu rõ về bản chất của bệnh, các yếu tốnguy cơ cho sự tiến triển của căn bệnh, vai trò của người bệnh trong việc đạt đếnkết quả điều trị tối ưu.

- GDSK giúp cải thiện tỉ lệ người bệnh tuân thủ điều trị: dùng thuốc đều đặn, luyện tập vận động đều đặn, duy trì tình trạng dinh dưỡng ổn định.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

- Loại hình GDSK: phân phát các tài liệu in ấn, tổ chức các buổi trình bàycó minh họa bằng hình ảnh và tài liệu phát tay, thảo luận trong nhóm nhỏ giúphiểu rõ nội dung thông tin, trao đổi kinh nghiệm.

- Các nội dung giáo dục sức khỏe: Sinh bệnh học bệnh, kỹ năng sử dụngthuốc, hướng dẫn về dinh dưỡng, nhận biết và xử trí các dấu hiệu cảnh báo dấuhiệu nặng, cách vệ sinh.

Sống chung với di chứng bệnh với chất lượng cuộc sống tốt.

Hướng dẫn chi tiết và chu đáo những vấn đề trong đời sống hàng ngày, bao gồm cả đời sống tinh thần [5].

- Biết cách phòng bệnhThực hiện tiêm phòngLựa chọn thực phẩm.

1.2.2. Vai trị người điều dưỡng trong chăm sóc người bệnh

Cách đây hợp 100 năm, Florence Nightingale đã đưa ra một định nghĩa vềngành Điều dưỡng: “Điều dưỡng là một hành động thiết thực bảo về môi trườngchung quanh người bệnh để giúp cho người bệnh bình phục”. FlorenceNightingale đã đề cao vai trị của cơng tác điều dưỡng, người điều dưỡng khôngnhững được huấn luyện để chăm sóc bệnh nhận ốm đau mà cịn được huấn luyệnnhư những người nội trợ [15].

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Thập niên 60, Virginia Henderson là một trong những người điều dưỡngđầu tiên nêu ra định nghĩa điều dưỡng: “Chức năng của điều dưỡng là giúp đỡcác cá thể, đau ốm hoặc khỏe mạnh, giúp họ cải thiện chất lượng cuộc sống vàbình phục nhanh chóng. Người điều dưỡng cần thiết phải có sức khỏe, thơngminh, có kiến thức và có phong thái làm việc càng nhanh càng tốt”. Hendersoncho rằng, người điều dưỡng cần phải chăm sóc người bệnh khơng kể họ ốm đauhay khỏe mạnh. Bà còn đề cập đến việc giáo dục và ủng hộ vai trò của người điềudưỡng [15].

Năm 1984, Hội điều dưỡng Canada (Canadian Nurses Association) đã nêumột định nghĩa về ngành Điều dưỡng: “Điều dưỡng nghĩa là phải chăm sóc ngườibệnh phù hợp với bệnh tật của họ bao gồm cả việc luyện tập về tinh thần, chức năngvà phục vụ người bệnh trực tiếp hoặc gián tiếp, giúp cho người bệnh cải thiện sứckhỏe, ngăn chặn ốm đau, hòa nhập vào cộng đồng và xã hội”.

Bước sang thế kỷ XXI, ngành Điều dưỡng được xem như là một nghệ thuật, mộtmôn khoa học. Điều dưỡng là một ngành, nghề chăm sóc người bệnh. [15].

Chăm sóc đóng một vai trị quan trọng trong q trình phục hồi sức khỏecũng như tồn bộ những vấn đề khác của người bệnh, chính vì vậy ngay từ nhữngnăm 1950 Virginia Henderson đã nêu: chăm sóc phải thỏa mãn các nhu cầu vậtchất, tâm lý, văn hóa - xã hội và tinh thần của người bệnh. Dựa trên cơ sở nềntảng này, năm 1988 Danielsson và công sự đã nhận định “Về mặt nào đó cơng tácchăm sóc trùng hợp với công tác điều trị đồng thời bổ sung cho công tác điều trịnhằm tập trung giải quyết những vấn đề thể chất, tâm lý, xã hội và văn hóa chongười bệnh” [15].

Từ những quan điểm trên cho thấy để cơng tác chăm sóc mang đúng nghĩacủa nó và đảm bảo được chất lượng chăm sóc người bệnh góp phần nâng cao chấtlượng điều trị, từ đó tạo dựng niềm tin với người bệnh, nâng cao uy tín của bệnhviện thì cơng tác chăm sóc người bệnh phải được thực hiện theo phương châmchăm sóc tồn diện như chỉ thị của Bộ Y tế nhằm đưa chất lượng cơng tác chămsóc người bệnh ở nước ta đi dần vào nề nếp và đảm bảo hội nhập với các nướctrong khu vực và trên thế giới [15].

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Virginia Hendersson đưa ra định nghĩa về chức năng chăm sóc như sau:“Chức năng đặc trưng nhất của người điều dưỡng là giúp đỡ những cá nhân ốm yếuthực hiện những hoạt động của cơ thể mà họ không tự mình thực hiện được để gópphần cho sự bảo vệ hoặc phục hồi sức khỏe hoặc nếu chết thì cũng được chết thanhthản. Thực hiện nhiệm vụ này bằng một cách nào đó nhằm giúp người bệnh lấy lạiđược sự độc lập của cơ thể càng nhanh càng tốt. Khía cạnh cơng việc này, phần chứcnăng này là do người điều dưỡng chủ đồng thực hiện và tự điều khiển - về lĩnh vựcnày người điều dưỡng là bậc thầy” [15].

Để thực hiện đầy đủ vai trò và chức năng nghề nghiệp của mình, trongcơng việc hàng người người điều dưỡng cần phải thực hiện các chức năng:

- Chức năng phụ thuộc: đây là chức năng mà người điều dưỡng phải thực hiện những y lệnh của bác sỹ như tiêm thuốc, phát thuốc, thay băng, …

- Chức năng độc lập: đây là chức năng đặc trưng của người điều dưỡng.Với chức năng này người điều dưỡng phải tự mình thăm khám, nhận định vềngười bệnh để đưa ra những chẩn đoán điều dưỡng rồi lập kế hoạch chăm sóc,thực hiện kế hoạch chăm sóc đã đề ra rồi tự đánh giá sự thực hiện kế hoạch để cókế hoạch chăm sóc bệnh tiếp theo.

- Chức năng phối hợp: để hoàn thành được chức năng này, người điềudưỡng cần phải có sự liên hệ chặt chẽ với các nhân viên y tế khác như bác sỹ, kỹthuật viên y, nhà dinh dưỡng học, nhà tâm lý học, nhân viên y tế quản lý ngườibệnh ở tuyến cơ sở và cá nhân viên xã hội để thu thập thêm hoặc cung cấp nhữngthông tin về người bệnh hoặc yêu cầu sự giúp đỡ của những nhân viên đó đểngười bệnh được chăm sóc đầy đủ và tồn diện hơn [15].

Đối với người bệnh, điều dưỡng phải đảm bảo những vai trị sau:

- <i>Người chăm sóc: Đảm bảo những quy trình chăm sóc lâm sàng hồn hảo.Mục</i>

tiêu cơ bản của người điều dưỡng là thúc đẩy sự giao tiếp, hỗ trợ người bệnh bằng hànhđộng, bằng thái độ biểu thị sự quan tâm tới lợi ích của người bệnh. Mọi máy móc và kỹthuật hiện đại khơng thay thế được sự chăm sóc của người điều dưỡng vì các thiết bị nàysẽ không tác động được tới cảm xúc và điều chỉnh hành động cho thích ứng với nhữngnhu cầu đa dạng của mỗi người bệnh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<i>- Người truyền đạt thông tin: Người điều dưỡng thông tin với đồng nghiệp</i>

và các thành viên khác trong nhóm chăm sóc về kế hoạch và việc thực hiện kếhoạch chăm sóc cho mỗi người bệnh. Mỗi khi thực hiện một sự can thiệp vềchăm sóc, người điều dưỡng ghi chép vào hồ sơ những nhận xét và những thủthuật đã thực hiện cũng như sự đáp ứng của người bệnh. Người điều dưỡngthường xuyên giao tiếp cả bằng lời và bằng ngôn ngữ viết mỗi khi bàn giao ca,mỗi khi chuyển người bệnh tới một khoa khác hoặc khi người bệnh ra viện haychuyển tới một cơ sở y tế khác.

-<i>Người tư vấn: Tư vấn là quá trình giúp đỡ người bệnh nhận biết và đương đầu</i>

với những căng thẳng về tâm lý bệnh tật hoặc những vấn đề xã hội, có kiến thức nângcao sức khỏe. Người điều dưỡng tập trung khuyến khích người bệnh có

ý thức tự kiểm sốt. Tư vấn có thể thực hiện với một cá thể hoặc nhóm người vàđịi hỏi người điều dưỡng phải có kỹ năng để phân tích tình hình, tổng hợp thơngtin, đánh giá quá trình tiến triển của người bệnh sau khi đã được tư vấn. Ngườibệnh cần có thêm kiến thức để tự theo dõi và chăm sóc nhằm rút ngắn ngày nằmviện.

<i>- Người biện hộ cho người bệnh: Người biện hộ nghĩa là thúc đẩy những</i>

hành động tốt đẹp nhất cho người bệnh, bảo đảm cho những nhu cầu của ngườibệnh được đáp ứng. Ngoài ra, người điều dưỡng cịn có vai trị là người lãnh đạo,người quản lý, người làm công tác nghiên cứu điều dưỡng và là những chuyêngia giỏi về chăm sóc lâm sàng [1].

Tại các nước phát triển như Anh, Mỹ, Canada... cũng như các nước đangphát triển như Thái Lan, Philippines, Malaysia... điều dưỡng viên đã được nângcao vai trò trong việc quản lý các cơ sở y tế ban đầu, bệnh viện, đội chăm sóc sứckhỏe, tham gia khám và điều trị – chăm sóc các bệnh cấp và mạn tính theochun ngành của điều dưỡng và có mặt trong hầu hết các lĩnh vực khác và lànghề đang được kính trọng hiện nay [15].

Trước năm 1990, ở Việt Nam người điều dưỡng có tên gọi Y tá với chức năngphụ thuộc và vai trò phụ giúp, thực hiện y lệnh của thầy thuốc là chính. Họ được đào tạongắn hạn dưới một năm, làm theo phương pháp cầm tay chỉ việc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện nâng cao chương trình đào tạo điều dưỡng vớiđội ngũ điều dưỡng cao đẳng (3 năm), cử nhân điều dưỡng (4 năm) và thạc sĩ điềudưỡng (2 năm). Năm 2000, ngành Điều dưỡng Việt Nam đã hình thành được hệthống quản lý điều dưỡng ở các cấp. Có 65% Sở Y tế các tỉnh đã bổ nhiệm điềudưỡng trưởng, 84,7% các bệnh viện có Phịng điều dưỡng, cơng tác đào tạo điềudưỡng đã nâng lên ở trình độ cao đẳng và đại học. Thực hành điều dưỡng đangcóchuyển biến thơng qua thực hiện chăm sóc người bệnh tồn diện, vị trí xã hội củangười điều dưỡng đã được nhìn nhận [15].

Tuy nhiên, hiện tại ở nước ta, cứ 1 bác sĩ thì có 1,8 điều dưỡng, trong khi tỷlệ tối thiểu mà Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo là 1 bác sĩ/4 điều dưỡng. Tỷ lệnày ở Việt Nam thấp nhất trong khu vực Đông Nam Á. Thiếu người, trình độchưa cao, áp lực cơng việc lớn cũng là yếu tố làm ảnh hưởng đến chất lượngchăm sóc người bệnh trong bệnh viện hiện nay [15]

Chăm sóc sức khỏe nhân dân là sứ mệnh cao cả của người làm công tác y tế, bệnhviện là môi trường để nhân viên y tế thực hiện nhiệm vụ cao cả này. Điều dưỡng là lựclượng nhân viên y tế đông nhất trong bệnh viện và cũng là những người thường xuyêntiếp xúc với người bệnh. Bởi đơn giản, không chỉ là người thực hiện y lệnh của bác sĩ,người điều dưỡng còn hàng ngày, hàng giờ tiếp xúc với người bệnh; là người trực tiếpchăm sóc, điều trị, tư vấn sức khỏe cho người bệnh. Yêu cầu cần phải có của người điềudưỡng khơng dừng lại ở trình độ chun mơn tốt mà quan trọng hơn là phải có văn hóaứng xử. Thái độ, cách ứng xử của người điều dưỡng là “liều thuốc tinh thần” quan trọngvới mỗi người bệnh… Người điều dưỡng có vai trị quan trọng và ảnh hưởng lớn tronghệ thống chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng cho người bệnh và trong việc nâng caosức khỏe, phòng ngừa bệnh tật cho người bệnh khi rời khỏi bệnh viện. Như vậy, nângcao chất lượng chăm sóc tồn diện cho người bệnh cũng chính là nâng cao năng lực chođiều dưỡng. Điều dưỡng là lực lượng chính mang dịch vụ chăm sóc sức khỏe tới cộngđồng. Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá dịch vụ chăm sóc sức khỏe do người điều dưỡng,hộ sinh cung cấp là trụ cột của hệ thống y tế [1].

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Để làm tốt công tác, người điều dưỡng cần có những kỹ năng: Có kiến thứcchun mơn tốt, cập nhật kiến thức mới; Kỹ năng giao tiếp tốt; Kỹ năng tư vấn –giáo dục sức khỏe tốt; Có lịng nhiệt tình, đạo đức nghề nghiệp.

Nâng cao kỹ năng GDSK cho người điều dưỡng cũng chính là nâng cao chấtlượng nguồn lực điều dưỡng, hồn thiện cơng tác chăm sóc người bệnh tồn diện.Đây cũng là một nhu cầu cấp thiết của ngành Y tế để đáp ứng được mục tiêuchiến lược trong cơng tác chăm sóc sức khỏe cho người dân.

Với các ý nghĩa trên, GDSK giữ vai trị quan trọng và là một bộ phận hữucơ, khơng thể tách rời của hệ thống y tế, là một chức năng nghề nghiệp bắt buộccủa điều dưỡng, của mọi cán bộ y tế và của mọi cơ quan y tế từ trung ương đếncơ sở. Kỹ năng GDSK cũng là một trong những tố chất cơ bản giúp người điềudưỡng thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình [1].

1.2.3. Tầm quan trọng của GDSK đối với người bệnh

- Là một bộ phận công tác y tế quan trọng nhằm làm thay đổi hành vi sứckhỏe.

- Góp phần tạo ra, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho con người.-Nếu giáo dục sức khỏe đạt kết quả tốt nó sẽ giúp làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tàn phế và tỷ lệ tử vong nhất là ở các nước đang phát triển.

- Tăng cường hiệu quả các dịch vụ Y tế.2. Cơ sở thực tiễn

Thực tế cho thấy có rất ít nghiên cứu đánh giá trực tiếp và cụ thể về côngtác giáo dục sức khoẻ của điều dưỡng. Hoạt động này cơ bản chỉ dừng lại ở mứclà một phần của hoạt động kiểm tra công tác chăm sóc điều trị nói chung hoặctrong các đợt kiểm tra đánh giá chung chất lượng bệnh viện.

Với sự nỗ lực tìm hiểu và tổng quan các tài liệu hiện có chúng tơi ghi nhậnmột số thực trạng về cơng tác giáo dục sức khoẻ của điều dưỡng cho người bệnhdưới đây:

Năm 2005, trong một nghiên cứu mô tả cắt ngang của Bekele Chaka [16] ở 3bệnh viện công gồm Tikur Anbessa, Saint Paul và Zewditu Memorial tại tỉnh AddisAbaba, Ethiopia nhằm đánh giá cơng tác chăm sóc của điều dưỡng thông

</div>

×