Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Dinh Độc Lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.13 KB, 4 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>Họ tên: Trần Cẩm Hồng Lịch sử Đảng EC2001 </b>

<b>BÀI THU HOẠCH </b>

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc là những gì chúng ta có thể thấy được trong thời đại hiện nay, nhưng để có được những thứ đó, đất nước chúng ta đã phải “gồng mình” trải qua khơng ít những khó khăn, thăng trầm để có được như ngày hơm nay. Đó là những mồ hơi, là nước mắt thậm chí là cả máu xương của cha ông ta – những người đã ngã xuống và ngủ sâu trong lòng đất mẹ, họ đã phải đánh đổi cả sinh mệnh của mình để con cháu mai sau được hưởng trọn vẹn một nền hồ bình, độc lập, tự do. Như Bác Hồ từng nói: “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do! nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sơng có thể cạn, núi có thể mịn, song chân lý đó khơng bao giờ thay đổi.” Đã hơn nữa thế kỷ trôi qua, nhưng chân lý ấy luôn tồn tại, là lời hiệu triệu, là khát vọng, là niềm tự hào và là mục tiêu phấn đấu của nước non ta. Chiến tranh đã qua đi và để lại những mất mát, đau thương mà không một ngơn từ nào có thể diễn giải hết được. Dưới bầu trời hồ bình ngày nay, tơi đang đứng tại Dinh Độc Lập - một chứng nhân lịch sử của Sài Gòn, trong những cuộc chiến tranh chống thực dân, đế quốc xâm lược. Nằm toạ lạc tại số 135 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Bến Thành, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; Dinh Độc Lập hay cịn được biết đến với tên gọi Dinh Thống Nhất hay trước đây là Dinh Norodom.

Mang trong mình phong cách đơng tây kết hợp, Dinh Độc Lập là một trong những kiến trúc độc đáo của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ và được thiết kế theo triết lý phương Đông thể hiện qua các chữ Hán. Ta luôn biết rằng mỗi chữ Hán ln có hàm ý riêng từng chữ, Ngơ Viết Thụ đã khéo léo lồng ghép kiến thức uyên bác của mình cùng với lời gửi gắm vào trong mỗi cơng trình của ơng. Nhìn tổng quan mặt bằng của dinh Độc Lập đó là chữ Cát (吉) ngụ ý cát tường may mắn. Khi tách chữ cát (吉) ta được khẩu (口), trung (中), tam (三), chủ (主), hưng (興). Trong đó lầu thượng có dạng hình khẩu (口) gợi ý giáo dục, tự do ngơn luận; cột cờ ngay chính giữa tạo thành chữ trung (中) gợi sự trung chính; mái hiên lầu thượng bao lơn danh dự và mái đón tạo thành chữ thể hiện sự nhân ái, văn minh, kiên định; chữ tam (三) kết hợp với nét sổ trên kỳ đài tạo thành chữ chủ (主) ý nói về quyền lực

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

của nguyên thủ quốc gia. Cuối cùng là chữ hưng (興) tạo từ các đường nét trên mặt tiền toà nhà thể hiện khát vọng hưng thịnh. Dinh đã được khởi công xây dựng ngày 01/7/1962 và khánh thành vào ngày 31/10/1966. Không chỉ tinh xảo về mặt kiến trúc mà Dinh Độc Lập còn mang trên mình những triết lý phương Đơng sâu sắc.

Khi bước chân vào cổng của Dinh Độc Lập, hình ảnh hiện lên trong mắt chúng ta đó chính là một sân cỏ hình oval tạo cảm giác dễ chịu, thoải mái. Đi về phía tay phải chúng ta đó là hình ảnh 2 chiếc xe tăng 843 và 390 đã húc cổng tiến vào Dinh vào lúc 11 giờ ngày 30/04/1975 và 11 giờ 30 phút, Đại đội trưởng Bùi Quang Thận đã nhảy khỏi xe và cắm lá cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam trên nóc Dinh Độc Lập kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ và giành độc lập cho dân tộc. Cách đó không xa là chiếc máy bay F5E do Trung uý Nguyễn Thành Trung đã lái vào lúc 8 giờ 30 phút ngày 8/4/1975 và thả bom vào dinh nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của địch.

Bước từng bước chân trên bậc tam cấp của Dinh Độc Lập, hiện hữu trong mắt chúng ta đó là sự xa hoa, lộng lẫy mà có lẽ ở thời bấy giờ đó là sự hào nhoáng, sang trọng đại diện cho quyền lực của những người đứng đầu. Nhìn về phía bên tay phải chúng ta đó là phịng Nội các – đây là nơi diễn ra những cuộc họp quan trọng của Hội đồng Tổng trưởng và Nội các Việt Nam Cộng Hồ. Khơng thể phủ nhận rằng mỗi tơng màu chủ đạo ở đây đều có ý nghĩa ra của chúng, phịng Nội các với tơng màu chủ đạo là xanh lá nhằm tạo khơng khí thoải mái, dễ chịu, giảm đi sự căng thẳng của những cuộc họp.

Phía bên trái tơi đây chính là phịng Đại yến và như tên gọi của nó, đây là nơi những cuộc yến tiệc xa hoa, sang trọng nhằm tiếp đãi những vị khách quan trọng đã được tổ chức. Với sức chứa hơn 100 người và tông màu vàng chủ đạo, căn phịng đã tốt lên vẻ sang trọng, giàu có của nó. Đứng từ ngồi nhìn vào trong phịng Đại yến, ngang với tầm nhìn chúng ta đó là bức tranh gồm 7 tấm mà khơng ai khác chính do Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã vẽ và tặng vào dịp Dinh khánh thành. Một lần nữa, tâm ý sâu xa của nhà kiến trúc sư tài ba đã hiện hữu qua 2 câu thơ chữ Hán “ Cẩm tú sơn hà, thái bình thảo mộc” (non sơng gấm vóc, cây cỏ thái bình) gợi lên hình ảnh một Việt Nam thống nhất.

Căn phòng tiếp theo tại tầng trệt đó chính là phịng Khánh tiết với tơng đỏ chủ đạo và sức chứa hơn 500 người. Có thể nói phịng Khánh tiết vừa thể hiện sự quyền lực của phòng Nội các và sự sang trọng của phòng Đại Yến. Tại nơi đây vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 21

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

tháng 4 năm 1975 Tổng Thống chế độ cũ Nguyễn Văn Thiệu đã đọc diễn văn từ chức. Vào tháng 11 cùng năm, Hội nghị hiệp thương đã được tổ chức tại đây để thống nhất 2 miền Nam Bắc, từ đây non sông liền một dãy, Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, khơng cịn bị chia cắt và thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có lẽ nơi đây ln gắn liền với những sự kiện đặc biệt và có sức chứa được nhiều người trong cùng một lúc nên tại chính căn phịng này tơi đã có dịp thắp cho Ngun Thủ tướng Phan Văn Khải một nén hương tiễn biệt người về với đất mẹ.

Bước chân lên tầng 2 của Dinh, trước mặt chúng ta đó chính là phịng Hội đồng an ninh Quốc gia, nơi đây có những bản đồ đặc biệt phản ánh rõ tình hình chiến sự ở miền Nam. Vào lúc 9 giờ 30 phút ngày 25 tháng 3 năm 1975, trước sự tiến công của quân Giải phóng, tại đây Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh chi tư lệnh Quân đoàn I – Trung tướng Ngô Quang Trưởng rút quân ra khỏi Huế về cố thủ Đà Nẵng. Thơng với đó chính là phịng làm việc của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – nơi đây trang trí theo lối giản dị và tơng đỏ chủ đạo, phía đằng sau là bức tranh cảnh làng quê của ông, cánh cửa màu nâu bên cạnh chính là nơi dẫn xuống tầng hầm mồi khi có chiến sự. Từ chính phịng làm việc của mình, ngày 24 tháng 3 năm 1975 ông Nguyễn Văn Thiệu đã viết thư cho Tổng thống Hoa Kỳ với yêu cầu cho máy bay B52 oanh tạc vào các điểm đóng quân của quân Giải phóng và cũng như xin viện trợ khẩn cấp để ngăn chặn những cuộc tiến công của quân ta. Đối diện đó chính là phịng làm việc của Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. Trong căn phòng chúng ta dễ dàng nhìn thấy được bức tranh của vợ là bà Đặng Tuyết Mai cùng với nhiều kỉ niệm khi ơng cịn tại chức.

Tấm thảm hình trịn đặt tại chính giữa trung tâm tầng 2 trước năm 1975, tượng trưng cho trời, vịng bên ngồi được 4 con rồng bao quanh và có đơi phượng hồng và chữ “Thọ” viết theo chữ Hoa biểu tượng cho sự trường tồn. Rèm hoa đá hình trúc cũng như mang trong nó một ý nghĩa sâu xa đó chính là theo điển Tiết trực tâm hư và đây cũng là quốc huy của Việt Nam Cộng Hồ. Hình ảnh đó ngụ ý cho sự ngay thẳng, chính trực của quân tử.

Lần theo đó chúng ta đến với khu sinh hoạt gia đình Tổng Thống, có lẽ nơi đây như một hồng cung thu nhỏ, có đầy đủ tiện nghi và khơng kém phần sang trọng. Bước chân đến tầng 3 – là những phịng giải trí với những trị chơi như mạt trược, đánh bài. Đặc biệt nơi đây cịn có cả phòng chiếu phim hiện đại và tối tân nhất thời bất giờ. Khu vực này đủ

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

các món ăn chơi, gồm cả phịng ăn để tiện khơng phải đi xa. Nhìn thống qua phía tầng thượng đó chính là chiếc trực thăng UH1 của tổng thống dùng để di chuyển khi có việc. Gần đó là vị trí được xác định là của 2 trái boom do phi công thả xuống vào ngày 8/4/1975. Tầng thượng trên cùng chính là nơi gọi là “tứ phương vơ sự lầu”. Mục đích nơi đây chính là để cho Tổng thống có thể nghỉ ngơi, thoải mái đầu óc và ngẫm lại một ngày của mình hay trước khi đưa ra những quyết định quan trọng đến vận mệnh đất nước. Tuy nhiên tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã biến nơi đây thành sàn nhảy để vui chơi. Cũng tại chính nơi đây đã chứng khiến khoảng khắc lịch sử của dân tộc đó, lá cờ vàng 3 sọc đỏ đã bị thay thành lá cờ giải phóng của ta. Chất dứt chế độ thực dân kiểu mới giành độc lập cho dân tộc. Theo lối đi dẫn xuống tầng hầm, đây cũng là phòng làm việc thời bấy giờ, nơi đây cũng có những thiết bị phát thanh dự phòng và cũng là nơi tổng thống nghiên cứu tình hình trong những cuộc chiến. Hệ thống điện thoại trong phòng được nối trực tiếp đến các cấp chỉ huy ở các địa phương , vùng chiến thuật, đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn và được bảo mật tuyệt đối. Hai chiếc xe cổ cũng được trưng bày tại đây, một là chiếc Jeep, một là chiếc Mercedes.

Tuy chiến tranh đã qua đi rất lâu, nhưng những vết sẹo đó vẫn cịn. Bầu trời hồ bình chúng ta đang đứng hôm nay sẽ là lời nhắc nhở trách nhiệm của chúng ta trong sự nghiệp gìn giữ và phát triển đất nước. Là thế hệ được sinh ra và lớn lên trong hồ bình, tơi tự thấy rằng muốn xây dựng một đất nước hùng mạnh, thì cần có sự hợp sức đồng lịng của mỗi cá nhân, gia đình và cả xã hội. Và trên hết cả những việc lớn đều bắt nguồn từ những việc nhỏ, vì thế thay đổi bản thân từ ngày để tốt hơn chính mình hơm qua cũng chính là cũng đã giúp một phần cho đất nước sau này ngày một phồn thịnh. Chính vì thế tơi thấy mình cần phải ra sức học tập, cống hiến sức trẻ của chính bản thân mình, ngày một khơng ngừng nâng cao trình độ bản thân để theo kịp sự đổi mới từng giây của thế giới, để giúp cho đất nước mà tôi đang sống ngày càng trở nên giàu mạnh hơn, sánh vai với các cường quốc năm châu và cũng theo di nguyện của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó cũng khơng thể qn, mà thay vào đó là ln nhắc nhở chính mình, hồ bình, độc lập, tự do mà chúng ta có được hơm nay chính là sự đánh đổi bằng cả sinh mệnh, là cả máu xương của những người anh hùng dân tộc đã đứng lên đấu tranh cho cháu con được tự do.

</div>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×