Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.99 KB, 29 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO </b>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM KHOA CHÍNH TRỊ & LUẬT </b>

<b>Hồng Ngọc Khánh Vy 22125077 Lớp thứ 2 - Tiết 11/12 </b>

<b>Mã lớp: 232LLCT220514_06CLC </b>

<b>Tp. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2024</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ </b>

<b>THỨ </b>

<b>KÝ TÊN </b>

1 Trần Thị Mai Hương <b><sub> Nội dung chương 1 Hoàn thành tốt </sub></b>

2 Nguyễn Ngọc Quỳnh Như Nội dung mục 2.1 <b>Hoàn thành tốt </b>

3 Lê Thị Anh Thy <sup>- Tổng hợp nội dung </sup>- Trình bày hình thức

<b>Hồn thành tốt </b>

4 Đặng Thị Mỹ Trâm <sub> Nội dung mục 3.1 </sub> <b>Hoàn thành tốt </b>

5 Hoàng Ngọc Khánh Vy <sup>- Nội dung mục 2.2 </sup>- Nội dung mục 3.2

<b>Hoàn thành tốt </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT </b>

COVID – 19 Một bệnh về đường hô hấp

USD Đơn vị tiền tệ chính thức của Hoa Kỳ WIPO Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới

UNIDO Tổ chức phát triển Công nghiệp Liên hiệp quốc

OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

2.1. Thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam thời kì đổi mới ... 5

2.2. Hạn chế của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam thời kì đổi mới ... 8

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>MỞ ĐẦU </b>

Công cuộc Đổi mới mở ra từ Đại hội Đảng lần VI (1986) đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển của Việt Nam. Trong đó, cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đóng vai trị chủ đạo, mang lại nhiều thành tựu to lớn nhưng cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định.

Về thành tựu, cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đã giúp Việt Nam đạt được những bước phát triển vượt bậc về kinh tế, đời sống xã hội. Kinh tế tăng trưởng nhanh, thu nhập bình quân đầu người cải thiện rõ rệt. Hệ thống cơ sở hạ tầng được nâng cấp, khoa học công nghệ tiến bộ. Quan hệ đối ngoại mở rộng, hội nhập quốc tế ngày càng hiệu quả.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, trong công cuộc đổi mới công nghiệp hóa - hiện đại hóa cũng bộc lộ một số hạn chế như ơ nhiễm mơi trường, phân hóa giàu nghèo, năng lực quản lý nhà nước còn hạn chế, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện.

Nhận thức rõ những thành tựu và hạn chế là cơ sở quan trọng để đề ra giải pháp phát triển đất nước nhanh, bền vững, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội.

Bài tiểu luận này sẽ phân tích những thành tựu và hạn chế của cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam thời kì đổi mới, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế và phát huy những thành tựu đã đạt được.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i><b>1.1.1. Cơng nghiệp hóa </b></i>

Cơng nghiệp hóa là q trình chuyển đổi căn bản và toàn diện hầu hết các hoạt động sản xuất từ sử dụng lao động thủ công sang sử dụng rộng rãi lao động không làm việc trên cơ sở phát triển ngành cơ khí. Hơn nữa, cơng nghiệp hóa cịn được hiểu là là q trình tỷ trọng cơng nghiệp trong tất cả các lĩnh vực của một vùng kinh tế, một nền kinh tế.

Có thể nói q trình cơng nghiệp hóa là q trình chuyển đổi kinh tế - xã hội của một cộng đồng con người từ nền kinh tế tập trung vốn sang nền kinh tế cơng nghiệp. Cơng nghiệp hóa là một phần của q trình hiện đại hóa. Sự chuyển đổi kinh tế xã hội này đi đôi với tiến bộ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng lượng và luyện kim quy mơ lớn. Cơng nghiệp hóa là cũng gắn liền với những thay đổi về triết học hoặc thay đổi thái độ trong nhận thức.

<i><b>1.1.2. Hiện đại hóa </b></i>

Hiện đại hóa là q trình cách mạng bằng việc ứng dụng những thành tựu khoa học và cơng nghệ tiên tiến vào mọi khía cạnh của đời sống, từ sản xuất kinh doanh, dịch vụ đến quản lý kinh tế xã hội. Quá trình này bao hàm cả cơng nghiệp hóa và đổi mới tồn diện trong các lĩnh vực như nông nghiệp, giao thông, thông tin, giáo dục, y tế.

Từ việc sử dụng lao động chân tay đến sử dụng lao động có tay nghề để ứng dụng thành tựu cơng nghệ. Đó là một thuật ngữ chung để diễn tả quá trình thay đổi nhanh chóng khi con người làm chủ khoa học và công nghệ tiên tiến và dựa vào chúng để phát triển với tốc độ nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử.

<i><b>1.1.3. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa </b></i>

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi và hoạt động toàn diện các dịch vụ sản xuất, kinh doanh, kinh tế và quản lý xã hội, từ chủ yếu dựa vào thủ công sang sử dụng lao động phổ thông với công nghiệp và tiến bộ khoa học và cơng nghệ, từ đó tạo ra năng suất lao động xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Đại hội lần thứ VIII điều chỉnh chủ trương cơng nghiệp hóa theo hướng sử dụng nông nghiệp là bước đột phá, coi nông nghiệp với công nghiệp chế biến là mặt trận chủ đạo. Tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa rộng rãi hơn, phát triển kinh tế nhiều lĩnh vực, tăng cường tự chủ sản xuất và thương mại của các cơng ty. Tích hợp cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa, lấy khoa học cơng nghệ làm động lực và coi nguồn nhân lực là yếu tố trung tâm của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xác định nội dung cụ thể của cơng nghiệp hóa và những năm tới bao gồm “đặc biệt chú ý đến công nghiệp hóa và đến hiện đại hóa nơng nghiệp.

Như vậy, cơng nghiệp hóa theo tư tưởng mới là khơng bó hẹp trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ cơng thành lao động cơ khí như trước đây mà bao hàm cả về các hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về ngành dịch vụ và quản lí kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Bên cạnh đó, q trình cơng nghiệp hóa cịn cần phải hoàn thiện cơ cấu tổ chức và vận hành xã hội, nâng cao chất lượng sống của người dân trong cả nước, tích cực xố đói giảm nghèo, phấn đấu tăng mức thu nhập bình quân đầu người cả nước.

<b>1.2. Đường lối cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kì đổi mới </b>

Phát triển lực lượng sản xuất - cơ sở vật chất và chủ nghĩa xã hội - trên cơ sở cơ giới hóa sản xuất xã hội và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Nếu chúng ta muốn dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và đất nước từng bước phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội, bằng cách củng cố và hồn thiện quan hệ sản xuất thì chúng ta phải phát triển lực lượng sản xuất ở ngày càng phát triển. năng suất lao động. Nếu khơng có lực lượng sản xuất mạnh thì khơng thể nói đến cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, đặc biệt chú ý đến cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng thơn.

Trước hết, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi lao động thủ cơng lạc hậu thành lao động máy móc, nghĩa là cơ giới hóa nền kinh tế. Đây là sự chuyển đổi rất cơ bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế cơng nghiệp. Cơ giới hóa đi kèm với điện khí hóa và sản xuất, từng bước và tổng thể của nền kinh tế quốc dân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Đồng thời, mục tiêu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là sử dụng kỹ thuật, cơng nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại để đạt năng suất lao động cao. Khi khoa học thế giới phát triển nhanh chóng, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tức là yếu tố tạo nên khả năng cạnh tranh của hàng hóa và hiệu quả. Trong kinh doanh, khoa học và công nghệ phải thúc đẩy công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Vì vậy, phát triển khoa học và cơng nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa, người lao động - lực lượng sản xuất đầu tiên phải thấy trình độ, kỹ thuật của mình được nâng cao vì họ vừa là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất vừa là kết quả của sự phát triển của con người sự phát triển này. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. tính hợp lý và hiệu quả của một số nhất định các cơ sở công nghiệp quan trọng sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết cho các ngành kinh tế và quốc phòng. Phát triển và tăng cường chất lượng các ngành dịch vụ. Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống: giao thơng, thốt nước. Về chiến lược phát triển vùng, phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm có tốc độ tăng trưởng cao và tích lũy mạnh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i> Thứ nhất là chất lượng tăng trưởng kinh tế ngày càng được cải thiện: từ một quốc </i>

gia nghèo, yếu kém, lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên trở thành một quốc qua có mức thu nhập trung bình và đang hội nhập với thế giới hơn. Mức tăng trưởng GDP của nước ta liên tục tăng dần. Trong những năm 1986-1990, GDP chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân là 4,4%/năm. Nhưng chỉ sau 5 năm thì mức tăng trưởng bình quân đã tăng từ 4,4%/năm lên 8,2%/năm và tăng cao hơn so với kế hoạch đề ra là 5,5% - 6,5%. Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á (1996 – 2000), mức tăng trưởng GDP bình quân của nước ta chỉ đạt 6,9%. Từ năm2016 đến 2019, GDP bình quân là 6,8%. Tuy nhiên trong giai đoạn này, vào năm 2018, Việt Nam đã vươn lên đứng vị trí thứ 22 về quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới. Công nghiệp chính là ngành đóng vai trị to lớn trong việc tạo nên vị trí này với tốc độ tăng trưởng cao nhất trong ngành kinh tế quốc dân và đóng góp gần 30% GDP. Những năm 2020, 2021 dù phải chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch COVID – 19, nhưng nền kinh tế của Việt Nam vẫn tăng trưởng dương và đạt mức 2,91% vào năm 2020 và đạt mức 2,56% vào năm 2021. Đến năm 2022, dù đại dịch COVID – 19 đã qua nhưng vẫn để lại hậu quả nặng nề cho nên kinh tế, tuy nhiên với sự cố gắng và nỗ lực hết mình thì tốc độ tăng trưởng của Việt Nam vẫn đạt mức 8,02%.

<i>Thứ hai là tỷ lệ nghèo đói có xu hướng giảm mạnh: tỷ lệ nghịch với sự phát triển </i>

kinh tế, nền kinh tế phát triển càng mạnh thì tỷ lệ đói nghèo sẽ giảm dần. Với mức tăng trưởng GDP liên tục tăng thì đời sống dân cư cũng được cải hiện dần, mức độ nghèo đói cũng từ đó giảm đi. Năm 2016, Việt Nam có tỷ lệ đói nghèo là 18,1%. Tuy nhiên từ

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

những năm 2002 – 2019, khi GPD đầu người tăng gấp 2,7 lần thì tỷ lệ đói nghèo đã giảm xuống cịn dưới 6% với hơn 45 triệu người thoát nghèo.

<i>Thứ ba là quy mô về kinh tế được mở rộng hơn: từ năm 1986 đến năm 2016, quy </i>

mô kinh tế đã được mở rộng đáng kể, điều này được thể hiện cụ thể qua việc quy mô nền kinh tế đã tăng lên 12 lần với 446 nghìn tỷ đồng (năm 1986) lên 4502,7 nghìn tỷ đồng (năm 2016). Quy mơ kinh tế vẫn tiếp tục tăng lên theo thời gian, cụ thể là năm 2018 đạt mức 5542,3 nghìn tỷ đồng, năm 2020 là 6293,1 nghìn tỷ đồng.

<i>Thứ tư là năng suất lao động: giai đoạn năng 2006 – 2010, năng suất lao động </i>

tăng từ 3,45%/năm lên 4,3%/năm so với giai đoạn 2011 – 2015, giai đoạn 2016 – 2020 năng suất lao động có tăng hơn những năm trước với 5,8%/năm. Trong 05 năm từ năm 2016 đến 2020, đóng góp năng suất lao động nhân tố tổng hợp (TFP) đạt khoảng 45,2% và vượt qua mục tiêu được đề ra.

<i>Thứ năm là cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ hơn: cơ cấu kinh tế </i>

chuyển dịch theo hướng chuyển từ tập trung vào tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp sang tập trung tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ. Nước ta từ một nước có nền nơng nghiệp lạc hậu đã đang chuyển dần sang một nước đang phát triển công nghiệp với tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 33,4% và khu vực dịch vụ đạt 41,63%; tỷ trọng nông lâm nghiệp và thủy sản GDP đạt 14,85% (năm 2020).

<i>Thứ sáu là chỉ số HDI (chỉ số phát triển con người) có xu hướng tăng: nhờ chú </i>

trọng vào giáo dục – đào tạo, hạn chế tỉ lệ sinh, chăm sóc sức khỏe nên đã giúp tỷ lệ phát triển con người của Việt Nam được tăng liên tục theo thời gian. Năm 1985 chỉ số phát triển con người tăng 0,599 so với năm 1990; 0,647 vào năm 1995; 0,690 vào năm 200; 0,715 vào năm 2005 và đạt 0,725 vào năm 2007. GDP bình quân đầu người của Việt Nam xếp thứ 129 trên tổng cố 182 quốc gia được thống kê, và HDI đứng thứ 116 trên 182 quốc gia và vùng lãnh thổ.

<i>Thứ bảy là vấn đề an sinh xã hội được thực hiện tốt: Các công tác về an sinh xã </i>

hội, xóa đói giảm nghèo được chú trọng hơn. Theo tổng cục thống kê, tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam đã giảm từ 58% (năm 1993) xuống còn 29% (năm 2002) và giảm xuống còn khoảng 17% (năm 2008). Bên cạnh đó, cơng tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân cũng được quan tâm hơn với gần 60% dân số được sử dụng bảo hiểm y tế, từ đó các chỉ số về sức khỏe con người cũng được nâng lên. Ngoài ra, các vấn đề về giáo dục cũng

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

được quan tâm nhiều hơn. Điều này thể hiện qua việc các loại hình trường học từ mầm non, tiểu học, chung học cơ sở, chung học phổ thông và cao đẳng, đại học được đa dạng hóa và phát triển hơn. Tình trạng mù chữ đã dần được khắc phục. Các chính sách để người dân tiếp cận với con chữ cũng được đưa ra.

<i>Thứ tám là ngày càng hội nhập quốc tế hơn: sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam </i>

đã thiết lập được thêm nhiều mối quan hệ hợp tác chiến lược về kinh tế. Nước ta đã thiết lập được mối quan hệ hợp tác với nhiều quốc gia trong đó phải kể đến các quốc gia phát triển như: Mỹ, Nga, Pháp, Anh, Trung Quốc, … từ sau khi gia nhập vào WTO. Việt Nam đã dần tìm được chỗ đứng trên đấu trường quốc tế, điều này thể hiện qua việc có hơn 70 quốc gia công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Trong các tổ chức quốc tế, Việt Nam ln là quốc gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm trong mọi hoạt động. Ngoài ra, Việt Nam cũng dần chiếm được vụ thế ngày càng cao trong khu vực thông qua việc tham gia vào các hiệp hội, tổ chức, diễn đàn lớn như tham gia vào hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào tháng 7 năm 1995, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11 năm 1998 và tham gia vào các tổ chức Liên hợp quốc, …

<i>Thứ 9 là thể chế kinh tế thị trường ngày càng được hồn thiện hơn: khn khổ về </i>

pháp dần được hình thành rõ ràng hơn, cùng với đó các thể chế thị trường cũng ngày càng hoàn thiện hơn. Chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng cũng được thể chế hóa thành luật pháp, các chính sách ngày càng chi tiết và đầy đủ hơn, đồng bộ hơn. Đồng thời, môi trường đầu tư, kinh doanh cũng ngày càng được mở rộng và hoàn thiện hơn; các yếu tố thị trường và các loại hình thị trường cũng dần trở nên đa dạng, phát triển hơn.

Tóm lại, sau gần 40 năm thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và toàn diện về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội và chính trị. Đi đơi với sự phát triển kinh tế thì sự ổn định kinh tế vĩ mơ cũng được duy trì, các vấn đề về chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng cũng được đảm bảo và ổn định hơn. Các thành tựu đáng tự hào được nêu trên cũng đã cho thấy được sự lãnh đạo đúng đắn của đảng là yếu tố quan trọng để giúp Việt Nam đạt được những thành công trong thời kì đổi mới.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>2.2. Hạn chế của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam thời kì đổi mới </b>

Sau gần nửa thế kỷ thực hiện cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa trong khuôn khổ thống nhất đất nước, cùng với gần 40 năm áp dụng những chính sách này trong kỳ đổi mới, Việt Nam đã ghi nhận được nhiều thành tựu ấn tượng. Tuy nhiên, theo các đánh giá cả trong và ngoài nước, Việt Nam vẫn được phân loại là một trong những quốc gia phát triển chậm theo các tiêu chuẩn của Liên Hợp Quốc và vẫn đối mặt với nhiều thách thức cản trở sự phát triển.

<i>Thứ nhất, việc thu nhập bình quân đầu người chưa ổn định qua các năm là một </i>

thách thức lớn đối với mục tiêu của Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao. Theo kế hoạch đã đề ra, vào năm 2025, GNI/người cần tăng thêm hơn 460 USD và đến năm 2030, con số này cần tăng thêm khoảng 3.000 USD, tương đương với mức tăng đã đạt được từ năm 2010 đến 2022. Đây là một thách thức đáng kể vì chỉ có thể đạt được mục tiêu này nếu có những bước phát triển đột phá trong những năm sắp tới để đảm bảo tốc độ tăng trưởng GNI/người hơn 10,5%/năm. Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu so với các quốc gia khác là rất lớn. Ví dụ, theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, Trung Quốc đã chuyển từ nhóm có thu nhập trung bình thấp vào năm 1999 sang nhóm có thu nhập trung bình cao vào năm 2020, chỉ sau 11 năm; Indonesia bắt đầu từ nhóm có thu nhập trung bình thấp vào năm 2003 và đã dần dần chuyển sang nhóm có thu nhập trung bình cao vào các năm 2019 và 2022, sau 16 năm. Trong khi đó, Việt Nam, từ khi được phân loại vào nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp từ năm 2009, đã qua gần 14 năm nhưng vẫn còn xa mục tiêu.

<i>Thứ hai, sự chậm trễ trong việc thay đổi cơ cấu lao động nông nghiệp vẫn chưa </i>

đáp ứng được kỳ vọng. Dù tỷ trọng lao động trong nông nghiệp vào năm 2022 là 27,5% tổng số lao động, việc giảm tỷ lệ này xuống dưới 25% vào năm 2025 và dưới 20% vào năm 2030 có vẻ khả thi trên lý thuyết. Tuy nhiên, trên thực tế, đây là một thách thức lớn. Vấn đề không chỉ là giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp một cách cơ học, mà điểm khó khăn nằm ở việc giải quyết các vấn đề liên quan đến chuyển đổi lao động nông nghiệp sang các ngành khác. Điều này càng trở nên phức tạp khi mỗi năm có thêm gần 1,5 triệu người đến tuổi lao động, đòi hỏi phải giải quyết việc làm cho họ. Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển mạnh, việc ứng dụng các thành tựu mới của khoa học công nghệ yêu cầu nguồn nhân lực phải được đào tạo với trình độ cao hơn. Đặc biệt, chất

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

lượng nguồn nhân lực nông nghiệp hiện tại còn thấp, đây là một rào cản lớn đối với việc giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp và thúc đẩy sự chuyển đổi của họ sang các hoạt động kinh tế - xã hội khác.

Thứ ba, được biết Chỉ số Phát triển Con người (HDI) của Việt Nam vẫn còn nhiều bất ổn và không đạt được sự bền vững, dẫn đến chất lượng sống của người dân chưa được nâng cao. Dù Việt Nam đã đạt được những điểm số ở mức các quốc gia có HDI cao, điểm số này lại là thấp nhất trong nhóm. Tính đến năm 2021, Việt Nam đứng thứ 115 trên tổng số 191 quốc gia và vùng lãnh thổ. Kể từ năm 2015, Việt Nam chỉ leo lên được 5 bậc, với tốc độ cải thiện chậm hơn so với nhiều quốc gia khác. Để đạt được mục tiêu một chỉ số HDI cao và ổn định, cùng với việc thúc đẩy những đột phá trong phát triển kinh tế, Việt Nam cần tập trung giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường một cách cân bằng. Điều này bao gồm việc kết hợp chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, liên kết phát triển kinh tế với việc cải thiện chất lượng sống, đảm bảo mọi công dân đều hưởng lợi từ những thành tựu của đổi mới, và cuối cùng là không hy sinh môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế.

Thứ tư, được biết năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam hiện tại cịn yếu và đang có dấu hiệu chậm lại so với các quốc gia khác, làm cho việc vươn lên top 40 quốc gia dẫn đầu trở nên khó khăn. Theo báo cáo năm 2023 của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO), Việt Nam nằm trong top 50 của Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Toàn cầu (GII) năm 2022. Dù vậy, thứ hạng của Việt Nam không ổn định: năm 2019 đạt thứ 42, năm 2020 là 44, và năm 2021 là 48. Sự giảm sút này phản ánh khả năng đổi mới sáng tạo của Việt Nam đang tụt hậu so với các quốc gia khác. Một phần nguyên nhân là do khả năng nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ ở các cấp độ quốc gia, ngành, địa phương và doanh nghiệp cịn hạn chế. Do đó, việc thiếu sự nỗ lực và quyết tâm trong việc thực hiện các biện pháp cải thiện khả năng khoa học cơng nghệ có thể khiến mục tiêu đạt được vị trí trong top 40 vào năm 2030 trở nên khó khăn.

Thứ năm, để đạt được mục tiêu đơ thị hóa đạt 50% vào năm 2030, cùng với yêu cầu phát triển đô thị theo hướng xanh và bền vững. So sánh dữ liệu thực hiện trong năm 2022 cho thấy một khoảng cách là 8,5%. Tỷ lệ này tương đương với sự tăng trưởng mà Việt Nam đã ghi nhận trong khoảng thời gian 10 năm từ 2010 đến 2020. Vì vậy, dù có đạt được tốc độ tăng trưởng như trong giai đoạn trước, việc đạt mục tiêu sẽ vẫn còn khá

</div>

×