Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

khuynh hướng tư tưởng nho giáo và lão trang trong thơ chữ hán nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.04 MB, 24 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNGTRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM</b>

<b>KHOA NGỮ VĂN</b>

<i><b> Đà Nẵng, năm 2022</b></i>

<b>Học phần : </b>:Khuynh hướng văn học và loại hình tác giả văn học trung đại Việt Nam

<b> Giảng viên hướng dẫn : </b> Th.s Nguyễn Quang Huy

<b> Sinh viên thực hiện : </b> Nguyễn Hoài Ngọc

<b> Lớp </b> 21SNV3<b>: </b>

<b>KHUYNH HƯỚNG TƯ TƯỞNG NHO GIÁOVÀ LÃO TRANG TRONG THƠ CHỮ HÁN</b>

<b>NGUYỄN DU</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>I.MỞ ĐẦU</b>

<b>I.1 Lý do chọn đề tài</b>

Văn học Trung đại Việt Nam kéo dài suốt mười thế kỉ. Ý thức hệ xã hội giai đoạn này gồm cơ sở tư tưởng Việt và việc tiếp thu các hệ tư tưởng nước ngoài. Ta đã tiếp thu các hệ tư tưởng Nho, Phật, Lão. Những hệ tư tưởng triết học này đã du nhập vào nước ta thời kì phong kiến phương Bắc thống trị. Các thế hệ nhà nho thời phong kiến ít nhiều có ảnh hưởng tư tưởng đó. Nguyễn Du là nhà thơ tiêu biểu cho giai đoạn văn học nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Liệu Nguyễn Du có nằm ngồi sự ảnh hưởng đó hay không?

Với Nguyễn Du, khi được nhắc đến, người ta thường gắn tên ông với Truyện Kiều – đỉnh cao nghệ thuật về thơ Nôm. Đồng thời, tác phẩm này đưa ông trở thành đại thi hào dân tộc. Chúng ta tự hào về Truyện Kiều mặc dù Nguyễn Du xây dựng trên Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nhưng, nếu chúng ta chỉ đọc Truyện Kiều thì chưa hiểu hết tài năng và con người Nguyễn Du. Truyện Kiều mới là một nửa của tòa lâu đài văn chương đồ sộ. Truyện Kiều là sự “lỡ tay” của ông mà thành kiệt tác. Thơ chữ Hán mới chính là “sáng tác” của Nguyễn Du. Đây là phát ngơn viên chính thức của ơng. Chúng ta đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du là đến với “những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa” (Mai Quốc Liên). Vì vậy, nhiều cơng trình đã nghiên cứu về một nửa THIÊN TÀI MẸ này. Năm 1997, Lê Thu Yến đã hồn thành cơng trình “Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du”. “Đây là chuyên luận đầu tiên về nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du” (Bùi Mạnh Nhị). Trong cơng trình này, tác giả đã trình bày những vấn đề liên quan đến văn bản và đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du. Cũng đề cập đến thơ chữ Hán Nguyễn Du, người viết muốn tìm hiểu về nội dung tư tưởng trong thơ ơng. Đó là vấn đề ba hệ tư tưởng Nho, Phật, Lão đã ảnh hưởng đến sáng tác chữ Hán của Nguyễn Du như thế nào.

<b>I.2 Mục đích nghiên cứu </b>

- Mục đích đầu tiên của luận văn là tìm hiểu ảnh hưởng của tinh thần Nho, Lão trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

- Từ kết quả đạt được ở mục đích thứ nhất, luận văn đi tìm hiểu sự ảnh hưởng của tư tưởng này trong một tác giả cụ thể là Nguyễn Du và mảng sáng tác cụ thể là thơ chữ Hán.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>II.TÁC GIẢ NGUYỄN DU</b>

Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh ngày mồng 3 tháng 1 năm (1766) tức ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu - Thăng Long. Quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình quý tộc, nhiều đời làm quan to dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Đó là một gia đình có truyền thống u chuộng văn chương và nghệ thuật.

Cha là ông là Nguyễn Nghiễm, sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tức Thượng thư bộ hộ triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần (1740 - 1778), con gái một người làm chức Câu kế, quê làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà có tài hát xướng. Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, Hàm tịng nhất phẩm, tức Xn Quận cơng nên Nguyễn Du thời đó sống trong giầu sang phú quý.

Nguyễn Du đã sống một cuộc đời bi kịch. Xuất thân trong một gia đình quý tộc giàu sang, thế mà cơn lốc lịch sử đã hất đổ hết lầu son gác tía, đẩy ơng vào cuộc đời sống lay lắt, lưu lạc, tha hương. Nhưng bi kịch lớn nhất là từng khao khát một sự nghiệp vẫy vùng cho phỉ chí, mà rút cuộc phải chấp nhận cuộc đời triền miên buồn chán, khơng có một hoạt động say sưa và nhất quán vì lý tưởng nào cả. Nguyễn Du đã sống như một người dân thường giữa thế gian và nhờ thế ông thông cảm sâu xa với mọi kiếp người bị đầy đọa. Nguyễn Du nhìn đời với con mắt của một người đứng giữa dông tố cuộc đời và điều đó khiến tác phẩm của ơng chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn học Việt Nam trung đại.

Nguyễn Du đã để lại một di sản văn chương đồ sộ với những tác phẩm kiệt xuất, ở thể loại nào ơng cũng đạt được sự hồn thiện ở trình độ cổ điển.

Thơ chữ Hán: Nguyễn Du có 3 tập thơ: Thanh Hiên thi tập gồm: 78 bài làm lúc ông đang sống lẩn tránh ở quê vợ và quê nhà Nghi Xuân ( 1786 – 1804). Nam trung tạp ngâm gồm: 40 bài là tập thơ sáng tác lúc ra làm quan với triều Nguyễn (1805 –

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

1813). Bắc hành tạp lục gồm: 132 bài làm lúc phụng mệnh vua dẫn đầu đoàn đi sứ Trung Quốc ( 1813 – 1814), tổng cộng 250 bài. Thơ chữ Hán có những kiệt tác như: Đọc Tiểu Thanh kí, Bài ca những điều trơng thấy ( Sở kiến hành), Bài ca người gảy đàn đất Long Thành ( Long Thành cầm giả ca), Người hát rong ở Thái Bình ( Thái Bình mại ca giả), Chống lại bài “ Chiêu hồn” ( Phản “chiêu hồn”)…

Thơ chữ Nơm: Nguyễn Du có hai kiệt tác Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) gồm 3254 câu thơ lục bát và Văn tế thập loại chúng sinh gồm 184 câu viết theo thể song thất lục bát. Ngồi ra, ơng cịn có một số tác phẩm đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu và bài vè Thác lời trai phường nón.

Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo lỗi lạc với tấm lòng sâu sắc, bao dung, đồng thời ơng đã dùng ngịi bút phê phán hiện thực mạnh mẽ, sắc bén. Những sáng tác của Nguyễn Du là sự kết tinh những thành tựu chữ Hán và chữ Nôm của dân tộc, tổng hợp tinh hoa của nhiều thể loại văn học để sáng tác Truyện Kiều. Nguyễn Du đã có cơng lớn trong việc đưa ngơn ngữ văn học Tiếng Việt lên trình độ điêu luyện, cổ điển. Từ đó ơng đáng được suy tôn danh hiệu Đại thi hào dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới.

<b>III.KHÁT QUÁT NỘI DUNG TƯ TƯỞNG NHO GIÁO VÀ LÃO-TRANG</b>

<b>III.1 Nho giáo</b>

<i><b>III.1.1Sự ra đời và nội dung tư tưởng của Nho giáo</b></i>

Nho giáo là học huyết tiêu biểu của triết học Trung Quốc cổ trung đại . Nho giáo do Không Tử sáng lập, xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ VI TCN, dưới thời Xuân Thu. Những tư tưởng của Nho giáo được thể hiện trong hai bộ sách kinh diễn: Tử Thư và Ngũ Kinh. Tứ Thư có: Trung dung. Đại học, Luận Ngữ, Mạnh tử. Ngũ kinh có: thi, thư, lễ, dịch, xuân thu. Hệ thống kinh điển đó hầu như viết về chính trị, xã hội, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị đạo đức là những tưởng cốt lõi của Nho giáo. Khơng Tử và các học trị của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò to lớn của đạo đức đối với xã hội.

Cương – thường là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo, là nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương – thưởng góp phần điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép theo chế độ lễ phép của nhà Chu trước dây và các triều đại phong kiến Sau này đặt ra. Cương – thường là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định theo thứ bậc, là cơ sở đảm bảo quyền thống trị của thiên tử.

Năm phạm trù đạo đức mà Nho giáo đề cập đến là: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Những phạm trù này đều là đạo đánh g đức làm người, là thước đo đánh giá phẩm hạnh của con người.

<i><b>III.1.2Quá trình du nhập Nho giáo ở Việt Nam</b></i>

Đã có một số bằng chứng cho thấy Nho giáo được truyền vào nước ta thế kỷ ITCN khi ở Trung Quốc nhà Tây Hán đã đánh bại tập đoàn phong kiến họ Triệu và giành lấy quyền thống trị và cho lập ba quận tại Bắc Bộ, tuy nhiên tầm ảnh hưởng Nho giáo còn rất hạn chế, song song đó Nho giáo là cơng cụ thống trị của chính quyền đơ hộ và phục vụ cho chính quyền đơ hộ. Nho giáo cịn được xem để du nhập chữ Hán vào Việt Nam và dân Hán hóa ngơn ngữ của dân tộc Việt Nam tạo ra về mặt kỹ thuật với một kho tàng tri thức về xã hội và tự nhiên, đó là nên văn học, sử học, triết học, thiên văn học và y học được tiếp thu từ người Trung Hoa cổ đại.

Đến thế kỷ IX, sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại của Ngô Quyền, khi dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thực sự bắt tay vào xây dựng nền văn minh Đại Việt trong khuôn khổ của một nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền, thì xã hội Việt Nam lúc này mới đặt ra những yêu cầu đối với sự tồn tại và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam, đầu tiên phải kể đến là muốn tồn tại thì phải truyền bá Nho giáo đến người dân, củng cố quyền lực phong kiến lớn mạnh và không bị giặc ngồi tấn cơng.

Vì quyền lực của nhà nước đó nằm trong tay nhà vua, nên chữ “trung" của Nho giáo cần được tiếp thu để củng cố quyền lực của nhà vua. Ngay từ thời Lý –Trần, trung với vua khơng tách rời trung với nước, vì đó là những ông vua thực sự điều hành cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam đi đến thắng lợi. Ở Việt Nam. “trung" thường gần với “nghĩa” nhằm đề cao trách nhiệm của con người đối với Tổ quốc, q hương, làng xóm. Cũng chính vì thế, trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn thường gần “trung” với “nghĩa”. Hơn nữa, nếu nhà nước phong kiến tập quyền muốn trở nên hùng mạnh thì phải quan tâm đến con người, đến nhân dân và do đó, “nghĩa” khơng tách rời

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

"nhân". Ngọn cờ nhìn nghĩa là để “yên dân”, để giải phóng nhân dân khỏi áp bức của quân xâm lược.

Thời kỳ khi chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng. Nho giáo không ngừng củng cố và phát triển cho đến vào giữa thế kỷ XIX, yêu cầu tất yếu này dẫn như bị suy sụp và dân nhạt phai khi sự du nhập mạnh mẽ của phương Tây của thực dân Pháp, tuy nhiên Nho giáo vẫn là cũng cụ ảnh hưởng đối với những nhà yêu nước cách mạng như Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học hay Hồ Chí Minh....

<b>III.2 Lão – trang</b>

Lão Tử, nhà triết học Trung Quốc thời Xuân Thu, là người khai sinh ra trường phái triết học Đạo gia. Theo “Sử ký” Tư Mã Thiên và truyền thuyết, Lão Tử họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, thụy là Đam, cịn gọi là Lão Đam. Ơng người làng Khúc Nhân, huyện Khổ, nước Sở (nay thuộc Hà Nam, Trung Quốc). Ông là quan sử, từng giữ chức Thư tùng thất cho nhà Chu, sau lui về ở ẩn.

Tồn bộ tư tưởng của Lão Tử được trình bày ngắn gọn và súc tích trong cuốn “Đạo đức kinh” gồm 81 chương, chia làm 2 thiên: “Đạo kinh” (quyển thượng) và “Đức kinh”(quyển hạ).

Cốt lõi triết học của Lão Tử là “Đạo”. Đạo vốn là nòng cốt, cơ sở và tinh hoa của tư duy triết học phương Đơng. Trong “Đạo đức kinh”, Lão Tử đã trình bày một khái niệm rất mới, rất thâm viễn về “Đạo”, đem lại cho “Đạo” một nội dung mới mà trước đó trong tư duy triết học Trung Quốc chưa hề có và sau này cũng chưa có văn triết nhân nào có thể vượt xa hơn.

Lão Tử cho rằng “Đạo” là bản nguyên của thế giới, “thứ hình thành trong cõi hỗn độn, sinh ra trước cả trời đất, là mẹ cả thiên hạ” . Ở đây, Đạo là thực thể khách quan sinh ra trước muôn vật, là chủ tể của mọi hiện tượng tự nhiên xã hội. Bản chất của Đạo là “vô”: “thiên hạ vạn vật sinh ở hữu, hữu sinh ở vô”, tuy nhiên Đạo là “thường vô”(cái vô hằng thường) mà cũng là “thường hữu”( cái hữu hằng thường). Như vậy, “Đạo” trong nhận thức của Lão Tử là một phạm trù rất trừu tượng.

Cũng trong bộ thánh điển này của Đạo gia, Lão Tử quan niệm rằng tri thức là điều có hại đối với Đạo. Vì thế ơng phản đối việc học tập theo thói thường, chủ trương “tuyệt học vô ưu”, nhằm đạt tới trạng thái hồn nhiên vô tri vô thức, về lại với sự hồn thuần của trẻ thơ mới là đắc đạo. Để đưa đức tính con người trở về với thời kỳ trẻ thơ hồn nhiên chân chất và vô dục, Lão Tử răn : “Thánh nhân không làm cho dân sáng mà

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

làm cho dân ngu”. Ngu ở đây chính là đức tính chất phác, giản dị tự nhiên. Người lý tưởng trở về với đức tự nhiên vô vi là người “lù mù”, “hỗn độn”, “thô lậu”, “ngu dốt”. Cái “lù mù”, “hỗn độn”, “thô lậu”, “ngu dốt” ấy của Lão Tử chính là cái thấu suốt mọi lẽ của tự nhiên. Cái ngu đó là đại trí.

Mở rộng tư tưởng về Đạo đến lĩnh vực đời sống xã hội, Lão Tử đề xuất học thuyết “vô vi” như là một học thuyết về nghệ thuật sống của con người trong sự hồ hợp với tự nhiên.

Vơ vi khơng phải là khơng làm gì mà theo Lão Tử là hoạt động một cách tự nhiên không làm trái với quy luật tự nhiên, khơng làm những việc gị ép giả tạo đến thái quá hoặc bất cập. Nếu khơng thuận theo tự nhiên, đem ý chí, dục vọng của con người cưỡng ép vạn vật là trái với đạo vô vi, tất nhiên sẽ thất bại.

Vô vi cịn có nghĩa là khơng là mất cái đức tự nhiên thuần phác vốn có của vạn vật, khơng ham muốn những gì trái với bản tính tự nhiên của mình. Nếu cố tìm cách thoả mãn dục vọng tất sẽ can thiệp tự nhiên và chuốc lấy tai hoạ.

“Đạo đức kinh” là tác phẩm kinh điển của Đạo gia. Với tác phẩm này, Lão Tử đã khai sinh ra một trường phái triết học, một học thuyết, tư tưởng đối cực với Nho gia, cùng Nho gia ngự trị tâm hồn người Trung Hoa và ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tinh thần của các nước nằm trong vùng văn hoá Hán trên 2000 năm lịch sử.

<b>IV.ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG NHO GIÁO VÀ LÃO – TRANGĐẾN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM</b>

<b>IV.1 Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến văn học trung đại việtNam</b>

Nho giáo góp phần tạo nên giá trị đạo đức vẫn là một nét nổi trội của văn học Việt Nam trung đại. Như trên đã nói, trong các học thuyết của lồi người, có kim Đơng Tây, khơng một học thuyết nào coi trọng vấn đề đạo đức con người, vẫn đề tu thân bằng Nho giáo. Nho giáo chủ trương lý tưởng tơn qn, nhưng cũng có tư tưởng thân dẫn khá đậm đã. Tiếc rằng, đời nay, trong bối cảnh khi quyền đạo lý đã bị loãng đi quá đáng, lại có sự cắt đứt với q khứ khơng ít nên không ít người đã hiểu sai, thậm chỉ xuyên tạc Nho giáo, chỉ thấy phần hạn chế của nó mà bỏ qn mất phần chân chính của nó trong việc chăm lo đạo lý cho con người. Thử hỏi trong lịch sử Việt Nam ta,

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

cho đến nay, về mặt đạo đức cá nhân, đã có mẫu người nào vượt qua mẫu người chân quân tử vốn là mơ hình nhân cách của Nho giáo, của chân Nho.

Nói đến văn học Việt Nam trung đại, không thể không ghi nhận những giá trị đạo đức cao đẹp, sâu đậm bao gồm cả từ đức và cơng đức trong đó có tư tưởng thân dân, vốn đã không tồn tại dưới dạng nguyên lý khô cứng mà đã trở thành Tâm huyết khơng dễ gì thấy lại ở loại vẫn chương thời hiện đại. Đặc biệt là thứ tâm huyết gắn chặt với nghĩa khí thành nghĩa khí - tâm huyết cũng được coi là một phạm trợ mỹ học. Mà từ đó, lại khơng thể khơng nghĩ đến một phần cội nguồn của nó là Nho giáo, chân Nha. Nho giáo có bao nhiêu danh ngôn để đời như: "Kiến nghĩa bất vi vụ dùng già", "Sát thân thể nghĩa", "Xá thân thành nhân", "Phú quý bất năng dâm, bàn tiện bất năng đi, uy vũ bất năng khuất", "Dân vị quỹ, xã tắc thứ chỉ, quân vi khinh", "Kỳ sở bất dục, vật thi ư nhân", "Thế thiên hành đạo", "Quân từ thận kỳ độc”, “Nhất nhật tam tỉnh ngô thôn", "Tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lac"...

Học thuyết thiên mệnh, nhân nghĩa, tư tưởng trung quân ái quốc... của Nho giáo bỗng nhiên trở thành những cảm hứng chủ đạo của văn học trung đại với mục đích đề cao tình thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm, thể hiện tình thương yêu con người, coi trọng đạo lí làm người.

Thử tưởng tượng, ở thời trung đại, trên đất nước ta, thiếu đi những ý tưởng đó của Nho giáo, của chân nho, thì con người Việt Nam ta, và cũng là văn học Việt Nam ta sẽ thế nào? Chắc chắn, khơng như những gì nó đã có và đã là nguồn tư tưởng tình cảm ni dưỡng tinh thần nhân dân ta, làm đẹp con người Việt Nam ta, văn học Việt Nam ta, ít ra là ở thời trung đại mà văn học là một trong các phương tiện chuyển tải hữu hiệu.

<b>IV.2 Ảnh hưởng của tư tưởng Lão – trang đến văn học trung đạiViệt Nam</b>

Đạo giáo và tư tưởng Lão Trang ở Việt Nam có khác Trung Quốc: ở Trung Quốc, tư tưởng Lão Trang vào cuộc sống trước và đến cuối đời Hán mới hình thành tôn giáo (Đạo giáo). Ở Việt Nam, Đạo giáo vào trước tư tưởng Lão Trang. Có lẽ vì ở Việt Nam chưa có trí thức cao cấp, và khi vào Việt Nam, nó đã chuyển vào Phật giáo. Có hai các đọc Lão Trang

- Lấy điển tích văn hố - Lấy tư tưởng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Các nhà văn hóa, tư tưởng cao đều ảnh hưởng Lão Trang. Học tư tưởng Nho giáo Lão Trang là học tự do, không có thầy. Đạo giáo là một tơn giáo, giống Phật giáo, về sau chuyển thành đạo nội. Nhưng trong đời sống tinh thần dân gian, ông Thần, ông Bụt ảnh hưởng mạnh hơn ơng Tiên. Khơng có đạo sĩ nào nổi tiếng.

Từ thế kỷ XV, Nho độc tôn. Trong điều kiện đó, tư tưởng Lão Trang là tư tưởng tự do của thời đại. Chính tư tưởng tự do đó đi vào văn học, trở thành nguồn cảm hứng nghệ thuật. Chính quyền độc tơn Nho thuật, người ẩn dật vay tư tưởng Lão Trang khác người tài tử. Người ẩn dật và người tài tử làm nền văn hoá có giá trị nhất.

Khơng hiểu tư tưởng Lão Trang thì khơng hiểu văn hố cổ, nhất là các nhà thơ lớn. Hơn thế, không hiểu hệ thống Đạo gia và Đạo giáo, thì khơng hiểu hỗn hợp pha tạp của ta. Một trong những đặc điểm của từ tưởng Trung Quốc là chỉ ly tủn mủn và thiếu nhân tính. Vào Việt Nam mất cái đó. Nhật Bản có cấu trúc lại những gì vay mượn của Trung Quốc trong khi ta thì khơng.

<b>V.TƯ TƯỞNG NHO GIÁO VÀ LÃO – TRANG TRONG THƠ CHỮHÁN NGUYỄN DU</b>

<b>V.1 Thơ chữ Hán của Nguyễn Du</b>

Thơ chữ Hán Nguyễn Du gồm ba tập: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, được làm trong thời gian từ năm nhà thơ 21 tuổi đến năm 49 tuổi.

Thanh Hiên thi tập (1786 – 1804) được làm từ thời kì đầu đến trước khi Nguyễn Du ra làm quan cho triều Nguyễn. Tập thơ gồm có 78 bài (tính cả những bài cùng một đầu đề) và được chia làm 3 phần: Mười năm gió bụi, Dưới chân núi Hồng, Ra làm quan ở Bắc Hà.

Nam trung tạp ngâm (1804 – 1813) gồm 40 bài được viết trong thời gian làm quan ở Phú Xuân và Quảng Bình. Lúc này, nhà thơ khơng cịn chìm trong bể tắc, tuyệt vọng như trước. Tuy nhiên, Nguyễn Du cũng khơng thật sự tìm được những phút giây thanh thản khi bước chân vào chốn quan trường.

Bắc hành tạp lục (1813 – 1814) gồm 140 bài sáng tác trong vòng một năm, khi nhà thơ đi sứ qua Trung Quốc. Cũng giống như 2 tập thơ trên, những bài thơ trong Bắc hành tạp lục cũng là thơ tâm sự. Tuy nhiên, tập thơ có sự đổi mới rõ rệt, khơng cịn những bài thơ viết về riêng mình.

<b>V.2 Khuynh hướng tư tưởng Nho giáo trong thơ chữ Hán Nguyễn Du</b>

Như đã biết, Nguyễn Du là một nhà nho, từng làm một chức quan nhỏ, tập ấm của người bố nuôi họ Hà. Tâm của ông được trau dồi bởi học vấn Nho gia. Hơn ai hết,

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Nguyễn Du xuất thân trong gia đình “đại thế gia”, cha và anh từng làm quan lớn (đồng triều) của triều đình Lê-Trịnh; cả gia đình Nguyễn Du chịu nặng ơn mưa móc của triều Lê-Trịnh nên cái Tâm của Nguyễn Du phải có trách nhiệm với triều đại đó. Trong thực tế, trước nguy cơ tiêu vong của nhà Lê, Nguyễn Du đã từng có những hành động như một tơi trung. Khơng theo kịp vua bơn tẩu, trở về Thái Bình ơng ni chí phục quốc. Sử sách cũng như gia phả khơng chép lại cụ thể Nguyễn Du làm gì trong thời gian ở quê vợ. Thế nhưng trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du sáng tác thời gian “lưu lạc” ở Thái Bình –tác giả nói đó là “thập tải phong trần” (mười năm gió bụi), ta bắt gặp một tâm trạng bất đắc chí:

“Thập tải phong trần khứ quốc xa Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia.”

(U cư II) Dịch:

Mười năm gió bụi rời kinh thành đi xa, Đầu bạc phơ phơ ở nhờ nhà người.

Trong lịng nhà thơ ln day dứt, than thân vì một nỗi không làm nên công nghiệp:

“Sinh vị thành danh thân dĩ suy, Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy.” Dịch:

Sống chưa nên danh, thân đã suy yếu, Tóc bạc phơ phơ, gió chiều thổi.

Thơ chữ Hán của Nguyễn Du với 249 bài thơ thì có đến 46 bài nhà thơ nói đến “bạch phát” hay “bạch đầu”; riêng Thanh Hiên thi tập có đến 21 bài trên tổng số 78 bài Nguyễn Du nói đến mái tóc bạc. Khơng phải các nhà thơ khác khơng nói đến đầu bạc nhưng với thơ Nguyễn Du, hình ảnh mái tóc bạc hiện lên như một ám ảnh. Nguyễn Du cứ nhắc đi nhắc lại, lặp đi lặp lại một cách dai dẳng. Lúc thì nhà thơ nói: “Tiêu tiêu bạch phát mộ xuy phong” (Tự thán I –Tóc bạc phơ phơ gió chiều thổi); “Xuân thu đại tự bạch đầu tân (Tự thán II –Xuân thu lần lữa qua, đầu bạc thêm); lúc thì: “Lão lai bạch phát khả liên nhữ(Thu dạ–Già đến, tóc bạc, người thật đáng thương); “Bạch đầu đa hận tuế thời niên” (Quỳnh Hải nguyên tiêu–Đầu bạc nhiều giận nỗi tháng ngày trôi); “Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên” (Tạp thi –Người tráng sĩ đầu bạc rồi, buồn trông trời)... Rõ ràng “mái tóc bạc” là hình tượng thơ chứa đựng tư tưởng-nghệ thuật của nhà thơ, tượng trưng cho một con người nhiều suy nghĩ và tâm sự u uất. Tâm sự đó có thể lý giải bằng nỗi lo sầu vì phải “vắt tóc thường lo cho chí nguyện trong những ngày cuối”, vì “sinh vị thành danh thân dĩ suy”(sống chưa làm nên danh, thân đã suy yếu –Tự thán I)... Đó là tâm sự của một người có chí hướng lập cơng danh, tư tưởng nhập thế của Nho giáo, mà bất đắc chí. Bất đắc chí vì cơng danh khơng thành, Nguyễn Du cịn buồn vì tâm trạng hoài Lê. Khi trở về dưới chân núi Hồng, chí “phục quốc” phù Lê vẫn cịn, lịng của Nguyễn Du vẫn hướng về nhà Lê. Mặc dù ông là người biết rõ nguyên nhân sụp đổ của nhà Lê, biết rõ vận số nhà Lê đã hết, hơn ai hết nhà thơ đã từng nghĩ “cổ kim vị kiến thiên niên quốc” (Vị Hoàng doanh –Xưa nay chưa thấy triều đại nào được ngàn năm), nhưng cái tâm đối với tiền triều vẫn còn man mác. Trong bài My trung mạn hứng tác giả cho thấy rõ điều đó:

“Chung Tử viện cầm tháo Nam âm, Trang Tích bệnh trung do Việt ngâm.

Tứ hải phong trần gia quốc lệ, Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Bình Chương di hận hà thì liễu? Cơ Trúc cao phong bất khả tầm. Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ, Hồng sơn sơn hạ Quế giang thâm.” Dịch:

Chung Tử ôm đàn gảy khúc Nam, Trang Tích trong lúc đau vẫn ngâm tiếng Việt.

Bốn bể gió bụi, lệ rơi vì tình nhà nợ nước, Mười tuần trong ngục, lòng nghĩ đến việc sống chết.

Mối hận để lại của Bình Chương bao giờ hết?

Phong cách cao thượng (của Bá Di, Thúc Tề) nước Cơ Trúc khơng thể tìm. Ta có tấc lịng khơng biết ngỏ cùng ai,

Dưới chân núi Hồng sông Quế sâu.

Nhà thơ nhớ và nhắc đến Chung Tử Và Trang Tích –những con người ln giữ trong tâm cái gốc của kẻ sĩ đối với đất nước –với một nỗi buồn man mác. Nhà thơ liên hệ với mình đã từng bốn bể trải bao phong trần, rơi lệ vì tình nhà, nợ nước. Chỉ Tiếc là mệnh trời đã khơng cho mình thỏa chí. Nhà thơ lại khơng thể tìm đến cách của Bá Di, Thúc Tề Là con vua Cô Trúc khi mất nước lên núi Thú Dương ở ẩn rồi chịu nhịn đói mà chết. Bởi vậy tấm lịng của nhà thơ khơng biết ngỏ cùng ai. Mệnh trời đối với nhà Lê đã hết, Nguyễn Du trở về chân núi Hồng làm một “Hồng sơn liệp hộ” và “Nam hải điếu đồ”.

Bất đắc chí là một phần trong thơ chữ Hán, bất như ý lại là một phần lớn nữa trong thơ của Nguyễn Du khi nhà thơ ra làm quan với triều Nguyễn. Thực trạng quan trường và xã hội là nguyên nhân sâu sắc nhất cho nỗi lòng của nhà thơ. Trong “vòng kiềm tỏa”, “vật trong lồng cũi” –một lồng cũi có nhiều đố kỵ, ghen ghét, có những con chim oanh ưa mách lẻo, có những dì gió hay đánh ghen... Sống trong cái lồng đó “khơng bệnh mà cứ phải cúi lom khom, thậm chí cịn và vụng về để phịng thói tục”, Nguyễn Du đã khơng thể nói hết được tâm sự. Chỉ Đến khi đi sứ Trung Quốc, ơng mới có thể nhờ vào những nhân vật lịch sử Trung Quốc để nói lên những suy nghĩ, thái độ của mình. Ơng lên tiếng phê phán những viên quan như Mã Viện cũng như bọn quan lại Trung Quốc bắt nhân dân phải lập đền thờ ở nhiều nơi. Nhà thơ mỉa mai, phê phán sự bòn rút nhân dân ngay cả khi đã chết của đám quan lại:

“Tính năng hợp thướng Vân đài họa, Do hướng Nam trung sách tuế thì.” Dịch:

Họ Tên chỉ đáng được ghi ở gác Vân đài,

Sao còn ngoảnh về hướng Nam mà đòi hỏi việc cúng tế hàng năm? Trong bài Phản chiêu hồn, với giọng thơ đanh sắc, ông chỉ ra cả một chế độ xã hội bất công, tàn nhẫn. Xã hội ấy được biểu tượng qua các nhân vật như Sở Hoài vương, Thượng quan Ngân Thượng; dịng sơng Mịch La, cá rồng hùm sói... tất cả chúng đã hãm hại bậc hung thần. Nguyễn Du chống lại việc Tống Ngọc gọi hồn Khuất Nguyên. Bằng lập luận của mình, nhà thơ dựng lên hình ảnh một nước Sở Đất đai, thành quách như cũ mà con người khác xưa. Bọn quan lại lúc nào cũng vênh váo, khoe khoang nhân nghĩa đạo đức như ông Cao, ông Quỳ, nhưng kỳ thực chúng “không để lộ vuốt nanh và nọc độc, mà cắn xé người ngọt xớt như đường”. Cảnh nhân dân thì đói khổ, mấy trăm châu ở Hồ Nam chỉ có những người gầy gị, khơng một ai béo tốt. Từ Lịng thương cảm Khuất Nguyên, Nguyễn Du nói với hồn:

“Thận vật tái phản linh nhân xi,

</div>

×