Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Khoa luan hoạt Động thông tin Đối ngoại của nhật bản qua các chương trình dành cho thanh niên – những bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.97 MB, 104 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài. ... 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài. ... 4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ... 5

3.1. Mục đích nghiên cứu. ... 5

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. ... 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ... 6

4.1. Đối tượng nghiên cứu. ... 6

7. Kết cấu khóa luận. ... 9

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ GIỚI THIỆU HAI CHƯƠNG TRÌNH ... 10

1.1. Thơng tin đối ngoại. ... 10

1.1.1. Thông tin. ... 10

1.1.2. Khái niệm Thông tin Đối ngoại. ... 11

1.1.3. Vai trị của Thơng tin Đối ngoại. ... 12

1.1.4. Đối tượng, nội dung, hình thức, lực lượng tham gia Thông tin Đối ngoại. 14 1.1.5. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoạt động Thông tin Đối ngoại. 20 1.1.6. Quan điểm quốc tế có liên quan đến thông tin đối ngoại. ... 26

1.2. Khái quát về Chính sách Đối ngoại của Nhật Bản. ... 27 1.2.1. Chính sách Đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh lạnh.

27

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

1.2.2. Đông Á – khu vực tiềm năng trong Chính sách Đối ngoại của

Nhật Bản. ... 30

1.3. Giới thiệu về hai chương trình. ... 33

1.3.1. Chương trình Tàu thanh niên Đơng Nam Á ( SSEAYP - Ship for Southeast Asian Youth Program). ... 33

1.3.2. Chương trình Giao lưu Thanh thiếu niên Đông Á thế kỉ XXI. .... 41

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI QUA CHƯƠNG TRÌNH TÀU THANH NIÊN ĐƠNG NAM Á VÀ GIAO LƯU THANH THIẾU NIÊN ĐÔNG Á THỂ KỶ XXI ... 46

2.1. Chương trình Tàu thanh niên Đơng Nam Á. ... 46

2.1.1. H oạt động trên tàu (Activities on board the Ship). ... 46

2.1.2. Hoạt động tại các nước tàu cập cảng (Activities in the Countries to be visited). ... 65

2.1.3. Hoạt động Hậu chương trình (Post – Program Activities). ... 71

2.2. Chương trình Giao lưu Thanh thiếu niên Đông Á thế kỉ XXI. ... 71

2.2.1. Chương trình chung. ... 71

2.2.2. Chương trình riêng tại địa phương. ... 74

2.2.3. Chương trình ở nhà dân (Homestay). ... 76

2.2.4. Chương trình thảo luận (Workshop). ... 78

2.2.5. Báo cáo sau chương trình (Post – Program Report). ... 79

CHƯƠNG 3. CHƯƠNG TRÌNH TÀU THANH NIÊN ĐƠNG NAM Á VÀ GIAO LƯU THANH THIẾU NIÊN ĐÔNG Á THẾ KỶ XXI – BÀI HỌC LỚN CHO THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ... 80

3.1. So sánh hai chương trình. ... 80

3.1.1. Giống nhau. ... 80

3.1.2. Khác nhau. ... 82

3.2. Ưu điểm – Thiếu sót của hai chương trình. ... 83

3.2.1. Ưu điểm của hai chương trình. ... 83

3.2.2. Một vài thiếu sót. ... 87

3.3. Những yếu tố tạo nên thành cơng của hai chương trình... 90

3.4. Bài học lớn cho Thông tin Đối ngoại của Việt Nam. ... 92

3.4.1. Tiềm năng của chương trình giao lưu quốc tế tại Việt Nam. ... 92

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

3.4.2. Chương trình Tàu thanh niên Đông Nam Á và Giao lưu Thanh

thiếu niên Đông Á thế kỷ XXI – Một điều bất khả thi ở Việt Nam. ... 93

3.4.3. Hướng đi phù hợp với Việt Nam. ... 94

KẾT LUẬN ... 97

TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 99

PHỤ LỤC ... 100

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài.

Trong thời đại của bùng nổ thông tin và kĩ thuật số, những nền văn hóa vốn xa xơi về mặt địa lí dường như cũng đang xích lại gần nhau hơn. Nếu như thuở ban đầu, khái niệm “tồn cầu hóa” chỉ gắn với những phát kiến địa lý hay việc xóa bỏ những rào cản thương mại, thì đến nay nó đã trở thành một cụm từ phổ biến ở mọi nơi mọi lúc, trên mọi phương diện của đời sống. Chính vì lẽ đó, các hoạt động giao lưu giữa những quốc gia, giữa những khu vực trở thành tất yếu dựa trên phương châm: Hịa bình, hợp tác cùng phát triển.

Nhật Bản là đất nước phát triển nằm ở Châu Á. Nằm ở kinh độ 139 độ 46’ Đông trên bờ biển Thái Bình Dương nên người phương Tây vẫn quen coi Nhật Bản là vùng “Viễn Đơng”. Hình ảnh của đất nước này luôn gắn với những trầm – thăng trong lịch sử phát triển, qua nhiều biến cố đòi hỏi phá vỡ dấu ấn cũ, xây tạo hình ảnh mới. Trong chiến tranh thế giới thứ II, hình ảnh đất nước Nhật Bản đã gắn liến với chế độ phát xít và đội quân bại trận. Mong muốn hàng đầu của Nhật Bản là có thể thay thế được hình ảnh của một đế quốc phát xít bại trận và một đất nước chịu hậu quả nặng nề của hai quả bom nguyên tử. Nỗ lực thay đổi hình ảnh quốc gia được thể hiện rõ nhất qua Điều 9 Hiến pháp năm 1946 của Nhật: “Nhân dân Nhật Bản thành thật mong muốn một nền hịa bình quốc tế dựa trên chính nghĩa và trật tự, cam kết vĩnh viễn không phát động chiến tranh như là một phương tiện giải quyết xung đột quốc tế bao gồm chiến tranh xâm phạm chủ quyền dân tộc và các hành vi vũ lực hoặc các hành vi đe dọa bằng vũ lực. Để thực hiện mục đích ghi ở trên, lục hải và không quân cũng như các tiềm lực chiến tranh khác sẽ khơng được duy trì. Quyền tham chiến của đất nước sẽ không được công nhận…”. Từ bước đầu nỗ lực xóa bỏ định kiến về một đế quốc phát xít, Nhật Bản dần dần xây dựng lịng tin của cơng chúng, thay đổi từng bước hình ảnh của mình thành một đất nước phát triển về kinh tế, khoa học kỹ thuật, giàu bản sắc dân tộc, con người Nhật Bản cần cù, chăm chỉ và sáng tạo. Không phụ những nỗ lực

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

trong thay đổi hình ảnh đó, từ những năm 50 đến những năm 70 của thế kỷ XX, hình ảnh đất nước Nhật Bản đã gắn liền với sự phát triển thần kỳ. Cho đến nay, Nhật Bản là cường quốc có nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới sau Mỹ và Trung Quốc. Thế kỷ XXI này, hình ảnh của đất nước Nhật Bản là một quốc gia nhiều thiên tai, ít tài nguyên nhưng lại dẫn đầu về khoa học cơng nghệ, kinh tế rất phát triển. Hình ảnh nhân dân Nhật Bản trong con mắt bạn bè quốc tế là những người đoàn kết, chăm chỉ, cần cù và tơn trọng truyền thống.

Để có thể thay đổi được cách nhìn của thế giới về đất nước mình, “lật ngược ván cờ thế yếu thành thế mạnh”, Nhật Bản đã phải thúc đẩy thực hiện có hiệu quả hoạt động thơng tin đối ngoại theo hướng đi riêng, phù hợp với điều kiện của quốc gia. Với mục đích nhằm thắt chặt những mối quan hệ ngoại giao, phát triển mối quan hệ về văn hóa, đồng thời nhằm đào tạo và bồi dưỡng những nhà lãnh đạo tương lai của mỗi đất nước, Nhật Bản đã tổ chức rất nhiều những chương trình giao lưu thanh niên, những diễn đàn học sinh - sinh viên quốc tế. Nổi bật trong chuỗi các chương trình đó là Chương trình Tàu Thanh niên Đông Nam Á (SSEAYP – Ship for Southeast Asian Youth Program) và Giao lưu Thanh thiếu niên Đông Á thế kỉ XXI của Chính phủ Nhật Bản (JENESYS - Japan – East Asia Network of Exchange for Students and Youths).

Thông qua hai chương trình này, những người trẻ đến từ nhiều đất nước trong châu lục đã có dịp gặp nhau, cùng nhau tiếp xúc với một nền văn minh văn hóa tiên tiến, hiện đại. Bên cạnh mục đích bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài, đây có thể nói là một chính sách hết sức thành cơng của Nhật Bản trong công tác thông tin đối ngoại – khi nước Nhật đã hiện lên rất bề thế và đẹp đẽ trong lòng rất nhiều những bạn trẻ đến tham dự hoạt động này. Để có được những ý tưởng trong khâu thực hiện chương trình, trong các hoạt động dành cho thanh niên này, phải khẳng định rằng Nhật đã có lối đi khá nhanh nhạy, tỉ mỉ và xuất sắc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Dựa vào những cách thức mà Nhật Bản đã áp dụng để thúc đẩy hoạt động thơng tin đối ngoại của quốc gia mình qua hai chương trình trên, từ đó tạo cơ sở để đối chiếu, so sánh trở lại với Việt Nam. Đây cũng là một bài học quý báu cho ngành thông tin đối ngoại nước nhà, về cách tận dụng nguồn lực xã hội, cũng như với một cách tư duy linh hoạt và triển khai hoạt động thông tin đối ngoại sáng tạo và hiệu quả.

Nhật Bản và Việt Nam là hai quốc gia Châu Á, nơi các giá trị truyền thống được đề cao và tôn vinh. Việt Nam là một đất nước có lịch sử khoảng 4000 năm, có nền văn hóa lâu đời cùng những phong tục - tập quán đầy tính nhân văn, có những di tích ghi lại chiến công oanh liệt trước những kẻ xâm lăng tàn bạo. Về chiều dài lịch sử và bề sâu văn hóa, có lẽ đất nước hình chữ S khơng hề thua kém Nhật Bản. Trong thời kì hội nhập và tồn cầu hóa, các phương tiện thông tin liên lạc kéo con người lại gần nhau. Đây vừa là điều kiện phát triển vừa là thách thức dành cho ngành thông tin đối ngoại của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam – đất nước được cả thế giới biết đến với slogan: Hidden Charm. Vấn đề được đặt ra với các cấp các ngành của Đảng và Nhà nước, đó là làm thế nào để vẻ đẹp của Việt Nam khơng cịn tiềm ẩn, làm thế nào để xóa đi những cảm quan về Việt Nam chỉ đơn thuần gói gọn trong cụm từ “Viet Nam War”, bởi vì hiện nay khi nhắc đến Việt Nam, trong nhận thức của nhiều người vẫn là hình ảnh của chiến tranh. Chiến tranh, chiến đấu và chiến thắng là một phần lịch sử hào hùng của Việt Nam, tuy nhiên sau quá khứ là hiện tại, dấu ấn lịch sử đi cùng năm tháng còn dấu ấn thời đại gắn liền với hiện tại. Thế kỷ XXI này Việt Nam đang đi trên con đường mới và cần phải tạo được nhận thức mới cho thế giới về hình ảnh đất nước, thể hiện những bước tiến mới của quốc gia. Nhật Bản cũng từng có slogan của ngành du lịch là “Hidden Japan” - và người Nhật đã bước một bước rất dài trong việc bộc lộ hình hài đất nước với thế giới khi Chương trình Tàu thanh niên Đơng Nam Á và Giao lưu Thanh niên Đông Á thế kỉ XXI của Chính phủ Nhật Bản được khởi động. Nhanh chóng nâng tầm cả về số lượng và chất

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

lượng, hai chương trình đều đang hứa hẹn một tương lai tốt lành cho nước Nhật và hoạt động thông tin đối ngoại của Nhật.

Quá trình xây dựng chi tiết và thực hiện những kế hoạch trong hoạt động thông tin đối ngoại của Việt Nam ở thời kỳ mới đang ở bước khởi đầu. Vì vậy, với những bài học được đúc rút từ Nhật Bản kết hợp với điều kiện thực tế ở nước ta, liệu Việt Nam có cơ hội áp dụng một cách hiệu quả các kinh nghiệm của Nhật Bản qua những chương trình dành cho thanh niên?. Nguyên nhân thành bại và quá trình thực hiện dẫn đến những kết quả, đó là bài học thực tiễn quý giá cho Việt Nam.

Những bài học này tạo cơ sở để Việt Nam tham khảo, thay đổi cho phù hợp, tiếp thu cái thành cơng, hợp hồn cảnh và rút kinh nghiệm từ những hạn chế, tìm ra cách phịng tránh, khắc phục cho chính đất nước mình. Từ những kinh nghiệm đó, Việt Nam có thể tạo dựng mới, hoặc có thể tạo ra lối đi và phát triển các chương trình dành cho thanh niên đã có sẵn.

Nhận thấy đó là hai trong số các chương trình dành cho thanh niên độc đáo của Nhật Bản, hoạt động có hiệu quả trong cơng tác thơng tin đối ngoại, đề tài khóa luận chun ngành Thơng tin Đối ngoại: “Hoạt động Thông tin Đối ngoại của Nhật Bản qua các chương trình dành cho thanh niên – Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” được xây dựng để nhận thức, tìm tịi những hướng đi của Nhật Bản, từ đó rút ra bài học lớn cho thơng tin đối ngoại của Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài.

Hoạt động Thông tin Đối ngoại cùng việc xây dựng và quảng bá hình ảnh quốc gia của Nhật Bản là đề tài thu hút sự quan tâm nghiên cứu của Chính phủ Nhật Bản, các học giả Nhật Bản, học giả Việt Nam và Quốc tế, bởi Nhật Bản là đất nước lớn, có vị trí quan trọng trên trường quốc tế. Các cơng trình nghiên cứu phải kể đến là: Cuốn sách “Chiến lược thương hiệu Châu Á”

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

của nhà chiến lược Martin Roll xuất bản năm 2005, hay “Nhật Bản tham vọng” của Laura MacGregor xuất bản năm 2007…Ở Việt Nam, một số học giả cũng đã thử nghiệm nghiên cứu đề tài này và cho ra một số bài báo, những bài phân tích có logic và cơ sở thực tiễn.

Tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, chuyên ngành Thông tin Đối ngoại, các khóa luận tốt nghiệp Đại học của sinh viên khóa trên cũng đã đề cập tới việc quảng bá hình ảnh quốc gia của Nhật Bản. Ví dụ như khóa luận với đề tài “Xây dựng và quảng bá hình ảnh quốc gia của Nhật Bản – Kinh nghiệm và những gợi mở cho Việt Nam” của sinh viên Vũ Hoàng Mỹ Ngọc K28, hay “Hoạt động Thông tin Đối ngoại của Nhật Bản tại Việt Nam thơng qua kênh văn hóa. Kinh nghiệm và những gợi mở cho công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam hiện nay” của sinh viên Nguyễn Thu Trang K26…

Nhìn chung, chưa có một nghiên cứu nào về hoạt động thông tin đối ngoại của Nhật Bản qua các chương trình dành cho thanh niên. Vì vậy, học hỏi những nghiên cứu trước, khóa luận sẽ tập trung làm rõ thực trạng hoạt động thông tin đối ngoại qua Chương trình Tàu Thanh niên Đông Nam Á (SSEAYP – Ship for Southeast Asian Youth Program) và Giao lưu Thanh thiếu niên Đông Á thế kỉ XXI của Chính phủ Nhật Bản (JENESYS - Japan – East Asia Network of Exchange for Students and Youths). Từ đó, rút ra những yếu tố làm nên thành cơng của hai chương trình, xây dựng bài học lớn cho thông tin đối ngoại Việt Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 3.1. Mục đích nghiên cứu.

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động Thông tin đối ngoại qua hai chương trình Tàu thanh niên Đơng Nam Á và Giao lưu Thanh niên Đơng Á thế kỉ XXI của Chính phủ Nhật Bản, đánh giá thực tiễn

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

hoạt động này ở nước ta, khóa luận đưa ra một số nhận xét và bài học lớn cho thông tin đối ngoại của Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.

Để hoàn thành mục đích đã đặt ra, khóa luận cần được thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:

- Tìm hiểu thơng tin chung về các chương trình dành cho thanh niên của Nhật Bản, tầm quan trọng của các chương trình thanh niên với cơng tác thơng tin đối ngoại của Nhật.

- Tìm hiểu chi tiết các hoạt động của chương trình Tàu thanh niên Đông Nam Á và Giao lưu Thanh niên Đông Á thế kỉ XXI của Chính phủ Nhật Bản.

- Phân tích hiệu quả hoạt động, kết quả đạt được qua hai chương trình. - Nhận xét và rút ra bài học lớn cho thông tin đối ngoại của Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tượng nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu chính của khóa luận chính là Hoạt động thơng tin đối ngoại qua chương trình Tàu thanh niên Đơng Nam Á và Giao lưu Thanh niên Đông Á thế kỉ XXI của Chính phủ Nhật Bản. Cụ thể ở đây là chi tiết nội dung hoạt động của hai chương trình.

4.2. Phạm vi nghiên cứu.

4.2.1. Phạm vi không gian.

Các hoạt động của chương trình Tàu thanh niên Đơng Nam Á và Giao lưu Thanh niên Đông Á thế kỉ XXI của Chính phủ Nhật Bản. Vì vậy, phạm vi không gian ở đây sẽ nghiên cứu hoạt động của hai chương trình trong khu vực Đông Á.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

4.2.2. Phạm vi thời gian.

- Chương trình Tàu thanh niên Đơng Nam Á đã trải qua giai đoạn hoạt động từ năm 1974 đến 2012.

- Chương trình Giao lưu Thanh thiếu niên Đơng Á thế kỉ XXI của Chính phủ Nhật Bản đã trải qua giai đoạn hoạt động từ năm 2007 đến 2012. Đây là một hoạt động giao lưu thanh niên diễn ra một cách tồn diện trên nhiều lĩnh vực. Trong khn khổ của khóa luận này, tơi xin phép chỉ đề cập đến một phần trong chuỗi hoạt động của chương trình Giao lưu Thanh thiếu niên Đơng Á - đó là hoạt động Giao lưu Thanh niên Ngắn hạn của các nước Đông Á với đối tượng hoạt động là học sinh - sinh viên các nước trong khu vực Đơng Á.

Vì vậy, căn cứ vào mốc thời gian, khóa luận sẽ nghiên cứu hai chương trình này trong khoảng từ năm 2007 đến 2012.

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu. 5.1. Cơ sở lý luận.

Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, khóa luận cũng dựa trên các chính sách của chính phủ Nhật Bản qua các chương trình dành cho thanh niên nói chung, qua hai chương trình mà khóa luận đề cập đến nói riêng.

5.2. Cơ sở thực tiễn.

Các hoạt động thực tế của chương trình Tàu thanh niên Đông Nam Á và Giao lưu Thanh niên Đông Á thế kỉ XXI của Chính phủ Nhật Bản.

Bên cạnh đó, khóa luận cũng lấy các hoạt động cụ thể dành cho thanh niên của Việt Nam làm cơ sở thực tiễn để từ đó so sánh, xem xét áp dụng bài học kinh nghiệm của Nhật Bản, tìm ra hướng đi riêng cho Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Kết hợp cơ sở lý luận với cơ sở thực tiễn tạo thành nền tảng có tính khoa học, khách quan cho nghiên cứu.

5.3. Phương pháp nghiên cứu.

Khóa luận sử dụng hai phương pháp chủ yếu sau đây:

- Nghiên cứu tài liệu: Thu thập, tổng hợp và nghiên cứu các tài liệu về Thông tin Đối ngoai, các hoạt động của hai chương trình,…

- Phỏng vấn sâu: Phỏng vấn những trải nghiệm của các thanh niên đã từng tham gia chương trình để rút ra cách hoạt động thơng tin đối ngoại của Nhật Bản, những ưu điểm và thiếu sót của chương trình, từ đó xây dựng nên bài học lớn cho Việt Nam.

6. Ý nghĩa thực tiễn.

Đề tài “Hoạt động Thông tin Đối ngoại của Nhật Bản qua các chương trình dành cho thanh niên – Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” mang ý nghĩa thực tiễn, đi từ nghiên cứu thực trạng hoạt động của chương trình cho đến việc rút ra bài học thông tin đối ngoại lớn của Việt Nam.

Khóa luận chỉ ra cách thức, phương pháp nước Nhật dã thực hiện để phát triển các chương trình dành cho thanh niên. Để có được hình ảnh như ngày hôm nay, Nhật Bản đã trải qua các thời kỳ từ bước ban đầu khó khan thay đổi cái cũ, tạo dựng cái mới rồi phát triển thành hình ảnh. Giai đoạn hiện tại của Việt Nam cũng có nhiều điểm tương đồng với giai đoạn thay đổi hình ảnh của Nhật Bản. Vì vậy, nghiên cứu này có ý nghĩa thực hiện so sánh sự tương quan, tương đồng giữa hoạt động dành cho thanh niên ở hai quốc gia, từ đó thấy điểm những ưu điểm và hạn chế của phương thức mà quốc gia đi trước đã áp dụng để lựa chọn cho mình phương pháp tối ưu, đạt hiệu quả cao nhất.

Mục đích của nghiên cứu này là đưa ra bài học lớn cho thông tin đối ngoại của Việt Nam, thông qua các hoạt động qua hai chương trình dành cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

thanh niên của Nhật Bản. Bài học đó vừa áp dụng kinh nghiệm của Nhật Bản, nhưng cũng phải phù hợp với hoàn cảnh, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách và pháp luật của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 7. Kết cấu khóa luận.

Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, khóa luận được kết cấu thành 3 chương và tiết như sau:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung.

Chương 2. Thực trạng hoạt động Thông tin Đối ngoại qua hai chương trình: Chương trình Tàu thanh niên Đơng Nam Á và Giao lưu Thanh thiếu niên Đông Á thế kỷ XXI.

Chương 3: Chương trình Tàu thanh niên Đơng Nam Á và Giao lưu Thanh thiếu niên Đông Á thế kỷ XXI – Bài học lớn cho Thông tin Đối ngoại của Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

CHƯƠNG 1.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ GIỚI THIỆU HAI CHƯƠNG TRÌNH 1.1. Thơng tin đối ngoại.

1.1.1. Thơng tin.

“Thơng tin” là một động từ (có thể hiểu như một danh từ) được dùng trong rất nhiều lĩnh vực, chuyên ngành khác nhau: Công nghệ thông tin, thông tin tuyên truyền, thông tin đối ngoại, thông tin thư viện... “Thơng tin” có rất nhiều cách hiểu khác nhau.

Theo Bách khoa toàn thư mạng tiếng Việt (wikipedia), “thơng tin” (inform) có nghĩa là thơng báo tin tức. Thông tin giúp làm tăng hiểu biết của con người, là nguồn gốc của nhận thức và là cơ sở của quyết định.Theo đó, thơng tin được hiểu như động thái truyền đi những nhận thức, những trải nghiệm lấy được từ đời sống thực tiễn cho một người, một nhóm người hoặc tồn xã hội được biết. Thông tin là hành động giúp cho con người tăng vốn tri thức, kể cả đối tượng truyền tin và đối tượng tiếp nhận thông tin.

Theo định nghĩa của bộ môn Triết học Mác – Lênin, thơng tin là một hiện tượng vốn có của vật chất, là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất, ln gắn với q trình phản ánh. Điều đó có nghĩa, thơng tin được tiếp nhận và mang đặc tính của dạng vật chất cao cấp: bộ óc con người. Thơng tin là hành động mang tính khách quan, được bộ não nhận thức, xử lý và phản ánh lại nó ra ngồi nhờ động thái truyền tin, thông báo cho người khác. Vì nó là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất, cho nên “thông tin” được hiểu như một thứ hiển nhiên tồn tại trong đời sống xã hội và không thể thiếu được trong đời sống con người.

Từ những định nghĩa trên có thể nhận thấy, thông tin là một khái niệm trừu tượng, rất khó có thể thống nhất trong một khái niệm chung. Tuy nhiên, có thể hiểu “thơng tin” theo một cách phổ biến nhất, đó là: Thơng tin là hành động thông báo, truyền tin về một sự vật hay hiện tượng nhất định tới đối

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

tượng tiếp nhận thơng qua các hình thức phù hợp. Thơng tin được thực hiện qua nhiều phương thức khác nhau tới đối tượng cần truyền tin.

1.1.2. Khái niệm Thông tin Đối ngoại.

Ngày nay, trên các phương tiện truyền thông đại chúng, chúng ta vẫn thường xuyên bắt gặp các thuật ngữ như “Thông tin đối ngoại”, “Hoạt động Thông tin đối ngoại”, “Công tác Thông tin đối ngoại” hay “Người làm công tác Thông tin đối ngoại”. Thông tin đối ngoại là một lĩnh vực hoạt động của Nhà nước song cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa chính thức nào về Thông tin đối ngoại được các cơ quan chức năng đưa ra. Do đó, đối với những người không hoạt động trong lĩnh vực này thì đây là khái niệm khá mơ hồ và họ chỉ hiểu một cách đơn giản đó là hoạt động đối ngoại, thuộc lĩnh vực Quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, cũng có khá nhiều những cá nhân, tập thể hoạt động hoặc quan tâm đến lĩnh vực này đã có những lập luận khác nhau để đưa ra nhiều cách hiểu về thuật ngữ “Thông tin đối ngoại”.

Thứ nhất, theo triết tự từ, “thông tin đối ngoại” bao gồm “thông tin” và “đối ngoại”. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “Thông tin” là “Truyền tin cho nhau để biết”<small>1</small>, “Đối ngoại” là “Đối với nước ngoài, bên ngoài, nói về đường lối, chính sách, sự giao thiệp của một Nhà nước, một tổ chức”<small>2</small>. Theo đó có thể rút ra được cách hiểu chung nhất về “thông tin đối ngoại” qua triết tự từ: “Thông tin đối ngoại được hiểu là những thông báo, tri thức, định hướng nhận thức về những chính sách, đặc điểm, biểu trưng của quốc đã qua sàng lọc, được con người truyền tải ra ngoài phạm vi lãnh thổ đất nước, giúp cung cấp thơng tin chính thống, xác thực về đất nước mình cho các quốc gia khác cũng như cộng đồng quốc tế nhằm mục đích định vị, nâng cao hình ảnh đất nước trong mắt bạn bè quốc tế, đồng thời giúp họ hiểu đúng, hiểu đủ, trên cơ sở đó giúp đỡ, ủng hộ và hợp tác cùng phát triển.”

<small> </small>

<small>1 Viện ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, tr.953 2 Viện ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, tr.338</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Trong chỉ thị của Thủ tướng chính phủ “Về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại”, số 10/2000/CT-TTg, ngày 26/4/2000 có đưa ra quan niệm về thơng tin đối ngoại dựa trên chính những nhiệm vụ của thông tin đối ngoại. “Thông tin đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng của công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta nhằm làm cho các nước, người nước ngoài (bao gồm cả người nước ngồi đang sinh sống, cơng tác tại Việt Nam), người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài hiểu về đất nước, con người Việt Nam, đường lối, chủ trương chính sách và thành tựu đổi mới của ta, trên cơ sở đó tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Tuy nhiên đây chưa hẳn là định nghĩa, mà mới chỉ liệt kê các nhiệm vụ chính của thơng tin đối ngoại.

Có thể tóm gọn lại cách hiểu về thơng tin đối ngoại qua định nghĩa khá đầy đủ và chính xác của Bách khoa Toàn thư mạng Tiếng Việt như sau: “Thông tin đối ngoại là những hoạt động chủ động cung cấp thơng tin có định hướng để giới thiệu, phổ biến, quảng bá, v.v.. về một đối tượng cụ thể (một đất nước, một tổ chức, nhóm người, hoặc một cá nhân v.v..) nhằm mục đích gây thiện cảm, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nhân tố bên ngồi hoặc để đối phó, phản bác đối với những thông tin sai lệch, gây bất lợi. Hoặc theo một cách hiểu khác, thông tin đối ngoại là những tin tức, sự kiện v.v..được cung cấp mang tính ngoại giao và ứng đối với bên ngồi.

Trước bối cảnh tồn cầu hố, vì mục tiêu phát triển và hội nhập của mình, nhiều quốc gia trên thế giới ngày càng quan tâm đến cơng tác thơng tin đối ngoại, coi đó là vấn đề quan trọng nhằm quảng bá những giá trị tốt đẹp, những lợi thế vốn có, đồng thời quảng bá, nâng cao vị thế vai trò của quốc gia trên trường quốc tế”.

1.1.3. Vai trò của Thông tin Đối ngoại.

Trong xu thế mở cửa hội nhập, tồn cầu hóa như hiện nay, vai trị của thông tin đối ngoại không chỉ dừng lại ở việc tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ,

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

ủng hộ của các quốc gia trên thế giới cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta như thời kỳ chiến tranh, mà nó còn mở rộng và được hiểu như một lĩnh vực không thể thiếu trong sự tồn tại, phát triển của một quốc gia. Qua gần 30 năm mở cửa hội nhập, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, mở rộng hợp tác quốc tế, nâng tầm ảnh hưởng của quốc gia trở nên sâu rộng trong cộng đồng thế giới. Đứng trước yêu cầu của thời đại mở cửa, Việt Nam càng phải làm tốt công tác Thông tin đối ngoại nhằm giúp thế giới hiểu rõ về ta, mặt khác tích cực tìm hiểu về các quốc gia khác cũng như xu hướng của thế giới để tránh lạc hậu, tìm kiếm cơ hội vận dụng và hợp tác để cùng phát triển. Tầm quan trọng của Thông tin đối ngoại được thể hiện rõ trong phương châm chỉ đạo mà Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; tạo mơi trường hịa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.”

Theo đó, vai trị của Thơng tin đối ngoại ngày một trở nên quan trọng, đóng vai trị sống cịn của hình ảnh quốc gia, dân tộc trên trường quốc tế. Có thể thấy tầm quan trọng của Thông tin đối ngoại được biểu hiện như sau:

Thứ nhất, Thơng tin đối ngoại giúp xây dựng hình ảnh Việt Nam hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, đồng thời đang góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thứ hai, Thông tin đối ngoại giúp cho nhân dân Việt Nam đón nhận những thành tựu khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức quản lý, sản xuất cùng những tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới.

Thứ ba, Thơng tin đối ngoại góp phần đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, làm rõ quan điểm của Việt Nam về các vấn đề quốc tế, các vấn đề toàn

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

cầu như môi trường, dân số, bệnh tật và các vấn đề được dư luận quốc tế quan tâm như dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận, tôn giáo…

Thứ tư, Thông tin đối ngoại đấu tranh dư luận, phê phán, bác bỏ những thông tin sai lệch, những luận điệu bôi xấu, xuyên tạc về Việt Nam, giúp dư luận hiểu đúng đắn tình hình Việt Nam cũng như quốc tế.

1.1.4. Đối tượng, nội dung, hình thức, lực lượng tham gia Thơng tin Đối ngoại.

Trước bối cảnh tồn cầu hóa, vì mục tiêu phát triển và hội nhập của mình, nhiều quốc gia trên thế giới ngày càng quan tâm đến công tác Thông tin đối ngoại, coi đó là vấn đề quan trọng nhằm quảng bá những giá trị tốt đẹp, những lợi thế vốn có, đồng thời quảng bá, nâng cao vị thế vai trò của quốc gia trên trường quốc tế.

Ở Việt Nam, công tác Thông tin đối ngoại được xác định vừa là một bộ phận của công tác tư tưởng, vừa là một bộ phận của công tác đối ngoại với một số đặc điểm, tính chất cụ thể như sau:

Về đối tượng của thông tin đối ngoại, có thể chia làm 3 nhóm đối tượng chính bao gồm: Các quốc gia nằm ngoài biên giới, lãnh thổ Việt Nam và người nước ngoài; Người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam; Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi.

- Nhóm đối tượng các quốc gia và người nước ngoài: bao gồm nhân dân tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội lớn và các bạn bè truyền thống. Cụ thể là: Bộ máy Nhà nước của các quốc gia, các tổ chức Quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, truyền thơng quốc tế, giới kinh doanh, học giả, các tổ chức quần chúng, các tầng lớp nhân dân, các nhà hoạt động xã hội.

Do lực lượng và nguồn nhân lực của ta cịn mỏng và yếu nên tập trung hướng cơng tác thơng tin đối ngoại vào chính giới, các nhà kinh doanh, trí

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

thức, đội ngũ những người làm truyền thông, làm báo, những bạn bè có thiện chí sẽ mang lại nhiều lợi ích lâu dài cho Việt Nam bởi lẽ họ chính là chiếc cầu nối để mang hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến gần với thế giới hơn. Chính vì thế, cơng tác thơng tin đối ngoại đến nhóm đối tượng này phải thật kịp thời và chính xác.

- Nhóm đối tượng người nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam: Mơi trường Việt Nam hịa bình, ổn định và nhiều tiềm năng đã thu hút một số lượng khơng nhỏ người nước ngồi tới đây để sinh sống, làm việc, học tập và du lịch. Cụ thể có: Đồn ngoại giao, đại diện các tổ chức quốc tế, đại diện các tổ chức phi chính phủ, giới đầu tư kinh doanh, chuyên gia trong các lĩnh vực, phóng viên thường trú, du học sinh, các đồn khách viếng thăm.

Đây là nhóm đối tượng có những có cơ hội trải nghiệm và tiếp xúc trực tiếp trên mọi phương diện tại Việt Nam. Họ chính là những nguồn truyền tin sống của Việt Nam tới tồn cầu. Thơng qua nhóm đối tượng này, hình ảnh về Việt Nam sẽ được quảng bá một cách khách quan nhất và thuyết phục nhất. Trong số đó, cơng tác thơng tin đối ngoại cần chú ý tới đội ngũ phóng viên thường trú tại Việt Nam, đội ngũ doanh nhân đang làm ăn tại Việt Nam, các đại sứ quán, các cơ quan đại diện quốc tế tại Việt Nam vì những thơng tin họ truyền lại sẽ được người nước ngồi tin tưởng nhiều hơn. Đối với nhóm đối tượng này, những người làm công tác thông tin đối ngoại cần phải hết sức nhạy bén để cung cấp cho họ thật đầy đủ, chính xác, kịp thời những thông tin về đường lối, chủ trương, chính sách của Việt Nam, về các sự kiện quan trọng của quốc gia và về tình hình tồn diện của Việt Nam. Hoạt động thơng tin đối ngoại trong trường hợp này giống như con dao hai lưỡi, nếu chúng ta làm không tốt, để trống thơng tin, gây kẽ hỡ thì chính nhóm đối tượng này sẽ đưa ra những suy đốn, bình luận gây bất lợi cho ta.

- Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài: Theo số liệu thống kê của các cơ quan chức năng Việt Nam, hiện cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi có khoảng hơn 4 triệu người đang sinh sống, làm việc, học tập tại 103

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

quốc gia và vùng lãnh thổ, tập trung chủ yếu ở 21 quốc gia. Có thể thấy đây là nhóm đối tượng chiếm số lượng rất đông đảo, đa dạng và phong phú. Họ ra nước ngồi vì nhiều lý do và bằng nhiều con đường khác nhau song đa phần ai cũng hướng về Tổ quốc, quê cha đất tổ. Dù có đi xa nhưng trong sâu thẳm cội nguồn họ vẫn là người Việt, họ vẫn dành tình cảm cho quê hương mình và mong muốn quay trở về gây dựng cơ nghiệp, góp phần xây dựng đất nước.

Trên thực tế, cộng đồng người Việt ở nước ngồi có tiềm lực kinh tế nhất định và trong những năm vừa qua họ đã và đang có những đóng góp ngày càng to lớn, thiết thực và đa dạng hơn vào cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và cải thiện vị thế đất nước. Để làm được những điều đó, cộng đồng người Việt ở nước ngồi có nhu cầu rất lớn về thơng tin đất nước nói chung, về những chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nói riêng, đặc biệt là những chính sách kinh tế - xã hội đối với kiểu bào. Chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định người Việt Nam ở nước ngồi là bộ phận khơng tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với quốc tế. Khi nắm rõ tình hình đất nước, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài sẽ trở thành lực lượng làm thông tin đối ngoại ngay tại nơi cư trú, những nơi mà công tác thông tin đối ngoại của ta cịn hạn chế trong nhiều năm qua vì thiếu nguồn nhân lực.

Nhận thấy vai trò, tầm quan trọng của những người Việt Nam ở các nước trên thế giới, ngày 26/3/2004 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 36-NQ/TW “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”, trong đó nhiệm vụ của chủ yếu của cơng tác thông tin đối ngoại là “Đổi mới mạnh mẽ và tồn diện cơng tác thơng tin tun truyền, giúp cho người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng tình hình đất nước và chính sách của Đảng và Nhà nước”.

Về nội dung của công tác thông tin đối ngoại, kể từ khi đổi mới, nội dung cơng tác thơng tin đối ngoại khơng nằm ngồi định hướng chung của

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13/6/1992 của Ban Bí thư về“đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại” và Chỉ thị số 10/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về“Về tăng cường quản lý và đẩy mạnh cơng tác thơng tin đối ngoại”. Có thể nói, hai văn bản trên là những định hướng chính quy nhất cho hoạt động thông tin đối ngoại trong suốt hơn hai mươi năm thực hiện quá trình cải cách mở cửa của đất nước với các nội dung chính như sau:

- Giới thiệu đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trên mọi lĩnh vực, bao gồm cả chính sách kinh tế đối ngoại; những thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam, luôn nêu cao tinh thần: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập dân tộc. Qua đó giúp dư luận bên ngoài hiểu rõ hơn, đúng hơn về Việt Nam, thu hút sự quan tâm và gây ấn tượng tốt đẹp với bạn bè quốc tế về Việt Nam.

- Giới thiệu đất nước, con người, lịch sử, nền văn hóa lâu đời của Việt Nam. Hình ảnh đất nước Việt Nam hịa bình, ổn định, đổi mới, đang phát triển năng động, là điểm đến an toàn và tin cậy của đầu tư, du lịch, con người, lịch sử và nền văn hóa lâu đời hết sức phong phú và giàu bản sắc dân tộc của Việt Nam đã, đang và sẽ được nhân dân thế giới và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài biết tới thông qua nhiều kênh và bằng nhiều hình thức khác nhau.

- Cùng với việc tăng cường quảng bá thông tin về đất nước, con người và sự phát triển của Việt Nam, cơng tác Thơng tin đối ngoại cịn đấu tranh chống các thông tin sai lệch, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, chống đối, nhất là trong những vấn đề như dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, biên giới lãnh thổ. Tăng cường cung cấp thơng tin chính thống, có định hướng về chính sách và những nỗ lực của Việt Nam trong việc phát huy dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền tự do tôn giáo, những thành tựu của đất nước trong phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Về hình thức của thơng tin đối ngoại, do tính chất phong phú, đa dạng của đối tượng và địa bàn nên hoạt động thông tin đối ngoại ngày càng mở rộng về phương thức. Có thể chia làm hai phương thức thông tin đối ngoại: trực tiếp và gián tiếp.

Thông tin đối ngoại trực tiếp được tiến hành qua các cuộc tiếp xúc ngoại giao, các Hội nghị, hội thảo quốc tế và khu vực, các hoạt động cung cấp nguồn tin nhà nước cho các hãng thông tấn nước ngoài, các hoạt động đối ngoại Đảng, đối ngoại nhân dân, phân phát các sản phẩm, ấn phẩm thơng tin đối ngoại ra nước ngồi… Một hình thức phổ biến nữa đó là thơng qua các hoạt động ngoại giao văn hóa, các chương trình quảng bá văn hóa, xúc tiến thương mại – đầu tư, cụ thể là các triển lãm văn hóa, hội chợ, tuần khơng gian văn hóa Việt Nam, tuần lễ ẩm thực của Việt Nam tại nước ngoài.

Phương thức thông tin đối ngoại gián tiếp được thực hiện qua các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền hình, báo in, các kênh phát thanh, báo mạng điện tử, báo ảnh… Loại hình thơng tin này có tính đại chúng, dễ được đón nhận, mang tính nhanh chóng và thuận tiện.

Trong bối cảnh các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng phát triển, có tầm ảnh hưởng lớn và có sức lan toả nhanh và rộng với sự trợ giúp của công nghệ thông tin và truyền thơng, dẫn đến hình thức chủ yếu của cơng tác thơng tin đối ngoại chính là các phương tiện truyền thơng hiện đại như: Báo chí điện tử, hệ thống truyền hình, truyền thanh, vệ tinh truyền hình và các tờ báo lớn, được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng. Tuy nhiên, song song với truyền thông đại chúng, ta vẫn cần tiếp tục duy trì các hình trực tiếp để có thể truyền tải thơng tin một cách chân thực hơn và trong một số trường hợp bắt buộc. Ngoài ra, việc sử dụng ngay chính các phương tiện truyền thơng nước ngồi cũng là một biện pháp khá hiệu quả trong thực hiện công tác thông tin đối ngoại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Về lực lượng tham gia thông tin đối ngoại được xác định là rất rộng rãi, bao gồm từ các cơ quan Trung ương, các Bộ, ngành, địa phương... trong đó các cơ quan thơng tin truyền thơng đại chúng có vai trị đặc biệt quan trọng, trực tiếp thực hiện các hoạt động thông tin tuyên truyền đối ngoại. Việc xác định lực lượng tham gia thông tin đối ngoại giúp ta có thể phân chia chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể một cách rõ ràng và cụ thể.

Xét trên bình diện rộng, chủ thể của thông tin đối ngoại bao gồm các cán bộ, các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị xã hội, quần chúng, các cấp, các địa phương, các bộ, ngành, các cơ quan thông tin đại chúng, các nhà xuất bản, các hội văn học nghệ thuật, các Đại sứ quán, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, các địa Việt Nam ra nước ngồi, các cơ sở, doanh nghiệp, những người Việt Nam đi làm việc và cơng tác tại nước ngồi. Những chủ thể này đều có trách nhiệm giới thiệu hình ảnh Việt Nam ra thế giới trên mọi phương diện có thể.

Xét trên bình diện hẹp, chủ thể thơng tin đối ngoại bao gồm đội ngũ làm việc trong các cơ quan chuyên trách về thông tin đối ngoại, như các Vụ hợp tác quốc tế, các phương tiện thông tin đại chúng chuyên về thông tin đối ngoại (báo đài, nhà xuất bản... bằng tiếng nước ngoài), các Sở Ngoại vụ... Trong đó lực lượngchủ đạo là: Ban Tư tưởng- Văn hoá Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thơng tin và Truyền thông, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, Tổng cục Hàng không Việt Nam, Bộ Giáo dục – Đào tạo, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam), Tổng cục Du lịch, các phương tiện thông tin đại chúng lớn như Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, gần 40 báo đối ngoại bằng tiếng Anh, Nga, Hoa, Pháp, Nhà xuất bản Thế giới, các cơ quan chuyên trách về phát hành sách báo đối ngoại, Tổng cục Hải quan và cơng an cửa khẩu...Ngồi ra lực lượng tham gia hoạt động thơng tin đối ngoại cịn bao gồm các địa phương,

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

ngành thể dục thể thao, ngành du lịch, hàng khơng, bưu chính viễn thơng, tài chính, cơng an, hải quan và công an cửa khẩu; các hội nghề nghiệp, các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài (cơ quan ngoại giao, cơ quan báo chí, đại diện các doanh nghiệp, các thiết chế văn hóa thơng tin Việt Nam…); các ban đối ngoại, vụ, cục, phòng thuộc các cơ quan Đảng, Chính phủ, địa phương và các đơn vị cơ sở, doanh nghiệp.

Tuy đội ngũ trên có số lượng rất lớn và không đồng đều về chuyên mơn, nghiệp vụ. Bởi vậy cần có một cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm định hướng chung, phân cấp và chỉ đạo các hoạt động thông tin đối ngoại. Qua đó cần hệ thống các hoạt động của nhiều chủ thể thông tin đối ngoại, bồi dưỡng bằng cách nâng cao bản lĩnh chính trị, nghiệp vụ, ngoại ngữ v.v…

1.1.5. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoạt động Thông tin Đối ngoại.

Từ những năm tháng làm Cách mạng, đấu tranh chống ngoại xâm cho tới giai đoạn xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời bình như hiện nay, Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn giữ vững quan điểm kết hợp chính sách ngoại giao khôn khéo, mềm dẻo với sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Đường lối và chính sách đó đã được chứng minh là đúng đắn khi lịch sử đã ghi dấu những chiến thắng hào hùng, vẻ vang của dân tộc ta; khi vị trí của Việt Nam ngày một nâng cao trên trường quốc tế trong những năm vừa qua. Điều đó cho thấy Đảng và Nhà nước ta đã dành sự coi trọng và quan tâm đúng mức tới công tác Thông tin Đối ngoại.

Ngay từ những ngày đầu tiên khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời năm 1945, Nhà nước ta đã thể hiện rõ quan điểm đối ngoại độc lập tự chủ, bình đẳng mở cửa và hợp tác để phát triển đất nước thông qua “Lời kêu gọi Liên hợp Quốc 1946” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự kết hợp tài tình giữa đường lối độc lập, tự chủ tự cường với đường lối tận dụng sức mạnh thời đại, biến sức mạnh quốc tế thành nội lực đã giúp cho Cách mạng Việt Nam

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn, vẻ vang trên mặt trận chống ngoại xâm sau này.

Ngày 10/5/1962, Chỉ thị đầu tiên về lĩnh vực đối ngoại đã được Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ban hành. Chỉ thị số 45 CT/TW “Về công tác tuyên truyền đối ngoại” đã đánh dấu sự phát triển và kết quả bước đầu của việc giới thiệu hình ảnh đất nước và con người Việt Nam ra thế giới thong qua việc giới thiệu về Công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; nêu cao cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân ta và phong trào đấu tranh giải phóng của đồng bào miền Nam; giới thiệu những kinh nghiệm Cách mạng của ta; Tuyên truyền rộng rãi về đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta đồng thời giới thiệu về lịch sử đấu tranh, nền văn hóa lâu đời, truyền thống yêu nước của dân tộc ta. Qua đó tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, phục vụ cho mục tiêu Cách mạng to lớn của dân tộc. Mặc dù có những sự điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng sau này nhưng đường lối đối ngoại chung của Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn được giữ vững và thực hiện nhất quán.

Năm 1966, đế quốc Mỹ che mắt nhân dân thế giới bằng luận điệu “thương lượng hịa bình” nhưng thực chất lại tăng cường đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trước tình hình đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 128-CT/TW ngày 6/6/1966 “Về việc tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại” nhằm thúc đẩy hơn nữa phong trào nhân dân các nước yêu chuộng hịa bình và tiến bộ trên thế giới ủng hộ Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc. Đường lối trên của Đảng đã đóng góp lớn vào thành công trong cuộc chiến ngoại giao của dân tộc ta, dẫn tới việc Mỹ phải đặt bút kí kết hiệp định Pari năm 1972, chính thức rút quân khỏi Việt Nam.

Năm 1975, đất nước hoàn toàn được giải phóng, hai miền Nam Bắc thống nhất song nội lực đất nước đã hoàn toàn suy yếu sau nhiều năm chiến

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

tranh liên miên. Thêm vào đó, sự cơ lập về ngoại giao, cấm vận kinh tế của các quốc gia tư bản khiến cho việc tái thiết và phát triển kinh tế của Việt Nam sau chiến tranh rơi vào tình trạng vơ cùng khó khăn. Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương, chính sách đổi mới tồn diện trên mọi lĩnh vực, trong đó có ngoại giao. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 khẳng định sự cần thiết phải mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hịa bình. 5 năm sau khi đưa quan điểm đó đi vào thực tiễn, Đại hội VII năm 1991, Đảng ta đã đưa ra đường lối đối ngoại chung trong thời kỳ đổi mới: “Việt Nam muốn là bạn của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.Nhằm cụ thể hóa đường lối đối ngoại được đề ra trong Đại hội VII, ngày 13-6-1992, Ban Bí thư khóa VII đã ra chỉ thị số 11-CT/TW “Về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại” với những nội dung chủ yếu như sau:

Một là, tuyên truyền đường lối, chính sách và thành tựu đổi mới tồn diện của nước ta, những chủ trương quan trọng của ta nhằm giải quyết một số vấn đề lớn hoặc đáng chú ý về kinh tế, chính trị, xã hội… Kịp thời phê phán, bác bỏ những thông tin xuyên tạc, sai lệch về tình hình Việt Nam, nhất là về tình hình dân chủ, nhân quyền, ngăn chặn việc truyền bá vào nước ta những quan điểm, tư tưởng, lối sống, văn hóa phản động, đồi trụy, kích động bạo lực.

Chính sách đối ngoại của một quốc gia là cách xử thế của quốc gia đó đối với các quốc gia khác trên thế giới. Để làm được điều đóđịi hỏi mỗi quốc gia phải tìm hiểu, khai thác những thơng tin, nắm bắt tình hình mỗi nước để vạch ra những hướng đi thích hợp trong việc xây dựng quan hệ ngoại giao. Mặt khác, quốc gia đó cũng phải chủ động tuyên truyền đường lối, chính sách ra bên ngoài để thế giới có thể hiểu được mình. Đối với Việt Nam, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước chính là làm rõ chủ trương đổi mới tồn diện, chiến lược cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội; đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa đa

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

dạng hóa; sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, tuyên truyền đường lối đổi mới cũng phải gắn với việc quảng bá những thành tựu về mọi mặt mà chúng ta đã đạt được trong những năm vừa qua đồng thời khẳng định quyết tâm, con đường chính trị mà chúng ta theo đuổi.

Hai là, phổ biến chính sách đối ngoại, kể cả chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, những khả năng to lớn của Việt Nam trong quan hệ hợp tác với các nước bao gồm hợp tác song phương và hợp tác đa phương.

Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực khơng thể tách rời. Do đó, muốn làm rõ chính sách đối ngoại của ta với thế giới thì chúng ta buộc phải chứng minh cho họ thấy những khả năng to lớn mà Việt Nam có được trong quan hệ hợp tác với mọi đối tác, không phân biệt chế độ chính trị xã hội, hoạt động trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Khả năng hợp tác thể hiện ở chỗ ta vừa phát huy nội lực với tinh thần tự lực tự cường, vừa ra sức tranh thủ sự hợp tác và giúp đỡ từ bên ngoài để tạo nên sức mạnh tổng hợp.

Ba là, giới thiệu về đất nước, con người, lịch sử và nền văn hóa lâu đời, hết sức phong phú của các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tùy từng địa bàn, đối tượng và yêu cầu của từng lúc mà xác định nội dung và hình thức thơng tin cho thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm. Qua đó, để quảng bá về văn hóa Việt Nam ra với thể giới chúng ta cần làm rõ những điểm sau:

Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa mang những nét truyền thống lâu đời, cốt cách của Việt Nam đồng thời có giao lưu và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của các nền văn hóa khác trên thế giới.

Nền văn hóa Việt Nam đa dạng và phong phú với sự hội tụ và kết tinh từ những nền văn hóa đặc trưng của 54 dân tộc anh em trải dài trên khắp mảnh đất hình chữ S.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Nền văn hóa Việt Nam gắn liền với truyền thống đấu tranh giữ nước lâu dài, là sự kết hợp giữa phong tục tập quán cổ xưa với lối sống hiện đại ngày nay.

Công tác thơng tin đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa là con đường thuận lợi và hiệu quả nhất để tạo dựng nên những hình ảnh tốt đẹp về Việt Nam trong con mắt của bạn bè quốc tế, là cầu nối giúp nhân dân các nước hiểu rõ hơn về Việt Nam. Qua đó hình thành nên những mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai bên, quan hệ đối ngoại từ đó cũng được tăng cường và mở rộng. Tiếp tục dựa trên đường lối chung về đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới, ngày 26/4/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị số 10/2000/CT-TTg “Về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại” với các nội dung chính như sau:

1. Phổ biến rộng rãi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, những chủ trương quan trọng trên mọi lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng…; bác bỏ những thơng tin sai lệch, xuyên tạc về Việt Nam.

2. Phổ biến đường lối và chính sách đối ngoại, bao gồm cả chính sách kinh tế đối ngoại; chủ trương nhất quán Việt Nam “sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”; yêu cầu và tiềm năng của Việt Nam trong quan hệ hợp tác với các nước trên nguyên tắc cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và quyền tự quyết của nhau.

3. Giới thiệu về đất nước – con người, lịch sử và nền văn hóa lâu đời, phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam.

Tại Đại hội IX, Đại hội Đảng tồn quốc, lần đầu tiên cơng tác Thơng tin đối ngoại đã được đưa vào văn kiện: “Tăng cường hơn nữa công tác thông tin đối ngoại và văn hóa đối ngoại. Hồn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động thông tin đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện có kết

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

quả nhiệm vụ cơng tác thông tin đối ngoại, làm cho thế giới hiểu rõ hơn đất nước, con người, công cuộc đổi mới của Việt nam, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và hợp tác ngày càng rộng rãi của thế giới.”

Mới đây, tại Hội nghị tổng kết nhiệm kỳ khóa X và ra mắt Ban Chỉ đạo công tác Thông tin đối ngoại nhiệm kỳ khóa XI, cơng tác thơng tin đối ngoại được khẳng định là có những bước phát triển quan trọng trên nhiều mặt như: Nhận thức và sự tham gia của mọi người, mọi ngành, mọi cấp về thông tin đối ngoại đã được nâng lên một cách rõ rệt; nội dung, hình thức thơng tin, phương thức hoạt động trở nên phong phú, đa dạng, linh hoạt và kịp thời hơn, đối tượng, địa bàn được mở rộng hơn; lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại được tăng cường…

Công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước, thành tựu đổi mới đất nước, quảng bá hình ảnh đất nước tiếp tục được đổi mới, tăng cường cả về nội dung và hình thức thơng tin. Thơng tin về tình hình trong nước, về những vấn đề quan trọng của đất nước, về quan điểm, lập trường của ta đối với các vấn đề quốc tế, khu vực đã được chuyển tải nhanh chóng đến rộng rãi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế trên phương tiện truyền thơng đại chúng, góp phần quảng bá một đất nước Việt Nam ổn định, phát triển, u hịa bình, thân thiện, kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế…Việc trở thành thành viên của tổ chức Thương mại toàn cầu WTO, đảm nhận vai trò ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, chủ tịch Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á ASEAN, thường xuyên tổ chức các hội nghị cấp cao quốc tế và khu vực đã khẳng định sự hội nhập toàn diện và tầm ảnh hưởng ngày một lớn của Việt Nam với cộng đồng thế giới.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu sắc như ngày nay, tình hình thế giới và khu vực đang có những diễn biến phức tạp, khó lường, tác động mạnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

đến môi trường an ninh và phát triển của nước ta, công tác thông tin đối ngoại cũng đứng trước những cơ hội và thách thức đan xen. Do đó, cần phải nhanh chóng triển khai đồng bộ, tồn diện các hoạt động thông tin đối ngoại trên cơ sở của “Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 – 2020”, tận dụng tối đa các cơ hội nhằm tích cực xử lý và hóa giải các thách thức mới, góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới.

1.1.6. Quan điểm quốc tế có liên quan đến thông tin đối ngoại. Ngày nay, trong quan hệ quốc tế hiện đại, các khái niệm như “quan hệ công chúng” (public relations), “sức mạnh mềm” (soft power) và “ngoại giao công chúng” (public diplomacy) ngày càng trở nên phổ biến. Về bản chất, các khái niệm này có cùng một nội dung, đó là sử dụng các hoạt động thơng tin đối ngoại và văn hóa đối ngoại, để tuyên truyền, tác động tới dư luận quốc tế nhằm quảng bá hình ảnh, nâng cao vị trí, vai trị, phục vụ mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia. Tất cả các quốc gia đều triển khai các hoạt động này. Nhiều nước coi đó là bộ phận thiết yếu, quan trọng như sức mạnh quân sự và kinh tế. Luận điểm Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga ngày 12/7/2008 nêu rõ: “Một nhiệm vụ quan trọng của hoạt động đối ngoại của Liên bang Nga là cung cấp cho toàn thế giới thơng tin đầy đủ và chính xác về quan điểm đối ngoại, các sáng kiến và hành động của Liên bang Nga, tình hình phát triển kinh tế xã hội, thành tựu văn hóa và khoa học của các nước Nga. Trong khuôn khổ ngoại giao công chúng, nước Nga sẽ phấn đấu để thế giới nhìn nhận nước Nga một cách khách quan, phát triển các phương tiện thông tin hiệu quả để tác động tới dư luận thế giới, bảo đảm tăng cường vị thế của các phương tiện truyền thơng đại chúng của Nga trên thế giới..., có các biện pháp cần thiết để chống lại các mối đe dọa về thông tin đối với chủ quyền và an ninh của nước Nga.”

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Mỹ cũng rất quan tâm và chú trọng ngoại giao cơng chúng. Bộ Ngoại giao Mỹ đóng vai trị chính trong việc hoạch định và triển khai ngoại giao công chúng. Công tác ngoại giao công chúng của Mỹ do một Thứ trưởng Ngoại giao đảm nhận (Under Secretary for Public Diplomacy and Public Affairs). Cục các vấn đề giáo dục và văn hóa (Bureau of Educational and Cultura Affairs) phụ trách giao lưu văn hóa, trao đổi giáo dục, thông tin tuyên truyền và quảng bá hình ảnh của Mỹ.

Sau Đại hội Đảng lần thứ 16 năm 2002, Trung Quốc đã lập một Ban Đảng riêng phụ trách công tác công tác thông tin đối ngoại, gọi là Văn phòng Tuyên truyền Đối ngoại Trung ương. Văn phịng Thơng tin Đối ngoại của Trung Quốc do một lãnh đạo hàm Bộ trưởng đứng đầu.

Các nước phương Tây thường thành lập những cơ quan riêng tại các nước khác để tuyên truyền, văn hóa, giáo dục,...như British Council của Anh, L’Espace của Pháp, Viện Goethe của Đức,...Tất cả những cơ quan này đều chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Ngoại giao thơng qua Đại sứ qn của các nước đó tại nước sở tại.

1.2. Khái quát về Chính sách Đối ngoại của Nhật Bản.

1.2.1. Chính sách Đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh lạnh.

Có thể nói chiến tranh lạnh kết thúc đã tạo ra một diện mạo mới cho quan hệ quốc tế, ở đó tồn tại nhiều xu hướng mang tính đa dạng, phụ thuộc lẫn nhau, bổ sung cho nhau và thậm chí đối lập và loại trừ nhau. Đặc biệt là các xu hướng đó thể hiện rõ nét trong các quan hệ song phương và đa phương; trong các quan hệ kinh tế, chính trị và an ninh quốc tế. Tuy nhiên cơ sở của các xu hướng này khơng phải là tình hình căng thẳng nảy sinh từ sự đối đầu của hai hệ thống như thời kỳ trước những năm 90; nói cách khác chính sự chuyển dịch của thế giới “hai cực” đối lập sang một thế giới đa cực mang tính chất cạnh tranh và hợp tác đã tạo ra một môi trường quốc tế mới ẩn chứa nhiều những cơ hội và khơng ít những thách thức.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Nhật Bản là một trong số không nhiều các quốc gia thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của họ, nhằm thích nghi với sự biến đổi của tình hình quốc tế sau chiến tranh lạnh. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh lạnh kết thúc là những mục tiêu chính của cơng trình này.

Chính sách đối ngoại của bất kỳ một quốc gia nào cũng phải được xây dựng trên cơ sở của sự tương tác giữa kinh tế chính trị trong nước và mơi trường bên ngoài. Từ sau năm 1990, môi trường trong nước cũng như bên ngồi của Nhật Bản có những thay đổi quan trọng. Mặc dù đến chậm hơn so với các sự kiện đến nhanh hơn và đáng chú ý hơn ở Châu Âu, việc kết thúc chiến tranh lạnh đã dẫn đến những thay đổi căn bản đối với cục diện ở Châu Âu – Thái Bình Dương; đó là kết thúc sự đối đầu giữa các siêu cường; mức độ ủng hộ và sự quan tâm của Mỹ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương khơng cịn được như trước, những mâu thuẫn trước đây được kiểm soát bởi các siêu cường đến nay đã trở nên phức tạp hơn. Sau chiến tranh lạnh, vị thế của Nhật Bản trong khu vực cũng như trên quốc tế đã được nâng lên rõ rệt. Một mặt, điều này phản ảnh một thực trạng là nhân tố kinh tế đã trở nên quan trọng hơn trong quan hệ quốc tế, và với tiềm lực kinh tế của mình, đương nhiên Nhật Bản phải có tiếng nói nhiều hơn trong các diễn đàn khu vực và quốc tế. Mặt khác, điều này cũng cho thấy những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản theo hướng tự tin và chủ động hơn. Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu hai loại nhân tố tác động tới sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh lạnh.

Những nhân tố bên ngoài: Thời kỳ sau chiến tranh lạnh, cục diện thế giới đã có nhiều thay đổi sâu sắc, thế giới từ chỗ đối đầu về quân sự chuyển sang cạnh tranh kinh tế là chính; và thế giới đang tiến nhanh tới một nền kinh tế không biên giới và điều đó đã khiến cho sự phụ thuộc lẫn nhau của các nước ngày càng sâu sắc hơn. Trong tiến trình tồn cầu hóa các hoạt động kinh tế này, Nhật Bản đang phát triển các quan hệ hữu cơ với các quốc gia trên thế

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

giới thông qua các hoạt động kinh tế đối ngoại: buôn bán, đầu tư trực tiếp, chế tạo ở nước ngoài và sự dịch chuyển của các dịng vốn quốc tế. Xu hướng tồn cầu hóa và khu vực hóa vừa tạo ra những thuận lợi, vừa là một trở ngại với Nhật Bản khi cạnh tranh kinh tế trở nên quyết liệt, sự cọ sát về lợi ích và nhu cầu của Nhật Bản với các đối tác trong bối cảnh quốc tế mới đã thay đổi. Đó là những yếu tố quan trọng buộc Nhật Bản phải quan tâm khi hoạch định chính sách đối ngoại.

Những nhân tố trong nước: Có thể nói, thực trạng kinh tế, chính trị và xã hội ở Nhật Bản cũng là những cơ sở trọng yếu tạo lập nền tảng cho Nhật Bản điều chỉnh và thực thi chính sách đối ngoại. Bởi vì sự điều chỉnh trước hết và căn bản là phục vụ nhu cầu nội tại của Nhật Bản.

Chúng ta cùng tìm hiểu chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong từng giai đoạn:

Chính sách đối ngoại của Nhật Bản giai đoạn thập kỷ 60 được đặc trưng bởi chính sách ngoại giao kinh tế nhằm phục vụ cho nhu cầu đuổi kịp và vượt các nước phát triển khác. Mục tiêu này đã đạt được vào cuối những năm 60 khi Nhật Bản trở thành cường quốc thứ hai về kinh tế trong hệ thống tư bản chủ nghĩa.

Đầu thập kỷ 70, tình hình quốc tế có những thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ vừa tạo điều kiện vừa thúc đẩy Nhật bản đóng một vai trị quốc tế quan trọng hơn. Trong bối cảnh đó, học thuyết Fukuda ra đời năm 1977 đã đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nhật, trước hết là đối với khu vực Đông Nam Á.

Chính sách đối ngoại của Nhật trong thập kỷ 80 tiếp tục mang tính chủ động hơn, nhất là dưới thời kỳ Thủ tướng Nakasone nắm quyền. Từ năm 1985, với việc nâng giá đồng yên, Nhật Bản tăng cường ảnh hưởng kinh tế trong khu vực châu A’ với mơ hình đàn sếu bay với ý đồ trở thành đầu tầu cho sự phát triển kinh tế ở đây.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Chính sách đối ngoại của Nhật trong thập kỷ 90 được đặc trưng bởi việc củng cố quan hệ với Mỹ qua việc ký Tuyên bố chung về “An ninh Nhật-Mỹ trong thế kỷ 21” năm 1996 và đưa ra Phương châm phòng thủ mới Nhật-Mỹ vào năm 1997.

Bước vào thế kỷ 21, với những diễn biến phức tạp của cuộc chiến tranh chống khủng bố và tình hình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên, Nhật Bản tiếp tục chính sách ủng hộ mạnh mẽ Mỹ và tăng cường khả năng tự vệ của mình.

1.2.2. Đơng Á – khu vực tiềm năng trong Chính sách Đối ngoại của Nhật Bản.

Trong mối quan hệ với các nước, các khu vực, Đông Á là một trong những mối quan tâm sâu sắc của Nhật Bản. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã thực hiện Chiến lược quay trở lại Châu Á dưới thời ông Shigeru Yoshida (1946 – 1947, 1948 – 19454). Việc làm đầu tiên cho việc thực hiện chính sách quay trở lại Châu Á của Nhật Bản là gây ảnh hưởng thông qua các thỏa thuận bồi thường thiệt hại do chiến tranh, sau đó thơng qua thương mại và viện trợ đối từng nước Châu Á riêng lẻ (chủ yếu là các nước Đông Nam Á). Mặc dù Nhật Bản tham gia hàng loạt tổ chức vùng nhưng chiến lược thâm nhập kinh tế của nước này chủ yếu tiến hành thông qua các biện pháp hợp tác song phương, được điều tiết bởi thị trường và có tính tổ chức yếu.

Dưới đây là một số học thuyết chủ yếu của Nhật Bản liên quan đến Đông Á.

“Học thuyết Yoshida” hay Chiến lược quay trở lại Đông Á sau chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, sự có mặt trở lại của Nhật Bản ở Đông Á được thực hiện với hai quan điểm nhìn nhận sau. Thứ nhất là chiến lược của Mỹ nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản trong Chiến tranh lạnh. Chiến lược này nhằm đưa Nhật Bản trở thành trung

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

tâm công nghiệp ở Châu Á và “là nguồn động lực cho công cuộc phục hồi một Châu Á tự do”.

Học thuyết Fukuda. Học thuyết này được hình thành năm 1977 sau khi Thủ tướng Nhật Bản Takeo Fukuda tham dự Hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại thủ đô Kuala Lumpur và chuyến viếng thăm sau đó của ơng lần lượt đến 5 nước thành viên ASEAN và Burma. Theo Michael Yahuda thì học thuyết này là sáng kiến chính sách ngoại giao đầu tiên và có lẽ là tham vọng nhất của đất nước Nhật Bản sau chiến tranh. Học thuyết đề xuất Nhật Bản sẽ từ bỏ vai trò quân sự trong khu vực và tìm kiếm quan hệ đối tác bình đẳng với người dân Đông Nam Á dựa trên các cuộc đối thoại từ trái tim đến trái tim. Đóng góp chính của học thuyết Fukuda – đặc biệt trên phương diện đảm nhận vai trị chính trị - là nâng cao vị thế của Nhật Bản trở thành nước hòa giải giữa ASEAN và Đơng Dương, góp phần thiết lập một trật tự khu vực có tính ổn định. Thủ tướng Fukuda nhận thấy việc tạo ra tính đồng nhất và thống nhất vùng trong ASEAN – được củng cố bởi cam kết hợp tác của Nhật Bản – sẽ mở ra những cơ hội mới cho quan hệ hợp tác hữu ích, nhờ vậy tăng cường hơn nữa tình đồn kết. Trên cơ sở này, ông Fuduka đưa ra 3 nguyên tắc tạo nên khuôn khổ hướng dẫn cho mối quan hệ mới giữa Nhật Bản và ASEAN.

Thứ nhất, Nhật Bản, một quốc gia cam kết gìn giữ hịa bình, quyết tâm đóng góp cho hịa bình và thịnh vượng ở Đơng Nam Á. Nhật Bản sẽ không đi trên con đường trở thành một cường quốc quân sự lớn cho dù Nhật Bản có khả năng về kinh tế và công nghệ.

Thứ hai, Nhật Bản, là một người bạn thực sự của các nước Đông Nam Á, sẽ làm hết sức mình nhằm củng cố mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau dựa trên sự hiểu biết “từ trái tim đến trái tim” với những quốc gia này và trở thành một đối tác bình đẳng của ASEAN cũng như các nước thành viên ASEAN. Nhật Bản quyết tâm hợp tác tích cực với những nước này trong nỗ lực riêng nhằm tăng cường sự đoàn kết và khả năng phục hồi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Thứ ba, cũng như các quốc gia khác bên ngồi vùng có cùng quan điểm, Nhật Bản đặt mục tiêu thúc đẩy mối quan hệ dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau với các quốc gia ở bán đảo Đơng Dương, vì vậy Nhật Bản sẽ góp phần xây dựng hịa bình và thịnh vượng ở tồn Đơng Nam Á. Chúng tôi cũng nhận thấy ổn định và thịnh vượng trong tương lai ở ASEAN chỉ có thể được đảm bảo trong khn khổ tiến bộ hịa bình ở khắp Đơng Nam Á nói chung”.

Như vậy, học thuyết Fukuda tuyên bố Nhật Bản sẽ không bao giờ trở thành một cường quốc nhân sự: Nhật Bản sẽ theo đuổi chính sách xây dựng niềm tin lẫn nhau với các nước thành viên ASEAN và sẽ hỗ trợ sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước ASEAN với tư cách là một đối tác bình đẳng. Theo Michael Yahuda thì học thuyết này là sáng kiến chính sách ngoại giao đầu tiên và có lẽ là tham vọng nhất của đất nước Nhật Bản sau chiến tranh. Học thuyết đề xuất Nhật Bản sẽ từ bỏ vai trò quân sự trong khu vực và tìm kiếm quan hệ đối tác bình đẳng với người dân Đơng Nam Á dựa trên các cuộc đối thoại từ trái tim đến trái tim. Đóng góp chính của học thuyết Fukuda – đặc biệt trên phương diện đảm nhận vai trò chính trị - là nâng cao vị thế của Nhật Bản trở thành nước hòa giải giữa ASEAN và Đơng Dương, góp phần thiết lập một trật tự vùng ổn định.

Cho đến nửa cuối những năm 1990, Nhật Bản mới có những động thái chuyển hướng về mặt quan điểm, chính sách hợp tác vùng có tính tổ chức. Nhiều nhà kinh tế nổi tiếng ở Nhật Bản như Ippei Yamazawa và Shujiro Urata cũng đã cho rằng Nhật Bản đang có điều chính chính sách hợp tác kinh tế với những quan điểm có tính thực tiễn hơn kể từ cuối những năm 1990 với việc coi Châu Á là vùng quan trọng nhất. Tất nhiên, mặc dù Mỹ vẫn có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với Nhật Bản trên cả phương diện an ninh và kinh tế nhưng những học giả Nhật Bản cũng khẳng định tầm quan trọng tương đối của Mỹ với Nhật Bản đang giảm đi theo tỉ lệ với tầm quan trọng ngày càng gia tăng của Đông Á với nước này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Bên cạnh nguyên nhân có tính khách quan và trực tiếp là do khủng hoảng tài chính Đơng Á năm 1997, sự thay đổi một cách cơ bản trong chính sách của Nhật Bản về hợp tác vùng do những nhân tố chủ yếu sau đây quy định:

Sự gia tăng quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và các nước Đông Á. Mối quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và các nước Đông Á, đặc biệt là với các nước ASEAN và Trung Quốc được tăng cường trong những năm 1990. Tầm quan trọng về kinh tế của các nước Đơng Á đối với Nhật Bản có tỉ lệ đảo ngược, tầm quan trọng của các nước Thái Bình Dương như Mỹ và Australia đã giảm sút trong suốt những năm 1900. Tất nhiên, mặc dù cả Mỹ và Australia vẫn là những đối tác rất quan trọng, nhưng tỷ trọng của tổng thương mại của Nhật Bản đối với các nước này vẫn giảm tương đối. Sự gia tăng quan hệ kinh tế trên giữa Nhật Bản và các nước Đông Á trong những năm 1990 đã làm tăng sự tham gia của Nhật Bản đối với các nước này.

Ảnh hưởng của gia tăng vai trị của Trung Quốc ở Đơng Á. Ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc là động lực mạnh mẽ thúc đẩy Nhật Bản hướng tới việc tăng cường hơn nữa hợp tác Đông Á. Do Trung Quốc đã từng bước đẩy mạnh sự tham gia vào hợp tác Đông Á kể từ cuối thập niên 1990 nên Nhật Bản không cịn sự lựa chọn nào khác ngồi việc phải tích cực hơn trong các hoạt động hợp tác trong vùng này. Nhật Bản không thể tiếp tục bỏ qua những lời tuyên bố giành vị thế tối cao của Trung Quốc trong vùng Đông Á.

1.3. Giới thiệu về hai chương trình.

1.3.1. Chương trình Tàu thanh niên Đông Nam Á ( SSEAYP - Ship for Southeast Asian Youth Program).

1.3.1.1. Nguồn gốc.

Chương trình Tàu thanh niên Đơng Nam Á là chương trình dựa trên sáng kiến của Chính phủ Nhật Bản và ASEAN (gồm các nước Indonesia,

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Malaysia, Philippines, Singapore,Thái Lan). Chương trình bắt đầu năm 1974

4 Liên bang Myanmar 5 Vương quốc

Campuchia

Chương trình được thực hiện bởi Chính phủ Nhật Bản với sự tham gia chủ động và hợp tác của 10 nước Đông Nam Á.

1.3.1.2. Những con tàu tham gia cùng SSEAYP.

Trong suốt lịch sử của các chuyến hải trình kết nối và hữu nghị, SSEAYP đã sử dụng đến 4 con Tàu:

M.S. Nippon Maru là tên gọi chung cho những chiếc tàu hoạt động từ năm 1974 đến 2008. Trên thực tế có tổng cộng 3 chiếc tàu mang cùng tên với nhau. Do đó để phân biệt các chiếc tàu này, thành viên SSEAYP thường đặt thêm tên hiệu A, B, C sau tên Tàu.

- Nippon Maru-A nguyên là một con tàu chở hàng được Chính phủ Nhật Bản thuê để phục vụ chuyến hải hành đầu tiên của SSEAYP. Tàu phục vụ từ trong 02 năm duy nhất : 1974 và 1975.

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Hình 1: Con tàu Nippon Maru-A

- Nippon Maru-B phục vụ với thời gian dài hơn : 1976-1989 và đã gắn bó với 14 thế hệ cựu thành viên SSEAYP.

Hình 2: Con tàu Nippon Maru-B

- Với mục đích nâng cao tiêu chuẩn phục vụ cho Chương trình, Tàu Nippon Maru-C được khánh thành và nhanh chóng đƣợc thuê làm tàu chở khách kể từ SSEAYP 1990. Đơn vị quản lý là Công ty Vận tải Hành khách Mitsui O.S.K (viết tắt : MOPAS), một công ty thành viên của Tập đoàn Mitsui quản lý. Tàu hoạt động đến năm 2008, tức là trịn 19 năm gắn bó và đã 10 lần ghé TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam trong các chuyến hải hành từ năm 1996. Riêng năm 1999, Tàu ghé Cảng Đà Nẵng. Năm 2009, Tàu Nippon Maru tạm thời ngưng hoạt động để nâng cấp nhiều hạng mục, tiện ích mới.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Một đặc điểm dễ nhận thấy nhất của Tàu Nippon Maru mới là một phần lớn của thân tàu phía dưới được sơn màu xanh đậm, bao trùm lên cả tên của Tàu.

Hình 3: Con tàu Nippon Maru-C

Fuji Maru là một tên tuổi mới tham gia vào Chương trình Tàu Thanh niên Đơng Nam Á kể từ năm 2009. Tàu do Mitsui O.S.K. Lines thiết kế và xây dựng cùng lúc tại xưởng Mitsubishi với tàu Nippon Maru-C. Điểm khác biệt duy nhất là Fuji Maru có 8 tầng dịch vụ chính, so với 7 tầng của Nippon Maru. Bên cạnh Chương trình Tàu Thanh niên Đơng Nam Á, cả hai con tàu Nippon Maru và Fuji Maru cịn phục vụ cho Chương trình Tàu Thanh niên Thế giới (SWYP) – một hoạt động giao lưu quốc tế khác do Chính phủ Nhật Bản tổ chức dành cho thanh niên các nước cịn lại. Ngồi ra, trong khuôn khổ của MOPAS, 2 chiếc tàu trên thường chở khách là nhân viên các doanh nghiệp Nhật Bản đi nghỉ mát. Hành khách lên tàu chủ yếu là người Nhật và các điểm đến quen thuộc của họ là Australia, New Zealand, Canada & Alaska.

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Hình 4: Con tàu Fuji Maru

1.3.1.3. Mục đích.

Mục đích của chương trình nhằm tăng cường tình hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa thanh niên Nhật Bản và thanh niên các nước Đông Nam Á, để mở rộng quan điểm của họ trên thế giới. Hơn nữa, chương trình cịn tăng cường tinh thần và kỹ năng thực hành hợp tác quốc tế cho thế hệ trẻ - được xem là đối tượng ham thích khám phá, dễ tiếp thu cái mới, với hi vọng họ sẽ góp phần xây dựng xã hội ở nhiều lĩnh vực, nhất là trong phát triển thanh niên.

Những mục tiêu này có thể đạt được thơng qua việc chia sẻ cuộc sống của những thanh niên tham gia chương trình trên tàu, giới thiệu cho nhau về

</div>

×