Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 16 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">
<b>BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢTHAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT DÂN SỰ 1</b>
Ngày: 13/06/2023 Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhóm số: 01 Lớp: Luật dân sự 1-2-22 (N05.TL2) Khoa: Pháp luật dân sự Khóa: 47
Tổng số sinh viên của nhóm: 23 Tham gia: 23 Vắng: 0 Nhóm trưởng: Nguyễn Đức Nam (471001)
Tên bài tập: Bài tập nhóm Mơn học: Luật Dân sự 1
<b>5</b> 471005 Ngô Thu Trang A
<b>6</b> 471006 Lê Kim Phượng A
<b>7</b> 471007 Mai Nguyễn Trà My A
<b>8</b> 471008 Bùi Thị Khánh Huyền A
<b>9</b> 471009 Trần Phương Thảo A
<b>10</b> 471010 Nguyễn Hương Giang A
<b>11</b> 471011 Văn Phạm Lam Phương A
<b>12</b> 471012 Võ Hồng Minh A
<b>13</b> 471013 Phan Tuệ Minh A
<b>14</b> 471014 Nguyễn Lê Phương Anh A
<b>23</b> 471023 Ngô Huyền Trang A
<b>Kết quả điểm bài tập:</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">- Giảng viên chấm thứ hai: ………..
Nguyễn Đức Nam
<b>ĐỀ BÀI TẬP NHÓM</b>
<b>Đề số 01: Hãy sưu tầm một quyết định sơ thẩm của Toà án liên quan đến</b>
việc tuyên bố một cá nhân bị mất NLHVDS hoặc bị hạn chế hành
vi dân sự mà theo quan điểm của nhóm quyết định đó là chưa phù hợp, và giải quyết các yêu cầu sau đây:
<b>Yêu cầu:</b>
<b>1.</b> Từ bản án, quyết định đã sưu tầm được, hãy tóm tắt nội dung vụ việc dưới dạng tình huống dài tối đa 1 trang A4 (giãn dòng 1.5, cỡ chữ 14, không giãn đoạn, không giãn chữ).
<b>2.</b> Hãy chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong quyết định hoặc bản án sơ thẩm mà nhóm đã sưu tầm và giải thích vì sao nhóm lại cho rằng chưa phù hợp?
<b>3.</b> Hãy đưa ra quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy định của pháp luật.
<b>4.</b> Từ việc phân tích vụ án, nhóm hãy đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành.
<small>1</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">1.3. Quyết định của Tòa án:...3
2. Những điểm chưa hợp lý trong quyết định sơ thẩm số 06/2018/QĐST-DS:...3
2.1. Toà án tuyên bố chị Phan Thị T là người bị hạn chế NLHVDS:...4
2.2. Toà án tước đi một số quyền, lợi ích hợp pháp của chị Phan Thị T khi
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>MỞ ĐẦU</b>
Theo Karl Marx: “Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”, trong cuộc sống hàng ngày, mọi hoạt động, sự phát triển của con người đều xoay quanh các mối quan hệ . Đồng thời, với sự phát triển của đời sống, pháp luật ngày càng gần gũi hơn, các mối quan hệ trong đời sống giờ đây cũng gắn liền với pháp luật. Trong đó không thể không kể đến quan hệ dân sự trong cuộc sống hàng ngày, bởi lẽ đây là quan hệ gần gũi và khá quen thuộc với tất cả các cá nhân. Song khơng phải ai cũng có những điều kiện về năng lực chủ thể để tham gia vào các quan hệ dân sự. Thực tế đời sống cho thấy, có rất nhiều người thuộc trường hợp bị mất NLHVDS, hạn chế NLHVDS… cần được pháp luật bảo vệ.
Với lý do nêu trên, nhóm chúng tơi quyết định chọn đề tài “
”. Trong bài , chúng tơi sẽ trình bày những hạn chế, bất cập cịn tồn tại trong bản án, từ đó đưa ra những quan điểm để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả cho bản án. Hơn thế nữa, việc điều chỉnh những quy định về việc tuyên bố xác định NLHVDS của cá nhân cũng là điều nhóm chúng tôi quan tâm.<b>1. Một số khái niệmliên quan đến NLHVDS:</b>
NLHVDS của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
Căn cứ pháp lý: Điều 19 BLDS 2015 quy định NLHVDS bao hàm hành động của chính chủ thể để tạo ra các quyền, phải thực hiện quyền, nghĩa vụ và năng lực trách nhiệm dân sự khi vi phạm nghĩa vụ dân sự. Trong đó, yếu tố xác định mức độ NLHVDS của cá nhân căn cứ vào độ tuổi: Người thành niên từ đủ 18 tuổi trở lên có NLHVDS đầy đủ, trừ trường hợp bị tuyên bố mất NLHVDS hoặc hạn chế NLHVDS hoặc gặp khó khăn trong nhận thức và Điều khiển hành vi. Cá nhân dưới 18 tuổi là những người có NLHVDS một phần.
Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo u cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan tổ chức hữu quan, Toà án ra quyết định tuyên bố người này là người mất NLHVDS trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần (Khoản 1 Điều 22 BLDS 2015).
Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức độ mất NLHVDS thì theo u cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Toà án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền và nghĩa vụ của người giám hộ (Khoản 1 Điều 23 BLDS 2015). Người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo u cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế NLHVDS (Khoản 1 Điều 24 BLDS 2015).
<small>0</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b>NỘI DUNG1. Tóm tắt quyết định:</b>
<b>Tên quyết định: Quyết định số 06/2018/QĐST-DS ngày 28/08/2018 của TAND </b>
huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước về việc yêu cầu tuyên bố một người mất NLHVDS và một người bị hạn chế NLHVDS.
<b>Cơ quan ban hành quyết định: TAND huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.Người yêu cầu giải quyết việc dân sự: Bà Tô Thị T sinh năm 1965, địa chỉ: Số </b>
nhà 204, tổ 10, thôn A, xã B, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
<b>Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phan Thị N (1988) và chị Phan Thị </b>
T (1998). Địa chỉ: cư trú tại số nhà 204, tổ 10, thôn A, xã B, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
<b>Nội dung việc dân sự: </b>
Trong đơn yêu cầu gửi Tòa án, bà T trình bày: Bà kết hơn với ơng Phan Huy K (1963), có 03 người con là anh Phan Huy T (1984), chị Phan Thị N (1988) và chị Phan Thị T (1998) đang sống cùng bà. Trong đó, chị N sinh ra và lớn lên bình thường, khoẻ mạnh. Tháng 04/2005, chị N bị đau đầu, la hét, đập phá nên bà T đưa đi khám và bệnh viện kết luận chị N bị tâm thần phân liệt. Năm 2009, chị được chẩn đoán bệnh: Tâm thần phân liệt thể đơn thuần. Hội đồng giám định y khoa tỉnh Bình Phước kết luận chị Phan Thị N bị khuyết tật tâm thần – thần kinh, tỷ lệ tổn thương cơ thể do khuyết tật là 61% vĩnh viễn. Về chị T, chị sinh ra và lớn lên hồn tồn bình thường. Tháng 02/2012, thấy chị có biểu hiện ban đầu giống chị N nên bà T đưa đi khám và được chẩn đoán bị rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm. Chị T nhập viện Điều trị 01 năm, rồi về điều trị ngoại trú. Hiện nay, chị T vẫn có biểu hiện lờ đờ, buồn vui thất thường, khi phát bệnh đi nằm khơng nói. Ngồi ra, chị T khơng có khả năng tự mình thực hiện những sinh hoạt cá nhân thường ngày. Ngày 22/08/2018, chị được kết luận là bị rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm. Vì vậy, trong đơn của mình, bà Tơ Thị T u cầu Tịa án tuyên bố chị N bị mất NLHVDS và chị T bị hạn chế NLHVDS.
<b>Nhận định của Tòa án: </b>
Dựa vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ và Kết luận giám định pháp y tâm thần, chị N bị khuyết tật tâm thần – thần kinh với tỷ lệ tổn thương cơ thể do khuyết tật vĩnh viễn lên tới 61% và mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi. Đồng thời, chứng cứ, tài liệu và Kết luận giám định pháp y tâm thần kết luận chị T bị hạn chế nhận thức và điều khiển hành vi. Do đó, xét thấy lời khai của bà T phù hợp với kết quả giám định và tài liệu có trong hồ sơ, vì vậy việc bà T yêu cầu tuyên bố chị N mất NLHVDS và chị T bị hạn chế NLHVDS là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 22 và Điều 24 BLDS nên chấp nhận yêu cầu.
Chấp nhận yêu cầu của bà T, tuyên bố chị N mất NLHVDS và chị T bị hạn chế NLHVDS.
<b>2. Những điểm chưa hợp lý trong quyết định sơ thẩm số </b>06<b>/2018/QĐST-DS:</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Theo nhóm chúng tơi, quyết định sơ thẩm số: 06/2018/QĐST-DS do Tịa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước ra quyết định có hai điểm chưa phù hợp:
<b> “Xét thấy, lời khai của bà T </b>phù hợp với kết quả giám định và tài liệu có trong hồ sơ, vì vậy bà T yêu cầu tuyên bố chị T bị hạn chế NLHVDS là có căn cứ, phù hợp Điều 24 BLDS nên chấp nhận yêu cầu.” Thứ nhất, lời trình bày của bà T: Chị T sinh ra và lớn lên hồn tồn bình thường. Tháng 02/2012, thấy chị có biểu hiện ban đầu giống chị N nên bà T đưa đi khám được chẩn đoán là rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm. Chị T nhập viện điều trị 01 năm, rồi về điều trị ngoại trú. Hiện nay, chị T vẫn có biểu hiện lờ đờ, buồn vui thất thường, khi phát bệnh đi nằm khơng nói. Ngồi ra, chị T khơng tự mình thực hiện được những sinh hoạt thường ngày của người bình thường.
Thứ hai, phiếu khám sức khỏe ngày 22/08/2018 của Bệnh viện tâm thần Trung ương 2 Biên Hịa chẩn đốn Phan Thị T bị rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm (F41.2 – ICD10) và Kết luận giám định pháp y tâm thần số 113/KL-VPYTW ngày 05/10/2018 của Viện pháp y tâm thần Trung ương Biên Hòa kết luận chị T hạn chế năng lực nhận thức và Điều khiển hành vi.
Thứ ba, căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 24 BLDS 2015.
Nhóm chúng tơi hoàn toàn đồng ý rằng: Lời khai của bà T là phù hợp với kết luận giám định. Song không thể lấy đó làm căn cứ để tuyên bố hạn chế NLHVDS đối với chị T. Vì căn cứ vào khoản 1 Điều 24 BLDS thì một người được tuyên bố là bị hạn chế NLHVDS khi người đó nghiện ma tuý hoặc các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình. Nhưng nguyên nhân dẫn đến hạn chế khả năng nhận thức và Điều khiển hành vi của chị T lại là do nguyên nhân khách quan, bệnh về tâm thần có thể do chịu nhiều căng thẳng trong học tập và làm việc mà khơng phải do nghiện ma t, chất kích thích. Do vậy, trường hợp của chị Phan Thị T hoàn tồn khơng phù hợp với quy định tại Điều 24 BLDS 2015.
Như vậy, việc bà T yêu cầu tuyên bố chị T bị hạn chế NLHVDS là khơng phù hợp. Đồng thời, việc Tồ án nhận định rằng yêu cầu của bà T là có căn cứ nên chấp nhận yêu cầu cũng chưa phù hợp.
“Chị Phan Thị T bị hạn chế NLHVDS”. Do có nhận định chưa phù hợp nên dẫn đến quyết định tuyên bố của Toà án trong vụ việc này cũng chưa chính xác. Như đã đưa ra ý kiến ở trên, việc chị T bị hạn chế năng lực nhận thức và điều khiển hành vi là do bệnh về tâm thần chứ không phải do sử dụng ma tuý, chất kích thích nên việc tuyên bố chị T bị hạn chế NLHVDS theo Điều 24 BLDS 2015 là chưa phù hợp. Việc Toà án tuyên bố sai về NLHVDS của chị T không chỉ dừng lại ở khác biệt về tên gọi, hình thức mà cịn ảnh hưởng đến quyền lợi của chị T.
Việc Toà án tuyên bố chị T là người bị hạn chế NLHVDS, đã làm hạn chế phạm vi quyền, tước đi một số quyền giao dịch dân sự đang có của chị T. Thứ nhất, khi được
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">tuyên bố là người bị hạn chế NLHVDS thì theo khoản 2 Điều 24 BLDS 2015, chị T chỉ có quyền thực hiện một số giao dịch mà luật liên quan có quy định khác, cịn việc thực hiện các giao dịch dân sự khác thì phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, chị T chỉ bị rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm, tức là chỉ bị hạn chế một phần trong khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Do đó, chị T vẫn có khả năng thực hiện một số giao dịch khác mang tính chất đơn giản, khơng phải những giao dịch dân sự phức tạp liên quan đến bất động sản hay động sản phải đăng ký.
Hơn nữa, căn cứ vào khoản 1 Điều 24 thì khi được tuyên bố là người bị hạn chế NLHVDS thì Tồ án sẽ quyết định người đại diện theo pháp luật cho chị T. Người đại diện theo pháp luật này sẽ nhân danh và lợi ích của chị T để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Tuy nhiên, với tình trạng sức khoẻ tâm thần của chị T (biểu hiện lờ đờ, buồn vui thất thường, khi phát bệnh nằm n khơng nói, bệnh đang ở giai đoạn thuyên giảm được Điều trị ngoại trú), ngoài khó khăn trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự thì chị T cũng gặp khó khăn nhất định trong việc tự chăm sóc bản thân. Mà người đại diện theo pháp luật quy định trong khoản 1 Điều 24, chỉ có thể giúp chị T trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự (trong phạm vi đại diện) nhằm đảm bảo quyền và lợi ích về mặt pháp luật của chị T. Do đó, chị T cần một người giám hộ để có thể thực hiện chăm sóc, đảm bảo việc chữa trị, Điều trị bệnh, đồng thời quản lý tài sản và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Như vậy, việc Toà án tuyên bố chị T bị hạn chế NLHVDS đã tước đi quyền được giám hộ hợp pháp của chị T.
<b>3. Quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy định của pháp luật:</b>
Qua việc phân tích những điểm chưa hợp lý trong nhận định và quyết định của tòa án cấp sơ thẩm khi xét xử vụ việc yêu cầu tuyên bố một người bị hạn chế NLHVDS, có thể giải quyết vụ việc như sau:
Trước hết, sau khi tiếp nhận đơn của bà Tô Thị T, TAND huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước cần phải thu thập bằng chứng và xác minh bằng cách trưng cầu giám định tâm thần của Phan Thị T ở Viện pháp y Tâm thần TP Biên Hoà tỉnh Đồng Nai để biết được mức độ bệnh của chị T, mất NLHVDS hay hạn chế NLHVDS. Và theo kết luận giám định pháp y tâm thần số 113/KL-VPYTW ngày 05/10/2018 của Viện pháp y, kết luận chị T bị bệnh rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm (F41.2 ICD10); hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
TAND huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước cần giải thích cho bà Tơ Thị T rằng trường hợp của con bà, chị Phan Thị T không phải là người bị hạn chế NLHVDS mà là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi. Do đó cần người giám hộ theo quy định của khoản 1 Điều 23 BLDS. Vụ việc sẽ chuyển hướng dựa trên ý kiến của người đệ đơn là bà T, dựa trên căn cứ theo khoản 1 Điều 367 BLTTDS 2015 quy định: “Người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan có quyền u cầu Tồ án tun bố một người mất NLHVDS hoặc bị hạn chế NLHVDS hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của BLDS”, bà T có muốn tiếp tục yêu cầu Toà án tuyên bố về trường hợp của chị T như Toà án đã giải thích như trên hay khơng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Trường hợp 1: Nếu bà T vẫn muốn tiếp tục yêu cầu tuyên chị T là người có khó khăn trong nhận thức, điều khiển hành vi. Căn cứ theo khoản 1 Điều 23 BLDS 2015, Toà án tuyên bố chị T là người có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi. Tiếp đó, căn cứ vào các Điều 23, 49, 54, 57, 58, 59 BLDS 2015, Toà sẽ chỉ định người giám hộ phù hợp với các quy định trên cho chị T và xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ của người giám hộ trong trường hợp này.
Trường hợp 2: Khi bà T rút đơn yêu cầu, đồng thời những người có quyền và nghĩa vụ liên quan khơng có u cầu gì thêm thì Tồ án sẽ đình chỉ giải quyết sự việc dân sự. Theo khoản 3 Điều 218 BLTTDS 2015 quy định về: “Trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự do người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện quy định tại điểm c và trường hợp khác quy định tại các điểm d, đ, e và g khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được trả lại cho họ.”. Do đó, khi bà T rút đơn thì lệ phí 300.000 đồng tiền lệ phí dân sự sơ thẩm sẽ được hồn trả lại cho bà T.
Trong q trình xét xử, Toà án cần hỏi ý kiến của chị T. Trong trường hợp chị T không thể tự đưa ra ý kiến thì Tồ án xem xét dựa trên ý kiến của người yêu cầu và những người có quyền và lợi ích liên quan. Nếu chị T có thể nhận thức và đưa ra ý kiến đồng ý với yêu cầu tuyên bố bản thân có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì dù bà T có rút đơn u cầu, chính chị T vẫn có quyền u cầu Tồ án tun bố chị là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định tại khoản 2 Điều 376 BLTTDS 2015. Nếu chị T không đồng ý với yêu cầu của bà T, bà hoàn toàn có thể trình bày ý kiến trước tồ. Lúc này, Toà án cần xem xét yêu cầu của bà T (người đệ đơn yêu cầu) và lời trình bày của chị T kết hợp với giám định pháp y tâm thần để đưa ra quyết định có chấp nhận yêu cầu của bà T hay không.
<b>4. Kiến nghị quy định pháp luật hiện hành:</b>
Việc tuyên bố một người bị mất NLHVDS, hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, hay bị hạn chế NLHVDS ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền lợi và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng, điều này đã được BLDS 2015 và BLTTDS 2015 quy định. Tuy nhiên những quy định đó chưa đầy đủ, hồn thiện và cịn một số vướng mắc dễ gây nhầm lẫn dẫn đến việc khó áp dụng trên thực tế. Việc này kéo theo những hệ quả nhất định trong việc bảo vệ nhóm người này trong hoạt động tố tụng dân sự. Do đó, nhóm của chúng tôi đề xuất các khuyến nghị sau:
Cơ sở để Tòa án tuyên bố một người mất NLHVDS hay có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi đều là kết quả giám định pháp y tâm thần. Do đó, dẫn đến những lúng túng cho những người liên quan yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là thuộc trường hợp nào và Tịa án chấp nhận u cầu đó hay khơng. Việc này dễ dẫn đến trường hợp tuyên bố nhầm, tuyên bố một cách tùy nghi, phụ thuộc vào ý chí của người yêu cầu. Bởi vậy, cần cụ thể hố như thế nào là “khơng đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất NLHVDS” và cần những hướng dẫn, tiêu chí phân loại, đánh giá.
</div>