Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

tiểu luận hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm của toà án liên quan đếntuyên bố một di chúc không hợp pháp mà theo quan điểmcủa nhóm bản án đó chưa phù hợp với quy định của pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 23 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢ THAMGIA LÀM BÀI TẬP NHÓM HỌC PHẦN LUẬT DÂN SỰ</b>

Tên bài tập: Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm của Toà án liên quan đến tuyên bố một di chúc không hợp pháp mà theo quan điểm của nhóm bản án đó chưa phù hợp với quy định của pháp luật.

Kết quả như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

8. 462008 Nguyễn Thảo Chi X

- Kết quả điểm bài viết:

+ Giáo viên chấm thứ nhất:...

+ Giáo viên chấm thứ hai:...

- Kết quả điểm thuyết trình:...

- Giáo viên cho thuyết trình:...

Giáo viên đánh giá cuối cùng:...

Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Câu 1: Tóm tắt nội dung vụ việc dưới dạng tình huống tối đa 1 trang A4...6 Câu 2: Chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong bản án và giải thích tại sao nhóm lại

<b>Too long to read onyour phone? Save to</b>

read later on your computer

Save to a Studylist

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>MỞ ĐẦU</b>

Di chúc, căn cứ theo quy định tại Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2015, được hiểu là văn bản hoặc lời nói thể hiện ý chí, nguyện vọng của một người trong việc định đoạt tài sản, chuyển dịch quyền sở

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

hữu, quyền sử dụng tài sản cho người khác sau khi chết. Thực tế trong lĩnh vực về thừa kế theo di chúc, các tranh chấp về di chúc có xu hướng ngày càng tăng với tính chất, mức độ ngày càng phức tạp. Sự áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp Tòa án, sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế của các cá nhân là những yếu tố làm cho tranh chấp về thừa kế theo di chúc ngày một tăng.

Để làm rõ hơn về vấn đề này cũng như từ một vụ án cụ thể đề xuất những giải pháp phù hợp để hoàn thiện tiếp tục pháp luật, nhóm 1 xin lựa chọn Đề số 20 làm đề bài tập nhóm của mình: “Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm liên quan đến việc tuyên bố một di chúc không hợp pháp mà theo quan điểm của nhóm bản án đó chưa phù hợp với

Ơng Ngơ Văn C có một người con là ơng Ngơ Văn K. Sau khi người vợ đầu tiên mất, ông C kết hôn với bà Nguyễn Thị M tuy nhiên

C được chia tài sản chung là một phần đất thuộc thửa số 1590, diện tích 717,5m2 tọa lạc ấp A, xã C, huyện C, tỉnh Tiền Giang được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (2006) do ông Ngô Văn C đứng tên. Ngày 13/7/2015, ông Ngô Văn C mang bản di chúc được đánh máy sẵn đến UBND xã C chứng thực, được người có thẩm quyền ở UBND xã C thơng qua, được ông C xác nhận là đúng và sau đó người có thẩm quyền chứng thực mới ký tên (khi chứng thực chỉ có bản photo của Giấy chứng nhận quyền sử dụng

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

đất). Bản di chúc gồm 2 bản: một do ông Ngô Văn C giữ, một bản do UBND xã C giữ. Trong thời gian này, ông C đã nộp giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất ở Văn phòng đăng ký đất đai huyện C để làm hợp đồng chuyển nhượng 1 phần đất của thửa 1590 cho chị Ngơ Thị L (hàng xóm) đã thoả thuận từ trước. Đến 24/7/2017, sau khi hoàn thành thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị L, ông C được cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần còn lại của thửa 1590 (nay là thửa 128, tờ bản đồ số 26), diện tích 428,8m2. Phần cịn lại này là nơi ông C và bà M sống chung với nhau và cũng là phần di sản ông C viết trong di chúc 13/7/2015 để lại toàn bộ cho bà M.

Sau khi ông C mất, vấn đề tranh chấp di sản giữa ông K và bà M xảy ra. Năm 2018, ông Ngô Văn K đã khởi kiện lên Tịa, u cầu Tịa khơng cơng nhận di chúc ngày 13/7/2017 là hợp pháp. Trong phiên Tòa sơ thẩm, căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 87, Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Điều 238 BLTTDS; các Điều 634, 636 BLDS; Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 của Chính phủ; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH thì Tịa án đã chấp nhận u cầu khởi kiện của ông K và tuyên bố di chúc của ông C lập ngày 13/7/2017 là không hợp pháp do thời điểm lập di chúc tuổi ông C đã cao, khơng cịn minh mẫn, di chúc của ơng C khơng có nhân chứng xác nhận, vào thời điểm UBND xã C chứng thực chỉ có bản photo của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông C, tờ di chúc của ông C giữ khơng có ghi số vào sổ ghi là Chủ tịch, tờ di chúc được giữ tại Ủy ban nhân dân xã C thì lại có ghi số vào sổ ghi là Phó chủ tịch, di chúc cũng khơng đúng tâm tư nguyện vọng của ơng C. Ngồi ra Tịa

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

án tuyên án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

<b>Vụ án giữa các đương sự: </b>

<b>Ngun đơn: Ơng Ngơ Văn K, sinh năm 19. Địa chỉ: Tổ 12, ấp H, xã</b>

C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Bùi Quang N, sinh năm 1956.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Võ Trọng K – Chi nhánh Văn phòng Luật sư Võ Trọng K – Đoàn Luật sư TP

<b>Bị đơn: Bà Nguyễn Thị M (sinh năm 1968). Địa chỉ: Tổ 5, ấp A, xã C,</b>

huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Anh Hồ Đình T, sinh năm 1979. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà M: Luật sư Phạm Ngọc D, Văn phòng Luật sư Phạm Ngọc D thuộc Đoàn luật sư tỉnh

<b>Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:</b>

UBND xã C, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn P, chức vụ: Chủ tịch. Người đại diện theo uỷ quyền của ơng P: Ơng Đỗ Nhật T, chức vụ: Phó Chủ tịch. Chị Ngơ Thị L, sinh năm 1978. Địa chỉ: ấp A, xã C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Ông Nguyễn Ngọc N, sinh năm 1974. Địa chỉ: xã C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>Câu 2: Chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong bản án và giảithích tại sao nhóm lại cho là chưa phù hợp. </b>

Đầu tiên nhóm khẳng định rằng Toà án sơ thẩm đã giải quyết đúng thẩm quyền theo khoản 2 Điều 148, khoản 3 Điều 26, điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 BLTTDS 2015, tuy nhiên nhóm khơng đồng ý với quyết định của Tồ án tun di chúc của ơng Ngô Văn C lập ngày 13/7/2015 là không hợp pháp. Theo quan điểm của nhóm. tun bố của Tồ án sơ thẩm ở đây tồn tại nhiều điểm bất hợp lý, chưa phù hợp với quy định của luật dân sự về các điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp. Cụ thể:

a. Về điều kiện đối với người lập di chúc:

Tại phiên toà sơ thẩm, Tồ án sơ thẩm tun bố di chúc ơng Ngơ Văn C lập 13/7/2015 là không hợp pháp do điều kiện về người lập di chúc không được đảm bảo: ông C đã cao tuổi (81 tuổi), không còn minh mẫn, di chúc không đúng với tâm tư nguyện vọng của ơng C. Theo quan điểm của nhóm, tun bố của Tồ án có điểm bất hợp lý, cụ thể:

Lập di chúc là hoạt động xác lập giao dịch dân sự đơn phương vì vậy để hợp pháp, người lập di chúc cần phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu chung của chủ thể khi xác lập giao dịch dân sự cũng như các điều kiện riêng về người lập di chúc. Tại thời điểm lập di chúc, ông C đủ điều kiện về độ tuổi theo Khoản 1 Điều 625. Ơng Ngơ Văn C cũng đáp ứng được điều kiện về mặt pháp lý theo Khoản 2 Điều 20 BLDS 2015: “

.” và

Điểm a Khoản 1 Điều 117 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: “

” bởi ơng chưa từng bị Tồ án tun mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

sự hay có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nên chứng tỏ trong thời điểm lập di chúc.

Mặt khác, xét về sự “minh mẫn, sáng suốt” tại thời điểm lập di chúc theo điểm a khoản 1 Điều 630: “

, thì việc xác định ơng Ngơ Văn C khơng minh mẫn tại thời điểm lập di chúc là khơng có căn cứ cũng như có điểm bất hợp lý. Trong đơn khởi kiện của ông K và tuyên bố của Tồ về vấn đề ơng C khơng minh mẫn đều khơng có giấy tờ chứng minh mà chỉ dựa vào độ tuổi ông C đã cao (81 tuổi). Trong khi đó, BLDS cũng khơng có u cầu bắt buộc người lập di chúc phải có giấy khám sức khoẻ để chứng minh bản thân đủ tỉnh táo, sáng suốt, minh mẫn trong khi lập di chúc. Ngoài ra, Khoản 2 Điều 36 Nghị định 23/2015/NĐ-CP về cấp bản từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch: “

Nơi thực hiện chứng thực di chúc của ông C, UBND xã C tại Cơng văn 123/UBND đã nêu: Ơng C có mang di chúc được soạn sẵn đến UBND xã yêu cầu chứng thực, UBND xã chứng thực theo đúng Nghị định 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ. Anh Nguyễn Ngọc N – Phó chủ tịch xã và ơng Nguyễn Từ N – cán bộ Tư pháp xã C cũng khẳng định: Tại thời điểm tháng 7/2015, có tiếp nhận di chúc của ơng Ngơ Văn C và trình UBND chứng thực di chúc cho ông C, do ông C soạn sẵn di chúc mang đến. Lúc đó ơng C minh mẫn sáng suốt và chính ơng N có đọc lại nội dung di chúc cho ông C nghe và được ông C xác nhận là đúng. Chị Ngô Thị L khẳng định khi ông C lập di chúc 13/7/2015 cũng là thời gian ông C chuyển nhượng cho chị phần đất thì sức khoẻ ơng C vẫn hồn tồn bình thường.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

b. Về tính tự nguyện của người lập di chúc: Theo Điều 624:

và Điểm a Khoản 1 Điều 630 để di chúc hợp pháp thì người lập:

”. Trong đơn khởi kiện, anh K đã cho rằng di chúc 13/7/2015 là không đúng với tâm tư nguyện vọng của ơng C và được Tồ án sơ thẩm chấp nhận. Tuy nhiên, lại khơng hề có chứng cứ chứng minh cho rằng ông C khi lập di chúc không tự nguyện, không đúng với tâm tư nguyện vọng của ông. Mà trong lời khai của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì lại xác định đủ cơ sở là di chúc 13/7/2015 đã thể hiện đúng ý chí của ơng C. Ơng Ngơ Văn C đã trực tiếp mang bản di chúc đã được đánh máy sẵn lên UBND xã C chứng thực bản di chúc. Đồng thời UBND xã, Phó Chủ tịch xã anh Nguyễn Ngọc N, cán bộ Tư pháp ông Nguyễn Từ N đều khẳng định rằng có thơng qua nội dung di chúc và hỏi ơng C có đúng nội dung không và được ông C xác nhận là đúng. Như vậy, tuyên bố di chúc không đúng với tâm tư nguyện vọng của ơng C là chưa có căn cứ, chứng cứ.

c. Điều kiện về hình thức của di chúc

Một trong những lý do Toà án sơ thẩm tuyên bố di chúc ông Ngô Văn C lập ngày 13/7/2015 là khơng hợp pháp do di chúc khơng có người làm chứng dựa trên căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 630 về điều kiện một di chúc hợp pháp:

” và Điều 634 BLDS: “

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

…”. Tuy nhiên, nhóm khơng đồng ý với quan điểm này. Điều 628 BLDS 2015 đã liệt kê những hình thức di chúc bằng văn bản: “

Như vậy, mỗi một khoản theo Điều 628 là một hình thức hợp pháp của di chúc, người lập di chúc bằng văn bản có quyền, tuỳ ý muốn của mình và tuỳ theo hồn cảnh cụ thể chọn một trong những hình thức di chúc bằng văn bản nói trên khi lập di chúc bằng văn bản. Ơng Ngô Văn C khi chứng thực ở UBND tuy mang đến là bản đánh máy, nhưng theo khoản 4 Điều 628 và Điều 635 “

” thì ta có thể hiểu sau

khi lập di chúc, người lập có thể đem di chúc đến yêu cầu Công chứng viên tại Tổ chức hành nghề cơng chứng nhận hoặc u cầu người có thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp xã chứng thực bản di chúc. Trong trường hợp này, di chúc ln được coi là hợp pháp. Theo đó, Tồ án sơ thẩm dựa vào Khoản 1 Điều 636 để tun di chúc khơng hợp pháp do hình thức khơng phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Điều 636 chỉ liên quan tới một loại hình thức của di chúc là di chúc được lập tại cơ quan công chứng hay chứng thực và Điều 635 là một loại hình thức di chúc khác, độc lập với hình thức được quy định tại Điều 636. Ở đây, di chúc của ơng C vẫn có giá trị pháp lý vì đã đáp ứng được yêu cầu của Điều 635. Thẩm phán Chu Xuân Minh cho rằng “khi người lập di chúc tự mình đi cơng chứng, chứng thực thì bản di chúc là hợp pháp kể cả trường hợp họ không

<small>1 Xem cụ thể Điều 634 BLDS 2015</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

tự viết (đánh máy, chẳng hạn)”. Bên cạnh đó, “

thẩm dựa vào khoản 1 Điều 636 là khơng hợp lý.

Một vấn đề nữa mà Tồ sơ thẩm đề cập khi tuyên bố di chúc của ông C khơng hợp pháp đó là: tờ di chúc của ơng C giữ khơng có ghi số vào sổ ghi là Chủ tịch, tờ di chúc được giữ tại Ủy ban nhân

lập di chúc làm 02 bản trong đó 01 bản UBND xã C lưu giữ, 01 bản ông C giữ. Qua đối chiếu 02 bản di chúc có nội dung như nhau. Tuy nhiên, phần xác nhận lại có sai sót như Tồ đề cập. Tịa án cấp sơ thẩm có làm việc tại UBND xã C được ơng Nguyễn Ngọc N trình bày (bút lục 92) “Ơng Nguyễn Từ N cán bộ tư pháp tiếp nhận trực tiếp ông C nộp tại UBND xã C, ông C soạn nội dung sẵn mới đem đến UBND xã, ơng N có thông qua nội dung di chúc và hỏi ông C có đúng nội dung khơng, được ơng C xác nhận là đúng”, UBND xã C tại Công văn số 123/UBND (bút lục 77) thừa nhận có sai sót trong việc ghi số chứng thực và chức danh của người chứng thực chỉ mang tính hình thức cịn tồn bộ nội dung di chúc và lời chứng thực chữ ký là hồn tồn đúng sự thật. Nhóm cho rằng, dù có sai sót nhưng giá trị nội dung và chứng thực chữ ký không bị ảnh hưởng, mà ông C là người trực tiếp đem di chúc đến yêu cầu chính quyền xác nhận vào di

<small>2 Xem c th Quyếết đ nh 335/2012/DS-GĐT và bài viếết Di chúc có cơng ch ng, ch ng th c (hcmulaw.edu.vn)</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

chúc, thì Tồ án phải cơng nhận di chúc của ơng, tơn trọng ý chí đích thực của người để lại di sản.<small>3</small>

Tiếp theo là vấn đề liên quan đến giấy Chứng nhận quyền sử

bà M vào ngày 13/7/2015 01 phần thửa 1590, còn lại 01 phần của thửa 1590 thì ngày 17/7/2015 ơng C làm hợp đồng chuyển nhượng cho chị Ngơ Thị L. Vì vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông C, Văn phòng đăng ký đất đai huyện C giữ để làm thủ tục cho chị L cho nên khi chứng thực chỉ có bản photo. Ơng C được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất còn lại chovào ngày 24/7/2015. Chứng tỏ phần đất của ông C tại thời điểm làm di chúc ông C vẫn có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

<b>Câu 3: Hãy đưa ra quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụviệc phù hợp với quy định của pháp luật.</b>

<i><b>Về mặt căn cứ pháp luật, thời điểm ông Ngô Văn C mất</b></i>

16/12/2017 là thời điểm mở thừa kế thì bản di chúc có hiệu lực. Theo Điều 689 Bộ luật dân sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017): “

Như vậy, để giải quyết vụ việc này, ta áp dụng BLDS 2015 (Sửa đổi, bổ sung 2017). Ngoài ra, căn cứ khoản 3 Điều 26, Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Điều 228 BLTTDS; Nghị định 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ; khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày

<small>3 D a trến Quyếết đ nh 335/2012/DS-GĐT c a Tồ dân s TAND tơếi cao và bài viếết t i Di chúc có cơng ch ng, ch ngth c (hcmulaw.edu.vn)</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

30/12/2016 cũng như nhận định lại các tình tiết cụ thể của vụ án. Cụ

Điểm a Khoản 1 Điều 630:

Theo tình huống của vụ việc, người lập di chúc là ông Ngô Văn C tại thời điểm lập di chúc 13/7/2015 đã 81 tuổi (đủ điều kiện về độ tuổi theo Điều 20, khoản 1 Điều 625 BLDS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017). Tiếp theo, trong thời điểm ông C lập di chúc, đến khi ông C mất (13/7/2015 – 16/12/2017), ông C chưa từng bị Toà án tuyên là

<small>4 Xem c th : Điếều 22, 23 và 24 c a B lu t Dân s 2015 (s a đ i, b sung 2017).</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

mất năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi hay bị hạn chế năng lực pháp luật dân sự và khơng có bất kỳ giấy tờ chứng minh nào về mặt pháp lý hay y học về vấn đề này. Đặc biệt, khi ông C thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị Ngô Thị L và chứng thực bản di chúc tại UBND xã C, thì cả chị Ngơ Thị L và UBND, Phó Chủ tịch xã anh Nguyễn Ngọc N và cán bộ Tư pháp là anh Nguyễn Từ N đều khẳng định ông C sức khoẻ hồn tồn bình thường, minh mẫn, chính ông cũng đã mang bản di chúc đã đánh máy sẵn, trực tiếp đến UBND xã C xin chứng thực và chính ơng cũng đã xác nhận nội dung di chúc là đúng theo nguyện vọng của mình. Vì vậy, theo điểm a, b Khoản 1 Điều 117 và Điểm a Khoản 1 Điều 630, về mặt pháp lý, khẳng định ơng C hồn tồn có đủ năng lực pháp luật dân sự, sự minh mẫn, cũng như tự nguyện khi lập di chúc

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Nghị định 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.

Theo tình huống vụ việc, cũng như phân tích của câu 2, Nhóm nhận định: Đầu tiên, hình thức của bản di chúc 13/7/2015 của ơng Ngô Văn C là hợp pháp theo quy định tại Điều 627, 628, 635 BLDS 2015 (Sửa đổi, bổ sung 2017). Theo đó, bản di chúc của ơng C lập ngày 13/7/2015 không cần người làm chứng. Tiếp theo, về vấn đề sai sót trong số ghi chứng thực và chức danh của người chứng thực thì đó chỉ là mang tính hình thức, cịn

và UBND xã C cũng đã khẳng định điều đó trong bút lục 92 và bút lục 77. Đồng thời ông C là người trực tiếp mang bản di chúc đến chứng thực, xác nhận với người có thẩm quyền chứng thực tại UBND xã là nội dung di chúc là đúng với ý nguyện của ơng, thể hiện ý chí của ơng C theo Điều 624 BLDS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Cuối cùng là quy định tại Điều 635 thì chúng ta có thể hiểu sau khi lập di chúc, người lập có thể đem di chúc đến u cầu Cơng chứng viên tại Tổ chức hành nghề công chứng nhận hoặc yêu cầu người có thẩm quyền của UBND xã

<small>5 Xem c th t i Quyếết đ nh 335/2012/DS-GĐT</small>

</div>

×