Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (42.11 MB, 70 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
TRUONG ĐẠI HỌC LUAT HÀ NOI
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. NGUYÊN ĐĂNG DUNG
HÀ NOI - 2014
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>Tôi xin cam đoan:</small>
<small>Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự hướng</small> dan trực tiếp của GS.TS Nguyễn Dang Dung. Mọi tham khảo dùng trong luận <small>văn déu được trích dan rõ ràng và trung thực.</small>
<small>Tác giả</small>
<small>Vũ Anh Dũng</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>MO ĐẦU... G1 21 21211212212212111121121121121111111111111111 1111111011111 1111 re 41. Lý đo chọn đề tài...-- - 2 St SE E1 1EE12121211212112111111211111111111 11111 xe. 42.Tình hình nghiên cứu đề tài...-- ¿- -Sx+seSk+EEEEEE2EEEEE1121E1121111 11111111111 xe. 53. Mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu cua để tai coeececcececeseseseseseseseseseeeseeeeeeees 6</small>
<small>A. MUC TOU 01... 6</small>
<small>b.Đối tượng, phạm vi nghiên CUU eee csesseesessesessessesessesseesscsesscsesstsnsseseesseess 74. Phương pháp nghiên cứu của đề tai... csesessessesesecssseseesessesesesseseseesseees 75. Cơ cầu để tai oc ccccecccccscscsesesesecesececscececscscscscscacacacscacacacavsvsvavsvavavavevevevevensnensesneeees 7</small>
<small>CHƯNG l... -- - 52 522522E22E21521521111111211211211111111111 1111111111111 111 1 111 1e 8</small>
<small>NHÂN QUYEN - DOI TUONG DIEU CHINH CUA HIEN PHÁP... 81.1. Khái quát về nhân quyn...---¿- 2 SE +E+EE+E£EEEEEEEEEEEEEEEE121111e 211. xeE 81.1.1. Khái niệm về quyền con người ...ccececcccccscsssescsseseseesscssssesssstsssstssessseeseeees 81.1.2. Tính chất cơ ban của quyền con nBười...-- 2 - 2= s+£z+s+z++Eezxzxezxee 91.2 Nhân quyền — Đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp ...---- - 2 181.2.1 Nhân quyên là đối tượng điều chỉnh cơ ban của Hién pháp ... 181.2.2. Cách thức, phạm vi điều chỉnh nhân quyên trong Hiến pháp ... 21</small>
<small>CHƯNG [lone eccceccccsscsscsscssessesscsssssesvcscsessesssssssussvssessesssssssussussessssessesasssssusaesseesesseess 25</small>
<small>HIẾN PHÁP MOT SO QUOC GIA VỚI VAN DE NHÂN QUYẺN... Z52.1 Hiến pháp Hoa Ky ...--- -- 52 SE k9EE2EEEEEEE2EE1121111112111111111 1.111. xe. 252.2. Hiến pháp Cộng hòa Pháp ...--- - 2 2 E+S£+E+EE£EEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEerkrrrrree 332.3. Hiến pháp Anh Qu6c ...---¿- 2 + E2 +k9EE+E£EEEEE+EEEEEEEEEEEE2E111111111e 111. xe. 36</small>
<small>CHƯNG IID ... 2-2-5252 2S S921 EEEEE1251231211212102122121121121111111711111 111.11 Tre. 39</small>
<small>HIẾN PHÁP VIỆT NAM VỚI VAN DE NHÂN QUYẺN...--- 2s: 393.1. Quyền con ngưởi ở Việt Nam trước Hiến pháp năm 1946...--- 393.2. Hiến pháp năm 1946 với van đề nhân quyền ...---2- 2 2 s2 £s+szzsz2 443.3. Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 với vấn đề nhân quyền...-- 483.4. Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013 (Hiến pháp 2013)...--- - 25+: 59KẾT LUẬN...-. it t1 311 215151515551111151111111111111111111111 1111111111111 111515151555 EEEcExe. 65</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>TIENG ANH</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử nền văn minh nhân loại là một quá trình đấu tranh khẳng định
các quyền cơ bản của con người. Dù cịn tơn tại những trạng thái mang tinh học thuật về quyền tự nhiên hay quyền pháp lý của quyền con người nhưng có thé khang định, quyền con người đã được ghi nhận trong các văn kiện pháp luật của hầu hết các quốc gia. Ở châu Âu thời Trung cổ, người Anh đã ban hành Hiến chương Magna Carta năm 1215 nhăm khang định một số quyền con người như quyền sở hữu, thừa kế, tự do buôn bán, quyền được xét xử đúng đắn và được bình dang trước pháp luật. Năm 1776, mười ba thuộc địa ở Bắc Mỹ đã tuyên bố độc lập với dé chế Anh, thành lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thông qua Tuyên ngôn độc lập khang định “... moi người sinh ra déu có qun bình dang. Tạo hóa cho họ những qun khơng ai có thể xâm phạm được, trong những qun đó có quyên được song, quyển tự do và quyền mưu cau hạnh phúc”. Khi thành lập năm 1789, Cộng hịa Pháp cũng cơng bố Tun ngơn nhân quyền và dân quyền, nhằm xác định các quyền cơ bản của con người và đề cập đến những biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền này. Về sau, những luận điểm về con người của bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền cũng được ghi nhận trong nhiều bản Hiến pháp đã được thông qua ở nhiều quốc gia ở châu Âu. Theo đó, các quyền con người được xác định như một bộ phận không thé thiếu được của Hiến pháp, là mục tiêu phan dau
<small>và thực hiện của các nhà nước đó.</small>
Ở Việt Nam, quyền con người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thê hiện trong Tuyên ngôn độc lập do người soạn thảo và công bố ngày 02/09/1945
<small>khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội</small>
chủ nghĩa Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập băng lời bất hủ của bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người déu sinh ra có quyên bình dang. Tạo hóa cho họ những qun khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyên ấy có quyên được
<small>song, quyên tự do và quyên mưu cau hạnh phúc `.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">thoại, chủ động tham gia ký kết và thực hiện các cam kết và điều ước quốc tế về quyền con người đang là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước <small>ta.</small>
Việt Nam đã ký kết và gia nhập nhiều Công ước quốc tế về nhân quyền như Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (năm 1982), Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (năm 1982), Cơng ước xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (năm 1982)...
Nghị quyết Dai hội XI của Dang Cộng sản Việt Nam đã khang định “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyên con người, gắn quyên con người với quyên và lợi ích của dân tộc, dat nước và quyên làm chủ của nhân dân. Mở rộng dân chủ, phát huy toi da nhân to con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Dam bảo quyền con người, quyên công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển tồn diện. Qun và nghĩa vụ cơng dân do Hiến
<small>pháp và pháp luật quy định. ”</small>
Vì vậy có thé thay rằng, quyền con người ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng trong các lĩnh vực như đời sống xã hội, chính trị, văn hóa, pháp luật và được luật pháp quốc tế, pháp luật quốc gia ghi nhận, xác lập và thúc day co chế bảo đảm thực hiện. Vi vậy, dé tài này nghiên cứu van đề nhân quyên, đối tượng điều chỉnh, cách thức, phạm vi điều chỉnh trong bản văn Hiến pháp của một số quốc gia trong đó có Việt Nam theo những chuẩn mực quốc tế được quốc tế thừa nhận, góp phần nâng cao nhận thức khoa học của chúng ta về quyền con người, xây dựng các căn cứ lý luận và chính sách, hồn thiện cơ chế bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
<small>Trong nhiêu thập niên qua, vân đê quyên con người được nghiên cứunhiêu ở cả bình diện qc tê và quôc gia. Nhiêu tô chức quôc tê, đặc biệt là</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>vệ quôc tê vê quyên con người với sự ra đời của hàng chục điêu ước, tuyênngôn, tuyên bô vê quyên con người.</small>
Quyền con người đã được nhiều tổ chức và cá nhân nghiên cứu như:
<small>UNDP, Human Development Report 2000: Human rights and HumanDevelopment, New York, 2000; United Nations, Frequently asked questions</small>
<small>on a human rights — based approach to development cooperation; JohannesMorsink, The Univerrsal Declaration of human rights: Origins, Drafting, and</small> Intent, Philadelphia: University of Pennsylvania Press, 1999; trong đó, một SỐ cuốn sách đã được dịch sang tiếng Việt như: Jacques Mourrgon, Quyển con người, Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Hà Nội, 1995; Wolfgang Benedek (Chủ biên), Tim hiểu về quyền con người, nhà xuất bản Tư pháp,
<small>2008; ...</small>
Năm 2005, Bộ Ngoại giao Việt Nam chủ trì, cơng bố tập tài liệu: “Thanh tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam”; trung tâm nghiên cứu quyền con người (nay là Viện nghiên cứu quyền con người trực thuộc Học viện Chính trị — Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), Việt Nam với vấn dé quyên con người; và đề tài độc lập cấp nhà nước, Quyển con người trong thời kỳ đổi mới — thành tựu — vấn dé và phương hướng giải quyết, đề tài “Việt Nam với van dé qun con người” — một cơng trình nghiên cứu do Bộ Tư pháp chủ trì cùng với sự tham gia của nhiều cơ quan. Năm 2013, hội thảo khoa học “Các cơ chế bảo về quyên con người và quyên công dân — Kinh
<small>nghiệm ở Cộng hoa Liên bang Đức và Việt Nam”.</small>
<small>Ngồi ra, một sơ luận án tiên sĩ và thạc sĩ cũng đã có những nghiên cứunhât định liên quan đên quyên con người...</small>
<small>3. Mục tiêu, đôi tượng, phạm vi nghiên cứu của dé tàia. Mục tiêu</small>
Đề tài trình bày và phân tích nhân quyền là đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp của không chỉ Việt Nam và một số quốc gia khác. Đồng thời, dé tài
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">nhân quyền qua các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
b. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu các quyền hiến định về nhân quyền trong Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Hiến pháp của Cộng hòa Pháp, nguồn pháp luật của Hiến pháp bất thành văn của vương quốc liên hiệp Anh & bắc Ailen và Hiến pháp của Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Theo tính chất của chủ đề, nội dung nghiên cứu, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sẽ là phương pháp tổng hop
<small>và phân tích văn bản và tài liệu.</small>
5. Cơ cầu đề tài
Nội dung đề tài được chia làm ba chương:
- Chương 1: Nhân quyên — đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp - Chương 2: Hiến pháp một số quốc gia với van đề nhân quyền - Chương 3: Hiến pháp Việt Nam với van đề nhân quyền
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">NHÂN QUYEN - DOI TƯỢNG DIEU CHỈNH CUA HIẾN PHÁP 1.1. Khái quát về nhân quyền
<small>1.1.1. Khai niém VỆ quyén con người</small>
Theo Dai từ điển tiéng Việt của Viện Ngôn ngữ hoc, thuật ngữ human rights trong tiếng Anh có thé được dịch thuần việt là guyén con người hoặc đồng nghĩa Hán — Việt là nhân quyền.
Quyền con người là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực như đạo đức, chính trị, pháp lý... Chính vì vậy, hiện nay có rất nhiều định nghĩa về quyền con người theo những góc độ khác nhau. Một định nghĩa rất phố biến thường được trích dẫn bởi các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên: Quyên con người là những quyên cơ bản, không thể tước bỏ mà một <small>người von được thừa hưởng don giản vì họ là con người.</small>
Theo một tài liệu năm 1994 của Liên Hợp Quốc, United Nations: Human
rights: Question and Answer, có đến gan 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố”. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được
<small>tât cả các thuộc tính của quyên con người.</small>
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý tồn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo
<small>vé các cá nhân và các nhóm chong lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ</small>
<small>' Viện Ngôn ngữ học (1999), Dai tr điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Văn hóa, thơng tin.? Untied Nations: Human Rights: Question and Answer, Geneva, 1994</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Ở Việt nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra cũng khơng hồn tồn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tỉnh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn
<small>mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân</small>
phẩm va mới có điều kiện phát triển đầy đủ năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội va trong mọi giai đoạn lịch str’.
1.1.2. Tinh chất co bản của quyền con người
Các nguyên tắc của quyền con người (human rights principles) hay cịn gọi là các tính chất cơ bản của quyền con người, theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế thể hiện trong cuốn United Nations: UN common understanding on human rights — based approaches to development, bao gồm: tính phố biến (universal), tính khơng thé chuyển nhượng (tước đoạt) (inalienable), tính khơng thé phân chia (indivisiable) và tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent).
<small>3 Unti ted Nations, UNHCHR, Freequently Asked Questions on a Human Rights-Based Approach to</small>
<small>Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, tr,8.</small>
<small>* Trong một cuộc kháo sát do CNN — một trong các cơ quan truyền thông tiễn hành, quyền con người đượcxem là một trong mười phát mình làm thay đổi thé giới (cùng với nông nghiệp, phântâm học, thuyết tương</small>
<small>đối, vắc xin, thuyết tiến hóa, mạng thơng tin tồn cầu (world wide web), xà phịng, số khơng, và lực hấp dẫn)— CNN: “Ten ideas that changed the world”, 2005.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">a) Tinh pho biến (universal)
Thông qua ban Tuyên ngôn toàn thé giới về quyền con người, tinh phổ biến của quyền con người được cộng đồng quốc tế thừa nhận thể hiện ở chỗ quyền con người là những gi bam sinh, vốn có của con người. Quyền con người được áp dụng bình đắng cho mọi người, khơng có sự phân biệt đối xử bởi bat kỳ ly do nào về chủng tộc, màu da, giới tính, tơn giáo, thành phan xuất thân... Như vậy, quyền con người là một giá trị chung của nhân loại, là mục <small>đích vươn tới của nhân loại.</small>
Xét về nguồn gốc tự nhiên, quyền con người là những giá trị vốn có và chỉ tồn tại ở loài người. Những tư tưởng về quyền “tự nhiên”, “trời phú” cho con người ngay từ khi con người xuất hiện đã có từ thời cô đại. Từ thời Hy lap cô đại, nhà triết học Zeno (334-264 TCN) đã phát biéu rang, không ai sinh ra đã là nô lệ hết cả, địa vị nô lệ là do họ bị tước đoạt tự do vốn có của con người. Rõ ràng ở đây Zeno đã đề cập đến quyền là một người tự do với ý nghĩa là một quyền bam sinh của con người. Tư tưởng này sau đó được nhiều triết gia tai khang định và phát triển, trong đó tiêu biểu nhất là Thomas <small>Hobbes (1588-1679), John Locke (1632-1704) va Thomas Paine (1731-1809).</small> - Thomas Hobbes với cuốn sách Leviathan viết năm 1658...°, đã đưa ra quan điểm lý thuyết về khế ước xã hội với các nguyên tắc cơ bản của tư tưởng tự do châu Âu: quyền được bầu cử của các cá nhân, quyền bình đăng tự nhiên của tất cả mọi người, tính nhân tạo cua địa vị chính trị, quan điểm tất cả quyên lực chính trị hợp pháp phải mang tính “đại điện” và dựa trên sự đồng thuận của nhân dân, và sự diễn giải luật cho phép mọi người được làm bất cứ điều gì mà pháp luật khơng cam.
- John Locke cũng như Hobbes, trong các tác phẩm của mình”, ơng quan niệm, trong trạng thái tự nhiên, tất cả mọi người đều bình đăng và độc lập, khơng ai có qun làm tổn hại đến người khác và mọi người đều có quyền trừng phạt kẻ vi phạm (Luận thuyết thứ hai về chính quyền — Secon Tract of
<small>> Xem Thomas Hobbes, Leviathan (1,XIV), 1658</small>
<small>® Xem John Locke: An Essay Concerning Human Understanding, 1690; Second Tract of Government, 1662;</small>
<small>Questions Concerning the Law of Nature, 1664.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">- Triết học gia người Anh, Thomas Paine, với tác phẩm nỗi tiếng Các quyền của con người — Rights of Man, 1791, thì nhắn mạnh rằng các quyền khơng thể được ban phát bởi bất kỳ chính phủ nào, bởi lẽ điều đó đồng thời cho phép các chính phủ được rút lại các quyền ấy theo ý chí của họ... Như thế, Thomas Paine đã gián tiếp khăng định rằng các quyền của con người là
<small>những giá trị tự nhiên.</small>
Phát triển những tư tưởng về quyền con người ở các nhà triết học ở thời kỳ này, người Anh đã cụ thé hóa trong Luật về các quyền ở Anh năm 1689. Trong cuộc cách mạng tư sản ở Mỹ, Tuyên ngôn độc lập năm 1776 đã thống nhất với cách nhìn nhận về quyền con người của John Locke: “Moi người sinh ra déu có qun bình dang. Tạo hóa cho họ những qun khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyên đó có quyên được sống, quyên tự do và
<small>A A X i 997</small>
<small>quyên muu cau hành phúc...</small>
<small>Khác với người Mỹ, trong cuộc cách mạng tư sản của mình năm 1789,</small>
người Pháp cơng bố Tun ngơn Nhân quyên va dân quyền, một văn bản mang đầy dấu ấn của các học thuyết về nhân quyền của thời kỳ này, theo đó, con người sinh ra đều sống tự do và bình dang về quyền và phải ln được tự do và bình dang về quyền loi’.
<small>Hai bản văn kiện này đã có ảnh hưởng sâu rộng khơng chỉ ở hai nước</small>
này mà cịn trên tồn thé giới về sự phát triển của quyền con người cũng như đặt nền móng cho q trình lập pháp về quyền con người trong hệ thống văn bản pháp luật của quốc gia và trong các văn bản pháp luật quốc tế. Sau này, Hoa Kỳ đã cam kết tôn trọng và thực hiện bảo về quyền con người thông qua việc cụ thể hóa các quyền đã được ghi nhân trong mười Tu chính án Hiến pháp, Hiến pháp của Pháp năm 1791 cũng có những quy định bảo đảm các <small>quyên con người đã được nêu trong Tuyên ngôn Nhân quyên và Dân quyên.</small>
<small>"Th uyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1998), Lời nói đầu, bản tiếng Việt trong Các văn kiện</small>
<small>quốc té về quyễn con người, nhà xuất bản Chính trị qc gia, Hà Nội</small>
<small>`1 uyên ngôn Nhân quyên và Dán quyền của cách mạng Pháp (1998), bản tiếng Việt trong Các văn kiện quốc</small>
<small>tế về quyên con người, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Học thuyết về quyền con người và những cơ sở lý luận cơ bản về quyền con người đã được phát triển sớm trong điều kiện tự nhiên — xã hội của phương tây và quyên con người đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện chính trị — pháp lý khác nhau. Quyền con người trong các văn kiện chính trị — pháp lý đó là sản pham của các điều kiện và hồn cảnh lịch sử cụ thé, nên van cịn ton tại những hạn chế nhất định.
Để quyền con người tiến tới là một giá trị chung của nhân loại, kế thừa những tính hoa của những tư tưởng Cận đại và vượt lên trên những hạn chế của các văn kiện vừa nêu trên, Liên hợp quốc đã bàn bạc, xây dựng và cơng bố Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người năm 1948, sự khởi đầu của ngành luật quốc tế về quyền con người. Bản Tuyên ngôn là thỏa thuận pháp lý quốc tế đầu tiên về quyền con người, được đại đa số các nước chấp nhận, ký kết, thơng qua, thừa nhận tính phổ quát của các quyền con người, dựa trên việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình dang của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, cơng lý và hịa bình thế giới. Đây là thành quả của sự phát triển, sự tiến bộ và văn minh của lịch sử nhân loại, khơng chỉ mang tính tất yếu khách quan mà cịn thể hiện nguyện vọng chủ quan của con người trên tồn thé giới, ai cũng có quyền tồn tại, có quyền
<small>phát triên và có quyên mưu câu hạnh phúc.</small>
Ngày nay, tính phổ biến của quyền con người được thừa nhận trên phạm vi toàn cau nhưng vẫn tiếp tục trở thành van đề nổi cộm trong các cuộc tranh luận của giới nghiên cứu cũng như các chính trị gia bởi tồn tại những quan niệm khác nhau về tính phô biến và nội dung của quyền con người. Tuyên ngơn tồn thế giới về quyền con người đã xem xét con người không chỉ với tư cách quyền tự nhiên bam sinh, mà cịn là quyền có tính xã hội, không chỉ don thuần xem quyền con người là những quyền chính trị mà cịn là những quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền phát triển. Tuy nhiên thực tiễn đã cho thay, không phải Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người của Liên hợp quốc khơng có những hạn chế của nó, khơng phải những chuẩn mực mang tính phổ biến về quyền con người trong Tuyên ngôn và các văn kiện pháp lý quốc tế đã được Liên hợp quốc thông qua đều mang tính bất biến, khơng thê thay đổi
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">theo dong lịch sử va phản ánh đầy đủ quyền con người. Người ta có thé nói đến việc trong Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người khơng có một số quyền con người đặc biệt mà các văn kiện quốc tế khác phải b6 sung (Các cơng ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1996, Công ước quốc tế về các quyên kinh tế, xã hội, văn hóa 1966, Tuyên bố về quyền của các dân tộc được sống trong hịa bình 1984 ...) Cùng với các công ước quốc tế này, rất nhiều các văn kiện khác sau này đã được thông qua với mục tiêu hướng tới hoàn thiện hơn những chuẩn mực quốc tế về quyền con người cũng như phản <small>ánh đây đủ và toàn diện quyên con người trong xu thê phát triên của xã hội.</small>
Mặc dù còn nhiều bất đồng trong quan niệm về quyền con người giữa các nhà nghiên cứu, các chính trị gia cũng như nhiều quốc gia, nhưng trong các quan niệm ấy đều tồn tại một cơ sở chung làm nên tính phổ biến về quyền con người, đó là nhân phẩm (hay phẩm giá con người — human dignity). Tuyên ngôn đã khăng định mọi người đều được tự do và bình đăng về nhân phẩm và các quyền”. Pham giá con người là những giá trị phản ánh và tạo nên phẩm chất của chính bản thân con người, chỉ con người mới có và phân biệt giữa con người với thế giới động vật.
Quyền con người được xây dựng trên cơ sở tôn trọng nhân phẩm và giá trị của mỗi cá nhân có nghĩa là tất cả các quyền con người đều xuất phát từ
<small>⁄ ^ A NÓ ave x10chính nhân phâm và giá tri của con người.</small>
<small>Phâm giá con người là giá trị phô biên của con người, phản ánh bản chât</small>
<small>của từng con người. Bên cạnh tính phơ biên, qun con người cịn có tính</small> khơng thể chuyền nhượng.
b) Tỉnh khơng thể chuyển nhượng (tưóc đoạt) (inalienable)
Các quốc gia trên thế giới đều có hệ thống pháp luật quốc gia và các văn kiện pháp lý quốc tế ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo cơ chế thực thi các quyền con người trong điều kiện sống bình thường để con người sống <small>đúng với tư cách người.</small>
<small>? Điều 1; Tun ngơn tồn thé giới về nhân quyền của LHQ, 1948 ‹ ‹ „</small>
<small>!° Nguyễn Trung Tin (2009), “Quyên con người và nhà nước pháp quyên ”, Quyên con người — Tiếp cận da</small>
<small>ngành và liên ngành khoa học xã hội, Hà Nội, tr.116</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Mỗi con người tự do tham gia vào đời sống xã hội, có quyền tự do ý chí, thé hiện nguyện vọng của bản thân và tự gánh chịu trách nhiệm về hành vi,
<small>hoạt động của minh và mọi hậu quả pháp lý của những hành vi, hoạt động đó.</small>
Bất kỳ một chủ thể nào bao gồm cơ quan công quyền hay công chức nhà nước cũng khơng có quyền tước đoạt một cách tùy tiện các quyền tự do ý chi, thé hiện nguyện vọng đó của mỗi cá nhân trong xã hội. Sự tùy tiện tước đoạt quyền con người bởi một chủ thể nào đó là sự vi phạm các quyền con người đã được pháp luật bảo vệ! `,
Bên cạnh đó, bất cứ ai, khơng những khơng được quyền tước đoạt mà cịn không được quyền hạn chế hoặc xâm phạm một cách tùy tiện các quyền con người của mỗi cá nhân “.
Tất cả những quy định đó của pháp luật đều hướng tới mục đích chung, đó là bảo vệ con người và quyền con người, sự bình đăng pháp lý của mọi cá nhân, quyền tự do dân chủ của họ và những bảo đảm cho các quyền và tự do
Có thé hiểu rằng, quyền tước đoạt hoặc quyền hạn chế các quyền con người chỉ có thể xảy ra hay được thực hiện trong những trường hợp cụ thê,
<small>đặc biệt, như khi một người phạm một tội ác, hành vi vi phạm pháp luật được</small>
xác định bởi một phán quyết của tịa án có thẩm quyền đã có hiệu lực thì mới có thé bị tước đoạt quyền tự do'. Sự tước đoạt hoặc hạn chế một số quyền con người của người bị tước đoạt hoặc bị hạn chế thực chất là nhằm bảo vệ các quyên con người của người khác bị ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm pháp luật của người bị tước đoạt hoặc bị hạn chế gây ra. Do đó, cơ sở lý luận cho sự tước đoạt hoặc hạn chế ở đây có thê được hiểu ở góc độ bảo vệ các quyền con người. Do vậy, Điều 29.2 của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người khăng định:
Khi thụ hưởng các quyền tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhăm mục đích bảo đảm sự cơng nhận và tơn <small>'! Điều 9 Tun ngơn tồn thé giới về nhân quyền, 1948.</small>
<small>'* Điều 12 Tun ngơn tồn thé giới về nhân quyền, 1948</small>
<small>'S United Nations, Human Rights, A Basic Handbook for UN Staff, tr.3 và Freequently asked questions on a</small>
<small>human right-based approach to development cooperation, sdd, tr.8</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự cơng cộng và phúc lợi
<small>chung trong một xã hội dân chủ.</small>
Các quyền và tự do con người khơng chi mang tính khơng thé chuyển nhượng, không thé bị tước đoạt hoặc hạn chế một cách tùy tiện mà bảo đảm các quyền còn có giá trị quan trọng như nhau, đó là tính khơng thé phân chia. c) Tính khơng thể phân chia (indivisiable)
Các mối quan hệ về chính trị, kinh tế, xã hội ngày càng phong phú, phức tạp và đa dạng trong sự vận động phát triển của xã hội, làm tiền đề bổ sung cho sự phát triển các quyền con người, đáp ứng các nhu cầu của con người, đó là các quyền kinh tế, quyền chính trị, quyền dân chủ, quyền văn hóa... Trong các văn kiện pháp lý quốc tế, về nguyên tắc, các quyền con người này quan trọng như nhau, khơng có quyền nao được xem là cao hon, quan trọng hơn. Các quyền đều ngang nhau về mặt giá trị. Sự xác nhận về mặt nguyên tắc tầm quan trọng như nhau của các quyền con người bảo đảm sự tự do, nhân phẩm của con người. Bởi vì, nhân phẩm và giá trị của con người là cơ sở chung đề xây dựng nên tất cả các quyền con người. Việc tước bỏ hay hạn chế bat kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Nhà nghiên cứu nhân quyên nổi tiếng Philip Aston đã phát biéu rang “Do tat cả các quyên con người đều là cần thiết và
<small>x Ẩ A A . A ` A ` 914cot yêu nên không được coi quyền nào quan trong hơn qun nào `”.</small>
Tuy nhiên, liên quan đến tính chất khơng thể phân chia của quyền con người, cần chú ý trong thực tế, tùy những bối cảnh cụ thé và với những đối tượng cụ thể, có thể ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định, miễn là phải dựa trên những cơ sở và yêu cầu thực tế của việc bảo đảm các quyền đó chứ khơng phải dựa trên sự đánh giá về giá trị của các quyền đó. Trong một phạm vi hẹp, có thé kế đến một số trường hợp cụ thé như trường hợp những người
<small>bị bệnh tật hoặc trường hợp dịch bệnh bùng phát tại một nơi nào đó. Lúc này,</small>
quyền được chăm sóc ý tế cùng với những biện pháp cần thiết để bảo đảm <small>* Đại học Quốc gia Hà Nội — Khoa Luật (2009), Giáo trình lý luận và pháp luật về qun con người, nhà</small>
<small>xt bản Chính trị qc gia, Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">thực thi quyền đó sẽ được ưu tiên thực hiện. Việc ưu tiên thực hiện quyền được chăm sóc y tế có thể làm ảnh hưởng đến các quyền khác trong khoảng thời gian bị bệnh tật hoặc bị dịch bệnh, nhưng không đồng nghĩa rằng quyền này có giá trị hoặc được đánh giá có mức độ quan trọng cao hơn các quyền khác. Trên cơ sở yêu cầu thực tế, quyền được chăm sóc y tế là nhu cầu cấp thiết của con người, hồn tồn phù hợp với tình hình tại thời điểm đó. Sức
<small>khỏe con người được đảm bảo mới có thê bảo đảm các quyên con người khác.</small>
Xem xét đến phạm vi rộng hơn, nhóm chủ thể là phụ nữ và trẻ em cũng được bảo đảm một số quyền ưu tiên. Phụ nữ và trẻ em là những nhóm người dé bị tổn thương về quyền cơ bản của con người. Họ là nạn nhân của sự vi phạm các quyền con người được che đậy va bao biện bởi các yếu tố khách quan như lý do truyền thơng, văn hóa... Chính vì vậy, cộng đồng quốc tế đã thông qua một số công ước quốc tế mang tính phổ quát về việc bảo về quyền riêng tư của phụ nữ và trẻ em, đặt ra một số quyền ưu tiên cho nhóm người này'”. Những quyền được ưu tiên hoặc được bảo vệ riêng này không đồng nhất với việc xác nhận giá trị cao hơn hoặc quan trọng hơn các quyền con người khác. Các quyên con người cơ bản của phụ nữ và trẻ em đều quan trọng như nhau, nhưng vì là nhóm xã hội dễ bị tốn thương, có nguy cơ bị đe dọa và
<small>bị vi phạm nên cân có những ưu tiên nhât định đê đảm bảo các quyên cho họ.</small>
Đối với những ưu tiên trong việc thực hiện quyền COn người, nếu như cần thiết thì phải xác định phù hợp với những khái niệm và nguyên tắc cốt lõi trên lĩnh vực này, như nguyên tắc không phân biệt đối xử, ngun tắc bình đăng và tham gia .
Ngồi tính khơng thê phân chia này cùng với hai tính chất khác đã được nêu ở trên, quyền con người cịn có một đặc tính là tính liên hệ và phụ thuộc
<small>lân nhau.</small>
<small>© Cơng ước về xóa bỏ tat cả các hình thực phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em</small>
<small>năm 1989</small>
<small>*° Đại học Quốc gia Hà Nội — Khoa Luật (2009), Giáo trinh lý luận và pháp luật về quyền con người, nhàxuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">d) Tính liên hệ và phụ thuộc lân nhau (interrelated, interdependent)”
Hiện nay, các quyền con người ngày càng được thúc đây phát trién mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu với những cơ sở pháp lý ngày càng được củng cố, mở rộng, hoàn thiện về nội dung và mức độ bảo đảm. Từ lúc chỉ có các quyền chính trị, dân sự hệ thống các quyền con người đã được bổ sung thêm các quyên kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền tự quyết dân tộc...
Quyền con người mang tính tồn diện, chúng khơng tồn tại độc lập, tách rời mà tồn tại trong một tổng thể có mỗi liên hệ mật thiết, chúng phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau, coi trong như nhau, trong đó, việc đảm bảo toàn bộ hoặc một phần các quyền này là điều kiện để đảm bảo toàn bộ hoặc một phần các quyền khác và ngược lại. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác và ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyên sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực
<small>đên việc bảo đảm quyên khác.</small>
Cu thé trong một xã hội phat triển, việc đảm bảo tốt các quyền và tự do chính tri, dân sự sẽ có những tác động tích cực trực tiếp và giản tiếp đảm bảo các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Và ngược lại, các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội được đảm bảo thì các quyền chính trị, dân sự sẽ được thực thi tốt. Điều này thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa các quyền con người, những tiến bộ trong việc bảo đảm quyền con người này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các quyền con người khác được bảo đảm, tôn trọng, và ngược lại, sự vi phạm quyền con người này sẽ có những tác động tiêu cực, đe dọa trực tiếp hoặc gián tiếp với các quyền con người khác. Thực vậy, nếu các quyền và tự do chính trị và dân sự như quyền bầu cử, ứng cử, tự do di lại, cu trú, tự do hội họp... bị hạn chế trong một quốc gia nào đó thì tất u sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến sự thụ hưởng các quyền về kinh tế, văn hóa và xã hội của mọi người trong quốc gia đó. Ngược lại, người dân có trình độ dân trí thấp,
<small>nghèo đói, lạc hậu thì khó có thé bảo đảm về tự do ca nhân của người dân như</small>
<small>” Human Rights, A Basic Handbook for UN Staff, sdd, tr.3. Trong tai liệu này, ba đặc diém tinh khơng thể</small>
<small>chia cat, tính liên hệ và phụ thuộc được khảo sat chung, tuy nhiên cách giải thích cũng tương tự như trên.Cũng xem Freequently asked questions on a human rights-based approach to development cooperation, sdd,tr.8.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền tham gia vào quản lý đất nước... có thể được thực hiện tốt. Đối với những người dân nghèo đói hay mù chữ, những qun chính tri, dan sự này thực sự khơng mang lại ý nghĩa gì với ho. Mức độ thụ hưởng các quyền và tự do chính trị và dân sự chắc chắn sẽ bị tốn hai, bị sút giảm nghiêm trọng trong điều kiện kinh tế — xã hội như vậy. Chính vì vậy, bảo đảm tốt quyền dân sự, chính trị sẽ thúc day sự thụ hưởng các quyền kinh
<small>LỆ ~ As cá Lá x P 18tê, xã hội, văn hóa và ngược lại ”.</small>
Do vậy, chỉ có thể thực sự thành công trong việc bảo đảm quyền con người khi chúng được tiễn hành một cách toàn diện và tổng thể chú trọng thực thi đầy đủ các quyền, không thé bao đảm riêng quyền con người này mà không chú ý tới các quyền khác.
1.2 Nhân quyền — Đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp
1.2.1 Nhân quyên là đối twong điều chỉnh cơ bản của Hién pháp
Quyền con người có nguồn gốc tự nhiên hay do pháp luật quy định? Day là van đề gây tranh cãi từ thời Cận dai cho đến nay. Về van dé này, có hai trường phái trái ngược nhau. Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights) — với các tác giả tiêu biểu như Zeno (333-264 TCN), Thomas Hobbes (1588-1679), Thomas Paine (1731-1809)... cho rằng nhân quyền là những gi bam sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng, chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại. Do đó, các quyền con người khơng phụ thuộc vào phong tục tập qn, truyền thống văn hóa hay ý chí của bat cứ cá nhân, giai cấp, tang lớp, t6 chức, cộng đồng hay nhà nước nào và không một chủ thé nào, ké cả nhà nước có thê ban phát hay tước bỏ các quyền <small>con người.</small>
Ngược lại, những người theo học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights) — mà tiêu biểu là các tác giả như Edmund Burke (1729-1797), Jeremy bentham (1749-1832)... cho rằng các quyền con người không phải là những gi bam sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước quy định
<small>*® Đại học Quốc gia Hà Nội — Khoa Luật (2009), Giáo trinh lý luận và pháp luật về quyền con người, nhà</small>
<small>xt bản Chính trị qc gia, Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">trong pháp luật. Như vậy, theo học thuyết này, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời gian hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và những yếu tố phong tục, tập quán, truyền thống văn <small>hóa... của từng xã hội.</small>
Cho đến nay, cuộc tranh luận về tính đúng đắn của hai học thuyết ké trên vẫn còn tiếp tục. Việc phân định tính chất đúng, sai, hợp lý hay khơng hợp lý của hai học thuyết này là không đơn giản do chúng liên quan đến phạm vi rộng lớn các van đề triết học, chính trị, xã hội, đạo đức, pháp lý... Mặc dù vậy, dường như quan điểm cực đoan phủ nhận hoàn toàn bất cứ học thuyết nào đều không phù hợp, bởi lẽ trong khi về hình thức, hầu hết các văn kiện pháp luật của các quốc gia đều thể hiện các quyền con người là các quyền pháp lý, thì trong Tun ngơn tồn thế giới về nhân quyền năm 1948, một số văn kiện pháp luật và văn kiện chính trị pháp lý ở một số quốc gia, nhân quyền được khang định một cách rõ ràng là các quyền tự nhiên, vốn có và khơng thé chuyền nhượng được của các cá nhân?
Mặc dù thừa nhận quyền con người là các quyền tự nhiên và vốn có nhưng Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người, tại Điều 29, van khang định quyền và tự do của con người chỉ có thé được thực hiện và bảo vệ khi được pháp luật ghi nhận. Và để các quyền con người được tuân thủ và thực thi trong thực tế, thì các bản tuyên ngôn và điều ước quốc tế phổ biến van chưa đủ dé đảm bảo mà các quyền đó cịn phải được ghi nhận trong hệ thơng pháp luật tại từng quốc gia. Hiện nay đại đa số các quốc gia đều thể hiện quyền con người là các quyền pháp lý trong các văn bản pháp luật của mình. Tất nhiên, quyền con người khơng đơn giản chỉ là liệt kê con người có những quyền này, quyền kia mà cịn phải có những ngun tắc, biện pháp, chế định bảo đảm thực hiện và bảo vệ những quyền con người đó trong thực tế. Bên cạnh sự thé hiện quyền con người một cách đầy đủ, rõ ràng, mang tính khả thi
<small>5m un ngơn tồn thể giới về nhân quyên (đoạn 1, Lời nói đầu) nêu rằng: ... thừa nhận phẩm giá vốn có và</small>
các quyền bình dang và không thé tác roi của mọi thành viên trong gia đình nhân loại. Ở góc độ quốc gia,
<small>Tun ngon Độc lập của Hop chủng quốc Hoa Kỳ (1776) nêu rang: ... mọi người sinh ra đều có quyên bình</small> đăng. Tạo hoa ban cho họ những qun khơng ai có thé xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự
<small>do và quyền mưu cầu hạnh phúc... Những tuyên bố này về sau được tái khang định trong bản Tuyên ngôn</small>
<small>Dân quyền và Nhân quyên 1789 của nước Pháp và bản Tuyên ngôn Độc lập 1945 của Việt Nam</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">thì điều quan trọng của những biện pháp và chế định bảo đảm cho nhân quyền là phải mang tính hiệu quả khi có sự xâm phạm từ bất kỳ chủ thể nào, bao <small>gôm cả các cơ quan quyên lực nhà nước hoặc các chủ thê phi nhà nước khác.</small>
Như đã nêu ở trên, những quyền mà con người đang thụ hưởng, những nhu cầu tự nhiên, vốn có của con người đều là những quyền đã được pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật, được ghi nhận trong hệ thống pháp luật của quốc gia, thơng qua đó trở thành các quy tắc, chuẩn mực ứng xử
chung, mang tính bắt buộc, được xã hội thừa nhận, bảo vệ và thống nhất áp
dụng cho mọi chủ thé. Hay có thé nói, các quyền và tự do của con người
<small>không phải là do nhà nước ban phát cho cơng dân của mình hoặc nhà nước có</small>
quyên thu hồi những quyền này mà đó là các quyền tự nhiên, bam sinh, vốn
<small>có của con người khi sinh ra với tư cách là người và chúng được bảo đảm</small>
thực hiện bằng các quy định của hệ thống pháp luật.
Các quyền tự nhiên của con người không phải được mặc định áp dụng
<small>mà chỉ khi được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý mới thực sự trở thành</small>
những quyền con người với day đủ các tính chất của nó và được bảo đảm các giá trị hiện thực. Đề đảm bảo các giá tri nay, ngoài việc nhân mạnh những nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ nhân quyền của các cơ quan nhà nước có thâm quyền, pháp luật có những biện pháp chế tài ngăn ngừa và trừng trị bất cứ chủ thể nào thực hiện những hành động hoặc không hành động xâm hại đến nhân quyền đã được ghi nhận. Nhờ pháp luật mang tính cưỡng chế và là hệ thống các quy tắc xử sự chung, con người mới có thể thực hiện và bảo vệ quyền con người của chính mình, bình đăng với những người khác về mặt tư cách chủ thê.
Trên thế giới, trong lịch sử phát triển và sứ mệnh của mình, Hiến pháp đã được nhiều quốc gia ban hành và ngày càng hoàn thiện, đã khang định được vai trị và vị trí của nó trong hệ thống pháp luật. Bên cạnh những quy
định về chế độ chính trị, cơ cấu tổ chức và hoạt động của chính qun, Hiến
pháp cịn có những quy định về quyền con người. Cùng với sự phát triển của
<small>xã hội, bên cạnh việc ghi nhận và liệt kê các quyên con người, Hiên pháp của</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><small>nhiêu quôc gia đã đưa ra những cơ chê và biện pháp bảo đảm thực hiện vàbảo về các quyên con người đã được ghi nhận đó.</small>
Trong hệ thống pháp luật, Hiến pháp được xem là đạo luật cơ bản, là nền tảng pháp lý cho tất cả các văn bản pháp luật được nhà nước ban hành, có giá
trị và vi trí pháp lý cao nhất, quy định cơ cau tô chức, chức năng, nhiệm vụ và
thâm quyén của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, cũng như ghi nhận địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội, các quyền và tự do của <small>công dân, các biện pháp bảo đảm thực hiện và bảo vệ các qun đó.</small>
Ta có thé thấy, chính vai trị, giá trị của quyền con người, quyền cơng dân mà trong tư duy chính tri của nhân loại, van đề quyền con người, quyền công dân trở thành một nội dung chính của lịch sử lập hiến. Luật về các quyền của Anh sau Cách mạng 1689, Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp của Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, hiến pháp của tất cả các nước, dù ở chế độ xã hội nào (tư bản, xã hội chủ nghĩa, các nước đang phát triển) đều có chế định quyền con người, quyền cơng dân. Đó là nội dung cơ bản nhất của mỗi hiến pháp, nội dung quan trọng đến mức nếu không có chế định quyền con người, quyền cơng dân, thì cũng khơng thé có bản hiến pháp, nội dung đó chi phối kết cấu của bản hiến pháp, chế định quyền công dân thương được đặt lên hàng đầu trong hiến pháp của nhiều nước”
Như vậy, dé được tuân thủ, thực thi một cách day đủ, toàn diện, là những quyền pháp lý, trở thành những quy tắc ứng xử cơ bản trong xã hội, và được pháp luật bảo vệ thì chỉ khi các quyên và tự do của con người được ghi nhận trong Hiến pháp — đạo luật cơ bản và nền tảng cho các văn bản luật. Chính vì vậy, nhân qun là đối tượng điều chỉnh cơ bản của Hiến pháp.
1.2.2. Cách thức, phạm vi điều chỉnh nhân quyên trong Hiến pháp Về cách thức điều chỉnh nhân quyên trong Hiễn pháp
<small>*° Hoàng Văn Hảo: “Hiến pháp Việt Nam và van dé quyén con người, quyên công dan” in trong ¿ Hiến pháp,pháp luật và quyển con người — Kinh nghiện Việt Nam và Thụy điển, Trung tâm nghiên cứu quyền con người</small>
<small>— Học viện Chính trị qc gia Hồ Chí Minh và Viện raoul Wallenberg về Quyền con người và Luật nhân đạo</small>
<small>— Đại học Lund — Thụy Điển, Hà Nội, 2001, tr.148</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Trên thế giới, có ba cách quy định về quyền con người trong hiến pháp
<small>được trình bày dưới đây:</small>
Cách thứ nhất là, nhân quyền được quy định trong một văn bản riêng gọi là bản Tuyên ngôn nhân quyền của các nhà nước tư bản phát triển, như Luật về các quyền năm 1689 của Anh và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của Pháp. Mặc dù khơng được năm trong nội dung chính của bản văn hiến pháp nhưng đều được thừa nhận là một phần của nội dung Hiến pháp. Luật về các quyền năm 1689 của Anh (the Bill of Rights) là một nguồn quan trong của Hiến pháp bat thành văn của nước Anh.
Cách thứ hai là nhân quyền được quy định thành chương điều trong nội dung của Hiến pháp. Ví dụ như Chương V của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, được sửa đổi năm 2013, tại Chương II của Hiến pháp quy định
<small>quyên con người, quyên và nghĩa vụ cơ bản của công dân.</small>
Cách thứ ba là nhân quyền không được quy định thành bản Tuyên ngôn riêng rẽ, mà cũng khơng năm trong nội dung chính của Hiến pháp, mà nằm trong bản phụ chương của Hiến pháp, như 10 tu chính án của Hoa Kỳ. Bản được thơng qua năm 1787 là bản chính văn, và bao gồm 10 tu chính án được thơng qua năm 1789 là bản phụ văn, và được gọi chung là Hiến pháp Hoa Kỳ được tất cả các tiêu bang thông qua vào năm 1791.
Dù quy định theo cách thức nào thì nhân quyền vẫn là một trong những nội dung quan trọng, không thể thiếu được trong bản văn Hiến pháp được ban hành bởi các quốc gia trên thế giới ngày nay. Những nội dung cơ bản của quyền con người, như quyền tự do chính trị, (quyền bầu cử, ứng cử...) quyền tự do cá nhân (tự do ngơn luận, tín ngưỡng, cư trú, quyền bất khả xâm phạm nơi cu trú, xâm phạm thân thé, quyền không bị bắt giam, khám xét một cách
<small>vô lý và không tuân theo những thủ tục đã được quy định trước của pháp</small>
luật...) bằng một trong các cách thức quy định vừa nêu ở trên, có thể được thể hiện trong bản chính văn hoặc phụ văn của Hiến pháp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Về phạm vi điều chỉnh nhân quyền trong Hiến pháp
Theo các cách thức điều chỉnh như vừa trình bày ở trên, có thê thấy rằng khơng phải tất cả các bản Hiến pháp cũng đều điều chỉnh toàn bộ các quyền và tự do cơ bản của con người, có thé là bản chính văn Hiến pháp, cũng có thé là bản phụ văn — các Tu chính án. Do đó, căn cứ theo phạm vi điều chỉnh nhân quyên, Hiến pháp có thé được chia thành hai loại, Hiến pháp có phạm vi điều chỉnh nhân quyền hẹp và Hiến pháp có phạm vi điều chỉnh nhân quyền
Hiến pháp có phạm vì điều chỉnh hẹp thường chưa đựng tất ít các quy định về quyền con người hoặc chỉ hạn chế trong phạm vi các quyền cơ bản của con người, khơng có những điều khoản về các quyền con người trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Đặc trưng của loại Hiến pháp này là Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 và 27 Tu chính án có hiệu lực pháp lý cho đến ngày nay hoặc Hiến pháp không thành văn của Liên hiệp Vương quốc Anh.
Cịn Hiến pháp có phạm vì diéu chỉnh nhân quyển rộng thường là những hiến pháp được ra đời từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ I và đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, điển hình như Hiến pháp của Đức, Áo, Pháp... Phạm vi điều chỉnh nhân quyền trong loại Hiến pháp này được mở rộng, từ các quyền và tự do cơ bản của con người như các quyền chính trị, dân sự cho đến các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội. Hiến pháp loại này ghi nhận nhiều quyên tiến bộ do nhân loại đấu tranh và giành được.
Tuy phân chia thành hai loại như vậy không đồng nghĩa rang Hiến pháp có phạm vi điều chỉnh hẹp sẽ hạn chế nhân quyền trong phạm vi các quyền cơ bản của con người. Các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội của con người vẫn được ghi nhận và bảo đảm thực hiện bởi vì bên cạnh Hiến pháp còn ton tai nhiều van ban pháp luật khác nhau điều chỉnh quyền con người trong nhiều
<small>lĩnh vực khác nhau.</small>
Do đó, sự khác biệt trong phạm vi điều chỉnh hẹp — rộng về nhân quyền
<small>chang qua là do quan niệm về sứ mệnh của Hiên pháp ở môi thời kỳ là yêu tô</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">quyết định phạm vi đối tượng điều chỉnh của nó”. Trong thực tế, dù tại quốc gia có Hiến pháp có phạm vi điều chỉnh nhân quyền hẹp hay rộng thì quyền con người được thừa nhận ngày càng đầy đủ, toàn diện hơn và các chế định bảo đảm thực thi và bảo vệ các quyền con người này càng được quy định chặt
<small>chẽ, hiệu quả hơn.</small>
<small>** Đào Trí Úc : “Hiến pháp và quy trình sửa đổi Hiến pháp”, Hội thảo Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, Hà</small>
<small>Nội ,2010, tr.11</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>CHƯƠNG II</small>
HIẾN PHÁP MOT SO QUOC GIA VOI VAN DE NHÂN QUYEN 2.1 Hiến pháp Hoa Kỳ
Nhắc đến Hiến pháp Hoa Kỳ, ta thấy đó là luật của quốc gia. Hiến pháp an định thê thức tô chức chính quyền, an định các quyền và sự tự do cho công dân. Hién pháp cũng nêu rõ các mục đích của chính quyền, các phương cách và đường lối thực hiện dé đạt mục dich, do Hién pháp đề ra. Trải qua hai trắm năm từ ngày soạn thảo, Hiến Pháp Hoa Kỳ vẫn nguyên vẹn tinh ròng, có chăng là thêm bớt số tu chính án.
Đây là bản hiến pháp đầu tiên của thé giới được soạn thảo ngày 19 tháng 9 năm 1787 dựa trên tư tưởng tam quyền phân lập giữa ba nhánh lập pháp (Nghị viện”), hành pháp (Tổng thống), tư pháp (Tòa án) do Montesquieu (1689-1775), một triết gia người Pháp đề sướng. Năm 1787, hội nghị quốc gia tổ chức tại Philadelphia với mục đích xét duyệt Hiến Chương. Dé Hiến pháp có thể trở thành luật thì cần sự phê chuẩn của chín Tiểu Bang, chỉ vài tháng sau các cuộc hội nghị tại mười ba tiêu bang đầu tiên, bản văn Hiến pháp đã được ký kết và phê chuẩn. Tiêu bang New Hamshire là tiểu bang thứ chín phê chuẩn đã làm cho bản Hiến pháp có hiệu lực vào ngày 21 tháng 6 năm 1788.
Bởi những nhà lập hiến đều là những nhân tài ưu tú bao gồm nhiều
<small>người như George Washington, James Madison, Alexander Hamilton va</small>
Benjamin Franklin..., đại điện của mười ba tiểu bang đến Philadelphia dự họp
với một tinh thần bình đăng, một điều mà nhiều nước khác chưa thực hiện
được, đã làm nên một bản Hiến pháp Hoa Kỳ thành công. Thủ tướng Anh William Ewart Gladstone (1809-1898) đã miêu tả bản Hiến pháp này là “tdc phẩm tuyệt voi nhất từng được sản sinh ra vào một thời điềm nhất định bởi trí
<small>óc và mục dich cua con người ”.</small>
<small>Ngay sau khi hội nghị tại Phialdelphia tạm dừng, Jame Madison gửi bảnsao Hiên pháp mới của hoa Kỳ cho người bạn và là cô vân, Thomas Jefferson,?* Nghị viện là cơ quan lập pháp tương đương với Quốc hội ở một số quốc gia khác.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">sau đó là Dai sứ cua Hoa Ky tại Pháp, Jefferson cho rằng nó có một thiếu sót lớn vì thiếu một đạo luật về quyền con người. Ơng giải thích rằng “Viéc liệt kê các qun này là điều mà người dân có qun địi hỏi bat cứ một chính phủ nào trên thé giới ”.
Bình luận của Jefferson khơng làm ngạc nhiên nhiều người tham gia
soạn thảo Hiến pháp. Trong tâm trí của họ, họ ln cho rằng, tồn văn kiện đó
đã hàm chứa một đạo luật về quyền con người, vì nó hạn chế một cách nghiêm ngặt quyền hạn của chính phủ mới. Nhưng Jefferson lại không tin tưởng như vậy, ông đã nghĩ răng trong quá khứ, chính phủ thường xuyên can thiệp vào những lĩnh vực mà họ khơng có quyền hành động. Đừng vội tin vào những hạn chế bề ngoài, Jefferson hối thúc, hãy làm rõ những quyền của người dân dé khơng có một chính phủ nào có quyền động chạm đến họ.
Sự lo lắng của Jefferson là có cơ sở khi nhiều người cho rằng Hiến pháp không bảo đảm đủ quyền cá nhân, không bảo vệ sự tự do cá nhân hay ngăn ngừa những điều bat cơng do chính qun quốc gia tạo ra. Sự chống đối mạnh mẽ có tơ chức chống lại Hién pháp đã được hình thành ở nhiều tiêu bang. Các tác giả soạn thảo Hiến pháp đã không thé chắc chan răng Hiến pháp được chấp thuận rộng rãi cho đến khi những bang quan trọng là New York và Virginia phê chuẩn nó. Tuy Hiến pháp Hoa Kỳ chứa đựng sự bảo đảm cá nhân nhưng dù sao cũng đã có nhiều tiểu bang từ chối và khơng thơng qua
<small>văn kiện này vì khơng có một đạo luật đặc biệt vê nhân quyên.</small>
Những người theo chủ nghĩa Liên bang có lẽ chăng bao giờ có được sự phê chuẩn ở một số bang quan trọng nếu như họ không cam kết bổ sung các biện pháp bảo vệ và bảo đảm quyên tự do cá nhân vào Hiến pháp Liên bang. Hầu hết người Mỹ tin rằng không hiến pháp nào có thể coi là hồn chỉnh nếu <small>khơng có một tun bơ vê qun của tat cả người dân.</small>
<small>George Mason của bang Virginia chịu trách nhiện soạn thảo Tuyên ngôn</small> Nhân quyên đầu tiên và nổi tiếng nhất của Mỹ, với tên gọi là Tuyên ngôn các Quyền cơng dân bang Virginia năm 1776. Ơng này và Patrick Henry có thé đã ngăn cản việc phê chuẩn Hiến pháp ở Virginia nếu như những người theo chủ
<small>nghĩa Liên bang không đông ý với những yêu câu sửa đơi của họ. Việc địi</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">hỏi phải có một tun ngơn nhân quyền là vũ khí mạnh mẽ nhất của những người chống chế độ Liên bang. Patrick Henry là một trong những người chỉ trích bản Hiến pháp kịch liệt nhất khi liệt kê những điểm không rõ ràng và việc thiếu vắng những công cụ bảo vệ cần thiết chống lại sự chuyên chế của chính quyền. Patrick Henry đã nhao bang chủ trương cân bang và đối trong của những người theo chủ nghĩa Liên bang rằng “Những trò cân bằng và đối trọng giả tạo và hào nhống kia, cái trị bước đi trên dây day mạo hiểm, những vụ huyên náo âm ï, những toan tính kỳ quặc về kiểm sốt và đổi trọng đó để làm gì?” trong hội nghị phê chuẩn của Virginia, nó khơng thé thay thé cho một bản ghi nhận quyền con người trong Hiến pháp. Phe chống liên bang địi hỏi một bản Hiến pháp cơ đọng hơn, chắc chan hơn, đầy đủ hơn và có thé nêu bật được quyền con người của dân chúng và những giới hạn quyền lực của chính quyên.
Chính khách Richard Henry Lee cũng thất vọng về sự thiếu văng những điều khoản bảo vệ “nhitng quyền thiết yếu của con người mà khơng có tự do thì khơng thể tôn tại”. Richard Henry Lee tranh cãi răng việc chuyển một chính quyền cũ thành chính quyên mới mà thiếu một tun ngơn nhân quyền như vậy thì chỉ là việc “ánh vỏ dua gặp vỏ dừa”. Dù nhiều chính khách đương thời ủng hộ việc cần thiết của tuyên ngơn nhân qun thì ngược lại, Wilson và Madison, những lãnh tụ của phe Liên bang vẫn khăng khăng giữ quan điểm rằng một tuyên ngôn nhân quyền là không cần thiết, vì mọi quyền lực khơng được trao cho chính quyên đều thuộc về dan chúng.
Nhưng đến mùa thu năm 1788, Madison thay đổi niềm tin về Tuyên ngôn nhân quyên, ông cho rang bản Tuyên ngôn nhân quyên này có nhiều tác dụng khác. Dẫn đến, ngày 17 tháng 10, ông cho rằng “nhitng châm ngôn cơ bản về chỉnh quyên tự do là một nên tảng tốt để khơi dậy ý thức của cộng dong” chéng lại sự đàn áp tiềm tàng và sẽ “cân bằng được những như cau lợi ích và tình cảm của dân chúng”. Sự ủng hộ của Madison đối với tuyên ngôn nhân quyền trong Hiến pháp chính là điều cực kỳ quan trọng. Tại cuộc họp đầu tiên, James Madison đã lãnh đạo Nghị Viện mới đề xuất mười lăm tu <small>chính án bơ sung sửa đơi, và Nghị viện đã châp nhận mười hai tu chính án</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">trong số đó để chuyên cho cơ quan lập pháp và các bang phê chuẩn theo quy trình sửa đổi được đề ra trong Điều 5 Hiến pháp. Đến ngày 15/12/1791, các cơ quan lập pháp cần thiết ở ba phan tư số bang đã phê chuẩn mười tu chính án bổ sung sửa đổi. Mười tu chính án này được gọi là “Tun ngơn nhân
Các tu chính án này có tác dụng hạn chế qun lực của chính quyền liên bang, giới hạn khả năng xâm phạm của chính phủ đối với các quyền và tự do của từng cá nhân, những người sinh sống và khách trên lãnh thổ Hoa Kỳ.
Các quyền được liệt kê và đảm bảo trong các tu chính án này bao gồm các quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tự do hội họp và tôn giáo. Đây là những quyền bat khả xâm phạm, hoặc các quyền tự do cá nhân khác (tự do kiến nghị, quyền khơng bị lục sốt và tịch thu vơ lý, hình phạt tàn bạo và bất thường, tự buộc tội do bị ép buộc...). Không phụ thuộc vào sự thay đơi chính qun theo từng nhiệm kỳ, các quyên này tồn tại một cách độc lập, không bị hủy bỏ một cách tùy tiện bởi một đạo luật hay một quyết định nào đó của
<small>Chính phủ.</small>
Xun suốt tồn bộ q trình đấu tranh kịch liệt giữa những người theo chủ nghĩa liên bang với những người chống chế độ Liên bang, có thé thấy, Tuyên ngôn nhân quyền là một thỏa hiệp quan trong làm hài lòng và thỏa mãn được những điều kiện của hai phe. Điều này chứng minh một nhận định không thể chối cãi, đó là, mặc dù khơng được quy định thành một bản tuyên ngôn riêng rẽ, cũng không nằm trong nội dung chính của Hiến pháp, mà được quy định trong mười tu chính án nhưng quyền con người và sự đảm bảo nhân quyên trong thực tế vẫn là đối tượng điều chỉnh căn bản, là một trong những nội dung quan trọng, không thể thiếu được trong bản văn Hiến pháp, là mục tiêu hướng tới các phe phái chính tri cho dù cịn tồn tại những sự bất đồng quan điểm về chế độ Liên bang.
Điểm đáng nói trong Tun ngơn nhân quyền là khoảng gần một nửa các tu chính án có các quy định nhằm bảo vệ các quyền của các nghi can hoặc bị
<small>cáo. Đó là những quyên của bị can, bi cáo được bảo vệ trong q trình truy tơ,</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">xét xử, được xử công bang, không tự buộc tội, không bị xử phạt tan bạo hay bất thường và không bị buộc tội hai lần về cùng một tội, cụ thể:
- Tu chính thứ IV của Hiến pháp yêu cầu cần phải có những bảo đảm đối với việc truy tố và bắt giữ;
- Tu chính thứ V của Hiến pháp yêu cầu cáo trạng phải do một bơi thâm đồn đưa ra, cấm đe dọa đối với bị cáo trong tiễn trình tố tụng, bảo vệ họ khơng bị buộc phải làm chứng chống lại chính mình, và bảo đảm luật pháp phải được thực thi một cách thích hợp, cơng bằng:
- Tu chính thứ VI của Hiến pháp bảo đảm cho bị cáo quyền được biết tội danh, được đối chat với nhân chứng, quyền được trợ giúp pháp ly;
- Tu chính thứ VIII của Hiến pháp bảo đảm ngay cả khi một người bị kết
<small>tội sau một phiên tịa cơng minh thì sự trừng phạt cũng phải tương ứng với tội</small>
danh của người đó, không áp đặt những khoản tiền phạt quá mức và khơng áp
<small>dụng những hình phạt dã man và khác thường.</small>
Tun ngôn nhân quyền cũng hạn chế quyền của Quốc hội băng cách cam Quốc hội ban hành luật về thành lập tơn giáo và cấm chính qun liên bang được phép tước quyền sống, quyền tự do hay quyền tài sản của bất cứ cá nhân nào mà không thông qua một số trình tự, thủ tục tố tụng bắt buộc do luật
Sự hạn chế quyền lực nêu trên đối với các cơ quan nhà nước thể hiện sự tư duy của các nhà lập hiến rằng: quyền con người, khơng phải là một sự ban phát từ phía cơ quan nhà nước này, mà bản thân chúng là các quyên tự nhiên, vốn có của con người. Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Thomas Jefferson đã đưa ra một nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành lập Chính phủ. Chính phủ khơng ban phát các quyền tự do cơ bản mà để bảo vệ các quyền đó của người dân — các quyền ma mọi cá nhân hiển nhiên được thụ hưởng do có sự tồn tại của các thé mình trên thế giới này. Việc ngăn cam Quốc hội ban hành luật về thành lập tơn giáo khơng mang mục đích ban phát quyền tự do tín
<small>ngưỡng cá nhân cho người dân mà mang tính phịng ngừa sự can thiệp củaQc hội vào các qun tự do này.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Điều khoản Tu chính đầu tiên sửa đôi, bố sung Hiến pháp đã khang định các quyền tự do của cá nhân bao gồm các quyền tự do ngơn luận, tự do tín ngưỡng và qun hội hop trong ơn hịa của người dân là những quyền không thể bị tước bỏ. Những quyền này tồn tại khơng phụ thuộc vào chính phủ hay Quốc hội, không bị luật pháp bãi bỏ và không phụ thuộc vào ý muốn nhất thời của đa số cử tri nào đó. Tuy Hiến pháp Hoa Kỳ đã dành cho người dân rất nhiều quyền tự do về tín ngưỡng, tự do ngơn luận, hội họp, biéu tình, mít tinh... nhưng vẫn nhắn mạnh chỉ được tự do trong trong khuôn khổ pháp luật, nghĩa là tôn trọng tự do của người khác và giữ gìn ơn định xã hội. Vượt q
<small>giới hạn đó là vơ chính phủ, không phải là tự do, và sẽ bị pháp luật ngăn chặn.</small>
Chính quyền liên bang được tạo ra dé bảo vệ, che chở quyền tự do của mỗi cá nhân trong xã hội quốc gia đó, cũng như phải có nghĩa vụ ngăn chặn sự vi phạm những quyền đó từ phía các chủ thể khác, tức là nghĩa vụ kết tội con người. Như vậy, chính quyền liên bang cùng một lúc thực hiện hai vai trò: bảo vệ con người và bắt giam tội phạm nhưng không được bắt oan người vô tội. Cho nên việc bắt giam và xét xử một con người nhất thiết phải được tiến hành theo những trình tự, thủ tục tố tụng đã được pháp luật quy định trước. Mục tiêu hướng tới của quy định này cũng là để bảo vệ nhân quyền của các bi can, bi cáo trong quá trình tố tụng, giảm thiểu những nguy cơ làm oan
<small>người vô t01.</small>
Như vậy, dé đảm bảo các quyên tự do cá nhân thì cần phải có những biện pháp bảo đảm thực hiện và những biện pháp bảo vệ các quyền đó một cách hiệu quả. Điều khoản Tu chính thứ V của Hiến pháp Hoa Kỳ đã ra đời cụ thé hóa những mục tiêu đó. Theo quy định của Tu chính này, nhitng quyên sống, quyên tự do hoặc quyền sở hữu tài sản của bất cứ một cá nhân nào không thé bị tước đoạt một cách dé dàng bởi bat kỳ một chủ thé nào đó nếu khơng tiến hành một tiến trình tơ tụng theo quy định của pháp luật, và bất kỳ một tài sản tu hữu nào nếu bị chỉnh quyên trưng dụng vào mục đích cơng cộng thì chủ sở hữu tài sản bị trưng dụng đó phải được bồi thường một cách
<small>thỏa dang.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">Điều khoản quy định về tiến trình tố tụng đúng luật, tun bố rằng khơng một người nào bị tước đi cuộc sống, tự do hay quyền sở hữu tài sản mà không phải trải qua “nội tiến trình to tụng đúng theo quy định của pháp luật”, là một trong những điều khoản quan trọng nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ, là sự bảo vệ quan trọng nhất không chỉ đối với các quyền tài sản mà cả đối với
<small>quyên tự do của từng cá nhân.</small>
Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã áp dụng điều khoản về quy trình tố tụng đúng luật trong nhiều tình huống khác nhau. Cho đến giữa thế kỷ XIX, nhiều tòa án tiêu bang và liên bang đã sử dụng điều khoản về quy trình t6 tụng đúng dé chống lại các điều luật ngăn cản nhân dân sử dụng tài sản của họ theo ý muốn. Ngày nay, tòa án các cấp của nước Mỹ tiếp tục sử dụng điều khoản về quy trình tổ tung đúng pháp luật dé chống lại các điều luật can thiệp vào quyền tự
<small>do cá nhân.</small>
Điều sửa đổi này cũng đã nghiêm cam chính phủ lấy tài sản của cá nhân kế cả vì mục đích cơng mà khơng có khoản đền bù xứng đáng. Quyền lấy tài sản cá nhân sử dụng cho mục đích cơng của chính phủ được gọi là quyền trưng dụng hoặc quyền sung công tài sản cá nhân. Chính phủ sử dụng nó nhằm địi đất dé xây dựng hạ tang giao thông, trường hoc và các cơ sở hạ tang công cộng khác, tuy nhiên họ phải trả cho chủ sở hữu đất một khoản đền bù cơng bằng.
Điều khoản Tu chính thứ VI quy định về quyền được xét xử công băng hay nói một cách khác là quyền được cơng băng trước pháp luật của mọi chủ thé trong xã hội. “Tat cả mọi người sinh ra đều có qun bình đẳng "ngay từ đầu, nước My đã coi quyền bình dang như là một quyền tự nhiên và tối
<small>AK A ` -2</small>
thượng nhất của con người”.
Tuân thủ theo đúng nguyên tắc cơ bản đó, bất kỳ cá nhân nào cũng được pháp luật bảo vệ ngang nhau trước tòa, cho dù giàu hay nghèo, khác nhau về màu da, sắc tộc hay tơn giáo. Khơng ai có thé đảm bảo rang, mọi người sinh
<small>ra đêu được cuộc sông xã hội đôi xử một cách công băng, bởi lẽ con người</small>
<small>*? Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ 1776</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">sinh ra đã có một sự bất bình đăng một cách tự nhiên. Nhưng xã hội và cuộc sống đòi hỏi chính quyền phải có sự giải quyết một cách cơng bang cho tat cả mọi người. Dù frong bất cứ hồn cảnh nào, nhà nước cũng khơng được áp đặt thêm những bat bình dang giữa các con người, mà nhà nước buộc phải cư
<small>2 ế ế x A A re Ẩ 2 * `.zz24xu dung mức và đông déu với tát cả mọi người `”.</small>
<small>Một người bị buộc tội phải được xét xử cơng khai và thích hợp bởi một</small>
bồi thâm đồn khách quan, khơng có thành kiến. u cầu có một phiên tịa cơng khai và nhanh chóng nảy sinh từ một thực tế là một vài vụ án chính trị ở Anh đã bị trì hỗn trong nhiều năm và sau đó được tơ chức xét xử bí mật. Những người bị buộc tội phải được thơng báo về lời buộc tội chống lại họ và phải được phép gặp trực tiếp các nhân chứng chống lại họ. Nếu khơng, những người vơ tội có thể bị trừng phạt nếu tòa án cho phép sử dụng lời khai của các nhân chứng vô danh làm bằng chứng. Điều sửa đổi này đảm bảo răng các cá nhân bị xét xử có thể gặp mặt và kiểm tra chéo những người buộc tội họ. Cuối cùng, những người bị buộc tội phải có một luật sư bảo vệ cho họ nếu họ mong muốn như vậy. Nếu một bị cáo khơng thể th luật sư thì Tịa án Tối cao quy
<small>định phải chỉ định một luật sư đại diện cho người bị buộc tội đó.</small>
Mặc dù Tun ngơn nhân quyền có phạm vi điều chỉnh nhân quyền hẹp, chứa đựng rất ít các quy định về quyền con người hoặc chỉ hạn chế trong phạm vi các quyền cơ bản của con người như là những quyền tự do cá nhân như tự do ngơn luận, tín ngưỡng, các quyên về bất khả xâm phạm nơi cư trú, quyền không bị bắt giam, khám xét một cách vô lý và không tuân theo những
<small>thủ tục đã được quy định của pháp luật..., hồn tồn khơng có những quy</small>
định hoặc những điều khoản liệt kê các quyền con người trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Nhưng điều này hồn tồn khơng có nghĩa là pháp luật thừa nhận các quyền không được liệt kê này hoặc các quyền đã được liệt kê trong mười Tu chính án có địa vị pháp lý cao hơn các quyền này, chiếu theo quy định tại điều khoản Tu chính thứ IX: “Việc liệt kê một số quyên trong Hiến
<small>** John P.Frank, Các mẫu chính quyền dân chủ Hiệp hội các giáo giới Hoa Kỳ, Tô chức giáo dục dé phụng</small>
<small>sự dân chủ Quôc tê, 1905.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">pháp không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp những quyên khác của người
<small>A +ddân ”.</small>
Trước khi có điều khoản tu chính án này, đã có nhiều người lo sợ rằng việc liệt kê các quyền con người trong Tuyên ngôn Nhân quyền sẽ được giải thích theo chiều hướng là các quyền tự do khác của con người không được liệt kê sẽ không được pháp luật Hoa Kỳ bảo vệ. Không một nhà lập hiến nào muốn Hiến pháp được hiểu hoặc được giải thích theo nhiều hướng khác nhau, dẫn đến hậu quả pháp lý có thé đối lập nhau. Do đó, điều khoản sửa đổi, bổ sung Hiến pháp này đã được thông qua nhằm ngăn chặn những giải thích hoặc nhận thức sai lầm như vậy, phịng ngừa sự áp dụng pháp luật khơng thong nhất, thậm chí bat đồng đối với các quyền con người không được liệt kê trong Hiến pháp.
Hiến pháp Hoa Kỳ và bản phụ văn của nó — Tun ngơn nhân quyền là bản văn hiến pháp lâu đời nhất và nổi tiếng nhất, là mơ hình tham khảo của nhiều quốc gia khi xây dựng hiến pháp. Mặc dù tồn tại nhiều dấu ấn của Hiến pháp Anh trong Hiến pháp Mỹ như hệ thống phân chia quyền lực, những giới hạn của quyền lực hành pháp, chế độ lưỡng viện, hệ thống tư pháp độc lập..., các tu chính án cũng mang những quy tắc bắt nguồn từ Luật dân quyền Anh, nhưng Hiến pháp Hoa Kỳ vẫn có những bản sắc riêng, đã hoạt động thành công và tạo nên sự ngưỡng mộ của thế giới. Nhiều quy tắc của Hiến pháp Hoa Kỳ phản ánh những đòi hỏi của bối cảnh mới khi các thuộc địa mới dành
được độc lập như hệ thống liên bang, chế độ tổng thong, chu quyén nhan dan
thay cho chủ quyền nghị viện... Tuy nhiên, đôi khi niềm tự hào quá đáng về chế độ chính trị ưu việt của mình tạo ra sự “kiêu ngạo Mỹ” và tâm lý muốn ép các dân tộc khác theo chế độ dan chủ Mỹ, từ đó gây ra mâu thuẫn, thậm chi
<small>chiên tranh với các nước khác, làm căng thăng tình hình thê giới ...</small>
2.2. Hiến pháp Cộng hòa Pháp
Sau biến cố phá Ngục Bastille vào ngày 14/7/1789, Quốc Hội đầu tiên <small>này đã làm các cơng việc đê thỏa mãn các địi hỏi của giới nơng dân. Một</small> nhóm nhỏ các đại biểu trong Quốc Hội đã chọn một buổi họp ban đêm, khi đó
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">nhiều đại biểu khác đã vắng mặt: đó là đêm ngày 4 tháng 8. Đêm này đánh
dấu sự bắt đầu của tinh thần bình đăng. Do sự xếp đặt trước, một số nhà quý
tộc cấp tiến đã đứng lên, tuyên bố từ bỏ đặc quyền săn bắn (banalité), từ bỏ đặc quyền bắt dân phải dùng cối xay, lò đốt của lãnh chúa và phải nộp thuế, từ bỏ các quyên lợi tại các tòa án thái ấp, các đặc quyền phong kiến và lãnh chúa. Tất cả các hình thức nơ lệ cá nhân đều bị tuyên bố bãi bỏ. Moi ưu tiên về miễn thuế và các đặc quyền khác bị chấm dứt. Các nông dân sẽ làm chủ đất đai và sẽ trả bồi thường cho chủ đất là giới quý tộc và tư sản giàu có. Như vậy, nhờ có cách mạng, giới nơng dân đã thốt khỏi các bốn phận đối với chủ đất địa phương và sau đó, họ cịn khơng trả bồi thường cho các chủ đất khiến cho về sau, vào năm 1793, trong một giai đoạn cấp tiễn của thời kỳ cách mạng, việc đòi trả bồi thường kê trên đã được nhắc lại. Quốc Hội đầu tiên của nước Pháp đã tuyên bố vào đêm ngày 4 tháng 8 rõ ràng rằng “chế độ phong kiến bị bãi bỏ" đồng thời đặt ra các nguyên tắc dùng cho nên trật tự mới.
Ngày 26 tháng § năm 1979, Quốc Hội đầu tiên đã thông qua bản Tuyên ngôn Nhân quyền va Dân quyền làm căn bản cho sự “tw do cơng bằng và tình
<small>huynh đệ”. Ban văn nay do Bá tước Emmanuel Sieyés biên soạn và đã được</small>
dùng làm Lời mở đầu của Hiến pháp của Pháp quốc.
Những người đại diện cho Nhân dân Pháp, được tô chức thành một Quốc Hội, tin rằng “sự (hiếu hiểu biết, hờ hững hoặc coi thường những quyền của con người chính là nguyên nhân duy nhất dân đến những tai họa của cộng dong”, đã quyết định xác lập — trong một tun ngơn chính thức — các quyền tự nhiên, không thé chuyên nhượng và bat khả xâm phạm của con người.
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp cũng nêu rõ “con người được sinh ra, được tự do và có qun bình dang”. Không chỉ người dân nước Pháp, không chỉ những người da trắng, khơng chỉ những tín đồ Cơ đốc giáo, không chỉ là đàn ông mà danh từ “người” ở đây muốn ám chỉ mọi thành viên trong cộng đồng lồi người. Nói cách khác, vào thời kỳ từ năm 1689 đến năm 1776, những quyền von được coi chỉ là thuộc về một dân tộc nào đó - vi dụ như những người Anh quốc tự do — nay đã được chuyển hóa thành nhân
</div>