Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học: Khởi kiện vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.01 MB, 79 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRAN THỊ LƯỢT

Chuyên ngành: Luật dan sự

Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HUONG DAN KHOA HỌC: TS. NGUYEN TRIEU DUONG

HA NOI -06/ 2014

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Em là Trần Thị Lượt, học viên lớp cao học dân sự khóa 20 — Khoa sau đại

<small>học — Trường Đại học luật Hà Nội xin cam đoan cơng trình nghiên cứu này là</small>

của chính tác giả, được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy giáo TS.

Nguyễn Triều Dương - Phó Bộ mơn Luật Tố tụng Dân sự, Khoa Luật Dân

<small>sự, Trường ĐH Luật Hà Nội.</small>

<small>Em xin chân thành cảm ơn! Tác giả</small>

Trần Thị Lượt

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới: Thay giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Triéu Dương đã trực tiếp hướng dẫn em, cùng các tác giả đã có những cơng trình nghiên cứu trước đây đã gián tiếp giúp em có nguồn tài liệu tham khảo dé hoàn thành luận văn này.

<small>Em xin cảm ơn các thay, cô đã quan tâm. Mọi nhận xét, góp y cua thay, cơ ln là những</small>

đóng góp bồ ích cho tác giả. Em xin chân thành cảm ơn!

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Tiêu đề Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 1. Tinh cấp thiết của dé tài 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2 3. Đối twong và phạm vi nghiên cứu của đề tài 2 4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3

<small>5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3</small>

6. Kết cấu của luận văn 5 CHUONG 1: MOT SO VAN DE LY LUAN VE KHOI KIEN VU AN DAN SU 6

1, 1. Khai niệm, đặc điểm và ÿ nghĩa khởi kiện của khởi kiện vụ an dân sự 6

<small>1.1.1. Khai niệm khởi kiện vụ án dan sự 6</small>

1.1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án dân sự Il 1.1.3. Y nghĩa của khởi kiện dân sự 13

<small>1.2. Cơ sở của khởi kiện vu an dân sự 151.2.1. Cơ sở lý luận 15</small>

1.2.2. Cơ sở thực tiễn 16 CHUONG 2: NỘI DUNG CAC QUY ĐỊNH CUA PHAP LUAT TO TUNG DAN SỰ VE KHOI KIEN VU AN DAN SU 23 2.1. Các chủ thể thực hiện việc khởi kiện 23 2.2. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự 26 2.2.1. Điều kiện về chủ thé khởi kiện vụ án dân sự 26 2.2.2. Vụ án được khởi kiện phải thuộc thẩm quyền của Tòa án 34 2.2.3. Sự việc chưa được giải quyết bang một ban án hoặc quyết định của co quan

<small>nhà nước có thâm quyên đã có hiệu lực pháp luật trừ trường hợp pháp luật có quyđịnh khác. 44</small>

2.2.4. Phải xuất trình kèm theo đơn các tải liệu, chứng cứ 45 2.2.5. Các điều kiện khác (Điều kiện do pháp luật nội dung quy định) 48

<small>2.3. Phạm vi khởi kiện vụ an dân sự 492.4. Hình thức, thủ tục khởi kiện vụ an dân sự 402.4.1. Hình thức khởi kiện 50</small>

2.4.2. Thu tục nộp đơn, tài liệu, chứng cứ kèm theo dé thực hiện việc khởi kiện vụ

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

3.1. Những kết quả dat được trong việc thi hành các quy định của luật tổ tụng

dân sự hiện hành về khởi kiện vụ án dân sự 58 3.2. Một số vướng mắc, bat cập và nguyên nhân của vướng mắc, bat cập 58 3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định cua Bộ luật tỗ tụng dân sự

vê khởi kiện vụ án dân sự. 66 KET LUẬN CHUNG 70

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

: Bộ luật Tô dân sự được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được sửa đổi, bồ sung vào ngày 29

<small>tháng 03 nam 2011: Vụ án dân sự: Toa an nhân dân</small>

: Viện kiểm sát nhân dân : Tổ tụng dân sự

: Tổ chức Tòa án nhân dân

<small>: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam</small>

: Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ngày 03 tháng 12 năm

:Nghị quyết số 03/⁄2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ngày 03 tháng 12 năm

<small>2012 ngày 03/12/2012</small>

: Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP của Hội đơng thẩm phán tịa án nhân dân tối cao ngày 03/12/2012

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Bộ luật Tố dân sự được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thơng qua ngày 15/6/2004 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2005 (BLTTDS); va được sửa đổi, bố sung vào ngày 29 tháng 03 năm 2011 (BLTTDS sửa đổi, b6 sung). BLTTDS được xây dựng trên co sở kế thừa và phát triển của ba Pháp lệnh trước đó, bao gồm: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vu án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, đồng thời tiếp thu những thành tựu lập pháp của nhiều nước trên thế giới. Đây là văn bản có tính

pháp lý cao nhất quy định về khởi kiện và thực hiện việc khởi kiện vụ án sự.

Van dé khởi kiện và thực hiện việc khởi kiện là vấn dé luôn được các nhà nghiên cứu về tố tụng, cơ quan lập pháp của nhiều nước trên thế giới quan tâm. Ở Việt Nam hiện nay, các quy định trong pháp luật tố tụng dân sự về cơ bản đã phan nào thé hiện được van dé này. Tuy nhiên, về phương diện lý luận thì nhiều vấn đề về khởi kiện chưa được giải quyết triệt đề.

Thực tiễn tố tụng tại Tòa án cho thấy, nhiều trường hợp việc khởi kiện của

<small>đương sự đã không được tôn trọng và bảo đảm như: Tịa án khơng thụ lý và trả</small>

lại đơn một cách tùy tiện hoặc “din day” trách nhiệm giải quyết. Một số quy định về khởi kiện vụ án dân sự trong BLTTDS cịn chung chung, thiếu tính cụ thể dẫn tới những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng hoặc dẫn tới những cách hiểu và vận dụng khác nhau; điều này cũng khiến cho người dân gặp khó khăn khi thực hiện việc khởi kiện; đồng thời chính là một trong những nguyên

<small>nhân của sự tùy tiện chủ quan trong việc áp dụng pháp luật. Việc nghiên cứu</small>

cũng cho thấy một số quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của việc bảo đảm để các chủ thể khởi kiện thực hiện việc khởi kiện trong tố tụng dân sự. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về khởi kiện và thực hiện việc khởi kiện cả về phương điện lý luận, lập pháp và thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp

<small>luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm việc khởi kiện là một việc lam rat cân thiết.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐÈ TÀI

Trong khoa học pháp lý Việt Nam từ trước đến nay, khởi kiện VADS đã có những cơng trình nghiên cứu chun sâu, có hệ thống như: cơng trình nghiên cứu khoa học đề tài cấp cơ sở của Trường Đại học Luật Hà Nội về “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cai cách tu pháp” do TS Trần Anh Tuấn chủ nhiệm đề tài năm 2010. Một số các bài viết được công bố trên tạp chí như “Vấn dé khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự” của Ths Lê Thị Bich Lan đăng trên tạp chí Luật học - Số đặc san về BLTTDS năm 2005, bài viết “Quyên khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tổ tụng” của TS Trần Anh Tuấn đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân.

Về khóa luận, luận văn, luận án có: Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Phương Thảo, năm 2011 với đề tài “Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tổ tụng dân sự năm 2004”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nông Thanh Xuyên bảo vệ năm 2010 với đề tài “Thoi hiệu khởi kiện vụ án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự ”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thu Hiền bảo vệ năm 2012 với đề tài “Hoan thiện chế định khởi kiện và thụ lý án dân sự trong Pháp luật tô tụng dân sự Việt Nam”; Luận án tiễn sĩ của TS.Nguyễn Công Binh năm 2006 với đề tài “Bảo đảm quyên bảo vệ của

<small>đương sự trong TTDS Việt Nam ”...</small>

Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu trên đây tác giả của luận văn phát triển thêm những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về vấn đề này dưới

<small>một góc độ mới.</small>

3. DOI TƯỢNG VA PHAM VINGHIÊN CỨU CUA DE TÀI

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vẫn đề lý luận về khởi kiện vụ án

dân sự (VADS), nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện VADS và thực tiễn thi hành các quy định này tai Tòa án nhân dân (TAND, qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hồn thiện quy định pháp luật tơ tụng dân sự.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<small>pháp lý. Tuy nhiên, tác giả tập trung nghiên cứu khởi kiện vụ án dân sự với tư</small>

cách là một hoạt động tố tụng mà các chủ thể thực hiện theo trình tự luật định, những quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về hoạt động khởi kiện VADS và thực tiễn áp dụng quy định này tại TAND.

4. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐÈ TÀI

Mục tiêu: Tham khảo nguồn tài liệu dựa trên những cơng trình của các tác giả đã nghiên cứu đề tài liên quan tới khởi kiện vụ án dân sự, tác giả luận văn hy vọng việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về khởi kiện VADS, nội dung các quy định của pháp luật tô tụng dân sự về khởi kiện VADS và thực tiễn áp dụng các quy định này, qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật dân sự.

Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề thực hiện mục đích của đề tài, luận văn hướng tới một số nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu và phân tích khái niệm, bản chất, đặc điểm về khởi kiện VADS để làm sáng tỏ một số van dé lý luận cơ bản về khởi kiện VADS trong pháp luật tô tụng dân sự Việt Nam.

- Tìm hiểu có hệ thống các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về khởi kiện VADS, liên hệ với pháp luật tố tụng dân sự một số nước về vấn đề

<small>khởi kiện VADS.</small>

- Phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành các quy định pháp luật t6 tung dân sự về khởi kiện VADS để chỉ ra những nội dung còn thiếu sót, chưa phù hợp của pháp luật dan sự về khởi kiện VADS, từ đó luận giải và đưa ra những giải pháp cho yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện VADS.

5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đề thực hiện mục đích của đề tài nói trên, việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên co sở lý luận của Chủ nghĩa Mác — Lénin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về

<small>Nhà nước và pháp luật, các quan điêm của Dang va Nhà nước Việt Nam về quan</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy</small>

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, lịch sử, tổng hợp, lơ gic, quy nạp, thống kê, so sánh,

<small>liên hệ ... nhăm làm sáng tỏ các vân dé trong nội dung luận văn.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

gồm 03 chương:

Chương 1: Một số van dé ly luận về khởi kiện vu án dan sự

Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện

<small>vụ án dân sự</small>

Chương 3: Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về

<small>khởi kiện vụ án dân sự và một sô kiên nghị.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa khởi kiện của khởi kiện vụ án dân

<small>1.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự</small>

Trước đây cũng như hiện nay có nhiều quan điểm về khởi kiện vụ án dân sự, nhưng điểm chung của các quan điểm đều dựa trên cơ sở phân tích, tìm hiểu quyền khởi kiện để đưa ra khái niệm khởi kiện. Trước đây, thì khởi kiện được đề cập trong thành ngữ “tố quyền” — là phương cách luật định cho phép mỗi người cầu viện đến công lý xin xác nhận hay che chở quyền lợi của mình [3]. Theo đó một mặt tố qun là quyền kêu gọi đến co quan tư pháp, ý kiến chủ chốt là sự cầu cứu đến Tòa án và như vậy tố quyền khác biệt với một vài trường hợp tổ cầu

<small>hành chính chỉ buộc đương sự phải xin can thiệp của nhà chức trách hành chánh</small>

khơng có nhiệm vụ xử đoán, một mặt khác tổ quyền được phân tách như một phương tiện có tính cách luật pháp chế tài của mơn dân sự tố tụng vì sự can thiệp của Tịa án có hiệu lực làm quyền lợi được củng cố và tơn trọng. Ơng Eduardo Couture, giáo su tại Đại Hoc Đường Buenos-Aires đã viết “tố quyền là hình thức văn minh thay thế cho cách báo tư cừu”. Cũng theo tác giả Nguyễn Huy Dau tố quyền khác với đơn kiện bởi “người ta hành sử tố quyền bằng một đơn kiện”, tố quyền là một phương cách pháp luật, một quyền luật định (khái niệm trừu tượng) còn đơn kiện lại là một hành vi thủ tục; từ đó có thê thấy tố quyén là một quyền khởi kiện luật định (khái niệm trừu tượng), còn đơn kiện là hành vi thủ tục để thực hiện quyền đó. Tố quyền cũng khác với quyên lợi bởi tổ quyền là một mãnh lực chuyên từ thé tĩnh ra thé động, là giây liên lạc pháp lý nguyên thủy giữa nguyên và bị đơn, quyên lợi chỉ là căn nguyên cho tố quyền chứ không thé sáp nhập với tố quyền [3, tr.36 - 41]. Từ đó có những phân tích về van đề tơ quyên phải hội tu đủ những điều kiện nào, hành xử trong những trường hợp nào?... Trong cuốn Luật dân sự tố tụng Việt Nam xuất bản năm 1969 của tác giả Nguyễn Huy Dau có dé cập đến việc học lý cỗ điển và nhiều học giả có những quan điểm khác nhau về điều kiện khai phát tố quyền. Theo những tác giả

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<small>và tư cách.</small>

Trong sự phát triển của xã hội, khi Nhà nước và pháp luật ra đời thì việc bảo vệ quyên hay lợi ích hợp pháp của cơng dân được ghi nhận bằng pháp luật của Nhà nước và bảo đảm thực hiện thông qua các thiết chế do Nhà nước thiết lập. Theo đó khởi kiện được nhà nước và pháp luật ghi nhận thông qua quyền

<small>khởi kiện.</small>

Trong cổ luật La Mã, đã có những quy định đầu tiên về quyền khởi kiện của cơng dân La Mã, theo đó khi có hành vi xâm phạm quyền tư pháp của cá nhân thì người có quyền lợi bị xâm phạm bên cạnh việc sử dụng hình thức tự tran ap, họ con có quyền khởi kiện đến Tịa án u cầu bảo vệ quyền lợi của mình [19,

<small>tr. 212]</small>

Trong xã hội hiện đại, quyền khởi kiện được ghi nhận là một quyền con người trong tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và các công ước quốc tế khác. Quyền khởi kiện là một trong những nhóm quyên tổ tụng thuộc quyền con người, là quyền của một chủ thé trong mối quan hệ xã hội được pháp luật ghi nhận nhằm đảm bảo tốt nhất cho những qun, lợi ích hợp pháp của mình được thực hiện. Điều này được thé hiện tại Điều 8 Tuyên ngôn thé giới về nhân quyền năm 1948 “Moi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tịa dn quốc gia có thẩm quyền với phương diện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm các quyên căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận ”. Quyền khởi kiện được ghi nhận trong pháp luật quốc tế là cơ sở vững chắc cho việc ghi nhận quyền này trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia.

Theo các nhà nghiên cứu về tố tụng của Pháp thì “tố quyền” là khả năng được thừa nhận đối với cá nhân được yêu cầu sự can thiệp của công lý dé đạt được sự tôn trọng các quyền hay lợi ích chính đáng của mình. Theo từ điển thuật ngữ luật học của Pháp thì tổ quyền trước công lý là khả năng được thừa nhận đối với các chủ thể được cầu viện tới công lý dé đạt được sự tôn trọng các quyên hay lợi ích chính đáng. Theo Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự mới của

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

bày về nội dung yêu cau của mình để Tham phán quyết định xem xét yêu cau như vậy là có căn cứ hay khơng có căn cứ; đối với bên bị kiện quyên tham gia tô tụng là quyên được tranh luận về căn cứ của yêu cẩu do bên kia đưa ra” [14,

Ở Việt Nam trên phương diện lý luận thì nhà nghiên cứu Trần Trúc Linh cho răng “tố quyền tức là có quyền đi kiện” [14, tr. 23]; TS. Hồng Ngọc Thinh đã khang định trong Giáo trình Luật tố tụng dân của Trường Đại học Luật Hà Nội rang “Quyên khởi kiện vụ án dan sự là quyên tố tụng của công dân, pháp nhân và các tổ chức xã hội yêu cầu Tòa án nhân dân bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, của tập thể của Nhà nước hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc vi phạm” [11, tr. 109-110]. Khái niệm này dường như không đề cập tới các việc khơng có tranh chấp như nghiên cứu về khái niệm vụ án dân sự trong Giáo trình này ” [11, tr. 6-7], Điều 1 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 và thực tiễn tố tung tại Tịa án thì có thé khang định trong khái niệm trên quyền khởi kiện được thực hiện đối với cả các việc dân sự khơng có tranh chấp.

Trước khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS) ra đời thì quyền khởi kiện được hiểu theo nghĩa rộng đó là quyền khởi kiện là khả năng Nhà nước cho phép cơng dân được u cầu Tịa án có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi cho rằng quyền lợi hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc u cầu Tịa án cơng nhận một sự kiện pháp lý, các quyền dân sự, hôn nhân gia đình,

<small>kinh doanh, thương mại, lao động. Khi BLTTDS 2004 ra đời đã tách thủ tục giải</small>

quyết vụ án dân sự trước đây thành hai thủ tục tố tụng riêng biệt là thủ tục giải

quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự, quyền khởi kiện không bao

hàm quyền yêu cầu xem xét về việc công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý hoặc các quyền dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Khái niệm quyền khởi kiện được hiểu theo nghĩa hẹp hơn trước

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Theo TS. Hồng Ngọc Thinh thì “Qun khởi kiện vụ án dân sự là quyền tổ tụng quan trọng của các chủ thể... Việc thực hiện quyền này của các chủ thể

<small>được gọi là khởi kiện vụ án dân sự ” và “Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân,</small>

cơ quan, to chức hoặc các chủ thé khác theo quy định của pháp luật tô tụng dân sự nộp đơn u cau Tịa án có thẩm quyền bảo vệ qun, lợi ích hợp pháp của

<small>mình hay của người khác ”[16, tr. 238]. Theo đó, khởi kiện vụ án dân sự là hành</small>

vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Góc nhìn này tiếp tục được khang định bởi TS. Phan Chí Hiếu trong Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Học viện Tư pháp. Theo đó, “guyén khởi kiện vụ an dan sự là quyên tô tụng của cá nhân, pháp nhân, các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật to tụng dân sự yêu câu Tịa án bảo vệ các qun, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, tập thể hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm ” [16, tr. 305].

Xét cho cùng bản chất của quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi khi quyền lợi này bị tranh chấp hay vi phạm. Từ đó cần phát triển quyền khởi kiện theo hai phương diện, theo nghĩa hẹp quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn và theo nghĩa rộng thì quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn, quyền phản tổ (kiện ngược lại) của bị đơn và quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do họ đã không thực hiện quyền yêu cầu của mình trước khi nguyên đơn khởi kiện vụ án [16.,tr. 7].

Xét theo nghĩa hẹp thì quyền khởi kiện là quyền của nguyên đơn trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi khi có tranh chấp hay bị vi phạm.

Quyền khởi kiện của nguyên đơn là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của chủ thể có quyền lợi hợp pháp bị tranh chấp hay bị vi phạm và việc thực hiện quyền này sẽ làm phat sinh vụ án dân sự Tòa án. Xét về thực chất thì đây là

<small>qun của chủ thê có qun lợi bị xâm phạm trong việc bắt đâu việc kiện đê bảo</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

vệ quyên lợi của mình, thơng qua việc đệ đơn u cầu Tịa án xem xét giải quyết

<small>vụ án dân sự.</small>

- Theo nghĩa rộng thì quyền khởi kiện bao hàm cả quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyên lợi của nguyên don, phản tổ của bị đơn, quyền yêu cầu của người có quyên lợi, nghĩa vụ liên quan.

<small>Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành cũng chưa thực sự đưa ra</small>

một khái niệm về quyền phản tổ của bị đơn. Theo quan điểm của Viện khoa học xét xử Tòa án nhân dân tối cao thì “Trong vụ án dân sự, đương sự nào khởi

<small>kiện trước là nguyên đơn còn đương sự bị nguyên đơn khởi kiện là bị đơn.</small>

Trong một số vụ án dân sự có lỗi hỗn hợp, B là bị don yêu cau A là nguyên đơn phải bồi thường cho B, thì đây là trường hợp phản tô (hay khởi kiện ngược lai). Việc phản tô của bị đơn đối với nguyên đơn không làm thay đổi địa vị tố tụng của họ. Thực chất việc khởi kiện ngược lại là một việc khác của bị đơn đối với

<small>nguyên đơn, nhưng được xét cùng với đơn kiện của nguyên đơn vì việc giải</small>

quyết yêu cau của hai bên có liên quan chặt chẽ với nhau”. Khi nghiên cứu về người có quyền và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập, TS. Nguyễn Cơng Bình cho răng: “Trong vu án dân sự, lợi ích pháp lý của người có quyển và nghĩa vụ liên quan tham gia tô tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý của nguyên đơn và bị đơn. Thơng thường người có quyền và nghĩa vụ liên quan tham gia tơ tụng độc lập có đủ điều kiện pháp lý khởi kiện vụ án dân sự nhưng do vụ án dân sự đã xuất hiện giữa nguyên đơn và bị đơn nên họ phải tham gia tô tụng để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình nếu khơng việc bảo vệ quyền hay lợi ichcua họ sau đó sẽ gặp khó khăn”. [16, tr. 108]

Về bản chất thì quyền phản tố của bị đơn có thể hiểu là quyền khởi kiện ngược lại của bị đơn, quyền yêu cầu của người có quyền nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là quyền khởi kiện chống lại cả nguyên đơn và bị đơn hoặc chỉ chống lại nguyên đơn hoặc bị đơn trong vụ án dân sự.

Nói đến việc khởi kiện nếu xét theo nghĩa là một hoạt động tổ tụng thì thực chất đó là q trình các chủ thể có quyền khởi kiện đã triển khai trên thực tế quyền khởi kiện hay việc hiện thực hóa quyền khởi kiện với tư cách là một

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

“quyền khách quan” dé trở thành “quyền chủ quan” của một chủ thé cụ thé khi họ thực hiện việc khởi kiện. Vì vậy, có thể thấy rằng nếu hiểu khởi kiện với tư cách là một hoạt động tố tụng thì:

“Quyên khởi kiện vụ án dân sự là quyên tô tụng của cá nhân, pháp nhân, các tô chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tổ tung dân sự yêu cau Tòa án bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nha nước, tập thể hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm ”

Và “Khởi kiện là những hoạt động của chủ thể có quyên triển khai thực hiện quyền khởi kiện theo một trình tự, thủ tục luật định dé bảo vệ quyền hay lợi

<small>ích hợp pháp của mình hay của người khác ”</small>

Như vậy, có thé hiểu khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động của chủ thể có quyên triển khai thực hiện quyên khởi kiện theo một trình tự, thủ tục luật định để bảo vệ qun hay lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác khi các quyền hay lợi ích này bị xâm phạm hay tranh chấp.

1.1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án dân sự

Với tư cách là một hoạt động tố tụng làm cơ sở đề phát sinh hoạt động tố tụng tiếp theo như thụ lý, chuẩn bị xét xử phiên tòa sơ thâm... Hoạt động khởi kiện VADS có những đặc điểm sau:

- Là hoạt động do các chủ thể có thâm quyền theo quy định của pháp luật nội dung và pháp luật tô tụng quy định thực hiện (còn các hoạt động khác do các chủ thé tố tụng thực hiện ví dụ: Tịa án thực hiện việc thụ lý, việc chuẩn bi xét xử, hòa giải, phiên tòa ...). Hiện tại tồn tại các quy định hiện hành về hoạt động khởi kiện là hoạt động tố tụng hay trước tố tụng.

<small>- Khoi kiện vụ án dân sự được pháp luật ghi nhận là hoạt động bảo vệ</small>

quyền dan sự của chủ thé có qun hay lợi ích hợp pháp bi xâm phạm. Cụ thé khởi kiện được pháp luật ghi nhận dưới dạng quyền khởi kiện tại Điều 161 BLTTDS, theo đó cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua

<small>người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện)</small>

tại Toà án có thâm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của

<small>mình. Đặc điêm này xt phát từ yêu câu của việc cân đảm bảo quyên con</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

người, khi quyền hay lợi ích bị xâm phạm chủ thé có quyền cần phải có một cơng cụ dé bảo vệ lợi ích của mình hoặc của người khác mà phương pháp hiệu quả nhất chính là nhờ vào quyền lực cũng như sự cơng minh của nhà nước và

<small>pháp luật thông qua việc làm đơn khởi kiện. Việc làm đơn khởi kiện là bước</small>

đầu tiên trong hoạt động khởi kiện, từ việc làm đơn gửi Tòa án sẽ phát sinh những thủ tục tổ tụng tiếp theo như: đơn được Tòa án thụ lý hay khơng thụ lý,

nếu đơn được chấp nhận Tịa án sẽ ra quyết định xét xử vụ án ... Chính vì vậy,

khởi kiện được coi là hoạt động không thể thiếu để làm phát sinh vụ án dân sự.

- Xé theo nghĩa hẹp thì khởi kiện được thực hiện ở thời điểm trước khi Tòa án thụ lý vu án. Với việc chủ thé có quyền nộp đơn khởi kiện tại Tòa án dé bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác đã làm phát sinh hàng loạt những hoạt động tiếp theo. Hoạt động ngay sau việc nộp đơn khởi kiện là hoạt động thụ lý, đây là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng cụ thê

<small>là của Tòa án. Thụ lý vụ án là việc Tòa án nhận đơn khởi kiện của người khởi</small>

kiện và vào sô thụ lý vụ án dân sự để giải quyết. Khởi kiện chính là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thê khác tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự TTDS, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, hoạt động khởi kiện là tiền đề cho các hoạt động tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.

<small>- Đặc trưng của khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động trong đó các đương sự</small>

được tự do định đoạt, theo đó cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác có

qun, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền thực hiện hoặc không thực hiện

hoạt động khởi kiện vụ án dân sự dé yéu cầu Tòa án có thầm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền dân sự phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường

<small>thiệt hại hoặc theo thỏa thuận của các bên. Việc thực hiện khởi kiện được thực</small>

hiện trên cơ sở tự nguyện và quyền tự do của cá nhân, đồng thời pháp luật cũng

ghi nhận việc tự định đoạt và tự thỏa thuận của các chủ thé. Điều này xuất phát

từ bản chất dân sự của các quan hệ pháp luật dân sự, hơn nhân, gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động nên trong tố tụng dân sự thì các đương sự có quyền tự định đoạt về việc bảo vệ quyền lợi của mình. Các đương sự được tự do

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

lựa chọn các phương thức dé bảo vệ quyền, lợi ích của mình như trung gian hòa giải, trọng tài hoặc yêu cầu sự can thiệp của Tòa án bằng việc thực hiện hoạt

<small>động khởi kiện.</small>

- Khởi kiện vụ án dân sự là một phương thức văn minh thay thế cho việc tự do hành xử của cá nhân trong việc giải quyết tranh chấp tồn tại trong lich sử. Do các bên trong quan hệ pháp luật nội dung bình đăng về địa vị pháp lý nên một bên không thể tự mình cưỡng chế bên kia phải thực hiện nghĩa vụ của mình nên họ cần phải tìm đến một chủ thé có địa vị pháp lý cao hơn, có quyền năng đặc biệt để can thiệp giúp họ khôi phục lại quyền hay lợi ichbi xâm hai, chủ thể đặc biệt đó là Nhà nước. Thay vì hành xử băng các hành vi, lời nói đời thường, nói qua nói lại cũng khơng giải quyết được vấn đề thì việc chọn khởi kiện tại cơ quan có thâm quyền là lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, tránh đây mâu thuẫn, tranh chấp đến mức hành xử thiếu văn minh, thậm chí tiếp tục làm phương hại tới nhau. Vì vậy, việc khởi kiện với nghĩa là hoạt động của chủ thé có quyền triển khai thực hiện quyền khởi kiện theo một trình tự, thủ tục luật định để bảo vệ quyền hay lợi ichhop pháp của mình hay của người khác khi các quyền hay lợi ích này bị xâm phạm hay tranh chấp được coi là một hoạt động mang tính chất

<small>văn minh.</small>

1.1.3. Ý nghĩa của khởi kiện dân sự

Pháp luật ghi nhận khởi kiện là hoạt động của chủ thể pháp luật dân sự nhằm bảo vệ quyền hay lợi ích của mình hay của người khác khi bị tranh chấp hay bị vi phạm đồng nghĩa với việc trao cho người dân một phương thức bảo vệ hữu hiệu quyền dân sự của mình. Băng việc thực hiện hoạt động khởi kiện chủ thể có quyền khởi kiện có thể nhờ tới sự can thiệp kịp thời của Tịa án, thơng qua hoạt động xét xử Tịa án để bảo vệ các quyền hay lợi íchhợp pháp của đương sự, ngăn chặn được các thiệt hại, chấm dứt hành vi trái pháp luật và khôi phục lại các quyền dân sự của các chủ thé... Một khi chủ thé lựa chọn việc khởi kiện vụ án dân sự tại Tịa án có nghĩa là họ mong muốn được nhà nước sử dụng quyền lực đặc biệt dé phán xét, khôi phục quyền hay lợi ichma ho đã bị tranh chấp hay bị vi phạm, quyết định của Tịa án mang tính cưỡng chế, bắt buộc thi

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

hành đối với người vi phạm. Do đó, pháp luật ghi nhận vẫn đề khởi kiện, trao quyền khởi kiện cho cá nhân, cơ quan, tô chức cũng có nghĩa là trao trách nhiệm cho những người thực thi pháp luật, điều đó thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với đời sống nhân dân, thé hiện đúng đường lối của Dang và Nhà nước đó là

<small>“nhà nước là của dân, do dân và vì dân”.</small>

Bản chất của việc khởi kiện là triển khai thực hiện quyền khởi kiện theo một trình tự, thủ tục luật định dé bảo vệ quyền hay lợi íchhợp pháp của mình hay của người khác khi các quyền hay lợi ichnay bị xâm phạm hay tranh chấp. Khởi kiện được thực hiện ở thời điểm trước khi Tòa án thụ lý vụ án. Chủ thể thực hiện hoạt động khởi kiện nhằm bảo vệ quyền hay lợi íchcủa mình hoặc của người khác bằng việc nộp đơn, chứng cứ và tài liệu đi kèm nếu có tại Tịa án. Khi đơn được nộp tại Tịa án thì người có thâm quyền sẽ thực hiện việc tiếp nhận đơn và xem xét trong thời hạn do pháp luật quy định để đưa ra quyết định thụ lý hay không thụ lý. Khi có quyết định thụ lý Tịa án sẽ tiễn hành hoạt động các hoạt động tố tụng tiếp theo. Nếu chủ thé có quyền khởi kiện khơng thực hiện hoạt động khởi kiện thì sẽ khơng có những hoạt động tiếp theo và vụ án dân sự cũng không được phát sinh kéo theo tranh chấp sẽ không được giải quyết triệt dé. Vi vậy, có thê thấy khởi kiện là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thé khác tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS; là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tô tụng dân sự, hoạt động khởi kiện là tiền đề cho các hoạt động tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.

Thông qua hoạt động khởi kiện chủ thể có quyền khởi kiện đã nhờ tới sự can thiệp của một chủ thé đặc biệt đó là nhà nước để bảo vệ quyên hay lợi íchhợp pháp của minh. Nhà nước sử dụng quyên lực mang tính cưỡng chế không những khôi phục lại quyền hay lợi ichhop pháp của chủ thé bị xâm phạm đồng thời buộc chủ thé vi phạm trao trả, khôi phục lại quyền hay lợi ichchu thé bị xâm hại và chịu những chế tài, trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc của pháp luật. Vì vay, cơ chế khởi kiện dân sự ra đời không những bảo vệ được quyền dân sự của

<small>các chu thê mà cịn có ý nghĩa ran đe, ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyên</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

loi hop phap cua cac chu thé, đảm bảo su ổn định của các quan hệ xã hội, nâng

<small>cao ý thức pháp luật của người dân.</small>

<small>1.2. Cơ sở của khởi kiện vụ án dân sự1.2.1. Cơ sở lý luận</small>

Khởi kiện vụ án dan sự là hoạt động của chủ thé có quyền triển khai thực hiện quyền khởi kiện theo một trình tự, thủ tục luật định dé bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác khi các quyền hay lợi ích nay bị xâm phạm hay tranh chap, theo đó khi chủ thể có quyền (quyền khởi kiện) thì được thực hiện hoạt động khởi kiện. Việc ghi nhận quyền khởi kiện đồng nghĩa với việc ghi nhận cơ sở cho hoạt động khởi kiện. Quyền khởi kiện được ghi nhận là một quyên con người trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và các Công ước quốc tế khác, cụ thể Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 ghi nhận “Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tịa án quốc gia có thẩm quyền với phương điện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm các quyền căn ban đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận”. Kế thừa các quy định về quyén con người, Điều 50 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyên công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Trên cơ sở quy định về quyền con người của Hiến pháp 1992, pháp luật tố tụng dân sự cũng cu thé hóa cơ chế bảo vệ các quyền này thơng qua

<small>phương thức khởi kiện tại Tịa án. Do đó, việc ghi nhận khởi kiện vụ án dân sự</small>

là hoạt động triển khai thực hiện quyền khởi kiện của chủ thé có quyên trong TTDS trước hết phải dựa trên cơ sở ghi nhận và bảo đảm các quyền con người về dân sự.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Đầu thì quyền khởi kiện có thể được phân tích như một quyên lợi trong thể động, khi quyền lợi cịn được tơn trọng, khơng bị phủ nhận, chưa phải đem ra Tịa thì quyền lợi cịn ở trong thể tĩnh, quyền lợi chỉ có thé là căn nguyên của tô quyền chứ không thé sáp nhập với tố quyền. Theo góc nhìn này thì pháp luật nội dung ghi nhận va bảo hộ các quyền

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của các chủ thể. Để các quyền lợi hợp pháp trên được bảo đảm thực hiện trên thực tế pháp luật cần trao cho những chủ thể có quyền lợi bị xâm hại hay tranh chấp này một phương tiện để bảo vệ quyền lợi của mình nhằm thiết lập lại trật tự của các quan hệ pháp luật nội dung đang bị xáo trộn, chính vì lẽ đó mà hoạt động khởi kiện dé triển khai thực hiện quyền khởi kiện được pháp luật ghi nhận như một phương thức hữu hiệu bảo vệ quyền dân sự của các chủ thé.

<small>Việc quy định khởi kiện VADS phải được dựa trên cơ sở phù hợp với các</small>

quyền dân sự của công dân, cụ thé:

- Bất kỳ đương sự nào muốn thực hiện việc khởi kiện VADS thì điều kiện đầu tiên phải chứng minh được mình là chủ thể của các quyền dân sự đang có

tranh chấp hoặc bị vi phạm cần được bảo vệ, đây là cơ sở quyết định để các chủ

thé thực hiện quyên này trừ trường hợp họ khởi kiện dé bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp cho chủ thê khác.

- Hoạt động khởi kiện VADS được xây dựng dựa trên nguyên tắc cơ bản của TTDS đó là quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự (theo nghĩa rộng). Trong quan hệ pháp luật dân sự các chủ thể độc lập với nhau về tổ chức, tài sản, bình đăng trong việc hưởng quyên và thực hiện nghĩa

<small>vụ cũng như chịu trách nhiệm dân sự. Khi tham gia các quan hệ dân sự, các chu</small>

thể có tồn quyền lựa chọn chủ thể khác tham gia cùng với mình cũng như quyên và nghĩa vụ phải thực hiện trong giao dich dân sự, do đó khi có tranh chap về quyền và nghĩa vụ các chủ thể có tồn quyền quyết định việc có u cầu Tịa án giải quyết các tranh chấp hay không và ai sẽ là người khởi kiện.

- Xuất phát từ bản chất dan sự của các quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể trong quan hệ dân sự độc lập với nhau về tổ chức, tài sản, bình đăng về địa vị pháp lý nghĩa là họ bình dang với nhau về việc hưởng quyên, thực hiện nghĩa vụ và chịu trách nhiệm dân sự. Vì vậy, việc ghi nhận quyền khởi kiện dựa trên cơ sở bảo đảm quyền bình dang của các đương sự trong việc bảo vệ quyền hay lợi

<small>ichdan sự hợp pháp cua minh</small>

1.2.2. Cơ sở thực tiễn

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Van đề ghi nhận khởi kiện vụ án dân sự ngoài việc dựa trên co sở lý luận

<small>mà tác giả đã trình bày trên đây, việc khởi kiện cịn chưa trên cơ sở thực hiệnsau đây:</small>

- Một là, nhận thức pháp luật của các chủ thể chưa cao, hoặc do muốn giành lấy cho mình những lợi ích của người khác nên đã xâm phạm đến quyền hay lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Do đó, cần phải có cơ chế bảo vệ quyền hay lợi ích pháp của các chủ thê bị xâm phạm hay tranh chấp bằng con đường khởi kiện. - Hai là, các tranh chấp ngày càng đa dạng, phức tạp, trong khi trình độ hiểu biết pháp luật của các đương sự còn hạn chế nên khi tranh chấp xảy ra các đương sự gặp khó khăn trong việc bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, việc quy định rõ ràng, chỉ tiết các quy định pháp luật về vấn đề khởi kiện là một yêu cầu tất yếu.

- Cơ sở thực tiễn của khởi kiện hiện nay cịn được dựa trên q trình hình thành và phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dan sự Việt Nam về khởi kiện vụ án dân sự. Cụ thê:

+ Giai đoạn trước năm 1945: Chế định khởi kiện nói chung và khởi kiện vụ án dân sự nói riêng đã xuất hiện trong pháp luật Việt Nam ngay từ khá sớm. Ngay từ thời Lê (thế kỷ thứ XV) đã xuất hiện các quy định về vấn đề khởi kiện. Ví như một số quy định: Điều 508 Quốc triều Hình luật có quy định: đơn khởi kiện phải do đương sự làm và gửi ở cấp có thẩm quyền, hay theo pháp luật nhà Lê có quy định con cháu không được kiện ông, bà, cha, mẹ... Điều 1 Khám tụng điều lệ quy định: khi nhận được đơn các quan xử án phải xem xét thủ tục xem đã đầy đủ hay chưa. Đến thời nhà Nguyễn. Việc kiện tiếp tục được ghi nhận tại một số điều luật trong Hoàng Việt luật lệ , ngồi ra cịn ghi nhận tại chiếu, chỉ, lệnh, dụ của nhà Vua được ghi chép lại trong sách : “Khâm định Đại nam hội điển sự lệ”. Ở thời kỳ này pháp luật có quy định: phàm nhân dân có sự gì oan uống, cho phép tự mình đi tổ cáo lấy, nếu ai tự tiện mượn người đi kiện thay thì người

<small>mượn và người đi kiện thay phải chịu hình phát như nhau, bi xử đánh 100 roi,</small>

xích khóa lại bị bắt làm phu dịch một tháng. Có thể thấy rằng so với giai đoạn thời nhà Lê thì các quy định về việc kiện của người dân dưới thời nhà Nguyễn

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

không được cụ thé và chi tiết bằng, đây là yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc kiện tụng của nhân dân. [5, tr. 11]. Dưới thời pháp thuộc thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự được quy định trong luật dân sự thương sự tố tụng và Pháp viện biên chế. Theo luật dân sự thương sự tố tụng thì một vụ tranh chấp dân sự xảy ra, người có quan hệ trực tiếp đến vụ tranh chấp có quyền viết đơn đến Tịa án

<small>khởi kiện.</small>

Như vậy, có thé khang định các quy định về khởi kiện đã xuất hiện từ khá

<small>sớm trong pháp luật Việt Nam, mặc dù các quy định này cịn khá đơn giản tuy</small>

nhiên đó cũng là những cơ sở đầu tiên để hình thành chế định khởi kiện VADS

<small>trong pháp luật Việt Nam sau này [5, tr. 12]</small>

+ Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989: Ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chi Minh đã ký Sắc lệnh số 33C/SL về việc thành lập các Tòa án quân sự - Cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 quy định về tơ chức các Tịa án và các ngách Thâm phán trong nước Việt Nam dan chủ cộng hịa. Ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban

hành Sắc lệnh số 90/SL giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam

Bộ cho đến khi ban hành những Bộ luật mới áp dụng cho toàn quốc. Ngày 17/4/1946 Nhà nước ta ban hành Sắc lệnh số 52/SL quy định về việc khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án. Tiếp đó, Hiến pháp năm 1946 ra đời là bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, là đạo luật cơ bản đồng thời là đạo luật gốc của pháp luật Việt Nam thời bấy giờ. Thể chế dân chủ mà Hiến pháp năm 1946 tạo ra đã trở thành nền tảng cơ bản để hình thành khởi kiện vụ án dân sự. Ngày 22/5/1950 Sắc lệnh số 97/SL được ban hành quy định về việc sửa đôi một số nguyên tắc mới để áp dụng trong điều kiện dân chủ và Sắc lệnh số 85/SL quy định về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Những quy định trong Sắc lệnh 97/SL đã đặt cơ sở cho sự hình thành va phát triển việc khởi kiện của cơng dân : “Trong lúc cịn sinh thời người chồng góa vợ hay vợ góa, các con đã thành niên có quyên xin chia phần tài sản thuộc quyên sở hữu của người chết, sau khi đã thanh toán tài sản chung” (Điều 11 Sắc lệnh 97/SL). Có thé nhận thấy, trong giai đoạn từ năm 1945 cho đến 1954 chế định khởi kiện VADS bước đầu đã

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam. Nhưng do thời điểm này đất nước mới giành được độc lập, cịn nhiều khó khăn, chính qun cịn non trẻ nên các cơ quan tư pháp nói chung và hệ thống Tịa án nói rieneg hầu như chỉ chú trọng vào nhiệm vụ hàng đầu là củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng nên các Tịa án chỉ tập trung xét xử các vụ án hình sự mà chưa thể giải quyết các tranh chấp về dan sự, vì vậy việc thực hiện khởi kiện của người dân chưa được chú trọng

<small>[5, tr. 12 -13].</small>

Từ năm 1955 đến năm 1960 Nhà nước đã ban hành nhiều văn ban pháp luật như Thông tư số 141/HCTP ngày 05/02/1957, Thông tư số 1507/HCTP ngày 24/8/1956 của Bộ tư pháp và Thông tư số 69/TC ngày 31/12/1959, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hịa cũng thơng qua Hiến pháp năm 1959, trong đó quyền khiếu nại, tố cáo của cơng dân đã được ghi nhận trong một điều riêng “Công dân có quyên khiếu nại, tố cáo với bat cứ cơ quan của nhà nước về những việc lam vi phạm pháp luật của cán bộ và nhân viên nhà nước ... ” (Điều 29). Đây là một trong những bước phát triển quan trọng nhất của Hiến pháp năm 1959. Theo đó, pháp luật TTDS nói chung và chế định khởi VADS nói riêng đã có sự thay đổi đáng kể, các quy định, hướng dẫn ngày một day đủ va hoàn thiện. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1969, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức Tòa án năm 1960, Luật tô chức VKSND năm 1960. Sau khi Luật hơn nhân và gia đình năm 1959 và Luật tổ chức TAND, Luật tô chức VKSND năm 1960 ra đời đã có một khối lượng đáng kể các văn bản hướng dẫn thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự, đặc biệt là thủ tục giải quyết ly hôn do TAND tối cao, VKSND tối cao ban hành [5, tr.14].

Năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất. Ngày 13/3/1976, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam đã ra Sắc luật số 01/SL/76 quy định về tô chức TAND và VKSND. Ngày 08/02/1977 TAND tối cao ban hành Thông tư 96/NCPL hướng dẫn trình tự xét xử sơ thâm về dân sự. Nam 1980, Nhà nước ban hành bản Hiến pháp 1980 thé chế hóa đường lỗi xây

<small>dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Cũng trong thời gian nay, Nhà</small>

nước ta đã ban hành Luật tổ chức TAND năm 1981 và Luật tổ chức VKSND

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

năm 1981. Như vậy, có thể nói trong giai đoạn này các văn bản quy định về TTDS và đặc biệt là việc khởi kiện VADS ngày càng đầy đủ và cụ thể hơn. Tuy nhiên, hầu hết các quy định này vẫn còn tản mạn trong nhiều văn bản pháp luật

<small>khác nhau và chưa mang tính pháp lý cao.</small>

+ Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004: Từ những năm 1989 đến năm 2003, trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định về thủ tục TTDS trước đó, đồng thời quán triệt tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ VI tăng cường quản lý Nhà nước băng pháp luật, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về TTDS như Pháp lệnh tố tụng giải quyết các vụ án dan sự ngày 29/11/1989, Pháp lệnh tố tụng giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994, Pháp lệnh tổ tụng giải quyết các tranh chấp lao động ngày 11/4/1996. Những văn bản này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết các VADS trong thời kỳ này. Trong đó, vấn đề khởi kiện và thụ lý vụ án cũng được quy định chỉ tiết tạo cơ sở cho quá trình giải quyết các VADS [Nguyễn Phương Thảo (2011). “Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tô tụng dân sự năm 2004”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Dai học Luật Hà Nội, tr.15].

Ngày 15/4/1992 tại Kỳ họp Quốc hội khóa VIII đã thơng qua Hiến pháp năm 1992, bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới. Dé cụ thé hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đã ban hành Luật TCTAND năm 1992 và Luật TCVKSND năm 1992. Theo đó, các quy định về quyền khởi kiện, khởi tố VADS của cá nhân, pháp nhân, tổ chức xã hội và VKS được khăng định thêm một bước tiễn mới, ngày càng hồn thiện hơn. Nhìn chung, các văn bản tổ tụng được ban hành trong thời gian này đã quy định về van đề khởi kiện và khởi tố VADS, vụ án kinh tế và vụ án lao động có nhiều điểm tiến bộ. Tuy nhiên, các quy định còn dừng ở những điểm chung, chưa cụ thể. Mặt khác, xét về bản chất các tranh chấp kinh tế và tranh chấp lao động đề bắt nguồn từ tranh chấp dân sự nhưng thủ tục giải quyết lại được ba pháp lệnh quy định theo các trình tự khác nhau nên nhiều trường hợp trong thực tiễn đã có sự nhằm lẫn, lúng túng, khó khăn trong cả việc giải quyết các vụ án của Tòa án cũng như việc tham gia tổ

<small>tụng của các đương sự [5, tr.16].</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

+ Giai đoạn từ năm 2005 đến nay: Sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, sự hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực và thế giới cùng sự phát triển ngày càng phức tạp của các quan hệ pháp luật trong các lĩnh vực dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động địi hỏi cần có sự

<small>hồn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật, mà đặc biệt là pháp luật TTDS.</small>

Trên cơ sở cụ thê hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, BLTTDS đã được Quốc hội nước CHXHCNVN thơng qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2005, gồm 36 chương với 418 điều. BLTTDS đã quy định thống nhất một số thủ tục giải qu các VADS,

<small>hơn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Trong đó, Chương 12</small>

đã dành 18 điều để quy định về khởi kiện và thụ ly VADS. Các quy định của BLTTDS đã xác định rõ những chủ thể nào có quyền khởi kiện, bãi bỏ quyền khởi tố VADS, phạm vi khởi kiện trong BLTTDS cũng được mở rộng hơn trước. Căn cứ trả lại đơn khởi kiện được quy định chặt chẽ và cụ thể hơn trong các trường hợp như: người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp pháp luật quy định, không bổ sung đơn theo yêu cầu của Tòa án và chưa đủ điều kiện khởi kiện. Đồng thời, BLTTDS còn quy định về quyền khiếu

<small>nại của người khởi kiện khi nhận được thông báo trả lại đơn khởi kiện, thông</small>

báo thụ lý VADS, quyên và nghĩa vụ của người được thơng báo. Có thê nói, các quy định về khởi kiện VADS đã được quy định trong BLTTDS tương đối cụ thé và hợp lý hơn trước. Day là cơ sở pháp lý quan trọng để các chủ thé có qun, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nhanh chong, kip thời bảo vệ được quyền và lợi

<small>ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, qua thời gian thực hiện các quy định của</small>

BLTTDS đã bộc lộ một số bất cập. Nhăm khắc phục những hạn chế, bất cập này, ngày 29/3/2011 tại Kỳ họp thứ IX Quốc hội khóa XII đã thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS. Trong đó, một số điều luật quy định về khởi kiện VADS của BLTTDS năm 2004 cũng được sửa đổi, bố sung như Điều 159 quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, Điều 164 quy định về hình thức, nội dung đơn khởi kiện, Điều 168 quy định về trả lại đơn khởi kién...[5, tr.17]. Ngoài ra, thực tế việc thi hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

nội dung trong trong thời gian qua cũng đưa ra yêu cầu thực tế phải hoàn thiện quy định về khởi kiện cho phù hợp.

Như vậy, qua nghiên cứu sự hình thành, phát triển chế định khởi kiện VADS của pháp luật TTDS Việt Nam cho thấy chế định này đã có sự kế thừa và phát triển lâu dai gan với tiến trình lịch sử xây dựng pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật TTDS nói riêng. Các quy định về khởi kiện VADS ngày càng mang tinh cụ thé, đầy đủ và hoàn thiện đã góp phan quan trong trong việc bảo đảm việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tại Tịa án, đảm

<small>bảo tính dân chủ và công băng xã hội</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

CHUONG 2

NOI DUNG CAC QUY DINH CUA PHAP LUAT TO TUNG DAN SU VE KHOI KIEN VU ÁN DÂN SỰ

2.1. Các chủ thé thực hiện việc khởi kiện

Chủ thé thực hiện khởi kiện được chia làm hai nhóm, nhóm thứ nhất là khởi kiện để bảo vệ quyền hay lợi ích của chính mình, được quy định tại Điều 161 Bộ luật tố tụng Dân sự, theo đó cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình

<small>hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là</small>

người khởi kiện) tại Tồ án có thâm quyền để yêu cau bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bởi khi xảy ra tranh chấp các bên tranh chấp khơng thể hịa giải, khơng thể giải quyết vấn đề bằng những biện pháp đời thường mà cần sự can thiệp của cơ quan quyền lực nhà nước cụ thể là Tịa án. Chính vì vậy, việc pháp luật ghi nhận việc chủ thể nhận thấy quyền hay lợi ích của mình bị xâm phạm hay tranh chấp có thé sử dụng biện pháp giải quyết văn minh bang con đường khởi kiện như một điều đương nhiên hoàn toàn phù hợp thực tiễn Việt Nam và xu hướng pháp luật thế giới.

Nhóm thứ hai, là khởi kiện để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của người khác, được quy định tại Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự, gồm:

- Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hơn nhân và gia

<small>đình trong trường hợp do luật hơn nhân và gia đình quy định. Theo Luật hơn</small>

nhân và gia đình đó là những vụ án yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (khoản 3 Điều 55), yêu cầu xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất nang lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mat năng lực hành vi dân sự (khoản 3 Điều 66). Tuy nhiên thang 8 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1001/QĐ-TTg giải thé Uy ban dân sé, gia đình và trẻ em, các cơ quan dân số, gia đình và trẻ em tại địa phương cũng cham dứt hoạt động. Từ đây khơng cịn chủ thể này để thực hiện việc khởi kiện VADS bảo vệ quyền và lợi ích cho người khác. Vậy việc Bộ luật dân sự hiện

<small>hành, Luật hơn nhân và gia đình hiện hành van cịn đê Cơ quan ve dân dân sơ,</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

gia đình trẻ em trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hơn nhân và gia đình là khơng hợp lý, cần phải khắc phục bằng việc sửa đổi luật.

- Công đồn cấp trên của cơng đồn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp can bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của tập thể người

<small>lao động do pháp luật quy định;</small>

- Cơ quan, t6 chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện VADS để u cầu Tịa án bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Theo đó, co quan, tơ chức có qun khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:

e Co quan, tổ chức đó có những nhiệm vụ, quyền hạn trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội về một lĩnh vực nhất

e Loi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước cần u cầu Tồ án bảo vệ phải thuộc lĩnh vực do cơ quan, tổ chức đó phụ trách.

Cơ quan Tài ngun và Mơi trường có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi gây ơ nhiễm mơi trường phải bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố gây ô nhiễm mơi trường cơng cộng. Cơ quan Văn hố - Thơng tin có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi xâm phạm di sản văn hố thuộc sở hữu tồn dân phải bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra.

Ngoài các chủ thể được quy định tại Điều 162 BLTTDS nêu trên thì hộ gia đình, tổ hợp tác cũng có quyền khởi kiện VADS. Theo quy định của BLDS, hộ gia đình, tổ hợp tác gồm các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp cơng sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định. Vì vậy khi quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể này bị xâm phạm thì họ cũng có quyền tham gia vào các quan hệ pháp luật TTDS, có quyền khởi kiện VADS để bảo vệ lợi

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<small>ích của mình. Việc khởi kiện đó sẽ được thực hiện thơng qua hành vi của người</small>

đại diện hợp pháp của hộ gia đình, tơ hợp tác.

Khác với PLTTGQVADS, BLTTDS khơng cịn quy định quyền khởi tố VADS cho Viện kiểm sát. Vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật của viện kiểm sát theo quy định của BLTTDS được thể hiện chủ yếu qua việc thực hiện các quyền yêu cau, kiến nghị theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 21 BLTTDS năm 2004 thì VKS chỉ tham gia phiên tòa đối với những vu án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại. Đến Luật sửa đổi, bé sung một số điều của BLTTDS năm 2011 Điều 21 được sửa đồi theo hướng bổ sung thêm một số trường hợp có sự tham gia của VKS vào phiên tịa. Cụ thé là: “Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm doi với các việc dân sự; các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiễn hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản cơng, lợi ích cơng cộng, qun sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần”.

Bên cạnh quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, pháp luật TTDS cũng ghi nhận cho các đương sự quyền rút yêu cầu, quyền thay đôi, bổ sung yêu cầu. Trường hợp rút đơn yêu cầu, mặc dù BLTTDS không quy định tại một điều luật riêng biệt tuy nhiên ta có thể nhận biết được quyền này thông qua các quy định tại Điều 192 BLTTDS, theo đó nếu người khởi kiện rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa và được Tịa án chấp nhận thì Tịa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS. Tại phiên tịa, nếu người khởi kiện rút một phần hoặc tồn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút theo quy định tại khoản 2 Điều 218. Như vậy có thê thấy đương sự có thê rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện nếu thay khơng cịn cần thiết hoặc khơng đủ căn cứ chứng minh cho các nội dung mà mình đã yêu cầu. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc rút yêu cầu khởi kiện bắt buộc phải được Tòa án chấp nhận (điểm c khoản 1 Điều 192).

<small>Ngoài quyên rút yêu câu khởi kiện, đương sự có qun thay đơi, bơ sung u câu</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

của mình. Tuy nhiên khơng phải bất kỳ trường hợp nào việc thay đổi, bổ sung yêu cầu đều được chấp nhận. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 218 BLTTDS thì tại phiên tịa Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban dau.

Các chủ thể trên đây khi thực hiện hành vi khởi kiện cần phải tuân thủ các điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Hiện nay, pháp luật hiện hành cũng không có một điều luật cụ thể quy định về điều kiện của việc khởi kiện nên trên thực tế có các ý kiến khác nhau về điều kiện khởi kiện.

- Ý kiến thứ nhất cho rằng để khởi kiện thi chủ thé khởi kiện chỉ cần có quyền lợi ích bi vi phạm hoặc có tranh chấp và đồng thời có năng lực hành vi tố

<small>tụng dân sự;</small>

- Ý kiến thứ hai lại cho rằng để khởi kiện thì cần các điều kiện như: về chủ thé khởi kiện phải có quyền lợi ích bị vi phạm hoặc có tranh chấp và đồng thời có năng lực hành vi tố tụng dân sự; về thẩm quyền: chủ thể khởi kiện phải khởi kiện đúng thâm quyền; chủ thể khởi kiện chỉ được khởi kiện với những tranh chấp mà trước đó chưa được giải quyết bằng một bản án hoặc một quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án hoặc của cơ quan nhà nước có thâm quyền; phải xuất trình kèm theo đơn các tài liệu, chứng cứ.

Tuy nhiên, do việc tiếp cận việc khởi kiện với tư cách là một hoạt động (hành vi) tố tụng nên tác giả luận văn cho rằng ý kiến thứ hai là phù hợp với việc xác định các điều kiện cần và đủ dé chủ thể thực hiện việc khởi kiện nên nội dung dưới đây được triển khai theo hướng này.

2.2. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự

2.2.1. Điều kiện về chủ thể khởi kiện vụ án dân sự

Chủ thé khởi kiện VADS là các chủ thé theo quy định của pháp luật được tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS, bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định, để có thể thực hiện quyền khởi kiện chủ thể khởi kiện phải có năng lực chủ thể TTDS; khi khởi kiện VADS phải

<small>có quyền, lợi ích bị xâm phạm hoặc khởi kiện đê bảo vệ lợi ích cua người khác,</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<small>lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng. Quy định này hoàn toàn phù hợp với</small>

nguyên tắc tự định đoạt trong TTDS, theo đó khơng cho phép người khơng phải là chủ thể của quan hệ pháp luật lợi dụng quyền khởi kiện để xâm phạm đến quyền hay lợi íchhợp pháp của người khác.

* Một là, chủ thể khởi kiện phải có năng lực chủ thé tổ tụng dân sự

Năng lực chủ thể TTDS bao gồm năng lực pháp luật tố tụng dân sự (NLPLTTDS) và năng lực hành vi tố tụng dân sự (NLHVTTDS).

NLPLTTDS là khả năng pháp luật quy định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có những quyền và nghĩa vụ trong TTDS (khoản I Điều 57 BLTTDS), NLPLTTDS được coi là điều kiện đầu tiên đồng thời là điều kiện cần để một chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng dân sự, từ đó một chủ thể chỉ có quyền tham gia tổ tụng dan sự khi được pháp luật thừa nhận có NLPLTTDS [19, tr.110]. Thông thường các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự đều có NLPLTTDS bởi NLPLTTDS và NLPLDS ln có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. NLPLTTDS là biểu hiện quyền bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp trước Tịa án của chủ thể khi tham gia các quan hệ pháp luật dân sự.

NLPLDS của cá nhân thường xuất hiện khi cá nhân sinh ra và chấm đứt khi chết di. NLPLDS của cá nhân thường xuất hiện khi cá nhân sinh ra và cham dứt khi chết đi. Tương tự NLPLTTDS của cá nhân cũng là thuộc tính gắn liền với cá nhân suốt cuộc đời. NLTTDS mang đầy đủ những đặc điểm của NLPLDS. Theo đó, mọi cá nhân đều bình đắng về NLPLTTDS, NLPLTTDS của cá nhân không bị hạn chế bởi bat cứ lí do nào về độ ti, dân tộc, giới tính ..., mọi cá nhân đều có khả năng hưởng quyền như nhau và gánh chịu nghĩa vụ như nhau [20, tr. 79]. NLPLTTDS của cá nhân chỉ là tiền đề cho cơng dân có các quyền dân sự cụ thê.

Đề một chủ thể có quyền khởi kiện thì chỉ cần có năng lực pháp luật theo đó pháp luật quy định chủ thể đó có quyền khởi kiện. Tuy nhiên, để chủ thể này tự mình thực hiện việc khởi kiện thì chủ thể đó cần có NLPLTTDS và NLHVTTDS thơng thường. NLHVTTDS là khả năng bằng hành vi của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS. Cá nhân được coi là có NLHVTTDS thì cá nhân đó phải từ đủ 18 tuổi trở lên, có khả năng nhận thức và điều khiển

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

được hành vi của mình, nghĩa là họ không bị mắt hoặc hạn chế NLHVDS. Pháp luật hiện hành quy định người có NLHVTTDS có quyền tự mình khởi kiện hoặc làm giấy ủy quyền cho người một người khác có năng lực hành vi thay mặt mình

<small>khởi kiện (trừ việc ly hôn).</small>

Với trường hợp người chưa đủ 15 tuổi, người mat, việc bảo vệ quyền hay

<small>lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp</small>

của họ thực hiện, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự tham gia tổ tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó (khoản 4,5,6 Điều 57 BLTTDS).

Theo Điều 2 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HDTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ngày 03 tháng 12 năm 2012 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai ““Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ tham”’ của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bố sung theo Luật sửa đôi, bố sung một số điều của Bộ luật t6 tụng dân sự (Nghị quyết 05/2012/NQ-HDTP) thì khi xét thay cần khởi kiện vụ án tại Tồ án có thẩm quyền để u cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thì cá nhân, cơ quan, tổ chức phải làm đơn khởi kiện theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 164 của BLTTDS, cụ thé với các trường hợp: Thv nhát, đơi với cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, thì có thé tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục

<small>tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của cá nhân</small>

đó. Đồng thời, ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ. Thứ hai, đối với cá nhân là người từ đủ mười lam tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không mat năng lực hành vi dân sự, không bi han chế năng lực hành vi dân sự đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bang tài sản riêng của mình, thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án về tranh chấp có liên quan đến hợp đồng lao động hoặc giao dịch

<small>dân sự đó. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ</small>

tên, địa chỉ của cá nhân đó. Đồng thời, ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký

<small>tên hoặc diém chỉ. 7# ba, đôi với cá nhân là người chưa thành niên (trừ trường</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

hợp được hướng dan tại khoản 2 Điều nay), nguoi mat năng luc hành vi dan sự,

người bi han ché năng lực hành vi dân sự, thì người đại diện hợp pháp cua ho (đại diện theo pháp luật) có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi

<small>kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên,</small>

địa chỉ của người đại điện hợp pháp của cá nhân đó. Đồng thời, ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ. Thi? tw, d6i với cá nhân thuộc trường hợp thứ nhất, thứ hai, thứ ba là người khơng biết chữ, khơng nhìn được, khơng thể tự mình làm đơn khởi kiện, khơng thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án và phải

<small>có người làm chứng. Người làm chứng phải ký xác nhận việc khởi kiện và</small>

nội dung khởi kiện vào đơn khởi kiện trước mặt người có thâm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Người có thâm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận trước mặt người khởi kiện và người làm chứng. “Người làm chứng” trong trường hợp này phải là người có đầy đủ năng lực hành vi tổ tụng dân sự quy định tại Điều 57 của BLTTDS.

Đối với cơ quan, tổ chức muốn thực hiện quyền khởi kiện thì trước hết co quan, tổ chức đó phải có tư cách pháp nhân (van đề pháp nhân được quy định tại các Điều từ Điều 84 đến Điều 105 Chương 4 Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Dân sự). Theo quy định tại Điều 100 Bộ luật Dân sự thì có một số loại pháp nhân như: Thi nhất, cơ quan nhà nước, tơ chức chính trị xã hội; tô chức kinh tế. Pháp nhân là tổ chức kinh tế thì có thể là doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cơ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi và các tổ chức kinh tế khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 84 của Bộ luật Dân sự. Tổ chức kinh tế phải có đủ điều kiện và chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình. Thi hai, tơ chức chính trị xã hội — nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội — nghề nghiệp; quỹ xã hội, quỹ từ thiện; các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự. 7#ứ ba, cơ quan, tổ chức được coi là có đủ tư cách pháp nhân khi thỏa mãn các yếu tố : Được cơ quan nhà nước có thâm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc cơng

<small>nhận; có cơ câu, tơ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập với cá nhân, tô chức khác và</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập; đối với cơ quan, tơ chức khơng có tư cách pháp nhân nhưng được khởi kiện vụ án dan sự là co quan, tô chức được pháp luật quy định có quyên tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập [13, tr. 48].

Khác với năng lực chủ thể của cá nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân phát sinh đồng thời và tồn tại tương ứng với thời điểm thành lập và đình chỉ pháp nhân, đối với các pháp nhân theo quy định phải đăng ký hoạt động thi năng lực chủ thé phát sinh ké từ thời điểm đăng kí. Mỗi pháp nhân được thành lập đều có mục đích và nhiệm vụ nhất định (sản xuất kinh doanh hay một nhiệm vụ xã hội khác), do vậy năng lực chủ thé của pháp nhân phải phù hop

<small>với mục đích hoạt động của pháp nhân đó. Mục đích của pháp nhân được xác</small>

định bởi quyết định thành lập pháp nhân hoặc điều lệ của pháp nhân do cơ quan có thấm quyền đã thành lập pháp nhân đó chuẩn y, việc thay đổi mục đích hoạt động dẫn đến thay đổi năng lực chủ thể của pháp nhân. Năng lực pháp nhân là

<small>chuyên biệt, phù hợp với mục đích và lĩnh vực hoạt động của nó, vì vậy các</small>

pháp nhân khác nhau có năng lực chủ thé khác nhau [20, tr. 113]. Năng lực chủ thể của hộ gia đình phát sinh cùng việc hình thành hộ gia đình với tư cách là chủ thé của quan hệ pháp luật. Việc xác định hộ gia đình với tư cách là chủ thé của quan hệ pháp luật căn cứ vào điều kiện thực tế tồn tại trong gia đình vì pháp luật khơng quy định cách thức, trình tự phát sinh hay chấm dứt một hộ gia đình. NLPLTTDS của tổ hợp tác phát sinh đồng thời với việc thành lập và chấm dứt khi khơng cịn sự tồn tại của tổ hợp tác với tư cách là một chủ thê pháp luật. Pháp luật cho phép pháp nhân có quyền khởi kiện bảo vệ quyền hay lợi ích hợp

<small>pháp của pháp nhân thơng qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hoặc</small>

thông người được người đại điện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền, cụ thể: Về người đại diện hợp pháp của pháp nhân: theo quy định tại Điều 91 Bộ luật dan sự và Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự thì người đại diện hợp pháp của pháp nhân có thé là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Dai diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân; đại diện theo ủy quyền của pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

nhân là người được người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyên theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật dân sự về đại diện.

Hai là, chủ thể khởi kiện khi khởi kiện VADS phải có quyên, lợi ích bị xâm phạm hoặc khởi kiện dé bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích Nhà nước, lợi ích

<small>cong cong.</small>

- Ca nhân khởi kiện thi phải có quyền hay lợi ích bị vi phạm hoặc có tranh chấp và có năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc cá nhân đó có tư cách đại diện hợp pháp cho cá nhân mà người này có quyền, lợi ích bị vi phạm hoặc có tranh chấp về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Theo đó, khi cá nhân cho răng quyền hay lợi ích của mình đang bị người khác vi phạm hoặc tranh chấp thì có quyền được thực hiện việc khởi kiện hoặc ủy quyền

<small>cho người khác thực hiện việc khởi kiện. Việc pháp luật quy định một người khi</small>

có đủ điều kiện theo luật định có thể tự mình thực hiện việc khởi kiện hoặc

<small>người đại diện của người đó thực hiện việc khởi kiện (trừ trường hợp ly hơn) là</small>

hồn tồn hợp lý, phù hợp với thực tiễn cuộc sống khi con người còn bộn bề với lo toan công việc. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định ngay một người có quyên hay lợi ich bị vi phạm hay tranh chấp không phải là dé, bởi việc người di kiện nghĩ, và cho rằng quyền hay lợi ích của họ đang bị xâm phạm hay tranh chấp có trường hợp chỉ mình họ thấy vậy nhưng thực tế lại không như vậy. Nếu Tịa án cứ thụ lý và xét xử thì sẽ mat thời gian, công sức. Dé hạn chế những việc như vậy pháp luật yêu cầu người khởi kiện khi gửi đơn khởi kiện phải gửi kèm tài liệu chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp (Điều 165 BLTTDS). Vì mới ở giai đoạn khởi đầu của quá trình tổ tụng, nên chỉ cần người khởi kiện xuất trình một vai chứng cứ rất cơ bản, chứ khơng địi hỏi họ phải nộp đầy đủ chứng cứ. Nếu chủ thé khởi kiện, dù đã được Thâm phán giải thích hướng dẫn đầy đủ nhưng vẫn khơng xuất trình được chứng cứ chứng minh quyền lợi của mình bị xâm hại, hoặc thấy người khởi kiện khơng có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 168 BLTTDS để trả lại đơn khởi kiện. Pháp luật của Nhà nước ta không cho phép

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

một người lợi dụng quyền khởi kiện để khởi kiện một cách tùy tiện, không có căn cứ, gây khó khăn và xâm phạm đến quyên của người khác.

Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành cho phép cá nhân khi có đủ điều kiện khởi kiện có quyền ủy quyền cho cá nhân khác có NLHVTTDS thực hiện việc

khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích cho mình. Điều luật này đã tạo điều kiện

thuận lợi cho người dân khi thực hiện việc khởi kiện. Các quy định pháp luật đối

<small>với việc một người có NLHVTTDS đại diện cho một người khác mà người này</small>

có quyền, lợi ích bị vi phạm hoặc có tranh chấp về dân sự, hơn nhân và gia đình,

kinh doanh, thương mại, lao động cũng được áp dụng tương tự như đối với việc

<small>cá nhân tự mình thực hiện khởi kiện.</small>

- Pháp nhân khởi kiện thì phải có quyền hay lợi ich bi vi phạm hoặc có tranh chấp và việc khởi kiện phải do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.

Việc vi phạm hay tranh chấp của chủ thé khác đối với quyền, lợi ich của pháp nhân phải có thật trên thực tế. Do vậy, cũng giống như cá nhân đi kiện, pháp luật quy định pháp nhân muốn khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích của mình phải chứng minh được quyền, lợi ích đó bị vi phạm hay tranh chấp bằng việc gửi đơn kèm theo tài liệu, chứng cứ. Pháp nhân thực hiện khởi kiện để bảo vệ quyền

<small>hay lợi ích hợp pháp của pháp nhân thơng qua người đại diện theo pháp luật củapháp nhân hoặc thông người được người đại diện theo pháp luật của pháp nhân</small>

ủy quyền [46]. Khi xét thay có đủ điều kiện dé thụ lý vụ án, thì xác định nguyên đơn trong vụ án chính là cơ quan, tổ chức khởi kiện. Người đại diện theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền tham gia tố tụng, thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tô chức là nguyên đơn đó [47].

- Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hơn nhân và gia

<small>đình trong trường hợp do luật hơn nhân và gia đình quy định và chỉ khởi kiện</small>

khi khơng có ai khởi kiện. Cụ thể các cơ quan này được quyền khởi kiện đối với những vụ án yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (khoản 3 Điều 55), yêu cầu xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mat năng lực hành

<small>vi dân sự hoặc xác định con cho cha, me mat năng lực hành vi dân sự (khoản 3</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Điều 66). Theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết VADS năm 1989 thi “néu không có

người khởi kiện thì Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt

trận TỔ quốc trong phạm vi chức năng của mình có quyền khởi kiện hoặc dé nghị Viện kiểm sát xem xét việc khởi tô vụ án đối với những việc được quy định tại khoản 1 Diéu 28 của Pháp lệnh này”. Có thé nhận thay quy định này trước đây có phần tiễn bộ hơn quy định hiện tai bởi thực tế Ủy ban dân số, gia đình và

trẻ em, các cơ quan dân sé, gia dinh va tre em tai dia phuong da chấm dứt hoạt

động từ tháng 8 năm 2007 theo Quyết định số 1001/QĐ-TTg ngày 08/08/2007 của Thủ tướng chính phủ. Từ đây khơng cịn chủ thé nay dé thực hiện việc khởi kiện VADS bảo vệ quyền và lợi ích cho người khác. Vậy trường hợp người cha già yếu và mat năng lực hành vi dan sự mà các con khơng chăm sóc ni dưỡng thì ai sẽ là người khởi kiện để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp cho người cha này nếu người cha này khơng có người đại diện. Vì vậy, theo quan điểm cá nhân tác giả mong muốn pháp luật khôi phục lại quyền khởi kiện của Ủy ban mặt trận Tổ quốc, các tô chức thành viên của Mặt trận tổ quốc và quyền khởi tố của VKSND để bảo vệ quyền, lợi ích cho những cá nhân khơng có quyền khởi kiện

<small>và khơng cịn ai bảo vệ, hoặc bảo vệ lợi ích chính đáng của xã hội, của nhà nước</small>

- Cơng đồn cấp trên của cơng đồn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thé người lao động do pháp luật quy định. Quy định này hoàn tồn phù hợp với thực tiến bởi đã góp phần bảo vệ người lao động khi quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị vi phạm hay tranh chấp.

Những điều kiện trên day nhằm han chế việc người dân đi kiện tràn lan. Thực tế hiện nay nhận thức pháp luật cịn hạn chế, đơi khi chỉ là lời qua tiếng lại, sự việc không hề mang dáng dấp của một quan hệ tranh chấp dân sự, đơn giản họ tức giận lên là đem nhau ra Tòa kiện cáo. Khi xã hội càng phát triển thì những tranh chấp phát sinh càng nhiều và phức tạp, lượng án mà Tịa thụ lý hàng năm ln trong tình trạng q tải, việc kiện tụng tràn làn như vậy là không cần thiết và sẽ cực kỳ gây khó khăn cho Tịa án cũng như các cơ quan có thâm quyền liên quan nếu họ buộc phải thụ lý những việc như vậy. Lời khuyên cho những chủ thể

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

này là nên chọn giải pháp kiềm chế nóng giận, tự thỏa thuận hịa giải mà khơng nên đưa ra Tịa. Chính vì lẽ đó pháp luật quy định cho người dân quyền khởi kiện nhưng khơng có nghĩa là họ được quyền thực hiện hoạt động khởi kiện mà khơng có điều kiện gì, việc thực hiện hoạt động khởi kiện trên cơ sở những điều kiện luật định đảm bảo cho chủ thê khởi kiện sẽ được pháp luật bảo vệ. Theo đó, chủ thể được khởi kiện khi có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và có quyền, lợi ích bị xâm hại hay tranh chấp hoặc trong phạm vi chức năng, quyền hạn của mình có thể khởi kiện để bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng khi người khác đó có quyền, lợi ích bị xâm phạm hay tranh chấp. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có quy định về việc khởi kiện yêu cầu giải quyết các tranh chấp của các dong họ về nhà thờ tổ, gia tộc, tôn giáo ..., cũng chưa có quy định ai sẽ được là người đại diện cho tập thể này để thực hiện việc khởi kiện địi quyền, lợi ích của tập thể khi bị xâm phạm, hay tranh chấp. Điều này chính là sự thiếu sót của pháp luật hiện hành.

2.2.2. Vu án được khởi kiện phải thuộc tham quyền của Tòa án

Thâm quyền giải quyết các vụ việc của Tòa án là quyền xem xét, giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra các quyết định khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng dân sự của Tòa án. Việc xác định một cách khoa học và hợp

lý thâm quyền dân sự của Tòa án tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện

<small>nhiệm vụ giữa Tòa án với các cơ quan nhà nước giữa các Tòa án với nhau và xác</small>

định các điều kiện cần thiết bảo đảm cho Tòa án thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Từ đó cũng giúp cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện thực hiện tìm tới được đúng nơi Tịa án có thâm giải quyết dé bảo vệ tốt nhất quyền hay lợi ich hợp pháp của mình. Vì vậy, để thực hiện việc khởi kiện có hiệu quả chủ thé khởi kiện phải gửi don tới đúng Tịa án có thâm qun giải quyết tranh chấp theo quy định pháp luật. Tham quyền của Tòa án được quy định tai BLTTDS sửa đổi, bổ sung gồm: thâm quyền theo loại việc từ Điều 25 đến Điều 32; thâm quyền theo cấp (Điều 33, 34); thâm quyên theo lãnh thé (Điều 35, 36).

Khi tiếp nhận đơn khởi kiện thì Tham phán được phân cơng phải xem xét đơn khởi kiện có thuộc thâm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại các

</div>

×