Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.1 MB, 77 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
NGƯỜI HUONG DAN KHOA HỌC : PGS TS. NGUYEN VIET TY
HA NOI - 2015
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">lực của bản thân, em đã nhận được rất nhiễu sự giúp đồ, động viên và hướng dan của các thay cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt khóa học
<small>cũng như thời gian nghiên cứu dé tài luận văn.</small>
Với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS Nguyễn Viết Tỷ — thay giáo kính mến đã hết lịng giúp đỡ, tận tình hướng dân, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho em trong suốt quá trình thực hiện
<small>nghiên cứu Luận văn của mình.</small>
Đơng thời, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giảm hiệu, tồn thể quỷ thay cơ, can bộ trong Phong Đào tao, Khoa Sau dai hoc, Khoa Pháp luật kinh tế và cán bộ Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo mọi diéu kiện thuận lợi cho em trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và
<small>hồn thành luận văn thạc sĩ.</small>
Cuối cùng, em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn ở cạnh động viên và giúp đỡ em trong qua trình học tập và thực hiện đê tài nghiên cứu của mình.
<small>Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 2015</small>
<small>Học viên</small>
<small>Vii Huy Hoàng</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">nghiên cứu và kết quả trong luận văn này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các ngn khác nhau có ghi rõ trong phan tài liệu tham khảo. Ngồi ra, dé tài cịn sử dung một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tô chức khác và cũng thể hiện trong phan tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất cứ sự gian lận nào, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng cũng nhự kết
<small>quả luận văn của mình.</small>
<small>Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 2015</small>
<small>Học viên</small>
<small>Vũ Huy Hoàng</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">MỞ ĐẦU
<small>CHUONG 1: MOT SO VAN DE CƠ BAN VE PHA SAN VÀ PHÁP LUẬTPHA SAN</small>
1.1. Khai quat doanh nghiép mat kha nang thanh toan ng dén han
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn 1.1.2. Khái quát tài sản của doanh nghiệp mat khả năng thanh toán
nợ đến hạn
1.2. Khái quát về pháp luật phá sản <small>1.2.1. Khái niệm pháp luật phá san</small>
<small>1.2.2. Nội dung của pháp luật phá san</small>
<small>1.3. Thủ tục phá sản — Nội dung cơ bản của pháp luật phá san</small>
<small>1.3.1. Khái niệm thủ tục phá sản</small>
1.3.2. Đặc điểm của thủ tục phá sản
<small>1.3.3. Vai trò của thủ tục pha sản</small>
1.3.4. Khái quát sự hình thành và phát triển của quy định pháp luật về thủ tục phá sản ở Việt Nam
<small>CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CUA THỦ TỤC GIẢI QUYET YEU CAU PHA SANTHEO LUAT PHA SAN NAM 2014</small>
2.1. Những quy định về thắm quyền giải quyết yêu cầu phá sản 2.2. Chủ thể tham gia quá trình giải quyết yêu cầu phá sản
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">2.3.1. Nộp và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 2.3.2. Mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá san
<small>2.3.3. Hội nghị chủ nợ</small>
2.3.4. Phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mat khả năng thanh toán nợ đến hạn
2.3.5. Tuyên bố DN, HTX bị phá sản
2.3.6. Xử lý nợ của doanh nghiệp mat kha năng thanh tốn nợ đến
2.4. Trình tự giải quyết yêu cầu phá sản trong các trường hợp đặc biệt 2.4.1. Trình tự giải quyết yêu cầu phá sản của Tổ chức tin dung
2.4.2. Trình tự giải quyết yêu cầu phá sản rút gon
2.4.3. Trình tự giải quyết u câu phá sản có yếu tố nước ngồi
<small>CHƯƠNG 3: THUC TIEN THI HANH THỦ TỤC PHA SAN VÀ MỘT SOKIEN NGHI NHAM THUC THI CO HIEU QUA THU TUCPHA SAN THEO LUAT PHA SAN NAM 2014</small>
3.1. Thực tiễn thi hành thủ tục phá san theo Luật Phá san (2004)
3.2. Một số kiến nghị nhằm thực thi có hiệu quả thủ tục phá sản theo
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Luật phá sản năm 2004 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực thi hành ké từ ngày 15/10/2004 và thay thế Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993. Tổng kết thi hành Luật Phá sản cho thấy, qua chín năm thực hiện, với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993,
tồn ngành Tịa án chỉ thụ lý 151 đơn u cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp,
trong đó chỉ tuyên bố được 46 doanh nghiệp bị phá sản. Với Luật Phá sản năm 2004, Tòa án thụ lý tổng số 336 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, ra quyết định mở thủ tục phá sản 236 trường hợp, và cũng chỉ quyết định tuyên bố phá sản được
<small>83 trường hợp. Năm 2012, có 69.874 doanh nghiệp đăng ký, trong khi đó có44.906 doanh nghiệp dừng hoạt động và 9.355 doanh nghiệp giải [24]. Như vậy,</small> tình hình thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 đã được cải thiện nhưng vẫn cịn gặp nhiều khó khăn. Số
lượng đơn yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản so với số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động là rất thấp, hiệu quả giải quyết việc phá sản ở các cấp Tòa án vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn.
<small>Sau khi Luật Phá sản (2004) được ban hành, ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị</small>
đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thong pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; trong đó tại Mục 3 Phần II về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh
<small>doanh có nhận định: “...Xay dung một khung pháp luật chung cho các doanh</small>
nghiệp thuộc mọi thành phan kinh tế, xóa bỏ đặc quyên và độc quyên kinh doanh, cải thiện môi trường dau tư; từng bước thống nhất pháp luật áp dụng đổi với dau tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng theo hướng tôn trọng thoả thuận của các bên giao kết hợp dong, không trái với
<small>đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp với tập quán, thônglệ thương mại quốc tế. Đồi mới cơ bản pháp luật về phá sản”.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">nghị và được Quốc hội quyết định đưa Dự án Luật Phá san (sửa đơi) vào Chương trình xây dung luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII (2011-2016).
Ngày 19/6/2014, tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật phá sản số 51/2014/QH13. Luật có hiệu lực thi hành ké từ ngày 01/01/2015. Luật Phá san (2004) gồm 9 chương với 95 điều luật, Luật Phá sản (2014) bao gồm 14 chương với 133 Điều luật. So với
Luật Phá sản (2004), Luật Phá sản (2014) được đánh giá là có những sửa đổi khá
căn bản và tồn diện. Một số nội dung sửa đơi, bố sung như: tiêu chí xác định Doanh nghiệp, hợp tác xã (DN, HTX) lâm vào tình trạng phá sản, chế định quản tài viên, về thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản...
Phá sản là một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thi trường, kinh tế thị
trường phát triển thi phá sản càng phố biến, từ đó sự nhận thức và vận dụng đúng những quy định của Luật Phá sản không chỉ nhằm giải quyết vụ việc phá sản đúng pháp luật mà cịn góp phan bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của các chủ nợ, cơ cấu lại
nền kinh tế. Từ nhận thức trên, tác giả cho rằng chỉ có trên cơ sở vận dụng đúng
dan những nguyên tắc của pháp luật phá sản nói chung và những quy định về thủ tục phá sản nói riêng mới là cơ sở dé tìm ra những giải pháp gop phần ngày một hoàn thiện pháp luật về phá sản. Trong các van đề được sửa đổi bổ sung ở Luật Phá sản (2014), yêu cầu về việc giải quyết vụ việc phá sản được kịp thời, hợp lý, nhanh chóng là vấn đề được quan tâm nhiều hơn cả. Điều đó cho thấy quy định về
thủ tục giải quyết phá sản cần phải chặt chẽ, cụ thể và đầy đủ.
Hiện nay, Luật Phá sản (2014) với nhiều điểm mới và cũng chỉ mới có hiệu lực thi hành trong thời gian ngắn nên việc áp dụng trên thực tế vẫn còn
những vướng mặc. Với việc lựa chon đề tài “Thi tuc pha sản theo Luật pha san
năm 2014”, tác giả luận văn mong muốn trình bày và phân tích một cách có hệ
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi ban hành và có hiệu lực đến nay, việc học tập, nghiên cứu Luật Phá sản (2004) đã được sự quan tâm hưởng ứng của mọi cấp, mọi ngành và các
tang lớp nhân dân, nhất là các nhà kinh doanh. Cùng với những áp lực đặt ra trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật của một nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, các hoạt động nghiên cứu về thủ tục phá sản thông qua việc
nghiên cứu về Luật Phá sản đã có những bước tiến quan trong. Đã có nhiều cơng trình ở các cấp độ khác nhau nghiên cứu về thủ tục phá sản theo Luật Phá sản (2004), có thé kể đến như:
- Cun “Pháp Luật phá sản của Việt Nam” của PGS, TS. Duong Đăng Huệ, xuất bản năm 2005.
- Một số bài viết, cơng trình nghiên cứu có liên quan như Đề tài nghiên cứu: “Thuc trạng pháp luật về phá sản và việc hồn thiện mơi trường pháp luật
<small>kinh doanh tại Việt Nam” thang 11/2008 — chủ biên PGS. TS Dương Đăng Huệ,</small>
Thạc sĩ Nguyễn Thanh Tịnh; chuyên đề khoa học xét xử: “Tim hiểu pháp luật phá san” của TAND tỗi cao vào tháng 4/2010; “Mét số ý kiến về thủ tục phá sản của luật phá sản hiện hành và kiến nghị hoàn thiện ” — Trần Thị Tâm, Đặng Thu
Hà, Tạp chí TAND, TAND tối cao, số 4/2013; “Trinh tự, thủ tục nộp đơn yêu
cẩu mở thủ tục pha san” — Thạc si Vũ Hồng Vân, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao, số 19/2005;...
- Bên cạnh đó, một số luận văn thạc sĩ đã có nghiên cứu về vẫn đề này
như: “Thi tục giải quyết phán sản theo luật phá sản (2004) ” — luận văn thạc sĩ luật học 2005 — Đồng Thai Quang; “Thu tuc phá san - Thực trạng và hướng hoàn thiện ” — luận văn thạc sĩ luật học 2009 — Dao Thi Hong Phuong; “Phap luật về nộp don và thụ lý don yêu câu mở thủ tục phá sản - Những van dé lý luận và thuc tiên ” — luận văn thạc sĩ luật học 2012 — Ngô Thị Thu Thủy; ...
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><small>Tuy nhiên, những cơng trình nghiên cứu trên được thực hiện trước khi có LuậtPhá sản (2014). Do đó, những quy định mới của Luật Phá sản (2014), trong đó</small>
có những quy định về thủ tục phá sản chưa được nghiên cứu, lý giải một cách đầy đủ. Những thay đổi mới của Luật Phá sản (2014) về thủ tục phá sản địi hỏi
phải có sự nhất qn trong cách hiểu và vận dụng những thủ tục này trong thực
tiễn, đây cũng chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài nói trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu, hệ thống hóa những quan điểm lý luận về thủ tục phá sản doanh nghiệp; làm sáng tỏ các quy định về thủ tục phá
sản theo Luật Phá sản (2014). Tìm kiếm một số giải pháp nhằm thực thi có hiệu <small>quả Luật Phá sản (2014).</small>
<small>- Nhiệm vụ nghiên cứu:</small>
+ Hệ thống hóa và giải quyết những vẫn đề lý luận về phá sản và pháp
<small>luật phá sản;</small>
+ Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những quy định Luật Phá sản (2014) về thủ tục phá sản trong mối quan hệ so sánh với Luật Phá sản (2004);
+ Nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng Luật Phá sản (2004), từ đó đề
ra một số biện pháp nhăm thực thi có hiệu quả Luật Phá sản (2014).
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Về phương diện lý luận, luận văn tập trung nghiên cứu, lý giải tính đặc thù của thủ tục phá sản trong mối quan hệ với thủ tục tố tụng dân sự.
Về phương diện luật thực định, luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của Luật Phá sản (2014) về trình tự, các bước, các thủ tục dé tiễn hành giải quyết một vụ phá sản,
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">pháp luật hiện hành về thủ tục phá sản. Bởi vậy, phương pháp phân tích là
phương pháp đặc trưng, xun suốt tồn bộ đề tài. Ngồi ra, Luận văn cịn sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp tổng hợp, thống kê, phương pháp so sánh và đối chiếu. Các phương pháp nghiên cứu trong Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng của phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, trên cơ sở các quan điểm, đường lối về chính tri, kinh tế, văn hốc và xã
<small>hội của Đảng cộng sản Việt Nam.</small>
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
<small>Luận văn đã có những đóng góp mới quan trọng sau:</small>
+ Phân tích sâu sắc và khoa học những quy phạm của pháp luật thực định về thủ tục phá sản;
<small>+ Thông qua sự đánh giá phân tích này, Luận văn đã chỉ ra những ưu và</small>
nhược điểm của các quy định trong mảng thủ tục phá sản;
+ Trong mối tương quan so sánh giữa Luật Phá sản (2004) và Luật Phá sản (2014), Luận văn đã chỉ rõ một số điểm mới tiễn bộ của Luật mới so với Luật cũ;
+ Đưa ra một số đề xuất nhằm thực thi có hiệu quả Luật Phá sản (2014). 7. Kết cầu của Luận văn
Ngoài phân mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số van đề cơ bản về phá sản và pháp luật phá sản;
Chương 2: Nôi dung của thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản theo Luật phá
<small>sản năm 2014;</small>
Chương 3: Thực tiễn thi hành thủ tục phá sản và một số kiến nghị nhằm
<small>thực thi có hiệu quả thủ tục phá sản theo Luật phá sản năm 2014.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">1.1. Khái quát doanh nghiệp mat khả năng thanh toán nợ đến han
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp mắt khả năng thanh toán nợ đến hạn
“Phá sản” hay “vỡ nợ” là tình trạng xảy ra khá phổ biến trong nên kinh tế thị trường, đặc biệt khi các doanh nghiệp gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt, sự
khan hiếm nguồn vốn hay sự quản lý tài chính lỏng lẻo.
Nguồn gốc của thuật ngữ phá sản được giải thích theo nhiều quan niệm khác nhau. Ở các nước châu Âu, khi nói đến phá sản người ta thường dùng thuật ngữ "Bankruptcy" hoặc "Banqueroute". Từ này bắt nguồn từ chữ Banca Rotta trong
tiếng La Mã cổ có nghĩa là " chiếc ghế bị gãy". Thời đó, các thương gia của
thành phố thường tập trung lại thành "hội nghị các thương gia", thương gia nào mat khả năng thanh toán nợ cũng đồng thời mat luôn quyền tham gia hội nghị, do đó ghế của thương gia này bị dem ra khỏi hội trường [28; tr3]. Do đó, ở La Mã thời đó có nhiều con nợ thấy rằng nếu khơng trả được nợ thì "chn là hơn", nên
họ thường bỏ trốn. Dé ổn định trật tự xã hội, Nhà nước La Mã phải đứng ra
cưỡng chế tài sản của con nợ trả cho chủ nợ. Cách làm này cũng thích hợp đối với trường hợp con nợ chỉ mắc nợ một người. Nhưng khi cùng một lúc con nợ phải trả cho nhiều chủ nợ thì dé xảy ra tranh chấp. Bởi thế người ta thấy dé tòa án địa phương (của con nợ) đứng ra quản lý số tài sản, rồi phân chia tài sản này cho các chủ nợ tuỳ theo vốn và lãi của mỗi người [35]. Cùng với sự phát triển của nên kinh tế, chế định này được hoàn chỉnh và đã được nâng lên thành Luật
<small>Phá sản của Nhà nước La Mã cô đại.</small>
Ở những quan niệm khác, có người cho rằng từ phá sản bắt nguồn từ chữ "ruin" trong tiếng la-tinh, có nghĩa là "sự khánh tan". Khái niệm nay dùng dé chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi của một nhà kinh doanh. Biểu hiện trực
tiếp của sự mất cân đối ấy là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
<small>(insolvency) [24].</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">tục phá sản đối với doanh nghiệp. Do đặc điểm kinh tế - xã hội cũng như hệ thống pháp luật của các nước có sự khác nhau, nên quan điểm về tình trạng phá sản của doanh nghiệp trong pháp luật các nước có sự khác biệt. Pháp luật về phá
<small>sản của các nước trên thê giới hiện nay đang sử dụng hai quan điêm sau:</small>
- Quan điểm "định lượng": theo quan điểm này một doanh nghiệp bị coi là
lâm vào tình trạng phá sản, khi khơng thanh tốn được một món nợ đến hạn có giá trị tối thiêu đã được an định trong Luật Phá sản.
- Quan điểm "định tính": xác định tình trạng phá sản khơng phụ thuộc vào
giá trị khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp không trả được, một doanh nghiệp bị coi là lâm vào tình trạng phá sản nếu tơng số nợ của doanh nghiệp vượt quá khả <small>năng thanh toán của doanh nghiệp đó. [25, tr.113, 114]</small>
<small>Luật Phá sản Việt Nam 2004 đã đưa ra tiêu chí xác định doanh nghiệp lâm</small> vào tình trạng phá sản tại Điều 3 như sau: "DN, HTX khơng có khả năng thanh
tốn được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có u câu thì coi là lâm vào tình trạng
<small>pha san.” Luật Pha sản (2004) cũng như Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 không</small>
đưa ra định nghĩa thế nào là pha sản mà chỉ đưa ra khái nệm DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Khái niệm phá sản lần đầu tiên được quy định trong Luật Phá sản
(2014) tại Khoản 2, Điều 4 với nội dung như sau: “Phd sản là tinh trang của DN,
HTX mat khả năng thanh toán và bị TAND ra quyết định tuyên bố phá san”.
Khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản (2014) cũng đưa ra khái niệm thé nào là DN,
HTX mat khả năng thanh tốn, theo đó: “DN, HTX mất khả năng thanh tốn là DN,
HTX khơng thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 3 tháng kề từ ngày đến hạn thanh tốn”
Có thé thấy, nếu như Luật Phá sản (2004) chỉ quy định chung chung thì Luật
Phá san (2014) đã có những thay đổi theo hướng rõ ràng và cụ thé hơn. Luật Phá sản
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">định dấu hiệu cụ thé dé xác định doanh nghiệp mat khả năng thanh tốn nợ đến hạn cịn Luật Phá sản (2014) đã xác định rõ doanh nghiệp mat khả năng thanh toán
là khơng thực hiện nghĩa vụ thanh tốn khoản nợ trong thời hạn 3 tháng kê từ ngày
đến hạn thanh toán. Nghiên cứu dau hiệu mat kha năng thanh toán nợ đến hạn, ta
<small>có thê thây một sơ đặc điêm sau:</small>
Thứ nhất, mat khả năng thanh tốn khơng có nghĩa là doanh nghiệp hồn
tồn cạn kiệt tài sản, doanh nghiệp có thé có nhiều tài sản mà vẫn mat khả năng <small>thanh tốn.</small>
Thứ hai, mat khả năng thanh tốn khơng chỉ là hiện tượng doanh nghiệp
khơng thanh tốn được nợ mà nó cịn thé hiện doanh nghiệp dang lâm vào tình trang tài chính tuyệt vọng, khơng có giải pháp dé trả được nợ, trừ khi có sự can <small>thiệp của tòa án hoặc sự giúp đỡ của chủ nợ.</small>
Thứ ba, do tình hình tài chính trong các doanh nghiệp rất khác nhau nên
pháp luật không quy định mất khả năng thanh tốn cụ thể một khoản nợ bao <small>nhiêu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản; có doanh nghiệp nợ chỉ một trăm</small>
triệu đã không thê trả được nợ nhưng cũng có doanh nghiệp nợ tới một vài tỷ
<small>vân có khả năng thanh tốn.</small>
Thứ tu, bản chất của việc mat khả năng thanh tốn có thể khơng trùng với biểu hiện bên ngoài là trả được nợ hay không. Nhiều doanh nghiệp không trả được nợ nhưng điều này chỉ có tính chất nhất thời trong khi hoạt động của doanh nghiệp
vẫn diễn ra bình thường. Ngược lại, có những doanh nghiệp sự trả nợ chỉ là trá hình, che đậy tình trạng tài chính tuyệt vọng của doanh nghiệp, họ phải sử dụng nhiều
cách thức gian tra dé bù dap ngân quỹ như vay nặng lãi, thé chấp tai sản...
Luật Phá sản (2014) không yêu cầu việc xác định hay phải có căn cứ chứng minh DN, HTX khơng có khả năng thanh tốn bằng bảng cân đối tài
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">đã thé hiện rõ tiêu chí mat khả năng thanh tốn khơng phụ thuộc vào số lượng khoản nợ mà chỉ cần một khoản nợ. Bên cạnh đó, Luật Phá sản (2014) cũng
khơng quy định giới hạn các khoản nợ nao. Điều này có thé hiểu là bất kỳ khoản
nợ nào dù là nợ lương, nợ thuế, nợ phát sinh từ hợp đồng... thì chủ nợ là cá nhân, <small>cơ quan, tơ chức đêu có quyên yêu câu mở thủ tục phá sản với DN, HTX.</small>
Với những quy định mới của Luật Phá sản (2014), quyền của chủ nợ được bảo đảm tối đa, bởi dé yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ nợ khơng cần chứng minh đã có u cầu thanh tốn. Và khi đã được quy định rõ ràng về thời điểm phát sinh quyên và nghĩa vụ thi chủ nợ dé dàng xác định lúc nào họ được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, đồng thời ràng buộc DN, HTX khơng có khả năng thanh tốn rằng tại thời điểm nào thì họ có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Ngoài ra, quy định này cũng khắc phục tình trạng lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía các chủ nợ như quy định cũ. Đối với con
nợ, nếu không trả nợ đúng hạn, con nợ không chỉ chịu nguy cơ bị khởi kiện dân sự
mà cịn có thê bị u cầu mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên, Luật Phá sản (2014) vẫn dành một khoảng thời gian 03 tháng ké từ ngày khoản nợ đến hạn dé DN, HTX tự giải quyết những khó khăn về tài chính tạm thời, qua đó tạo thêm cơ hội dé DN,
HTX thanh toán nợ và giảm áp lực “đe dọa” nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ <small>phía chủ nợ.</small>
1.1.2. Khái quát tài sản của doanh nghiệp mat khả năng thanh toán nợ
<small>dén han</small>
Bat kỳ một doanh nghiệp, một tô chức nào muốn tiễn hành kinh doanh cũng địi hỏi phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó biểu hiện dưới dạng vật chất hay phi vật chất gọi là tài sản. Tài sản của doanh nghiệp mat kha năng
thanh toán nợ đến hạn là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng <small>hợp pháp của doanh nghiệp đó, phục vụ cho hoạt động thương mại</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>Tài sản doanh nghiệp gôm hai loại: Tài sản lưu động và tài sản cô định.</small>
+ Tài sản lưu động là những tai sản thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp nhưng có giá trị nhỏ hoặc thời gian sử dụng, thu hồi, luân chuyên vốn nhỏ hơn một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động gồm: (i) Tài
sản lưu động sản xuất như: nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ... đang dự trữ trong kho chuẩn bị cho quá trình sản xuất hoặc đang trong quá trình sản xuất do dang; (ii) Tài sản lưu động lưu thơng như: thành phẩm, hàng hố dự trữ, hàng hoá gửi ban; (iii) Tài sản lưu động tài chính: như tiền, các khoản phải thu, đầu tư ngắn hạn.
+ Tài sản có định là những tài sản có giá trị lớn và có thời gian sử dụng, luân chuyên lớn hơn một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh như tài sản cố định
hữu hình, vơ hình, tài sản cố định thuê ngoài dài hạn, các khoản đầu tư tài chính
dài hạn, các khoản đầu tư xây dựng cơ bản... Đặc điểm của loại tài sản này là
không thê thu hồi trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh.
Tài sản cố định hữu hình là những tài sản cố định có hình thái vật chat cụ
thé do doanh nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh như: trụ sở, cửa hàng, kho tảng, máy móc, thiết bị cơng tác, phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫn...
Tài sản cố định vô hình là những tài sản khơng có hình thái vật chat cụ thé,
nhưng phản ánh một lượng giá trị lớn mà doanh nghiệp đã thực sự bỏ ra đầu tư
như: nhãn hiệu hàng hóa; phát minh sáng chế; lợi thế kinh doanh, vi dụ như lợi thé của địa điểm kinh doanh, điều này có ý nghĩa quan trọng khi xác định giá trị quyền sử dụng đất; tay nghề của người lao động trong doanh nghiệp, có ý nghĩa
khi trả một số phụ cấp cho họ khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản...
Tài sản cố định tài chính là giá tri của các khoản đầu tư tài chính dài hạn với mục đích kiếm lời, thời gian thu hồi vốn lớn hơn một năm hay một chu kỳ
kinh doanh như: đầu tư liên doanh dài hạn, cho thuê tài sản cơ định, đầu tư chứng <small>khốn đài hạn.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">1.2. Khái quát về pháp luật phá sản <small>1.2.1. Khái niệm pháp luật phá sản</small>
Các quan hệ xã hội phát sinh từ tình trạng phá sản của doanh nghiệp cần thiết phải được điều chỉnh bởi pháp luật. Như hau hết các quốc gia trên thé giới, pháp luật Việt Nam rất quan tâm đến việc xây dựng các chế định của Luật Phá sản
với mục tiêu hạn chế những hậu quả do phá sản gây ra, bảo vệ quyền lợi của các chủ thê tham gia quan hệ kinh tế trước những rủi ro trong kinh doanh, từ đó góp phần ồn định trật tự đời sống xã hội.
<small>Pháp luật phá sản là toàn bộ các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban</small> hành, quy định về điều kiện mở thủ tục phá sản và điều kiện tuyên bố phá sản DN, HTX; quy định trình tự, thủ tục giải quyết và yêu cầu mở thủ tục phá sản
cũng như thi hành quyết định tuyên bồ phá sản; về địa vị pháp lý và mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia tố tụng phá sản và các vấn đề khác phát sinh liên quan đến giải quyết phá sản. Giáo trình Luật Thương Mai tập 2 — Trường Dai học
Luật Hà Nội (2014) có đưa ra khái niệm như sau: “Pháp luật phá sản có thể hiểu
là tong thé các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, diéu chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cau phá sản doanh nghiệp,
<small>hợp tác xã.. `</small>
Pháp luật phá sản là một chế định đặc thù khi vừa chứa đựng các quy phạm <small>của pháp luật nội dung, vừa chứa đựng các quy phạm của pháp luật hình thức</small>
(pháp luật tố tụng). Với tư cách là pháp luật nội dung, pháp luật phá sản điều
<small>chỉnh các quan hệ tài sản giữa chủ nợ và con nợ. Với tư cách là pháp luật hình</small>
thức, pháp luật phá sản điều chỉnh quan hệ tố tụng giữa co quan nhà nước có thâm quyên với chủ nợ, con nợ và những người có liên quan, quy định quyền và nghĩa vụ tơ tụng của các chủ thể, trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu pha san DN, HTX.
Nhu vậy, pháp luật phá sản điều chỉnh hai nhóm quan hệ: quan hệ tai san giữa chủ
nợ và con nợ; quan hệ tố tụng giữa các đương sự với cơ quan nhà nước có thâm qun [21, tr.352].
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><small>® Quan hệ giữa chủ nợ và con nợ</small>
Quan hệ giữa chủ nợ và con nợ có bản chất là quan hệ tài sản, được hình
thành từ q trình tơ chức thực hiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chủ thê tham gia các quan hệ tài sản này là chủ nợ và con nợ. Chủ nợ là các tô chức, cá nhân có khoản nợ chưa được DN, HTX mắc nợ thanh toán. Chủ nợ
<small>được chia ra làm ba loại: chủ nợ có bảo dam, chu nợ khơng có bao đảm va chu</small>
nợ có bảo đảm một phần (Khoản 4, 5, 6 Điều 4 Luật Phá sản (2014)). Còn con nợ chính là DN, HTX mất khả năng thanh tốn, khơng thực hiện nghĩa vụ thanh
tốn khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán và bị TAND ra quyết định tuyên bố phá sản.
<small>Khách thê của quan hệ giữa chủ nợ và con nợ là tài sản của DN, HTX lâmvào tình trang phá sản. Nội dung của quan hệ tai sản giữa con nợ va chủ nợ chínhlà những quyên và nghĩa vụ tài sản của các chủ thê đó.</small>
<small>® Quan hệ tơ tụng giữa các đương sự với cơ quan nhà nước có thâm quyên</small>
Khác với quan hệ tài sản giữa chủ nợ và con nợ, quan hệ tố tụng giữa các đương sự với cơ quan nhà nước có thâm quyền có những dấu hiệu riêng của nó. Về chủ thể; một bên là các đương sự gồm chủ nợ, con nợ và những người có liên quan như người lao động, cô đông công ty cô phan... (trong trường hợp họ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản); một bên là các cơ quan nhà nước có thâm quyền như
<small>TAND, VKSND, Quan tài viên, doanh nghiệp quan lý, thanh lý tài sản, cơ quan thi</small>
hành án dân sự. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là một chế định mới của Luật Phá sản (2014). Ở chừng mực nhất định, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản được coi là một nghề hoạt động vì lợi nhuận. Nhưng
<small>trong quan hệ pháp luật phá sản, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài</small>
sản do Tòa án chỉ định dé thực hiện công việc quản lý thanh lý tài sản, giúp việc cho Tịa án trong q trình giải quyết yêu cầu phá sản với những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định. Vì vậy, có thể coi quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài
<small>sản năm trong thành phân các cơ quan nhà nước có thâm quyên.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Khách thể của quan hệ này chính là quá trình giải quyết yêu cầu phá sản DN, HTX. Nội dung của quan hệ này là những quyền và nghĩa vụ tố tụng của các
đương sự trước Nhà nước hoặc là các hành vi tố tụng của các cơ quan nhà nước có thâm quyên.
<small>1.2.2. Nội dung của pháp luật phá sản</small>
Nội dung của pháp luật phá sản bị chi phối bởi nhiều yếu tố, cả khách quan
và chủ quan, như cơ chế quản lý kinh tế, trình độ phát triển của thị trường, phong
tục tập quán, trình độ, năng lực lập pháp... Phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội
cụ thé của các quốc gia trong từng thời kỳ mà nội dung của pháp luật phá sản
<small>được xây dựng một cách phù hợp. Những nội dung của pháp luật phá sản hiện nay</small>
ở Việt Nam được thể hiện trong Luật Phá sản năm 2014 và các văn bản hướng dẫn
thi hành. Nhìn chung pháp luật phá sản bao gồm những nội dung cơ bản như: đối
tượng áp dụng của Luật Phá sản; lý do phá sản; co quan có thẩm quyên giải quyết yêu cau pha sản; thủ tục giải quyết yêu cầu phá san.
e Vé đối tượng áp dụng của Luật phá sản
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Phá sản (2004) thì đối tượng áp
<small>dụng của Luật nay là: “Doanh nghiệp, hop tác xã, liên hiệp hop tác xã đượcthành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật. Theo quy định này thì Luật</small>
Phá sản (2004) chỉ áp dụng đối với DN, HTX. Trong quá trình xây dựng Luật Phá
sản (2014), nhiều ý kiến cho rằng cần bổ sung đối tượng áp dụng của Luật này là
cá nhân, tô hợp tác, hộ gia đình, xí nghiệp có đăng ký kinh doanh, trường Đại học và trường ở các cấp học khác nếu lâm vào tình trạng mat kha năng thanh tốn nợ đến han thì đều có thé giải quyết theo thủ tục phá sản. Quan điểm này cho rằng, việc mở rộng các đối tượng này phù hợp với khuyến nghị số 8 và 9 của
Khuyến nghị Hướng dẫn xây dựng pháp Luật Phá sản của Ủy ban Luật thương
mại quốc tế của Liên hiệp quốc (UNCITRAL) và một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Pháp, Đức, Anh, Nga, Latvia... đều quy định áp dụng pháp luật phá sản đối với mọi chủ thê có đăng ký kinh doanh [32].
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành thì cá nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình khi tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh có đăng ký kinh doanh
nhưng khơng phải đăng ký vốn pháp định; hoạt động kinh doanh của nhóm đối tượng này ở quy mơ nhỏ, đa số chưa thực hiện tốt về chế độ kế toán, tài chính nên khi áp dụng thủ tục phá sản sẽ gặp nhiều khó khăn trong quản lý, thanh lý tài
sản. Mặt khác, hiện nay khi các đối tượng này mat khả năng thanh tốn thì việc
xử lý nợ sẽ thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự. Đối với các cơ sở đào tạo
hoạt động mang tính nghề nghiệp đặc thù, hoạt động của các cơ sở này liên quan
đến chính sách đối với học sinh, sinh viên; việc thành lập, hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể được điều chỉnh theo Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học và Luật dạy nghề. Vì vậy, trong thời điểm hiện nay, quan điểm Luật Phá san (2014)
là tạm thời chưa nên mở rộng các đối tượng áp dụng.
Luật Phá sản (2014) quy định tại điều 2 về đối tượng áp dụng: “Ludt này áp dụng đối với doanh nghiệp và hợp tác xã, liên hiệp hop tác xã (sau đây gọi
<small>chung là hợp tác xã) được thành lap và hoạt động theo quy định của pháp luật. ”</small>
e Vẻ lý do phá sản
<small>Pháp luật Nhật Bản quy định “tình trạng phá sản là khơng có khả năng trả</small>
các khoản nợ đến hạn và đối với pháp nhân là khơng có khả năng trả nợ”. Luật Phá
<small>sản doanh nghiệp 1992 của Liên bang Nga thì quy định “tình trạng phá sản của</small>
doanh nghiệp được hiểu là việc mat kha năng đáp ứng yêu cầu của chủ nợ về thanh tốn hàng hóa (cơng việc, dịch vụ) kế cả việc mat khả năng bảo đảm các thanh toán phải nộp ngân sách và các quỹ ngoài ngân sách do nghĩa vụ của người mắc nợ vượt quá tài sản của mình hoặc do mất cân đối trong cán cân thanh toán của người mac nợ. Dấu hiệu bên trong về tình trạng phá sản của doanh nghiệp là sự ngừng việc thanh tốn bình thường của mình, nếu doanh nghiệp khơng bảo đảm hoặc rõ ràng khơng có kha năng thực hiện các yêu cầu của chủ nợ trong thời han 3 tháng kể từ
ngày đến hạn thực hiện các yêu cầu đó”. Khái niệm phá sản theo quy định của pháp luật Trung Quốc là ”khi doanh nghiệp khơng có khả năng thanh tốn khoản nợ đến <small>hạn thì bị xem xét khả năng doanh nghiệp bi pha sản” [26].</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Luật Phá sản Việt Nam 2014 có nhiều điểm tương đồng với pháp luật Nhật
Bản, Nga, Trung Quốc trong quy định về tình trạng phá sản của doanh nghiệp. Theo quy định tại Khoản 1, 2 Điều 4 Luật Phá sản (2014) thì phá sản là tình trạng của DN, HTX mat khả năng thanh toán và bị TAND ra quyết định tuyên bố pha sản; DN, HTX mat kha năng thanh toán là DN, HTX khơng thực hiện nghĩa vu
thanh tốn khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kê từ ngày đến hạn thanh tốn. <small>® Vé cơ quan có thâm qun giải qut u cau pha sản</small>
Theo thơng lệ chung, cơ quan có thâm quyền giải quyết tuyên bố phá sản
doanh nghiệp là Tịa án. Tuy nhiên, do tổ chức hệ thơng tịa án và cơ quan tài phán ở mỗi nước khác nhau nên việc giao cho tòa án nào giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản không phải giống nhau. Ví dụ, ở hầu hết các nước Châu Âu lục địa, thâm quyền giải quyết phá sản thuộc về tòa thương mại. Trong khi đó một số nước như Mỹ,
Thụy Điển, Nam Tư... lại thành lập tòa phá sản riêng. Có những nước như Cộng Hịa Liên Bang Nga thì việc giải quyết phá sản thuộc chức năng của tòa án trọng tài.
Ngược lại, ở Trung Quốc, Malayxia,... tinh chất của một vụ phá sản được pháp luật coi như một vụ kiện dân sự nên thâm quyền thuộc về tòa án dân sự [23; tr.62].
Ở Việt Nam, Luật Phá san (2014) quy định TAND cấp tỉnh và cấp huyện có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, việc phân định thâm quyền giải quyết vụ phá sản dựa trên ba nguyên tắc: theo trụ sở chính, theo noi đăng ký kinh doanh và theo tinh chất phức tap của vụ việc phá sản Cụ thé
hơn, thâm quyên của Toà án trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản được
quy định tại Điều 8 của Luật Phá sản (2014). - Về thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản
Pháp luật phá sản một số nước trên thế giới như Pháp, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc đều quy định thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản gồm: thủ tục thanh lý và thủ tục tổ chức lại (phục hồi). Thủ tục này rất đa dạng và mềm dẻo. Điểm chung của các nước là tuỳ theo tình hình cụ thể của các doanh nghiệp mà áp dụng thủ tục phục hồi (cứu vãn) hay thủ tục thanh lý (phá sản). Trong quá trình thực
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">hiện không cứng nhắc trong một thủ tục mà có thé chuyền từ thủ tục này sang thủ <small>tục khác một cách linh hoạt.</small>
Thủ tục phá sản quy định trong Luật Phá sản Việt Nam 2014 bao gồm hai thủ tục chính là thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và thủ tục tuyên bố phá sản. Thanh lý tài sản được thực hiện sau khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản chứ khơng cịn là một thủ tục riêng biệt được tiễn hành trước khi ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản như trước nữa. Đối với doanh nghiệp mat khả năng thanh tốn, khơng nhất thiết phải thực hiện lần lượt hai thủ tục này dé được phá san.
<small>1.3. Thủ tục phá sản — Nội dung cơ bản của pháp luật pha sản</small>
<small>1.3.1. Khái niệm thủ tục phá sản</small>
Trên thực tế, bất kì cơng việc hay hoạt đồng nảo cũng đều cần thực hiện lần lượt theo một trình tự nhất định dé có thé hồn thành hay đạt được kết quả như mong muốn. Thủ tục là “cách thức đã định để thực hiện một hoạt động ” [33]. Cũng có thê hiểu thủ tục là tổng hợp các bước cần được thực hiện theo trình tự nhất định đề hồn thành một hoạt
<small>động nao đó. Tình trạng pha sản là hậu quả đương nhiên của quá trình cạnh tranh, kinh</small>
doanh trên thương trường. Từ thực tiễn đã hình thành những thủ tục giải quyết tình trạng làm ăn thua lỗ đa dạng và hiệu quả thê hiện sự linh hoạt, mềm dẻo của thị trường và khi cần thiết có sự điều chỉnh, can thiệp của nhà nước.
Đứng từ phía con nợ, có thê hiểu thủ tục phá sản là tổng hợp các bước mà DN, HTX phải thực hiện theo trình tự nhất định dé thanh tốn các khoản nợ đến hạn nếu rơi vào tình trạng khơng cịn khả năng chỉ trả khi các chủ nợ có u cầu. Bên cạnh đó đứng từ phía chủ nợ thì thủ tục phá sản là một cách thức chủ nợ thực hiện quyền địi nợ của mình
khi một DN, HTX lâm vảo tình trạng phá sản. Điều 5 Luật Phá sản (2004) đã quy định đa
dạng và linh hoạt các thủ tục mà Tịa án có thê áp dụng khi giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được áp dụng đối với DN, HTX khi lâm vào tình trạng phá sản. Cụ thể:
Thnk nhất, Thủ tục phá sản được áp dụng đối với doanh nghiệp, hop tác xã lâm vào tình trạng phá sản bao gồm: (a) Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản; (b) Phục hồi hoạt động kinh doanh; (c) Thanh ly tài sản, các khoản nợ; (d) Tuyên bồ phá sản.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Thứ hai, Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào quy định cụ thé của
Luật này, Tham phán quyết định áp dụng một trong hai thủ tục quy định tại điểm b và
điểm c khoản 1 Điều này hoặc quyết định chuyền từ áp dung thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố doanh
<small>nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.</small>
Khác với cách tiếp cận của Luật Phá sản (2004), Luật Phá sản (2014) không có điều luật riêng quy định về thủ tục phá sản. Nằm rải rác trong các quy định pháp luật, có thé thay thủ tục phá sản quy định trong Luật Phá sản (2014) chi bao gồm hai thủ tục chính là thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và thủ tục tuyên bố phá sản. Thanh lý tài sản được thực hiện sau khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản, là một hoạt động dé thi hành quyết định tuyên bố phá san chứ không còn là một thủ tục riêng biệt được tiến hành trước khi ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản như trước nữa. Thủ tục phá sản sẽ kết thúc sau khi thi hành xong quyết định tuyên bố phá sản. Đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn, khơng nhất thiết phải thực hiện lần lượt hai thủ tục nêu trên dé được phá sản. Tòa án có thể tuyên bố DN, HTX phá sản theo thủ tục rút gọn được quy
định tại Điều 105 Luật Phá sản (2014).
Tóm lại, về bản chat, thủ tục phá sản là thủ tục tư pháp vì nó do Tịa án là cơ quan tư pháp tiễn hành, đối tượng của hoạt động tố tụng phá sản là quan hệ pháp lý phát sinh giữa chủ nợ (bên có quyền được thanh tốn) và con nợ (bên có nghĩa vụ thanh tốn) thơng qua CƠ chế đặc biệt. Như vậy, khái mệm thủ tục phá sản có thê hiểu là thủ tục tư pháp đặc biệt do Tòa án tiến hành khi có yêu cầu của người có quyền nộp đơn, nhằm giải quyết tranh chấp lợi ích về tài sản phát sinh giữa chủ nợ và con nợ do con nợ mat khả năng thanh toán các khoản nợ trong thời han ba tháng ké từ ngày đến hạn thanh toán.
1.3.2. Đặc điểm của thủ tục phá sản
Khác với thủ tục giải quyết một vụ kiện dân sự hay một vụ kiện kinh tế, thủ tục giải quyết một vụ phá sản được coi là một thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt. Tính chất đặc biệt của thủ tục phá sản được thê hiện ở những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thé.
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Trong một vụ kiện đòi nợ theo thủ tục tố tụng dân sự, các chủ nợ hầu như thực hiện
đòi nợ một cách độc lập, riêng lẻ, không liên quan đến nhau. Khác với điều thơng thường đó, thủ tục phá sản là thủ tục mà ở đó việc địi nợ cũng như trả nợ được tiễn hành một cách tập thể. Theo quy định của pháp luật phá sản, trong quá trình địi nợ, các chủ nợ khơng được phép địi nợ độc lập và phải tập hợp lại, hình thành nên Hội nghị chủ nợ (HNCN) - tổ
<small>chức đại diện cho tât cả các chủ nợ đê tham gia vào việc giải quyêt phá sản của con nợ.</small>
Tứ hai, thủ tục phá sản là thủ tục đòi nợ được tiễn hành trong hoàn cảnh đặc biệt, như một biện pháp cuối cùng của q trình địi nợ.
<small>Thơng thường, trong q trình kinh doanh của doanh nghiệp, thủ tục địi nợ và trả</small>
nợ thơng thường có thể được tiễn hành bất cứ lúc nào có thê. Tuy nhiên, thủ tục phá sản chỉ được tiến hành khi và chỉ khi doanh nghiệp mắc nợ đã lâm vào tình trạng tài chính khơng có lối thốt — mat khả năng thanh tốn nợ. Nói cách khác, thủ tục phá sản chỉ xuất
hiện như một giải pháp cuối cùng ma các chủ nợ buộc phải sử dụng khi các phương thức
đòi nợ khác đã bat lực.
Thự ba, thanh toán nợ trong thủ tục pha sản được tiễn hành trên cơ sở số tài sản cịn
<small>lại của doanh nghiệp.</small>
Điều này này hồn tồn khác với nguyên tắc trong dân sự là phải trả đủ nợ, nghĩa là nợ bao nhiêu thì phải trả bay nhiêu. Ngược lại, trong việc thanh lý tai sản phá sản, nếu tài sản có lớn hơn hoặc bằng tài sản nợ thì đương nhiên các chủ nợ được thanh tốn đầy đủ, cịn nếu số tai sản có nhỏ hơn số tải sản nợ thì con nợ cũng chỉ dùng số tai sản đó dé trả nợ mà thơi. Phần nợ cịn thiếu thì các chủ nợ phải chịu rủi ro theo tỷ lệ nhất định. Tuy nhiên, nguyên tắc này khơng áp dụng với các doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn như
<small>doanh nghiệp tư nhân hay công ti hợp danh.</small>
Thứ te, thủ tục phá sản là thủ tục mà hậu quả của nó thường là sự chấm dứt hoạt
<small>động của một thương nhân.</small>
Trong tố tung dan sự, sau khi con nợ đã trả nợ xong, họ van tồn tại và hoạt động một cách bình thường, nhưng trong phá sản thì lại có nhiều khác biệt. Dé giúp các chủ nợ thu hồi món nợ của mình, Tịa án có thê phải ra quyết định pháp lý đặc biệt như quyết định
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">cham dứt sự tồn tai của Doanh nghiệp và tiễn hành thanh ly tai sản. Sau khi thi hành xong quyết định tuyên bố phá sản, DN, HTX sẽ bị xóa tên trong sơ đăng kí kinh doanh. Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật phá sản, chủ doanh nghiệp còn bị cắm kinh doanh trong một thời gian nhất định. Có thé thay, hậu qua trực tiếp của phá sản có thé là sự cham
<small>dứt hoạt động của chính bản thân con nợ.</small>
Tht năm, thủ tục phá sản khơng chỉ thuần túy là thủ tục địi nợ mà cịn là thủ tục có khả năng giúp con nợ phục hồi hoạt động.
Ở những mức độ và phạm vi khác nhau, phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả kinh tế xã hội nhất định mà trực tiếp là những ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ và những người lao động. Hậu quả đáng lưu ý đi liền với phá sản là van đề việc làm và thu nhập của người lao động hay gây những hậu quả dây chuyền. Với các chủ nợ thì phá sản
cũng khơng han là một phương án tối ưu bởi không phải lúc nào doanh nghiệp rơi vào tình
trạng mat khả năng thanh tốn cũng cịn đủ tài sản dé thanh toán hết nợ cho chủ nợ. Bởi vậy, trên thực tế đây không phải là cách thức có lợi nhất cho các chủ nợ nói riêng và tồn bộ nền kinh tế nói chung. Do đó, ngoài mục tiêu thanh lý tài sản dé trả nợ, pháp luật phá sản nhiều nước trên thế giới còn đặt ra một mục tiêu quan trọng khác, đó là giúp đỡ con nợ thốt khỏi tình trạng phá sản, phục hồi hoạt động kinh doanh.
<small>1.3.3. Vai trò của thủ tục phá sản</small>
Dé việc phá sản được tiễn hành một cách có trật tự, đúng pháp luật thì pháp luật phá sản cần có những quy định cụ thê về trình tự, thủ tục tiến hành phá sản doanh nghiệp. Những quy định này là cơ sở pháp lý để Tòa án tiến hành phá sản DN, HTX, bảo đảm vụ việc được giải quyết đúng pháp luật.
<small>Pháp luật phá sản ở nước ta hiện nay được ban hành chậm so với các nước</small>
trên thế giới và trong khu vực, nhưng đã góp phần quan trọng vào việc hình thành một cơ chế pháp lý đồng bộ cho hoạt động xử lý nợ của các doanh nghiệp,
<small>bảo đảm trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực tài chính, làm cho mơi trường kinh</small>
doanh trở nên lành mạnh hơn, đồng thời cũng góp phần hồn thiện hệ thống
pháp luật kinh tế trong thời kì đổi mới.
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>Việc áp dụng đúng thủ tục phá sản sẽ đóng một vai trị quan trọng trong</small>
việc bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ nợ và người lao động. Trong kinh doanh, việc nợ nan lẫn nhau là hiện tượng bình thường, ít doanh nghiệp có thể tránh khỏi. Khi có nợ thì chủ nợ đương nhiên được quyền địi nợ thơng qua mọi
<small>hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp khởi kiện ra Tòa án. Tuy</small> nhiên, trong một số trường hợp, việc kiện tụng ra Tòa án không thé giải quyết
được một cách thỏa đáng quyền lợi của các chủ nợ, nhất là khi con nợ bị mat kha
năng thanh toán. Pháp luật phá sản ra đời đã quy định về thủ tục phá sản, một thủ
tục địi nợ đặc biệt cho các chủ nợ. Có thé nói, điều mà các chủ nợ lo ngại nhất là con nợ không thê trả lại các khoản nợ đã vay của mình. Tuy nhiên, thơng qua thủ
<small>tục phá sản, các doanh nghiệp hợp tác xã có nguy cơ phá sản sẽ có cơ hội được</small> phục hồi, trở lại tình trạng ban đầu, có khả năng thanh tốn các khoản nợ của chủ nợ. Cịn nêu DN, HTX khơng thê phục hồi, bị tuyên bố phá sản thì các tài sản
của doanh nghiệp cũng được thanh lý toàn bộ để trả nợ cho các chủ nợ.
Đối với các DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, áp dụng thủ tục phá sản là một giải pháp tránh việc các chủ nợ tự do tranh dành “xiết nợ”, ngăn cản các chủ nợ đòi nợ theo kiểu mạnh ai nay địi, từ đó dẫn đến tình trang mắt trật tự xã hội [31; tr.17]. Thủ tục phá sản là do cơ quan nha nước có thầm quyền tiến hành, đảm bảo cho việc thực thi được thống nhất, trật tự, bằng mọi cách tạo điều kiện cho con nợ khắc phục khó khăn, khơi phục hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường hoặc tạo cơ hội cho con nợ rút khỏi thương
<small>trường một cách có trật tự.</small>
Tóm lại, có thê thay việc phá sản nêu không được quy định cụ thê về trình tự, cách thức có thê dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng về kinh tế - xã hội. Các hậu quả này nhiều
khi là nguyên nhân của tình trạng lộn xộn trong đời sống xã hội. Vì vậy, quá trình phá sản
nhất thiết phải được tiễn hành một cách quy củ, trật tự thông qua một trình tự, thủ tục giải
quyết một vụ phá sản.
1.3.4. Khái quát sự hình thành và phát triển của quy định pháp luật về
<small>thi tục phá sản ở Việt Nam</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Ở Việt Nam pháp luật pha sản đã có từ thời kỳ Thực dân Pháp đơ hộ, nhưng Luật này phần lớn được áp dụng ở miền Nam và trên thực tế dường như rất ít được áp dụng. Cũng như các nước thuộc địa khác, pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng của hệ thông pháp luật thực dân. Những quy định về khánh tận, thanh toán tư pháp phá sản cũng đã có trong Bộ luật Thương mại Sài Gịn [29]. Cho đến trước giải phóng miền Nam năm 1975, ở Việt Nam cũng có hai đạo luật điều chỉnh phá sản đã được ban hành là Luật Phá sản trong Luật
Thương mại Trung phần tại miền Trung Việt Nam ngày 2/6/1942 và Luật Phá sản trong Luật Thương mại miền Nam Việt Nam năm 1973 [27].
Từ sau giải phóng miền Nam, chúng ta đi theo mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, khơng khuyến khích cạnh tranh nên khái niệm phá sản hầu như khơng có. Khi
chun đổi sang nền kinh tế thị trường thì vấn đề phá sản và giải quyết phá sản mới được đặt ra. Cùng với sự gia nhập của đầu tư nước ngoài, sự nới lỏng tự do kinh doanh cho tư nhân, môi trường cạnh tranh tái xuất hiện và trở nên gay gắt nhanh chóng ngay trên thị trường nội địa. Khi tự do kinh doanh và cạnh tranh tái xuất hiện, nhu cầu điều tiết vỡ nợ các don vị kinh doanh vốn thuộc quyền quan lý của nhà nước mới trở nên cấp bách. Nhu cầu điều chỉnh cấp bách bậc nhất của pháp luật phá sản trong các quốc gia chuyền đơi
chính là các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ hàng hoạt khi bước vào cạnh tranh với một tư <small>thê thiêu năng động so với khu vực kinh tê tư nhân và tu bản nước ngoài.</small>
Đến năm 1993, Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội thơng qua ngày 30.12.1993 và có hiệu lực từ ngày 01.07.1994. Chính phủ ban hành Nghị định số 189/CP ngày 23.12.1994 hướng dan thi hành luật này. Đây là văn bản đầu tiên có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh toàn diện và đầy đủ các vấn đề về phá sản. Tuy nhiên, đặt trong hoàn cảnh kinh tế đất nước mới chuyên đổi, khi mà chưa nhiều vụ phá sản xảy ra thì các quy
định trong luật này dường như được thiết kế với trọng tâm đặt vào việc tai cơ cầu doanh
nghiệp nhà nước, chưa chú trọng đến các thành phan kinh tế khác. Tiếp theo đó, Luật
<small>Phá sản năm 2004 được thơng qua ngày 15/6/2004 có hiệu lực thi hành ngày 15/10/2004</small>
thay thế Luật Phá sản doanh nghiệp 1993.
Luật Phá sản (2004) thể hiện nhiều điểm tiến bộ về thủ tục giải quyết phá sản so
với Luật phá sản doanh nghiệp 1993, ví dụ như sự linh hoạt, mềm dẻo trong việc áp dụng
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">các thủ tục khác nhau trong thủ tục phá sản, điều kiện nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
DN, HTX... Điều 5 Luật Phá sản (2004) đi theo hướng quy định nhiều thủ tục khác nhau
trong thủ tục phá sản bao gồm: thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh cua DN, HTX; thủ tục thanh lý tài sản; thủ tục tuyên bố pha sản; và sau kh quyết định mở thủ tục pha sản, căn cứ vào tình trạng thực tế của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, Tịa án sẽ quyết định
<small>áp dụng thủ tục nào cho phù hợp. Trong khi đó, Luật phá sản doanh nghiệp 1993 lại quy</small>
định theo hướng áp đặt khi yêu cầu mọi DN, HTX bị Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đều phải trải qua giai đoạn họp Hội nghị chủ nợ để thông qua phương án phục hồi kinh doanh rồi mới có thé tuyên bố phá sản (ké cả khi doanh nghiệp mắc nợ khơng cịn tài sản gi). Luật Phá sản (2004) cũng quy định đơn giản hơn điều kiện nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và chủ nợ không phải cung cấp cho Tòa án các giấy tờ, tài liệu chứng minh doanh nghiệp mat khả năng thanh toán nợ đến hạn khi gửi đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
<small>như Luật Phá sản doanh nghiệp 1993.</small>
Với Luật Phá sản (2004), tình hình thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp đã được cải thiện nhưng vẫn cịn gặp nhiều khó khăn. Số lượng đơn yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản so với số lượng doanh nghiệp ngừng
hoạt động là rất thấp; hiệu quả giải quyết việc phá sản ở các cấp Tòa án vẫn chưa
đạt kết quả như mong muốn. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó có nguyên nhân quy định pháp luật về thủ tục phá sản chưa phù hợp với tình hình kinh tế và xã hội, không tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức yêu
<small>câu tuyên bô phá sản.</small>
Ngày 19/6/2014, tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thơng qua Luật Phá sản số 51/2014/QH13. So với
Luật Phá sản năm 2004, Luật này được đánh giá là có những sửa đổi khá căn bản
và tồn diện. Đã có nhiều nội dung về trình tự, thủ tục giải quyết phá sản được sửa đổi, bố sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Tuy nhiên, khơng phải là khơng có những hạn chế, thiết sót cũng như khó khăn, thách thức trong việc đưa các quy định mới của Luật Phá sản (2014) vào áp dụng trong thực tế. Vẫn đề này sẽ được trình bày cụ thê trong các phần tiếp theo của Luận văn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><small>CHƯƠNG 2</small>
NOI DUNG CUA THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CÂU PHA SAN THEO LUAT PHA SAN NĂM 2014
2.1. Những quy định về tham quyền giải quyết yêu cầu pha sản
Theo thông lệ chung, cơ quan có thâm quyên giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp là tòa án. Tuy nhiên, do tơ chức hệ thống tịa án và cơ quan tài phán ở mỗi nước khác nhau nên việc giao cho tòa án nào giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản khơng phải giống nhau. Ví dụ, ở hầu hết các nước Châu Âu lục địa, thâm quyền giải quyết phá sản thuộc về tòa thương mại. Một số nước
như Mỹ, Thụy Điển, Nam Tu... lại thành lập tịa pha sản riêng. Có những nước như Nga thì việc giải quyết phá sản thuộc chức năng của tòa án trọng tài. Ngược
lại, ở Trung Quốc, Malayxia,... tính chất của một vụ phá sản được pháp luật coi <small>như một vụ kiện dân sự nên thâm quyên thuộc về tòa án dân sự.</small>
Ở Việt Nam, ké từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, thâm quyền
giải quyết phá sản được quy định trong pháp luật phá sản có sự khác nhau qua
<small>từng giai đoạn. Theo Luật doanh nghiệp tư nhân (1990) và Luật Công ty (1990),</small>
thâm quyền giải quyết phá sản được quy định cho Trọng tài kinh tế nhà nước. Từ
Luật phá sản doanh nghiệp 1993, quyền giải quyết phá sản bắt đầu được quy
định thuộc về Tịa án, nhưng chỉ có Tịa kinh tế cấp tỉnh mới có thâm quyền giải quyết phá sản. Điều 30 Luật tổ chức TAND 2002 cũng quy định Tòa kinh tế TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ và quyền hạn giải quyết việc phá sản theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật phá sản hiện hành, có thể hiểu một DN, HTX
<small>lâm vào tình trạng phá sản khi họ khơng thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ</small>
trong thời hạn 03 tháng ké từ ngày đến hạn thanh toán; và khi đó, yêu cầu pha sản được đặt ra nhằm đảm bảo quyền và lợi ích về tài sản cho các chủ nợ. Theo
quy định tại Luật Tô chức TAND 2002 thì: “...7rong phạm vi chức năng của <small>mình, Tịa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chê độ xã</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">hội chủ nghĩa và quyên làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thé; bảo vệ tinh mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân... ”. Luật Tô chức TAND 2014 sắp có hiệu lực cũng quy định: “...7éa án nhân dân có nhiệm vu bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyên con người, quyên công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyên và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân... ” hay “...Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã
<small>hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình,</small>
kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật... ”. Qua các quy định kể trên, có thé thay thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản được giao cho Tòa án là phù hợp.
So với Luật phá sản doanh nghiệp 1993, Luật Phá sản (2004) đã có nhiều thay đổi về thâm quyền giải quyết phá sản. Theo Điều 7 Luật Phá sản (2004) thì thâm quyền tiến hành thủ tục phá sản được phân cấp cho TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh căn cứ vào việc cơ quan cap nào đã cấp giây chứng nhận đăng ki
kinh doanh cho DN, HTX. Ngoài ra, TAND cấp tỉnh còn giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tại
Việt Nam đặt trụ sở tại tinh đó hoặc santrường hợp cần thiết lay lên dé tiến hành
thủ tục phá sản đối với hop tác xã thuộc thâm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện. Như vậy, Luật Phá sản (2004) phân định thẩm quyền giải quyết việc phá sản dựa trên hai nguyên tắc: theo nơi đăng ký kinh doanh và theo trụ sở chính.
Luật Phá sản năm 2014 phân định thâm quyền giải quyết vụ phá sản dựa trên ba nguyên tắc: theo trụ sở chính, theo nơi đăng ký kinh doanh và theo tính chất phức tạp của vụ việc phá sản. Luật Phá sản năm 2014 đã quy định tại Điều 8 <small>như sau:</small>
Thr nhất, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thâm quyên giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hoặc đăng ky
<small>doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký hợp tác xã tại tỉnh đóvà thuộc một trong các trường hợp: (a) Vụ việc pha sản có tai sản ở nước ngoaihoặc người tham gia thủ tục phá sản ở nước ngoài; (b) Doanh nghiệp, hợp tác xã</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">mất khả năng thanh tốn có chi nhánh, văn phòng đại diện ở nhiều huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác nhau; (c) Doanh nghiệp, hop tác xã mất kha
năng thanh tốn có bất động sản ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác nhau; (đ) Vụ việc phá sản thuộc thâm quyền của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tinh mà Tòa án nhân dân cấp tinh lay lên dé
giải quyết do tính chất phức tạp của vụ việc.
Thr 2, Tịa án nhân dân cấp huyện có thâm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có trụ sở chính tại huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh đó và khơng thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật Phá <small>sản (2014).</small>
2.2. Chủ thể tham gia quá trình giải quyết yêu cầu phá sản
<small>2.2.1. Tòa ún</small>
Luật Phá sản ở hầu hết các nước đều quy định tịa án là cơ quan có thâm quyên giải quyết việc phá sản, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Các Luật
<small>phá sản doanh ngiệp năm 1993, Luật Phá sản năm 2004 và nay là Luật Phá sản</small>
năm 2014 đều quy định tòa án là cơ quan có thâm quyền giải quyết việc phá sản của DN, HTX. Ở Việt Nam, trong quy định của pháp luật phá sản, tịa án ln ln được thiết kế như một chủ thé có vai trị quyết định, một nhân vật trung tâm
trong nhiều hoạt động của tố tụng phá sản.
Trong việc nộp và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, việc xử lý đơn
năm trong thâm quyên của tòa án thụ lý đơn. Theo quy định tại Điều 32 Luật Phá sản (2014) thì Tịa án sẽ thơng báo cho người nộp đơn u cầu mở thủ tục phá sản về việc nộp lệ phí phá san, tam ứng chi phí phá sản nếu đơn yêu cau hợp lệ;
có quyền yêu cầu người nộp don sửa đổi, b6 sung đơn nếu có thiếu sót; Tòa án chuyên đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho TAND có thâm quyền nếu thuộc thâm quyền giải quyết của TAND khác; và Tịa án cũng có thê trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi xảy ra các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 35.
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">Trong việc mở thủ tục phá sản, Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản có quyền ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản (Điều 42 Luật Phá sản (2014)). Nếu ra quyết định mở thủ tục phá sản, trong thời hạn 03 ngày làm việc kế từ ngày ra quyết định, thẩm phán của Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có trách nhiệm chỉ định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp
<small>quản lý, thanh lý tài sản.</small>
Trong hội nghị chủ nợ, Tịa án có thâm quyền triệu tập hội nghị chủ nợ; thâm phán được giao phân công phụ trách vụ phá sản tham gia điều hành việc
tiễn hành hội nghị chủ nợ.
Trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, thâm phán được Tịa án giao phân cơng phụ trách vụ phá sản ra quyết định công nhận nghị quyết của Hội
nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX mat khả năng thanh tốn. Nghị quyết này có hiệu lực đối với tat cả người tham
gia thủ tục phá sản có liên quan. Ngồi ra, sáu tháng một lần, DN, HTX phải lập báo cáo về tình hình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
<small>DN, HTX cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Quản tài</small>
viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm báo cáo Thâm phán. Ngồi ra, TAND cịn là chủ thể có thâm qun ra quyết định tuyên bố
<small>DN, HTX phá sản theo thủ tục rút gọn, khi Hội nghị chủ nợ không thành hoặc</small>
sau khi có Nghị quyết của hội nghị chủ nợ.
<small>2.2.2. Quan tài viên và doanh nghiệp quan lý, thanh ly tài san</small>
Khoản 2 Điều 9 Luật Phá sản (2004) quy định về tổ quản lý, thanh lý tài sản. Tổ quản lý, thanh lý tài sản do thâm phán quyết định thành lập đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản với cơ cấu bao gồm: 01 Chấp hành viên cơ quan thi hành án cùng cấp làm tơ trưởng, 01 cán bộ tịa án, 01 đại diện chủ nợ, 01 đại diện hợp pháp của DN, HTX bị mở thủ tục phá sản, và trường hợp cần thiết có
<small>đại diện cơng đồn, đại diện người lao động, đại diện các cơ quan chuyên môn</small> tham gia Tổ quản lý, thanh ly tài sản thì Tham phán xem xét, quyết định. Tuy
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">nhiên, các thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản đều là những người thực hiện
<small>nhiệm vụ kiêm nhiệm, do đó khi tham gia xử lý công việc thường lúng túng,</small>
không chủ động về thời gian và công việc. Nhận thức của các thành viên trong tổ chưa đồng đều, nhiều khi dẫn đến mâu thuẫn nội bộ, khó thống nhất, gây khó khăn trong cách tiếp cận và xử lý vấn đề trên phương diện tập thê.
Khắc phục những bat cập của chế định quản lý, thanh ly tài san DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản của luật cũ, Luật Phá sản (2014) đưa ra quy định về quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Quy định về quản tài
<small>viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là những quy định mới của Luật</small>
Phá sản (2014). Theo đó, “quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mat kha năng thanh tốn trong q trình giải quyết phá sản” và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là “doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mat khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản”.
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 16 Luật Phá sản (2014). Cụ thể:
Thứ nhất, Quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mat khả năng thanh toán, gồm: (a) Xác minh, thu thập, quản lý tài liệu, chứng cứ liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã; (b) Lập bảng kê tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mặc nợ; (c) Bao quản tài sản; ngăn chặn việc bán, chuyền giao tài sản mà không được phép
của Thâm phán; ngăn chặn việc tau tán tài sản; tối đa hóa giá tri tai sản của <small>doanh nghiệp, hợp tác xã khi bán, thanh lý tài sản; (d) Giám sát hoạt động kinhdoanh của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của pháp luật;(đ) Được thuê</small>
cá nhân, tô chức thực hiện công việc theo quy định của pháp luật; (e) Đề xuất với Thâm phán về việc bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tac xã dé bao dam chi phí phá sản; (g) Bán tài sản theo quyết định của Tham phán dé bao đảm chi phí phá
sản; (h) Tổ chức việc định giá, thanh lý tài sản theo quy định của Luật này; báo cáo cơ quan thi hành án dân sự, thông báo đến người tham gia thủ tục phá sản có
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><small>liên quan về việc giao cho cá nhân, tô chức thực hiện thanh lý tai san; (1) Gửi cáckhoản tiên thu được vào tài khoản do Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án dânsự có thâm quyên mở tại ngân hàng.</small>
<small>Thứ hai, Đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanhnghiệp, hợp tác xã khơng có người đại diện theo pháp luật.</small>
Thứ ba, Báo cáo về tình trạng tài sản, công nợ và hoạt động của doanh
nghiệp, hợp tác xã, tham gia xây dựng kế hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, hợp tác xã mat khả năng thanh toán.
Thr tư, Đề nghị Tham phán tiễn hành các công việc như: (a) Thu thập tai liệu, chứng cứ; (b) Tuyên bố giao dịch vô hiệu và quyết định thu hồi tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị bán hoặc chuyên giao bat hợp pháp; (c) Áp dụng biện pháp khan cấp tạm thời; áp dụng biện pháp xử phạt hành chính; chuyên hỗ sơ sang cơ quan có thâm quyền xử lý về hình sự theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, Được hưởng thù lao và thực hiện trách nhiệm bảo hiểm nghề
<small>nghiệp theo quy định của pháp luật.</small>
<small>Cuôi cùng, Bao cáo việc thực hiện nhiệm vụ, quyên hạn của mình theoyêu câu của Thâm phán, co quan thi hành án dân sự; chịu trách nhiệm trướcThâm phán, cơ quan thi hành án dân sự và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ,quyên hạn của mình.</small>
Việc đưa chế định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản khắc phục được những khó khăn, vướng mắc trong cơ chế phối hợp, tính chất kiêm nhiệm của các thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản, đáp ứng được yêu cầu về tính nhanh chóng, hiệu quả và chun nghiệp trong thực hiện việc quản
<small>lý, thanh lý tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, phù hợp với việc</small> thực hiện chủ trương xã hội hóa những hoạt động mang tính nghề nghiệp theo
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách hành chính; đồng thời phù hợp với thơng lệ quốc tế, vì hiện nay nhiều nước quy định về chế định Quản tài viên
<small>như Nhật, Đức, Nga, Pháp, Mỹ, Latvia [34]. Việc đưa ra hai lựa chọn là quản tài</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">viên hoặc doanh nghiệp quan lý, thanh lý tai san dem lại sự linh động cần thiết cho nhu cầu quản lý tài sản của DN, HTX bị mất khả năng thanh toán. Đối với các vụ việc đơn giản, tài sản của DN, HTX không nhiều, các giấy tờ, hd sơ tài
<small>chính liên quan khơng phá phức tạp thì việc chỉ định quản tài viên là hợp lý. Tuy</small>
nhiên, đối với những vụ việc phá sản phức tạp, tài sản của DN, HTX có giá trị lớn, hồ sơ, số sách tài chính của DN, HTX có nhiều vẫn đề cần nghiên cứu thì
việc chỉ định doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là một lựa chọn đúng đắn và cần thiết.
<small>2.2.3. Chi nợ và con nợ</small>
<small>® Chiu nợ</small>
Chủ nợ là những người có mối quan tâm trực tiếp đến việc phá sản vì các
quyên về tài sản của họ gắn với tài sản còn lại của doanh nghiệp, họ có quyền cùng được tham gia vào q trình xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản. Về nguyên tắc chung, tất cả các chủ nợ đều có quyền bình đăng như nhau trong việc địi nợ và thu hồi nợ từ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ. Tuy nhiên, do xuất phát
tính chất của mỗi quan hệ giữa doanh nghiệp mắc nợ và chủ nợ và việc có hay
khơng có sử dụng các biện pháp đảm bảo đối với các khoản nợ mà tư cách chủ nợ có sự khác biệt. Đồng thời với sự khác biệt về tư cách chủ nợ mà họ có những quyền và nghĩa vụ khơng hồn tồn giống nhau.
<small>Căn cứ vào việc có hay khơng có sử dụng các biện pháp đảm bảo, Khoản</small>
3 Điều 4 Luật Phá sản (2014) quy định, chủ nợ là cá nhân, cơ quan, tô chức có quyên yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ, bao gồm chủ nợ khơng có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ có
<small>bảo đảm</small>
Chủ nợ có đảm bảo là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu DN, HTX phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của
<small>DN, HTX hoặc người thức ba.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Chủ nợ có đảm bảo một phan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu
DN, HTX phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo đảm bang tai san
cua DN, HTX hoặc người thứ ba ma giá tri tài sản bảo dam thap hơn khoản nợ đó. Chủ nợ khơng có đảm bảo là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu
DN, HTX phải thực hiện nghĩa vụ thanh tốn khoản nợ khơng được bảo đảm bằng <small>tài sản của DN, HTX hoặc của người thứ ba.</small>
Với tư cách là chủ thê tham gia thủ tục phá sản, chủ nợ có các quyền như: (i) Quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản; (ii) Quyền gửi giấy đòi nợ; (iii) Quyên khiếu nại danh sách chủ ng; (iv) Quyền tham gia hội nghị chủ nợ và biểu quyết tại hội nghị chủ nợ. tất cả các chủ nợ đều có quyền tham gia và thảo luận tại hội nghị chủ nợ, tuy nhiên, chỉ có chủ nợ khơng có đảm bảo mới có quyền biểu quyết tại hội nghị chủ nợ.
® Con nợ (Doanh nghiệp mat khả năng thanh toán nợ đến han)
Khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản (2014) đã quy định DN, HTX mat khả năng <small>thanh toán (con nợ) là DN, HTX khơng thực hiện nghĩa vụ thanh tốn khoản nợ</small>
trong thoi hạn 3 tháng ké từ ngày đến hạn thanh toán. Mục tiêu quan trọng nhất của Luật Phá sản là bảo đảm quyền lợi của cả chủ nợ và con nợ. Vì vậy, doanh nghiệp
mat kha năng thanh tốn nợ đến hạn có vi trí rất quan trong trong quá trình giải quyết <small>phá sản.</small>
Doanh nghiệp mat khả năng thanh tốn nợ đến hạn có quyền như: (i) Được
tiếp tục hoạt động bình thường ké từ khi có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp nhưng dưới sự giám sát của thâm phán và tô quản lý tài sản. Giám đốc và các thành viên Hội đồng quản trị vẫn phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của doanh nghiệp; (ii) Quyền xây dựng phương án phục hồi sau khi có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp dé đưa ra Hội nghị chủ nợ quyết định; (iii) Quyền khiếu nại danh sách chủ
nợ, danh sách người mắc nợ; (iii) Đề nghị xem xét lại quyết định tuyên bố DN, <small>HTX phá sản.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">2.3. Trình tự giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
2.3.1. Nộp và thụ lý đơn yêu cầu mở thi tục phá sản e Nộp đơn yêu cau mở thủ tục phá sản
<small>Phá sản không phải là một thủ tục đương nhiên xảy ra khi DN, HTX lâm</small> vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Ngược lại, phá
sản là một thủ tục có điều kiện, nó chỉ được xem xét giải quyết trên cơ sở có yêu cầu mở thủ tục phá sản. Nộp đơn yêu cau tuyên bố phá sản là thủ tục bắt buộc đầu tiên của trình tự giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có ảnh hưởng quyết định đến khả
năng đưa doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Theo quy định tại Điều 5
Luật Phá sản (2014), các đối tượng sau đây có quyền nộp đơn yêu cầu cầu tòa án mở thủ tục phá sản dé xem xét và giải quyết việc phá sản của một doanh nghiệp
<small>hay một hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản:</small>
Thu nhất, đó là các chủ nợ khơng có bảo đảm hay có bảo đảm một phần. Mục đích của Luật Phá sản trước tiên là nhằm bảo vệ quyền tài sản cho các chủ nợ vì vậy các chủ nợ là đối tượng đấu tiên có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp dé nhằm thu hồi các khan nợ. Tuy nhiên, khơng phải tat cả các chủ nợ đều có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản mà chỉ có chủ nợ khơng có đảm bảo và chủ nợ có đảm bảo một phần mới có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Các chủ nợ có bảo đảm khơng được quyền nộp đơn xin mở thủ tục phá sản vì khoản nợ của họ đã được bảo đảm bằng tài sản của DN,
<small>HTX liên quan hay bảo lãnh của bên thứ ba.</small>
Thứ hai, những người lao động, cơng đồn cơ sở, cơng đồn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập cơng đồn cơ sở có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Các đối tượng này cũng được phép nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng ké từ ngày phải thực hiện
nghĩa vụ trả lương, các khoản nợ khác đến hạn đối với người lao động mà DN, <small>HTX khơng thực hiện nghĩa vụ thanh tốn. Người lao động, suy cho cùng, cũng</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"><small>chính là chủ nợ của DN, HTX đôi với các khoản nợ lương nêu lương của người</small> lao động không được thanh toán đầy đủ.
<small>Thứ ba, người dai diện theo pháp luật của DN, HTX có nghĩa vụ nộp don</small>
yêu cầu mở thủ tục phá sản khi DN, HTX mất khả năng thanh toán. Quy định
này nhăm giúp doanh nghiệp mac nợ có cơ sở dé giải quyết một cách hợp pháp các
quan hệ nợ nan, hoặc dưới sự giám sát của tịa án, doanh nghiệp mac nợ có thé cùng với các chủ nợ thỏa thuận các biện pháp hòa giải, tô chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh, hạn chế thiệt hại.
Tiưứ tư, chủ doanh nghiệp tư nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cô phần, Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai <small>thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên,</small> thành viên hợp danh của công ty hợp danh có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Thứ nam, cơ đơng hoặc nhóm cơ đơng sở hữu từ 20% số cô phan phổ
thông trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cỗ phần mat khả năng thanh tốn. Cổ đơng hoặc nhóm cơ đơng sở hữu dưới 20% số cơ phần phổ thơng trong thời gian liên tục ít
nhất 06 thang có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cỗ phan mat khả năng thanh tốn trong trường hợp Điều lệ cơng ty quy định.
<small>Thứ sáu, thành viên hợp tác xã hoặc người đại diện theo pháp luật của hợp</small>
tác xã thành viên của liên hiệp hợp tác xã có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mat kha năng thanh toán.
<small>So với luật cũ, Luật Pha san (2014) quy định theo hướng mở rộng phạm vi</small>
va tạo điều kiện cho các chủ thé thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục pha sản dé dam bảo quyền lợi của minh. Trước đây trong Luật Phá sản (2004),
<small>người lao động phải nộp đơn thơng qua đại diện, thì trong luật mới, người lao</small> động có quyền tự mình nộp đơn mà không cần phải thông qua đại diện. Đối với công ty cô phan, Luật Pha sản (2004) quy định cô đơng hoặc nhóm cơ đơng sở
</div>