Tải bản đầy đủ (.pdf) (239 trang)

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường: Áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.98 MB, 239 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

THUC TIEN XÉT XU CÁC TOI XÂM PHAM

SO HUU CO TINH CHIEM DOAT

Mã số đề tài : LH-2014-196/ĐHL-HN Chủ nhiệm đề tài : TS. Cao Thị Oanh

<small>Thư ký : Phạm Tài Tuệ</small>

<small>TRUNG TAN LẦN `</small>

<small>TRUONG Sa! +AT HÀ NÓ</small>

PHONG i’ BAF

HA NOI, 2015

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN

STT Fọ và tên Đơn vị Chun đề

<small>cơng tác</small>

1 | PGS.TS. Trần Văn Độ Tịa án quân sự | Những van dé chung về áp dụng

<small>Trung ươngpháp luật hình sự trong xét xử các</small>

<small>tội xâm phạm sở hữu có tính.</small>

<small>chiêm đoạt</small>

2 | Th§. Plam Văn Bau Khoa pháp luật | Thực tiễn áp dụng pháp luật hình <small>hình sự - Trường | sự trong xét xử tội cướp tài san</small>

<small>Đại học LuậtHà Nội</small>

3 | TS. Cac Thị Oanh Khoa pháp luật | Thực tiễn áp dụng pháp luật hình hình sự - Trường | sự trong xét xử tội bắt cóc nhằm

Đại học Luật chiếm đoạt tài sản

<small>Hà Nội</small>

4 | Th§. Nzuyễn Việt Khoa pháp luật | Thực tiễn áp dụng pháp luật hình

<small>Khánh :lịa hình sự - Truong | sự trong xét xử tội cưỡng đoạt tài |Đại học Luật sản</small>

<small>Hà Nội</small>

5| Đào Phương Thanh Khoa pháp luật | Thực tiễn áp dụng pháp luật hình

<small>hình sự - Trường | sự trong xét xử tội cướp giật tai</small>

<small>Đại học Luật sản</small>

<small>Hà Nội</small>

6 | TS. Nguyễn Mai Bộ Tòa án quân sự | Thực tiễn áp dụng pháp luật hình

<small>Trung ương sự trong xét xử tội công nhiên</small> chiếm đoạt tài sản

7 | Phạm Tài Tuệ Khoa pháp luật | Thực tiễn áp dụng pháp luật hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small>TS. Lê Đăng DoanhKhoa pháp luật | Thực tiễn áp dung pháp luật hình</small>

<small>hình sự - Trường : sự trong xét xử tội lừa đảo chiếm</small>

<small>Đại học Luật đoạt tài sản</small>

<small>Hà Nội</small>

<small>ThS. Vũ Hải Anh</small> Khoa pháp luật Thực tiễn áp dụng pháp luật hình <small>hình sự - Trường | sự trong xét xử tội lạm dung tín</small>

Đại học Luật nhiệm chiếm đoạt tài sản

<small>Hà Nội</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

BANG CÁC TỪ VIET TAT

CTTP Câu thành tội phạm

Nxb Nhà xuất bản TAND SỐ Tòa án nhân dân ' TANDTC - Tòa án nhân: dân tối cao.

7 TNHS Trach nhiệm hình sự

VKS Viện kiểm sát

XHCN | Xã hội chủ nghĩa

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small>MỤC LỤC</small>

MỚI HAI „ae nen tn011301000210121180113112YEE117ELsrôecrrittglg3E-L7T2L40203712158306724730050240. 1

1. Tinh cấp thiết của dé tài...---s c2121221221211211 1121211 12t t1 reo I

2. Tinh hình nghiên cứu đề tai... ceccccccecccesceesceecsescececececsvsescevevsesessesveseanseceeees 2 3. Phương pháp nghiên cứu đề tải... -- 5c 5222 E221 2212221212122... re 4

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiền cứu 0 S

5. Đối tượng và phạm vi nghiên Cứu ...--- 5S SE E217 ckrrk. 5 6. Tổ chức triển khai đề tài...--.¿c: 522222 E22 1221122111211... re. 5 PHAN I: BAO CAO TONG THUẬT KET QUÁ NGHIÊN CỨU... 7

1. Khái quát về áp dụng pháp luật trong xét xử các tội xâm phạm sở hữu có

<small>tính chiêm đoạt...- - Q11 1231111111151 1 1191111111525 11 1k kg tk kg k 2x: 7</small>

<small>2. Khái quát thực tiễn xét xử từng tội trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu</small>

<small>có tính chiêm đoạt... -- -- + . 2 2c 221221111531 E23 1101 12110 11 H111 ng ng HH HH ưu 9</small> 3. Một số kiến nghị liên quan đến kết qua nghiên cứu dé tài...--- 52

PHAN II: CAC CHUYEN DE ..cesssssssssscsssssccsssssecccsneeccssuccesssccssaneccessecsssnesseceesenes 59 CHUYEN DE I: NHỮNG VAN DE CHUNG VE ÁP DUNG PHAP LUẬT HiNH SỰ

<small>TRONG XÉT XU CAC TOI XÂM PHAM SO HỮU CĨ TÍNH CHIEM ĐOẠT</small>

<small>(PGS, TS. Trần Văăm DG) vesscsssssssssssssssssessssssssscsesssssssssesssessscssucsssssessnsssessscssesssecsesaussssecssscesseenees 59</small>

1. Dat Van G6 oe ceccscecscscecscscecsssseseseceeseveessvsecscevsvevevsvavevsecevevevevensveeansneevees 59

2. Khái quát về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trong Luật hình

<small>SU 40/0117. ... :Ầ⁄5+⁄1ỐỐĨỐ 60</small>

3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về các tội chiếm đoạt tài sản và những bất

cập, vướng MAC ... . . 66

4. Một số van dé dat ra cần nghiên cứu giải quyét ...---c-ccccccccccsccea 70

<small>CHUYEN DE II: THUC TIEN ÁP DUNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TRONG XÉT XỬTOI CƯỚP TÀI SAN (Ths. Phat Văn Bún)...-2<ceccsccsccceeceererkereeererkerreereecee 73</small>

<small>1. Tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999... 73</small> 2. Việc định tội danh và định khung hình phạt trong thực tiễn xét xử tội <small>ð06/9818. 00177... . ... 75</small>

3. Việc quyết định hình phạt trong thực tiễn xét xử đối với tội cướp tài san....78 4. Một số thiếu sót trong thực tiễn xét xử tội CƯỚP OF: UY: 1 80

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>CHUYEN DE III: THUC TIEN ÁP DỤNG PHÁP LUAT HÌNH SỰ TRONG XÉT XỬTOI BAT COC NHAM CHIEM ĐOẠT TÀI SẢN (TS. Cao Thị QanH))...--- 92</small>

1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong định tội danh tội bắt cóc nhằm chiếm

<small>Goat r›1R--;1ạVƯiiaiaiađiaiaaẢ... 92</small>

2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tai sản ... 102 <small>CHUYEN ĐÈ IV:THỰC TIEN AP DUNG PHAP LUAT HÌNH SỰ TRONG XÉT XỬTOI CƯỠNG DOAT TÀI SAN (Ths. Nguyễn Việt Khánh: Hòa) ...--- 106</small>

1. Thực tiễn định tội danh đối với tội cưỡng đoạt tài sản...c-c- sec: 106 2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cưỡng đoạt tài sản... 115 <small>CHUYEN ĐÈ V: THUC TIEN AP DUNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TRONG XÉT XU’</small>

<small>TOI CƯỚP GIẬT TÀI SAN (Đảo Phương TÍHHÌ))...o- 5-5 cc<csccxeceerereereerereeree 124</small>

1. Thực tiến định tội danh...- --- + c3 111 11 53151211111 E111 5101111 111 111 trvo 124

2. Thực tiễn định khung hình phạt đối với tội cướp giật tài sản... 132 3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản... 137

CHUYEN DE VI: THỰC TIEN ÁP DUNG PHAP LUẬT HÌNH SỰ TRONG XÉT XỬ TOI CƠNG NHIÊN CHIEM ĐOẠT TÀI SAN (TS. Nguyễn Mai Bộ)...--- 147

<small>1. Tinh hình xét xử các vu án hình sự về tội công nhiên chiêm đoạt tài sản... 147</small>

2. Thực tiễn định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội cơng nhiên

chiếm đoạt tài Sảnn...- ác S11 TT TT 11 511111 11T T TH HT TH TH Tre 149

<small>CHUYEN DE VII:THỰC TIEN ÁP DUNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TRONG XÉT XỬ</small>

<small>TOI TRỘM CAP TÀI SAN (Phạm: Tài THỆ)...À... 5-5 S5<S<ceexecke+eekexsrkerrrsekereerereree 167</small>

1. Thực tiễn định tội danh...---- 5+ +sSe 3 2123 215125251521 1515123 2221111121511 cee 167 2. Thực tiễn định khung hình phạt... .-- 5522222 2t 22x szvrvrrrrrererrerrrree 173 3. Thực tiễn quyết định hình phat ...cccccccccccsccecssecseeeeeseseesseeeeeeneseeeeseeeeens 176

<small>CHUYEN DE VIII: THỰC TIEN AP DUNG PHAP LUAT HINH SỰ TRONG XÉT</small>

<small>XU TOI LUA DAO CHIEM BOAT TAI SAN (TS. Lê Đăng Doanh)... 185</small>

1. Thực tiễn xét xử toi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian qua... 18?

2. Một số kiến nghị về việc áp dụng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản... 20C <small>CHUYEN DE IX: THUC TIEN ÁP DỤNG PHAP LUẬT HÌNH SỰ TRONG XÉT XỬ</small>

<small>TỘI LẠM DUNG TÍN NHIỆM CHIEM ĐOẠT TÀI SAN (Ths. Vii Hải 41nh)... 204</small>

1. Về định tội danh...---c c s n cv E211 11 E111 11151111111 1110111111111 101111111 205 2. Về quyết định hình phạt... 5-5-5: 22222 2221212222222... 223 TÀI LIEU THAM KHHẢO... << 552cc xteEeESExeExEsesekeeeserrsrseesrersre 23(

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

MỞ DAU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn xét xử là hoạt động chuyền tải

các quy định của pháp luật hình sự vào thực tiễn cuộc sống. Hoạt động này vừa

giữ vai trị kiêm nghiệm tính khoa học, tính phù hợp của pháp luật hình sự vừa giữ vai trò quyết định đối với việc phát huy giá trị thực tiễn của các quy định

<small>này. Nói cách khác, áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động đặc biệt quan trọng</small>

găn liền với hoạt động lập pháp hình sự.

Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt được quy định khá sớm

trong pháp luật hình sự nước ta và cũng được sửa đổi nhiều nội dung cùng với

sự phát triển của lịch sử lập pháp hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu phòng chống

các tội phạm này trong thực tiễn. Song song với những nghiên cứu về lý luận thì những nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định này chính là hoạt động dé đánh giá đời sống thực tế của các quy định nay dé từ đó có những tác động

<small>đúng hướng.</small>

Mặc dù về mặt pháp lý, các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt chỉ

được quy định tại 8 điều luật trong Bộ luật hình sự nhưng tinh chất phô biến cũng như tác động tiêu cực đến đời sơng xã hội của nhóm tội này lại rất dang kể. Số liệu thống kê xét xử so thắm của Toa án nhân dân tối cao từ năm 2005 đến nay cho thay ty lệ số vụ án va số bị cáo bị xét xử về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ln dao động trong khoảng từ 35% đến trên 40% số vụ và số bị cáo nói chung. Những số liệu này cho thấy áp dụng pháp luật hình sự

đúng trong thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chiêm đoạt giữ vai <small>trò quan trọng trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự cũng như phịng,</small>

chống tội phạm ở nước ta.

<small>Cùng với những nghiên cứu về lý luận và nghiên cứu về pháp luật thựcđịnh, nghiên cứu thực tiên áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử các tội xâmphạm sở hữu có tính chiêm đoạt là việc làm cân thiết đê có cơ sở thực tiên cho</small>

<small>|</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<small>việc đánh giá tính phù hợp trong các quy định của pháp luật hình sự, trên cơ sở</small>

đó xác định giải pháp hồn thiện pháp luật tương ứng đặc biệt là trong điều kiện chúng ta đang tiền hành sửa đổi các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999. Kết quả nghiên cứu này trong một chừng mực nhất định cũng có thé cho

phép đánh giá mức độ tac động của các yếu tổ tiêu cực đối với hoạt động áp

<small>dụng pháp luật hình sự trong xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ án</small>

xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói riêng dé từ đó xác định hướng giải quyết can thiết.

Bên cạnh đó, nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói riêng, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử hình sự nói chung có ý nghĩa thiết thực đối với

mục tiêu tạo sự kết nói chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn nhằm góp phần hồn

thiện nhận thức vẻ lý luận, pháp luật cũng như góp phan tăng cường ý thức

<small>pháp luật của mọi cá nhân trong đó có những cán bộ làm cơng tác áp dụng pháp</small>

luật hình sự. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình

sự cũng cung cấp tài liệu quý báu cho đội ngũ giảng viên và những người

nghiên cứu pháp luật hình sự, góp phần nhận thức sâu sắc hơn quy định của

pháp luật hiện hành từ đó thực hiện tốt hơn mục tiêu đào tạo gan với đòi hỏi

của thực tiễn xã hội trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài

<small>Cân phải khang định răng nhiều nội dung liên quan đên lý luận vê ap</small> dụng pháp luật hình sự nói chung và một số van dé vướng mắc trong thực tiến <small>xét xử một sô tội xâm phạm sở hữu có tính chiêm đoạt ở nước ta đã được đê</small> cập đến ở các mức độ khác nhau trong sách báo pháp lý hình sự.

Trước hết, đó là các giáo trình viết về lý luận định tội danh và quyết định

<small>hình phạt như Giáo trình Luật hình sự Việt Nam cua Trường Dai học Luật Ha</small> Nội (GS.TS. Nguyễn Ngọc Hịa chủ biên), Tập 1, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà

Nội, năm 2010; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội (GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên), Nxb. Đại học quốc gia

<small>2</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Hà Nội,năm 2005; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần chung (TS. Cao Thị

<small>Oanh clu biên), Nxb. Giáo dục, Ha nội, năm 2013; Giáo trình luật hình sự Việt</small>

Nam quyén 1 (TS. Pham Van Beo chu bién), Nxb. Chinh tri quốc gia, Hà Nội, năm 2009; Giáo trình lý luận chung về định tội danh do GS.TS. Võ Khánh

<small>Vinh chì biên, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội, năm 2011... Day là các tài</small>

liệu cunz cấp kiến thức lý luận nền tảng về định tội danh và quyết định hình

phạt nói chung, làm cơ sở cho việc áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn <small>xét xử cc vụ án hình sự.</small>

<small>Bìn cạnh đó, áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử các tội xâm phạm</small>

sở hữu có tính chiếm đoạt được đề cập trong một số sách chuyên khảo và bài viết tạp chí về các tội xâm phạm sở hữu như: “Trần Văn Minh có phạm tội cướp khing?”, Dinh Văn Qué, Tạp chí Luật học, số 1 năm 1994; Suy nghĩ về bài “Trần Văn Minh có phạm tội cướp khéng?”, Nguyễn Văn Hương, Tạp chí

Luật học, số 1 năm 1995; Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm

1999, TS. Trương Quang Vinh, Tap chí Luật học, số 4 năm 2000; Sự khác nhau giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 Bộ luật hình sự) với tội lạm

dụng tin nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 Bộ luật hình sự), ThS. Lê Dang

Doanh. Tạp chí Tịa án nhân dân, tháng 11 năm 2005; Van dé định tội danh đối

với hank vi làm, sử dụng thẻ tin dung giả hay các loại thẻ khác để mua hang

hóa hoặc rút tiền tại máy trả tiền tự động của các ngân hàng, ThS. Lê Dang

<small>Doanh. Tạp chí Tịa án nhân dân, tháng 3 năm 2006; Tội cướp tải sản trong luật</small>

hình sự Việt Nam, ThS. Phạm Văn Bau, Tạp chí luật học, số 10/2010; Định tội danh đãi với các tội xâm phạm sở hữu, TS. Lê Đăng Doanh, Nxb. Tư pháp, Hà

Nội, nim 2013... Các nội dung liên quan đến dé tai cing duoc thé hiện ở các

mức do khác nhau trong một số luận án, luận văn, khóa luận tại các cơ sở đảo tạo luậ: như Trường Đại học luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Học viện khoa học xã hội như Đấu tranh phòng, chống to1 trộm cắp tài san ở

Việt Nam, Hoang Văn Hùng, Luận án tiền sĩ luật hoc, Trường Đại học Luật Hà

Nội, 2003; Dau tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài san ở Việt Nam,

Lê Đărg Doanh, Luận án tiền sĩ luật học, Trường Dai học Luật Hà Nội, 2009;

<small>¬</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Đầu tranh phịng, chống tội cướp giật tài sản ở nước ta hiện nay, Đặng Thuy Quynh, Luận an tiễn sĩ luật học, Hoc viện khoa học xã hội, 2013; Tội CƯỚp giật tai sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiến thành phố Hồ Chí Minh,

Nguyễn Hiền Hà, luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, 2013... Các tài liệu này đề cập đến lý luận định tội danh và trực tiếp hoặc gián tiếp đề

cập đến một số vướng mắc trong thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt cũng như hướng khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả xét xử các

<small>tội này.</small>

Nghiên cứu các cơng trình nói trên tơi nhận thấy đây là những tài liệu có ý nghĩa đơi với hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung cũng như áp

dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính

chiếm đoạt. Tuy nhiên, các cơng trình nói trên chủ yếu là những cơng trình

cung cấp kiến thức lý luận chung trong khoa học pháp lý hình sự hoặc nghiên cứu về từng tội cụ thể trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt dưới góc độ luật hình sự hoặc tội phạm học, qua đó có một sỐ nội dung nghiền

cứu liên quan đến thực tiễn xét xử tội danh tương ứng. Cũng có cơng trình

nghiên cứu dưới góc độ pháp lý hình sự về cả nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nhưng chỉ tập trung nghiên cứu trên một địa bản nhất định. Trong tất cả các cơng trình đó, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử các tội xâm phạm

sở hữu có tính chiếm đoạt ở nước ta trong những năm gan đây, dé từ đó đánh giá

đúng thực trạng, chỉ ra hạn chế, vướng mắc và xác định đúng nguyên nhân của

chúng trong hoạt động nay với mục tiêu tìm ra các giải pháp khắc phục phù hợp.

3. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Đề tài được thực hiện bằng cách sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học xã hội như phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh.

<small>Phương pháp phân tích được sử dụng trong việc phân tích bản án hình sựvề các tội xâm phạm sở hữu có tính chiêm đoạt. Trên cơ sở kêt quả phân tích</small>

<small>4</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>này, các phương pháp thơng kẻ, so sánh, tông hợp được su dụng dé đánh gia</small>

<small>thực tiên xét xử từng loại tội trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tinhchiêm đoạt cũng như đánh giá chung đơi với cả nhóm tội này.</small>

<small>4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài</small>

<small>Việc nghiên cứu dé tài này nhăm các mục đích dé xuât các giải pháp</small>

<small>hồn thiện pháp luật hình sự và hướng tác động đên các yêu tô bảo đảm hiệu</small>

<small>quả xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chiêm đoạt.</small>

Dé dat được mục đích nghiên cứu trên, đề tài xác định sẽ triển khai

<small>thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:</small>

Thứ nhất, thu thập các bản án và tham khảo các luận văn do các thầm

phán thực hiện về thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt đề đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn xét xử

<small>các tội này.</small>

Thứ hai, tìm ra nguyên nhân của các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính

chiếm doạt thơng qua nghiên cứu bản án và tham khảo ý kiến các cán bộ

trực tiếp áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này để từ đó đề xuất các giải pháp

<small>khăc phục tương ứng.</small>

<small>5. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu</small>

<small>Đê tài nghiên cứu bản hình sự về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiêmđoạt được thu thập ngầu nhiên ở cả ba miễn trong cả nước, gôm cả các bản ánsơ thâm và các bản án phúc thâm.</small>

<small>Dé tài nghiên cứu thực tiên xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính</small>

<small>chiêm đoạt trong 10 năm gan đây ở một sô địa phương đại diện cho ba miễn</small>

của đất nước như Hà Nội, Da Nang, thành phố Hồ Chí Minh, Binh Duong...

6. Tổ chức triển khai đề tài

<small>Lực lượng thực hiện dé tai được gơm các giảng viên của khoa Pháp luậthình sự và một sô thâm phán.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Sau khi ký hợp dong, ban chu nhiệm dé tai xúc tiễn thu thap cac ban an

hinh su, luan van viét vé thuc tién ap dung pháp luật hình sự trong xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nhất là những luận văn do các thầm

phán có nhiều kinh nghiệm thực tiễn viết dé lấy tư liệu thực tiễn thực hiện dé tài. Công việc này được duy trì nhiều tháng sau khi triển khai vì có những loại án ít được xét xử như án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, án về tội bắt cóc

<small>nhăm chiêm đoạt tải sản.</small>

Đầu tháng 3 năm 2014, với những tư liệu cơ bản đã thu thập được (gồm đủ 600 bản án về các điều 133, 135, 136, 137, 138, 139, và 140 và một số bản

án về Điều 134 và Điều 137 Bộ luật hình sự), ban chủ nhiệm đề tài đã họp triển

khai thực hiện dé tài, thống nhất đề cương, yêu cầu và tiễn độ nộp chuyên dé. Giữa tháng 10 năm 2014, ban chủ nhiệm đề tài tiến hành thu các chuyên

đề. Sau khi đọc và có ý kiến chỉnh sửa, ban chủ nhiệm đề tài tổ chức họp yêu

cầu các tác giả hoàn thiện chuyên đề.

Giữa tháng 12 năm 2014 ban chủ nhiệm đề tài thu đủ các chuyên dé và <small>tien hành xây dựng bao cáo tong thuật và hoàn thiện đề tài.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

PHAN I: BAO CAO TONG THUAT KET QUÁ NGHIÊN CỨU

1. Khái quát về áp dung pháp luật trong xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt

Ap dụng pháp luật nói chung được hiéu là hình thức thực hiện pháp luật,

<small>trong đó, Nhà nước thơng qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có</small>

thâm quyền tơ chức cho các chủ thé pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào những quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thê`. Là một hình thức cụ thé của áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật

hình sự trong thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt là

việc Tịa án sử dụng quy định của Bộ luật hình sự để giải quyết các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Các quy định mà Tịa án sử dụng dé đưa ra các phán quyết về tội danh cũng như trách nhiệm hình sự của người phạm tội gom quy dinh tai điều luật về tội chiếm đoạt tương ứng và các quy định có liên quan đến vụ án được quy định ở phần chung Bộ luật hình sự như: hệ thống

hình phạt, quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt...

Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt được quy định khá cụ thẻ, rõ ràng từ Điều 133 đến Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999. Một số nội dung

liên quan trực tiếp đến các điều luật này được giải thích, hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 3 năm 2001 của Hội đồng thắm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của các điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số

02/2003/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án

nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thâm

<small>! Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam. TS. Nguyễn Minh Doan, sách tham khảo, Nxb. Chính trịqc gia, Hà Nội, 2010, tr. L7.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

phán Tòa án nhân dân tdi cao hướng dẫn áp dụng một SỐ quy định của Bộ luật hình sự; Thơng tư liên tịch số 02/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an,

Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm

phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, những quy định và hướng dẫn nay van chi mang tính chung, khái quát, việc chúng được các cán bộ làm công tác xét xử chuyên tải một cách phù hợp vảo thực tiễn để giải quyết tốt các vụ án

hình sự tương ứng chính là phan tiếp theo dé bao đảm giá trị thực sự của các <small>quy định này.</small>

Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 kế thừa truyền thống lập pháp tương đối ồn định của nước ta và phát triển trong tình hình mới. Các quy định của Bộ luật hình sự là cơ sở pháp lý cân thiết cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và nhìn chung được nhận thức và áp dụng tương đối thống nhất trong những năm qua, góp phan đấu tranh phịng ngừa va chống tội phạm có hiệu

quả. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, trong những năm gần đây, quy

định của Bộ luật hình sự và hướng dẫn của các cơ quan có thắm quyền đã tạo

cơ sở pháp lý cần thiết cho hoạt động xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Vận dụng các quy định này, theo số liệu thống kê của phòng Tổng hợp Tòa án nhân dân tối cao, năm 2011 Tòa án cả nước đã xét xử 3191 vụ với 4610 bị cáo về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, năm 2012 xét xử 3259 vụ với 4712 bị cáo và năm 2013 xét xử 3183 vụ với 4542 bị cáo về các tội

<small>xâm phạm sở hữu có tính chiêm đoạt.</small>

Về cơ bản, việc định tội, định khung hình phạt trong xét xử các tội chiếm đoạt tài sản được thực hiện đúng pháp luật. Đặc biệt, sau khi quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hồn thiện cụ thé hơn về các dau hiệu cau thành và Thông tư liên tịch số 02/2004 hướng dan áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự vẻ các tội xâm phạm sở hữu được ban hành, tình trạng

<small>hình sự hố các quan hệ dân sự, kinh tê đã cơ bản được khac phục. Việc xét xử</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

oan người khơng có tội về các tội chiêm đoạt tài san hau như khơng cịn xảy ra.

Việc xác định khung hình phạt cũng được thực hiện tương đối tốt, khơng có <small>nhiều bat cập, vướng mac...</small>

Kết quả nghiên cứu đề tài cho thấy, số vụ án và số bị cáo bị xét xét xử về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trong những năm gần đây khá nhiều, hình phạt được áp dụng mang tính phân hóa cao, trong đó, bên cạnh

<small>những bản án áp dụng hình phạt khơng tước tự do hoặc phạt tù cho hưởng án</small>

treo thì nhiều bản án thể hiện hình phạt khá nghiêm khắc với mức hình phạt cao. Hình phạt pho biến được áp dụng đối với các tội nay là phạt tù đến dưới 7

năm (chiếm khoảng 86,6%). Hau như hình phạt chính cải tạo khơng giam giữ,

hình phạt bố sung như phạt tiên, tịch thu tải sản khơng được áp dụng trong thực

tiễn. Hình phạt tù chung thân, tử hình chỉ được áp dụng trong một số ít trường

Kết quả nghiên cứu khoảng 660 bản án về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trong những năm gan đây cho thấy trong đại đa số các ban án này việc định tội danh và quyết định hình phạt được thực hiện đúng và phù hợp, các Tòa án đã áp dụng đúng các cau thành tội phạm tương ứng dé xét xử người phạm tội phù hợp với tính chất của hành vi phạm tội đã được thực hiện. Đối với hầu hết các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, các Tòa án cũng thể hiện sự đánh giá mang tính thống nhất cao đối với tính chất của tội phạm. Về cơ bản, chúng tôi cũng đánh giá các Tòa án đã vận dụng đúng quy định về hình phạt và quyết định hình phạt dé quyết định hình phạt hợp lý đối

<small>với các bị cáo trong các bản án này.</small>

2. Khái quát thực tiễn xét xử từng tội trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt

2.1. Thực tiễn xét xử tội cướp tài sản

Nghiên cứu 100 bản án về tội cướp tài sản, trong đó (30 bản án) do TAND cấp huyện và cấp tỉnh tại Hà Nội xét xử và (70 ban án) do Tòa án một

<small>9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<small>số tỉnh phía Nam xét xử có kháng cáo và do Tòa phúc thâm Tòa án nhân dân</small>

tối cao tại Thanh phó Hồ Chí Minh xét xử, chúng tơi rút ra một số kết luận sau:

Thứ nhát, về thủ đoạn phạm tội, đa số người phạm tội có thủ đoạn dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản. Trong số 100 bản án về tội cướp tài sản thì có đến 89 vụ phạm tội người phạm tội dùng vũ lực đối với nạn nhân, trong đó có một số vụ người phạm tội ban đầu là đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng

nạn nhân không chấp nhận yêu cầu chiếm đoạt tài sản nên người phạm tội

chuyển sang dùng vũ lực (vừa đe dọa dùng vũ lực vừa dùng vũ lực). Có 07 vụ người phạm tội đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc và có 04 vụ người phạm tội

có hành vi khác làm cho người bi tan cơng lâm vao tình trạng khơng thé chống

cự được. Có 01 vụ chuyền hóa từ tội cướp giật tài sản thành tội cướp tài sản (ban án số 562/201 1/HSST ngày 28/11/2011 của TAND Quận Đống Đa). Có

01 vụ chuẩn bị phạm tội thì bị phát hiện và bắt giữ (bản án số 148/2014/HSST

ngày 24/06/2014 của TAND Quận Cầu Giấy). Trong số 70 ban án do Tòa phúc thâm TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử do có kháng cáo, kháng

nghị thì có 60 vụ án người phạm tội giết người và cướp tài sản và có 10 vụ chỉ

bị xử về tội cướp tài sản. Từ thực tế này cho thấy tính chất nguy hiểm của tội

<small>cướp tài sản là vừa xâm phạm quan hệ nhân thân (tính mạng, sức khỏe, tự do</small>

<small>thân thê) của nạn nhân vừa xâm phạm quan hệ sở hữu về tài sản.</small>

Thứ hai, về công cụ, phương tiện phạm tội. Đa số các trường hợp người

phạm tội sử dụng công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm. 85/100 ban án

về tội cướp tài sản người phạm tội sử dụng cơng cụ, phương tiện dé thực hiện

<small>tội phạm. Trong đó có 60 bản án người phạm tội dùng cơng cụ, phương tiện</small>

nguy hiểm giết nạn nhân để cướp tài sản; có 25 vụ người phạm tội sử dụng phương tiện nguy hiểm như dao gam, dao phay, dao bau, dao Thai Lan, mã tau, thanh sắt hoặc ống dẫn nước bằng kim loại, gậy tầm vông... để đánh hoặc đe dọa đánh nạn nhân đề cướp tài sản; 04 vụ người phạm tội sử dụng thuốc ngủ đầu độc nạn nhân dé cướp tai sản. Từ thực tế này cho thay hau hết các trường

<small>10</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<small>hợp phạm tội cướp tải sản, người phạm tội có sử dụng công cụ, phương tiện</small>

phạm tội (89/100 ban án chiếm 89%).

Kết quả nghiên cứu việc định tội danh ở các bản án cướp tai sản cho thay

vẫn có trường hợp định tội danh sai do xác định sai hành vi thái quá của người

thực hành. Day là vụ án ba bị cáo bàn nhau kế hoạch đe dọa tổ giác quan hệ bat chính của người bi hai với người khác dé buộc người bị hại đưa tiền. Khi một

trong ba bị cáo đại diện nhóm đồng phạm đến thực hiện kê hoạch đã ban bạc

thì người bị hại từ chối đưa tiền. Bất ngờ, bị cáo rút dao giấu trong người ra khống ché người bị hại, buộc phải giao tiền. Tòa an cấp sơ thâm xét xử cả ba bị cáo này về tội cướp tài sản. Chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng việc xác định tội danh đối với hai bị cáo không đến gặp người bị hại về tội Cướp tải sản

<small>là không đúng vi day chi là hành vi thái qua của người thực hành, hai bị cáo</small> còn lại chỉ phạm tội cưỡng đoạt tài sản.”

Nghiên cứu việc định khung hình phạt trong 100 bản án về tội cướp tài sản cho thấy:

- Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự ở 48/100 bản án; áp dụng khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự ở 45/100 bản án; áp dụng khoản 3 Điêu 133 Bộ luật hình sự ở 04/100 ban án; áp dụng khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình

<small>sự ở 03/100 bản án.</small>

Nghiên cứu 45 bản án Tòa án xét xử theo khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự chúng tơi nhận thấy việc áp dụng các dấu hiệu định khung quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự khơng đều, cụ thể là: Tòa án áp dụng điểm a

khoản 2 “Có fổ chức” ở 17/45 ban án; điểm b khoản 2 “Có tính chất chun

nghiệp” ở 01/45 bản án; điểm c khoản 2 “Tái phạm nguy hiểm” ở 02/45 bản án;

điểm d khoản 2 “Si dung vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm” ở

<small>? Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành</small>

<small>phố Hồ Chí Minh, Lê Hoàng Tấn, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội, 2014, tr.47-48.</small>

<small>II</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

25/45 ban an; diém đ khoản 2 “Gay thương tích hoặc gay ton hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%” ở 01/45 bản án; điểm e kho¿n 2 “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai

trăm triệu đồng ” ở 03/45 ban án; diém g khoản 2 “Gay hậu quả nghiêm trọng”

<small>khơrg được áp dụng.</small>

Nghiên cứu 04 bản án Tịa án xét xử theo khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình

sự cho thấy: Tòa án áp dụng điềm a khoản 3 “Gay thương tích hoặc tơn hại cho

suc khoe của người khác mà ty lệ thương tat từ 31% đến 60%” là 01/04 bản án; điểm b khoản 3 “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu dong đến dưới

năm trăm triệu dong” là 03/04 bản án; điểm c khoản 3 “Gay hậu qua rat nghiêm

<small>trong” không được áp dụng.</small>

Nghiên cứu 03 bản án Tòa án xét xử theo khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình

sự cho thấy: điểm a khoản 4 “Gay thương tích hoặc ton hại cho sức khỏe của

người khác mà ty lệ thương tat từ 61% trở lên hoặc lam chết người ” và điểm c khoản 4 “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” không được áp dụng; điểm b khoản 4 “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên" 03/03.

Tông hợp kết quả việc áp dụng các dấu hiệu định khung tăng nặng trên đây cho thấy có những dấu hiệu định khung tăng nặng được áp dụng nhiều như dau hiéu “co t6 chức” ở 17 vu/45 vụ xét xử theo khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự; dấu hiệu “sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm” ở 25

vu/45 vụ xét xử theo khoản 2 Điều 133 Bộ luật hinh sự; dấu hiệu “chiếm đoạt

tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng” ở 03 vụ/04 vụ xét xử theo khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự; dấu hiệu “chiếm đoạt

tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên” ở 03 vụ/03 vụ xét xử theo khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự. Có những dấu hiệu định khung tăng nặng ít được áp dụng như dấu hiệu “có tính chất chun nghiệp” ở 01 vu/45 vụ; dau

hiệu “tái phạm nguy hiểm” ở 02 vu/45 vụ; dau hiệu “gây thương tích hoặc gây tơn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%” ở 0]

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

vu/45 vụ xét xử theo khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự. Có những dấu hiệu định khung tăng nặng khơng được áp dụng lần nào như các dấu hiệu “gây hậu

quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt

nghiêm trọng” (điểm g khoản 2, điểm c khoản 3, điểm c khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự). Các dấu hiệu định khung được áp dụng là chính xác và phù hợp với quy định của Bộ luật hình sự và các hướng dẫn áp dụng của các cơ quan có

<small>thâm quyên.</small>

Nghiên cứu việc quyết định hình phạt ở 100 bản án về tội cướp tài sản cho thấy:

- Toa án áp dụng khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự xử phạt các bị cáo phạm tội cướp tài sản ở 48 vụ/100 vụ và mức xử phạt thấp nhất là 0l năm tù, mức xử phạt cao nhất là 08 năm tù, trong đó có I3 bị cáo được xử dưới mức

thấp nhất của khung hình phạt do điều luật quy định là dưới 03 năm tù theo

Điều 47 Bộ luật hình sự; có 03 bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

Cụ thể: xử phạt 01 năm tu 03 bị cáo; 02 năm tu 10 bị cáo; 03 năm tù 15 bị cáo;

<small>4 năm tù 14 bị cáo; 05 năm tù 06 bị cáo; 06 năm tu 02 bị cao; 07 năm tu 04 bịcáo 08 năm tù 01 bị cáo.</small>

- Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự xử phạt các bị cáo

phạm tội cướp tài sản ở 45 vụ/100 vụ và mức xử phạt thấp nhất là 03 năm tù, mức xử phạt cao nhất là 11 năm tù, trong đó có 17 bị cáo được xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt do điều luật quy định là dưới 07 năm tù theo Điều 47 Bộ luật hình sự; có 01 vụ phạt tù cho hưởng án treo. Cụ thé: xử phạt

<small>03 năm tù 06 bị cáo; 04 năm tù 04 bị cáo; 05 năm tu 05 bị cáo; 06 năm tù 02 bịcáo; 07 năm tu 14 bị cáo; 08 năm tù 10 bị cáo; 09 năm tù 08 bị cáo; 10 năm tù02 bị cáo; 11 năm tù 01 bị cáo; 12 năm tù 0 bị cáo; 13 năm tù 0 bị cáo; 14 nămtu 0 bị cáo; 15 năm tu 0 bị cáo.</small>

- Tòa án áp dụng khoản 3 Điều 133 Bộ luật hình sự xử phạt các bị cáo phạm tội cướp tài sản ở 04 vụ/100 vụ và mức xử phạt thấp nhất là 07 năm tù,

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

mức xử phạt cao nhất là 20 năm tù; trong đó có 05 bị cáo được xu dưới mức

thấp nhất của khung hình phạt do điều luật quy định là dưới 12 năm tủ theo Điều 47 Bộ luật hình sự. Cụ thé: xử phạt 07 năm tù 01 bị cáo; 08 năm tu 02 bị

<small>cáo; 09 năm tu 01 bị cáo; 10 năm tu 01 bị cáo; 11 năm tù 0 bị cáo; 12 năm tù01 bị cáo; 13 năm tù 0 bị cáo; 14 năm tù 04 bị cáo; 15 năm tù 02 bi cáo; 16năm tu 0 bị cáo; 17 năm tù 0 bị cáo; 18 năm tù 0 bị cáo; 19 năm tù 0 bị cáo; 20năm tù 01 bị cáo.</small>

- Tòa án áp dụng khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự xử phạt các bị cáo phạm tội cướp tải sản ở 03 vụ/100 vụ và xử phạt thập nhất là 14 năm tù, cao nhất là tử hình; trong đó có 03 bị cáo được xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt do điều luật quy định là dưới 18 năm tù. Cụ thể: xử phạt 14 năm tu

<small>01 bi cáo; xử phạt 15 năm tu 01 bị cáo; 17 năm tù 01 bị cáo; 20 năm tù 01 bịcáo; tử hinh 01 bị cáo.</small>

Như vậy, nghiên cứu việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội cướp tài sản trong 100 bản án cho thay các Tòa án đã xử phạt nghiêm đối với

những bị cáo phạm tội cướp tải sản, thê hiện ở việc trừ 01 bị cáo bị xử tử hình, tất cả các bị cáo đều bị xử phạt tù có thời hạn, khơng có bị cáo nào được xử

<small>phạt cải tạo khơng giam giữ, chỉ có 04 bị cáo bị xử phạt tù nhưng được hưởng</small>

án treo. Việc xử phạt nghiêm khắc người phạm tội cướp tai sản là hoan toàn cần thiết và phù hợp với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này như đã

<small>phân tích ở mục 2 trên đây 89/100 vụ cướp tài sản người phạm tội dùng vũ lực</small>

đối với nạn nhân; 89/100 vụ cướp tài sản người phạm tội sử dụng công cụ, phương tiện phạm tội đề thực hiện tội phạm, trong đó có 25 vụ sử dụng cơng

<small>cụ, phương tiện có tính nguy hiém.</small>

<small>Mot số sai sót trong thực tiên xét xu tội cướp tài san:</small>

Nghiên cứu việc định tội danh, định khung hình phạt va quyết định hình

phạt trong 100 bản án xét xử về tội cướp tài sản chúng tơi nhận thay cịn một sỐ

<small>thiêu sót sau:</small>

<small>14</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Thư nhát, Sai sot trong việc định tội danh đối với trường hợp bị cao sau

khi giết chết nạn nhân đã có hành vi “lay tài sản” của nạn nhân. Tịa án khơng xác định rõ bị cáo có ý định chiếm đoạt tài sản của nạn nhân trước khi giết chết nạn nhân hay sau khi giết chết nạn nhân và đều xác định bị cáo phạm nhiều tội

là tội giết người và tội cướp tài sản. Việc xử lý này có thể nói là gị ép, khiên

cưỡng, tùy tiện, thiếu cơ sở khoa học và pháp lý. Bởi vì, đối với tội cướp tài

sản theo quy định của Bộ luật hình sự, cách hiểu phơ biến hiện nay và các tài

liệu giảng dạy luật hình sự, chỉ có thể phạm tội cướp tài sản khi người phạm tội có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc... nhằm chiếm đoạt tài sản. Điều này có nghĩa người phạm tội phải có ý định (mục đích) chiếm đoạt tai sản của người khác va dé thực hiện mục đích này người phạm tội có hành vi dùng vũ lực... (có thé là giết người), đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tan cơng lâm vào tinh trạng không thé chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Hay nói một cách khác là ý thức (mục đích) chiếm đoạt tải sản của người phạm tội phải có trước (chúng tơi nhắn

<small>mạnh) khi người này thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe doa dùng vũ lực ngay</small>

tức khắc... mới phạm tội cướp tài sản. Vì vậy, chúng tơi đồng tình với ý kiến “Tóm lại, nếu có đu bằng chứng dé khang định: sau khi giết người, bị cáo mới có ý định chiếm đoạt thì vơ luận thế nào, chúng ta cũng không thể xử bị cáo thêm tội cướp? được... muốn xử bị cáo thêm tội cướp thì phải thỏa mãn diéu kiện là: sau khi bị cdo có ý định chiếm đoạt, bao giờ cũng phải có hành vi dùng vũ lực... rồi mới chiếm đoạt. Hay nói một cách khác, nó phải đây đủ dấu hiệu

cau thành tội cướp `”.

Theo chúng tôi, hành vi “lấy” tài sản của người đã chết chỉ có thể phạm

tội chiếm giữ trái phép tải sản hoặc một tội khác mà không thê phạm tội cướp tài sản. Bởi trước khi và trong khi thực hiện hành vi dùng vũ lực (giết người),

<small>* Dinh Văn Qué, Pháp luột, thực tiễn va an lệ, Nxb. Đà Nẵng, 1999, tr. 129.</small>

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

người phạm tội khơng có ý định chiếm đoạt tài sản cua nạn nhân mà chi mong

muốn hoặc có ý thức dé mặc hậu quả chết người vì các động cơ khác nhau. Chi

khi nạn nhân chết mới thấy nạn nhân có tài sản và mới nảy sinh lịng tham (có ý định lấy) và đã “lay” tài sản đó. Việc người phạm tội thấy và có được tài sản này là một dạng đặc biệt của việc “bắt được” quy định tại Điều 141 Bộ luật hình sự và người phạm tội đã cơ tình khơng trả lại cho người quản lý hợp pháp

<small>(người thân của nạn nhân) tài sản đó. Câu hỏi đặt ra là người bị hại của hành vi</small>

“lấy” tài sản của người đã chết là ai? Chắc chan không phải là người đã chết bởi người phạm tội khơng có ý định chiếm đoạt tài sản của nạn nhân trước khi và trong khi xâm hại tính mạng của họ. Và khi nạn nhân đã chết thì cũng khơng thé nói người phạm tội cơng khai hay lén lút đối với họ. Khi nạn nhân chết thi tài sản của họ về nguyên tắc là thuộc về người thân thiết (cha, mẹ, vợ, chồng, con...) và như vậy người bị hại trong trường hợp này chỉ có thể là người thân của người đã chết. Lay tài sản của người đã chết mà có tình khơng trả lại tài sản đó cho người quản lý hợp pháp (cha, mẹ, vợ, chồng, con...) của họ là hành vi

chiếm giữ trái phép tài sản và hành vi này chỉ cấu thành tội phạm khi tài sản

chiếm giữ trái phép đó có giá trị mười triệu đồng trở lên.

Thu hai, sai sót trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành. Theo quy định tại khoản | Điều 133 Bộ luật hình sự, tội cướp tải sản được coi là

<small>hoàn thành khi người phạm tội thực hiện một trong các hành vi dùng vũ lực</small>

hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản mà khơng địi hỏi người phạm tội phải đã có hành vi chiếm đoạt cũng như chiếm được tài sản hay chưa. Dấu hiệu “chiếm đoạt” trong CTTP của tội Cướp tài sản chỉ được phản ánh là mục đích chiếm đoạt “nhằm chiếm đoạt tài sản”. Một số bản án, Tịa án đã nhận thức khơng đúng quy định của luật xác định bị cáo phạm tội cướp tải sản chưa đạt khi bị cao đã có hành vi dùng vũ lực nhăm chiếm đoạt tài sản nhưng không chiếm đoạt được tài sản vì ngun nhân ngồi

<small>y mn của người phạm tội.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Thứ ba, sai sót trong việc khơng áp dụng tình tiết định khung tăng nặng

là “Sứ dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” (điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự) và tình tiết “phạm tội có tơ chức” (điềm a khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự). Một số trường hợp hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự khi công cụ phạm tội được sử dung là dao phay, dao bam, gậy tre to

bằng cơ tay..., có 01 trường hợp áp dụng thiếu tình tiết định khung phạm tội có

tơ chức trong khi nhóm bị cáo có sự câu kết chặt chẽ dé thuc hién ké hoach

<small>pham tdi.</small>

Thứ tu, sai sót trong việc khơng áp dung tình tiết tang nang TNHS khi quyết định hình phạt. Thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy có một số trường hợp phạm tội thỏa mãn nhiều dấu hiệu định khung tăng nặng, có dấu hiệu định khung quy định tại khoản 2, có dấu hiệu định khung quy định tại khoản 3, có

dau hiệu định khung quy định tại khoản 4. Gặp trường hợp này, về nguyên tắc người phạm tội phải bị xét xử theo dấu hiệu định khung hình phạt cao nhất, các

dấu hiệu định khung cịn lại được coi là tình tiết tăng nặng TNHS theo quy định

tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự (nếu Điều 48 Bộ luật hình sự có quy định).

Tuy nhiên, ở một số bản án, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tương ứng

<small>khơng được áp dụng.</small>

2.2. Thực tiên xét xử tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

Trên cơ sở nghiên cứu 36 bản án được Tòa án các cấp xét xử về tội bắt

cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tơi nhận thay nhìn chung, việc định tội danh đối

với tội phạm này được các Tòa án thực hiện khá tốt, số bản án thé hiện vướng, mặc trong định tội danh không nhiều.

Trong số 36 bản án về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, có 07 bản án

xét xử bị cáo theo khoản | chiếm 19,4%, 21 bản án xét xử bị cáo theo khoản 2 chiếm 58,3%, 05 bản án xét xử bị cáo theo khoản 3 chiếm 13,9%, 03 bản án xét xử bị cáo theo khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự chiếm, 8,35, Như vậy, |trong,

<small>17</small> <sup>TRUCHS jG LUAT HÀ NỘI</sup>

PHONG vt 314

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<small>sô các ban an mà chúng tôi thu thập ngâu nhiên, so bản án ap dụng khoản 2Điêu 134 Bộ luật hình sự chiêm tỷ lệ cao nhât, tiếp dén là các ban án áp dụng</small>

khoản 1, các ban án áp dụng khoản 4 chiếm tỷ lệ thấp nhất.

Nghiên cứu các ban án xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự, các dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm đều được thé hiện day đủ

<small>trong các vụ án hình sự tương ứng.</small>

Trong số 21 bản án xét xử theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự có 02 bản án áp dụng điểm a (tình tiết phạm tội có tơ chức) chiếm 9,5%, 05 bản án áp dụng điểm c (tình tiết tái phạm nguy hiểm) chiếm 23,8%, 04 bản án áp dụng

điểm d (sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác) chiếm

19%, 14 bản án áp dụng điểm đ (tình tiết đối với trẻ em) chiếm 66,6%, 01 bản án áp dụng điểm e (tình tiết đối với nhiều người) chiếm 4,7% và 03 bản án áp

dụng điểm h (tình tiết chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới

200 triệu đồng) chiếm 14,3%. Khơng có trường hợp phạm tội nao bị áp dụng

điểm b (có tính chất chuyên nghiệp), điểm g (gây thương tích hoặc gây ton hại

cho sức khỏe của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%)

hay điểm ¡ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự (gây hậu quả nghiêm trọng). Như vậy, tình tiết định khung hình phạt được áp dung phơ biến nhất là phạm tội đối với trẻ em, điều này cũng phù hợp với việc khi nhằm vào đối tượng trẻ em thì

người phạm tội có thé dé thực hiện hành vi và dé đạt mục đích hơn.

Cả 05 bản án xét xử theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự đều áp dụng điểm b (tình tiết chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng). Khơng có trường hợp nao bị áp dụng tình tiết tại điểm a (gây

thương tích hoặc gây tốn hại cho sức khỏe của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%) hoặc điểm c (gây hậu quả rất nghiêm trọng).

Cả 03 bản án xét xử theo khoản 4 Điều 134 đều áp dụng điềm b (tình tiết

chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên). Khơng có trường hợp

nào bị áp dụng tình tiết tại điểm a (gây thương tích hoặc gây tốn hại cho sức <small>18</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

khỏe của người bị bắt làm con tin ma ty lệ thương tật từ 61% hoặc làm chết

người) hoặc tình tiết tại điểm c (gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng).

Số liệu thong kê của Tòa án nhân dân tối cao về chế tải được áp dụng đối vol người bị xét xử về tội bắt cóc nham chiếm đoạt tài sản giai đoạn 2009 - 2013 được thé hiện qua bang sau:

(Vu thong ké tông hop — Téa án nhân dân toi cao)

Như vậy, trong giai đoạn 2009-2013, có 54 bị cáo bi xét xử tội bắt cóc

nhằm chiếm đoạt tài sản thì hình phạt được áp dụng cho bị cáo bị xử hình phạt tù

<small>nhưng cho hưởng án treo, 276 bị cáo bị xử phạt tù dưới 7 năm, 37 bị cáo bị xử</small>

phạt từ 7 năm đến dưới 15 năm tù, chỉ có 05 bị cáo bị phạt từ 15 năm tù đến 20

<small>năm tù và tù chung thân.</small>

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<small>Nghiên cứu 36 ban an về tội bat cóc nham chiếm đoạt tai sản cho thay:</small>

- Quyết định hình phạt đối với trường hợp đồng phạm được áp dụng với

25/36 bản án, chiếm 69,4%. Nghiên cứu 25 bản án này tơi đánh giá các Tịa án

vận dụng đúng quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm

dé quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm một cách phù hợp. - Quyết định hình phạt theo Điều 47 được áp dụng với 11/36 bản án, chiếm 30,5%. Nghiên cứu các bản án này tôi thay cả 11 bản áp dung đúng quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự vé điều kiện và phạm vi giảm hình phạt đối

<small>với người phạm tdi.</small>

- Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được áp

dụng với 04/36 bản án, chiếm 11,1%. Kết quả nghiên cứu 04 bản án này cho

thấy hội đồng xét xử đã vận dụng quy định về trách nhiệm hình sự đối với

người chưa thành niên phạm tội theo quy định tại Chương X Bộ luật hình sự để xử lý vụ án theo hướng mức hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo khá

thấp so với mức áp dụng tương ứng đối với người thanh niên phạm tội này.

Điển hình là trường hợp nhóm 04 bị cáo chưa thành niên bắt cóc học sinh cấp 2

dé địi tiên chuộc của gia đình, lúc đầu địi 200 triệu đồng, sau đó địi lên mức

500 triệu đồng và số tiền cuối cùng các bị cáo địi gia đình người bị bắt cóc phải nộp là 800 triệu đồng. Khi định tội danh đối với trường hợp này, hội đồng xét xử sơ thâm chỉ áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự (khơng căn cứ vào số tiền các bị cáo địi gia đình người bị hai) đồng thời áp dụng quy

định tại Điều 19, Điều 47, Điều 69 và Điều 74 Bộ luật hình sự dé quyết định

hình phạt với các bị cáo từ mức 4 năm tù đến mức 7 năm tù. Hội đồng xét xử

sơ thâm một lần nữa giảm nhẹ hình phạt với các bị cáo với mức từ 2 năm đến 5

<small>năm tù.</small>

- Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt được áp dụng với 01/35 bản án (đã được nêu ở phần định tội danh đối với trường hợp phạm tội chưa đạt), chiếm 2,77%. Tuy nhiên, tôi cho rằng đây là bản án xác định sai

<small>20</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

giai đoạn :hực hiện tội phạm nên việc quyết định hình phạt cũng khơng tương

<small>xứng với tính chât của vụ án.</small>

Ngồi các trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt như trên, về cơ bản

tôi đồng tinh với quan điềm quyết định hình phạt của các Tịa án đối với các trường hợp phạm tội thông thường. Tuy nhiên, một số trường hợp bắt cóc dé

địi nợ như được phân tích ở trên, tơi cho rằng xuất phát từ bất hợp lý trong

việc định tội nên cũng dẫn đến bat hợp lý trong việc quyết định hình phạt đối với họ (theo hướng hình phạt được tuyên quá nặng so với tính chất, mức độ

nguy hiểm của tội phạm).

Trong 36 bản án được phân tích, hình phạt tiền là hình phạt bổ sung được áp dụng đối với 02/36 bản án, chiếm 5,55%; biện pháp tịch thu tài sản được áp dụng trong 18/36 bản án, chiếm 50%, chủ yếu là tịch thu điện thoại,

<small>sim điệr thoại dùng làm phương tiện liên lạc với người nhà nạn nhân, có</small>

trường hợp tịch thu xe mơtơ là phương tiện chở nạn nhân bị bắt cóc, tịch thu,

tiêu hủy các loại công cụ, phương tiện phạm tội dùng dé khống chế nạn nhân

<small>như dao, day...</small>

Tuy nhiên, trong số 36 bản án được nghiên cứu trên đây, tôi nhận thấy

việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội bat cóc nhằm chiếm đoạt tài sản co một số trường hợp không hợp lý:

Thứ nhất là trường hợp bắt cóc người khác để địi trả nợ: đây là trường

<small>hợp nguyi bi hại hoặc người thân thích của người bị hại vì lý do nao đó nợ của</small>

người phạm tội một khoản tiền mà người phạm tội chưa đòi được nên đã bắt người nơ tiền của mình hoặc người thân thích của người đó làm con tin dé gây

sức ép biộc người nợ tiên phải trả số tiền đang nợ. Liên quan đến loại vụ việc

này các sản án thể hiện quan điểm định tội danh khác nhau. Có quan điểm xác định đây là hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, có quan điểm lại xác định đây là hình vi bắt giữ người trái pháp luật. Đối với trường hop coi đây là hành vi bắt ccc nhằm chiếm đoạt tải sản thì lại có hai hướng xử lý khác nhau: hướng

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

thứ nhất coi toàn bộ SỐ tiên nợ mà người phạm tội tìm cách doi là tài sản bị chiếm đoạt, hướng thứ hai coi số tiền đã đòi được là số tiền mà người phạm tội

tìm cách chiếm đoạt. Các cách hiểu khác nhau này dẫn đến việc định khung hình phạt đối với các trường hợp phạm tội cụ thể không dựa trên những quan

điểm thông nhất.

Chúng tôi cho rang néu xử lý những trường hop này giống như những

trường hợp bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác là không hợp lý.

Cần xác định rang đây là hành vi bắt cóc người khác dé địi lại tài sản hợp pháp

của mình và như vậy, van dé bị xử lý ở đây năm ở cách thức địi tài sản khơng

<small>theo đúng quy định của pháp luật chứ không phải là hành vi xâm phạm sở hữucủa người khác.</small>

Vấn dé bắt cóc người khác dé địi tiền nợ khơng hợp pháp (ví dụ: tiền thua bạc mà người bị thua tin rằng người bị hại dùng thủ đoạn gian dối để thăng bạc,

tiền cá độ bóng đá...) cũng dẫn đến những quan điểm khác nhau. Nghiên cứu

của tôi cho thay, hau hết các bản án liên quan đến van dé này đều không thừa nhận đây là tài sản hợp pháp của người phạm tội nên đều xét xử về tội bắt cóc

nhằm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, cũng có trường hợp Tịa án xác định đây không phải là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác nên xét xử về tội bắt giữ

<small>người trái pháp luật.</small>

Về van dé nay, qua nghiên cứu các bản án về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ở nước ta cho thấy, tình trạng địi các khoản nợ bất hợp pháp bằng thủ đoạn bit hợp pháp xảy ra khá phố biến. Hành vi này cần được xác định là hành vi chiến đoạt tài sản và xét xử theo tội danh tương ứng với thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng dé đòi khoản tiền đó. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người phạm tội cho vay một khoản tiền nhất định với lãi suất quá mức pháp luật cho phép va sau đó dùng thủ đoạn bat hợp pháp (trong đó có thủ đoạn bắt cóc người khác làn con tin) đẻ địi tồn bộ tiền gốc và tiền lãi. Tơi cho rằng cần hướng dẫn cụ thể heo hướng chỉ thừa nhận khoản nợ hợp pháp gồm tiền cho vay và tiền lãi

<small>22</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

trong rnức lãi suất pháp luật quy định. Việc xử lý hành vi dùng thủ đoạn bát hợp

pháp dé đòi số tiền này được thực hiện tương tự như dé xuất ở trên. Đối với số

tiền lãi vượt q mức quy định thì phải tính đây là tài sản hợp pháp của người bị <small>hại mà người phạm tội tìm cách chiêm đoạt.</small>

Thứ hai, cịn tinh trạng có những cách hiểu khơng thống nhất về van dé

<small>giai đoạn phạm tội ở tội này. Có trường hợp tuy người phạm tội chưa thực hiện</small>

được hành vi bắt con tin nhưng vẫn bị xét xử ở giai đoạn tội phạm hồn thành, trong khi đó có trường hợp đã bắt được con tin, chưa nhận được tiền chuộc thì

<small>lai được xác định là phạm tội chưa dat.</small>

Thứ ba, việc định khung hình phạt đối với trường hợp chưa chiếm đoạt được tài sản, đặc biệt là trong trường hợp bắt cóc người khác làm con tin đề địi nợ cũng được xử lý khơng thống nhất. Có trường hợp hội đồng xét xử căn cứ

vào số tiền mà người phạm tội địi nợ để xác định khung hình phạt (theo cách

<small>xác định này thì khoản nợ càng lớn, khung hình phạt được lựa chọn cảng có</small>

chế tài nghiêm khắc), có trường hợp hội đồng xét xử khơng căn cứ vào số tiền

này mà chỉ xét xử theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự.

Thứ tư, cũng có hiện tượng áp dụng tình tiết định khung tăng nặng khi khơng thỏa mãn tình tiết này: trường hợp bị cáo có nhiều tiền án, tiền sự về tội trộm cắp tài sản, cướp giật tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lần này là

lần đầu tiên phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng Tịa án xác định

bị cáo lay việc phạm tội làm phương tiện kiểm sống nên áp dụng tình tiết “có

tính chất chuyên nghiệp””.

<small>* Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành</small>

<small>phố Hồ Chí Minh, Lê Hồng Tấn, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội, 2014, tr.45-46.</small>

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<small>2.3. Thue tiên vét xứ tôi cưỡng doat tài san</small>

<small>Két quả nghiên cứu 100 bản án về tội cưỡng đoạt tai san được thông kê</small>

<small>một cách ngâu nhiên với 196 bị cáo được đưa ra xét xử về tội phạm này cho</small>

Các đối tượng chủ yếu phạm tội theo khoản 1 Điều 135, chiếm 55% (55 vụ); tiếp đến là khoản 2 với 35% (35 vụ); khoản 4 với 8% (8 vụ) và khoản 3

<small>với 2% (2 vụ).</small>

Bên cạnh những trường hợp quyết định hình phạt thơng thường, cũng có 15/196 bị cáo được áp dụng quy định tại Điều 47 quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật, 07/196 bị cáo được áp dụng quy định về quyết định hình

phạt đơi với người chưa thành niên phạm tội.

<small>Ngoài ra, trong 196 bị cáo được đưa ra xét xử, có L7 bị cáo được hưởng</small>

án treo - biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, do “phạt tù không

quá ba năm, căn cứ vào nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ...”

(Điều 60).

Nghiên cứu 100 vụ án cưỡng đoạt tài sản, cho thấy, hau hết, trong các vụ án này, bị cáo được xem xét hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 trong từng trường hợp cụ thể, như điểm a “người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm”; điểm b “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả”; hay điểm o “người phạm tội tự thú” hoặc các tỉnh tiết giảm nhẹ khác... Bên cạnh đó, cũng có nhiều vụ án, người phạm tội do “phạm tội có tơ chức”, “phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm”... nên đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 48).

Kết quả nghiên cứu về tội phạm này cho thấy hau hết các bản án thể hiện

kết qua định tội danh đúng và quyết định hình phat phù hợp đối với người

phạm tội. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp vu án có các dau hiệu của tội cướp tai

<small>sản lại bị xét xử về tội cưỡng đoạt tài sản.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

2.4. Thực tiến xét xử tơi cwóp giật tài sản

Qua khảo sát các bản án về tội cướp giật tài sản chúng tôi nhận thấy đa

số các trường hợp mà Toà án định tội danh là cướp giật tài sản, hành vi phạm

tội của bị can, bị cáo đều thé hiện các yếu tố cầu thành tội phạm đặc trưng của tội phạm này đó là cơng khai giật lấy, giằng lấy... tài sản. Bên cạnh đó cũng có

các trường hợp mà hành vi của người phạm tội lại có nhiều dấu hiệu đặc trưng

khác nhau ở các tội danh khác nhau như vừa có yếu tơ gian dối nhưng đồng thời có thêm dấu hiệu nhanh chóng, công khai.

Trong số 100 bản án mà chúng tôi đã tiến hành khảo sát thì đa phần việc xác định dấu hiệu cơng khai khơng có vướng mắc. Tuy nhiên, nằm trong những trường hợp cịn có những ý kiến khác nhau về mặt lí luận do hành vi phạm tội có những dấu hiệu đặc trưng khác nhau ở các tội danh khác nhau thì có ba

<small>trường hợp sau đây:</small>

° Trường hợp ý định ban đầu của người phạm tội là lén lút chiếm đoạt tài sản, hành vi chiếm đoạt tài sản ban đầu cũng là hành vi có tính chất lén lút

<small>nhưng ngay sau đó, khi bị chủ tài sản phát hiện, người phạm tội đã công khai</small>

lấy tài sản.

Trong số 100 bản án về tội cướp giật tài sản mà chúng tơi nghiên cứu, có

trường hợp người phạm tội đã dùng những thủ đoạn gian dối, sau đó mới cơng

khai và nhanh chóng chiếm đoạt tài sản. © Đối với dau hiệu nhanh chóng

Dấu hiệu nhanh chóng là dấu hiệu phan anh thủ đoạn thực hiện hành vi

<small>cudp giật của người phạm tội. “Đó là thủ đoạn lợi dụng sơ hở cua chủ tài sản</small>

nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chong lấn

tránh”. Trong số 100 bản án Cướp giật tài sản mà chúng tôi đã tiễn hành khảo sát, phần lớn các trường hợp người phạm tội thực hiện cả ba dạng hành vi nêu

<small>2</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

‘Tong số 100 ban án xét xử về tội cướp giật tài sản được khảo sát, việc

định klhing cho kết qua: Tòa án áp dụng khoản | Điều 136 Bộ luật hình sự ở 23/100 tản án; Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự ở 78/100 bản

<small>an; khơrg có bản án nào Tịa án áp dụng khoản 3 và khoản 4 Điều 136.</small>

N;hiên cứu 78 ban an ma Toa án xét xử theo Khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sur, ching tơi nhận thấy các dấu hiệu định khung hình phat ở khoản 2 được

<small>áp dụng với tỉ lệ như sau:</small>

+ Có tổ chức (điềm a): 1/100 vụ.

+ Tái phạm nguy hiểm (điểm c): 12/100 vụ. + Dùng thủ đoạn nguy hiểm (điểm d): 75/100 vụ.

+ Hành hung dé tau thoát (điểm đ): 2/100 vụ.

+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng

(điểm g): 2/100 vu.

+ Có tính chất chuyên nghiệp (điểm b); gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỉ lệ thương tật từ 11% đến 30% (điểm e); gây hậu quả nghiêm trọng (điềm h): 0/100 vụ.

Nghiên cứu kết quả quyết định hình phạt đối với 100 bản án về tội CưỚp

<small>giật tài sản cho các kết quả sau:</small>

+ Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự xử phạt các bị cáo phạm tội cướp giật tài sản là 23/100 vụ với tổng số 31 bị cáo. Về hình phạt tù thực tế áp dụng: xử phạt thấp nhất là 09 tháng tù, cao nhất là 03 năm 06 tháng

tù. Trong số 23 ban án áp dụng khoản | Điều 136 có 03 bị cáo được áp dụng

hình phạt tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là dưới 01 năm tù, trong đó khơng có trường hop nao áp dung Điều 47 Bộ luật hình sự; có 06 bị cáo bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Cụ thé: xử phạt dưới 01 năm tù 03 bị cáo; từ

01 đến 02 năm tù 25 bị cáo; từ trên 02 đến 03 năm tù 02 bị cáo; từ trên 03 đến

04 năm tù 01 bị cáo; từ trên 04 năm tù đến 05 năm tù 0 bị cáo.

<small>26</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

+ Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự xử phạt các bị cáo

phạm tội cướp giật tài sản là 78/100 vu với tong số 121 bị cáo. Về hình phạt tù thực tế áp dụng: xử phạt thấp nhất là 15 tháng tù, cao nhất là 07 năm tù. Trong số 121 bị cáo có 18 bị cáo được xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt do

điều luật quy định là đưới 03 năm tu, trong đó có 06 bản án với 07 bị cáo được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; có 15 bị cáo được hưởng án treo. Cụ thể: xử

phạt dưới 03 năm tu 18 bị cáo; từ 03 đến 04 năm tù 86 bị cáo; từ trên 04 đến 05 năm tù 09 bị cáo; từ trên 05 đến 06 năm tu 02 bị cáo; từ trên 06 đến 07 năm tù

<small>06 bị cao;</small>

<small>+ Toa an không ap dung hình phạt được quy định tai khoản 3, khoản 4</small>

cũng như hình phạt bơ sung được quy định ở khoản 5 trong tông số 100 bản án

<small>được khảo sát.</small>

Qua số liệu khảo sát, chúng tôi nhận thấy việc áp dụng hình phạt của các

tồ án đối với tội cướp giật tài sản về cơ bản là phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ứng với từng trường hợp cụ thể, trên

cơ sở cìn nhắc đến các yếu tơ như nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm

nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự, vai trị người đồng phạm trong vụ án... Tuy nhên, cá biệt vẫn còn có những trường hợp mức hình phạt (cụ thể là phạt

<small>tù) mà :oà án áp dung là chưa hoản toàn tương xứng (quá nặng hoặc qua nhẹ).</small>

- Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật theo Điều 47 Bộ

<small>luật hình sự:</small>

Như phan trên đã cơng bố, kết quả khảo sát của chúng tơi cho thay có tống cộng 0¢ bản án với 07 bị cáo được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt. Nghiên cứu cụ thê 06 bản án trên chúng tơi có một số nhận xét

<small>như sau:</small>

Thứ nhất: trong cả 06 bản án, Tòa án đều vận dụng đúng Điều 47, tức là điều kitn tiên quyết là bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại

khoản Điều 46 Bộ luật hình sự. Có 01 bản án với 01 bị cáo được áp dụng

<small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

khoản 2 Điều 46 dé xác định tình tiết giảm nhẹ TNHS. Trong số 07 bị cáo ở cả 06 bản án nêu trên không bị cáo nào bị áp dụng tình tiết tăng nặng theo Điều 48 Bộ luật hình sự. Tóm lại tất cả các bị cáo được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự

để quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự đều có ít

nhất 02 tình tiết giảm nhẹ và khơng có tinh tiết tăng nặng TNHS, ngoài ra bản thân các bi cáo cũng là những người chưa có tiền án tiền sự hoặc có tiền án nhưng đã được xóa án tích. Điều đó cho thấy các Tòa án khá thận trọng khi áp dụng Điều 47. Trong 100 bản án chúng tôi khảo sát cũng có các trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng cũng có các tình tiết tăng nặng TNHS, bản thân bị cáo lại là người có tiền án tiền sự nên Tịa án đều khơng áp dụng Điều 47 dé quyết định hình phạt trong các trường hợp nay và theo đánh giá của chúng tỏi, quyết định của Tịa án là hợp lí.

Thứ hai: liên quan đến van đề kĩ thuật viết bản án, có trường hợp bị cáo

phạm nhiều tội, Tịa án trong bản án có ghi áp dụng Điều 47 đề quyết định hình

<small>phạt nhưng khơng ghi rõ là áp dụng cho tội nào.</small>

- Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội:

Trong số 100 bản án mà chúng tơi khảo sát có 11 bản án với 16 bị cáo là

<small>người chưa thành niên. Sau khi nghiên cứu 11 ban án cướp giật tài sản mà bi</small>

cáo là người chưa thành niên, chúng tơi có một số nhận xét như sau:

Thứ nhất: 11/11 bản án quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt đều đúng vơi các quy định của Bộ luật hình sự, có xét đến các yếu tô tinh chất va mức đệ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,

các tink tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS, hồn cảnh chính tri xã hội tại nơi và

thời dian tội phạm diễn ra...

“hứ hai: mức hình phat tù đối với các bị cáo thấp nhất là 9 tháng tù (02

bị cáo)và cao nhất là 54 tháng tù, mức trung bình là trong khoảng từ 24 đến 36

tháng ti. Trong số 16 bi cáo thì có 7 bị cáo được hưởng án treo. Theo chúng tôi những :on số này cho thấy các Tòa án xét xử người chưa thành niên phạm tội

<small>28</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

theo hướng khoan hồng. Tuy nhiên, người viết nhận thây VIỆC xét xu người

chưa thành niên phạm tội có thé đi theo hướng khoan hồng, "nhẹ tay" hơn nữa. Tại Điều 69 Bộ luật hình sự có quy định về việc miễn TNHS, hoặc áp dụng các

biện pháp tư pháp thay thế hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội nhưng trong số các bản án chúng tơi khảo sát khơng có bản án nào Tòa án áp

dụng các quy định này mặc dù có trường hợp có thé xem xét áp dụng.

Bat cập lớn nhất trong thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản hiện nay thê hiện ở việc không thống nhất khi xác định giai đoạn phạm tội trong trường hợp người phạm tội chưa cướp giật được tài sản, dẫn tới khi quyết định hình phạt, có Toả án áp dụng Điều 52, có Tồ án với vụ việc tương tự như vậy lại không áp dụng Điều 52. Cùng với nội dung tương tự như nhau nhưng có Tồ án cho răng đây là trường hợp tội phạm hoàn thành, đồng nghĩa với việc Toà án xác định tội cướp giật tài sản có cầu thành tội phạm hình thức (tội phạm hồn thành ngay khi người phạm tội thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP, mà cu thé là hành vi chiếm đoạt). Tồ án khác, cũng với vụ việc với những tình tiết khách

quan tương tự, lại cho răng đây là trường hợp phạm tội chưa đạt và áp dụng

Điều 52 khi quyết định hình phạt. Điều này có nghĩa Tồ án xác định tội cướp giật tài sản là tội có cau thành vật chất, tội phạm hoàn thành khi người phạm tội

<small>chiêm đoạt được tai san.</small>

Việc chưa thống nhất về mặt lí luận trong phân loại CTTP đối với tội cướp giật tài sản đã dẫn tới cách hiểu khác nhau và áp dụng pháp luật khác nhau giữa các Toà án đối với trường hợp người phạm tội chưa giật được tài

sản. Cá:h hiểu khác nhau này khiến mức hình phạt thực tế mà Tồ án áp dụng

sẽ có sự chênh lệch lớn. Bởi, nếu xác định tội cuop giật tai sản có cau thành vật

chất th' trong trường hợp phạm tội chưa đạt, việc quyết định hình phạt phải

tuân thu quy định: “Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thê áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là

<small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

tù có thời hạn thì mức hình phạt khơng q ba phân tư mức phạt tù mà điều luật quy định”. Trong khi đó, nếu xác định tội CƯỚP giật tài sản là tội có cầu thành hình thức, người phạm tội có thê bị áp dụng mức cao nhất của khung hình phạt, điều nay rõ ràng khơng đảm bảo được tính cơng bang của pháp luật.

Ngồi ra, cũng có trường hợp hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ

<small>trách nhiệm hình sự “gây thiệt hại không lớn” nhưng chúng tôi không thực sự</small>

đồng tình. Trong số 02 ban án áp dụng điểm g khoản | Điều 46 Bộ luật hình sự, cụ thé là "phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn", bản án thứ nhất có giá

trị tài sản bị cáo chiếm đoạt được là 200.000 đồng, theo chúng tơi Tịa án áp

dụng điểm g là hợp lí. Tuy nhiên ở bản án thứ hai, giá trị tài sản bị cáo chiêm đoạt là chiếc điện thoại Samsung $8003 trị giá 6.000.000 và Tòa án cũng áp

dụng điểm g. Cần nhắn mạnh là Tòa án xét xử cả hai vụ việc trên đều khơng sai

nhưng van dé là do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thé thé nao là "gây thiệt hai không lớn" đối với tội cướp giật tài sản nên dẫn đến những cách hiểu khác nhau khi áp dụng tình tiết này.

<small>2.5. Thực tiên xét xu tội cơng nhiên chiêm đoạt tài sản</small>

Theo thơng kê của Tịa án nhân dân tối cao, thì từ năm 2010 đến 2014 các Tòa án nhân dân phải giải quyết 353 vu/561 bị cáo; trong đó, chuyển hồ sơ cho Tịa án có thâm quyền giải quyết | vu/1 bị cáo, trả hồ sơ dé điều tra bổ

sung 35 vụ/79 bi cáo, xét xử 296 vu/471bi cáo, chuyên năm sau 12vu/20 bị cáo về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Cụ thé:

- Năm 2010, giải quyết 51 vụ/91 bị cáo; trong đó, trả hồ sơ dé điều tra bỗ sung 9 vu/15 bi cáo, xét xử 44 vu/66 bị cáo, chuyển năm sau 4 vụ/10 bi cáo.

- Năm 2011, giải quyết 74 vụ/111 bị cáo; trong đó, trả hồ sơ dé điều tra

bổ sung 12 vu/28 bị cáo, xét xử 59 vu/80 bị cáo, chuyền năm sau 3 vụ/3 bị cáo.

- Năm 2012, giải quyết 60 vụ/115 bị cáo; trong đó, trả hồ sơ dé điều tra

bố sung 4 vụ/10 bị cáo, xét xử 53 vụ/101 bị cáo, chuyền năm sau 3 vụ/4 bị cáo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

- Nam 2013, giải quyết 61 vụ/96 bị cáo; trong đó, trả hồ sơ đề điều tra bô

sung 3 vụ/1Š bị cáo, xét xử 51 vụ/79 bị cáo, chuyền năm sau |vu/2 bi cao.

- Năm 2014, giải quyết 101 vu/158 bị cáo; trong đó, chuyển hồ so cho

Tịa en có thâm quyền giải quyết 1 vụ/1 bị cáo, trả hồ so để điều tra bổ sung 10

vụ/l : bị cáo, xét xử 89 vu/145 bị cáo, chuyền năm sau | vụ/] bị cáo.

Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, thì từ năm 2010 đến 2014

các Tịa án nhân dân cấp phúc thầm (Tịa án nhân dân tơi cao, Tịa án nhân dân

cấp tnh) phải giải quyết theo trình tự phúc thâm 68 vu/114 bị cáo về tội công nhiêr chiếm đoạt tài san; trong đó, có 10 vu/18 bị cáo bị kháng nghị, 58 vu/96 bị cá› bị kháng cáo. Đã giải quyết 64 vụ/108 bị cáo; trong đó đình chỉ xét xử phúc thâm do rút kháng nghị | vụ/2 bị cáo, đình chỉ xét xử phúc thâm do rút khánz cáo 18 vụ/20 bi cáo, xét xử 45 vu/86 bị cáo. Còn lại chuyền sang năm 2015 là 4 vụ/6 bị cáo. Kết quả xét xử phúc thâm cho thấy, trong số 86 bị cáo bị

xét xử phúc thâm có: 71 bị cáo bị Tịa án cấp phúc thâm giữ nguyên bản án

quyết định sơ thẩm; 01 bị cáo bị sửa phan dân sự; 01 bị cáo chuyền biện pháp chấp hành hình phạt tù giam sang phạt tù cho hưởng hán treo; 03 bị cáo giảm

<small>mức hình phat tù (trong đó có 01 bị cáo được giảm mức hình phạt do có tình</small>

tiết mới); 08 bị án bị hủy bản án sơ thâm dé điều tra lại và 01 bị cáo bị hủy bản

án sơ thầm dé xét xử sơ thâm lại (trong đó có 04 bị cáo bị hủy ban án do cấp SƠ

thâm sai, 01 bị cáo bị hủy án do có tình tiết mới).

Nếu tính trên tong số 296 vu/471bi cáo bị Tịa án cấp sơ thấm xét xử về

<small>tội công nhiên chiêm đoạt tài sản, thì:</small>

- Số vụ án bị kháng nghị 10/296 vụ, chiếm 3,37%; số vụ án bị kháng cáo 55/296 vụ, chiếm 18,58%. Tổng số vu án sơ thấm xét xử về tội công nhiên

chiếm đoạt tài sản bị kháng cáo, kháng nghị là 0,21%.

- Số bị cáo bị kháng nghị 18/471 bị cáo, chiếm 3,82%; số bị cáo kháng cáo, ti khang cáo 77/471 bị cáo, chiếm 16,34%. Tổng số bị cáo bị kháng nghị, kháng cáo, bị kháng cáo chiém 20,16%.

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

- Số bị cáo bị Tòa án cấp phúc thầm hủy và sửa án sơ thâm là 14/471 bị cáo, chiếm 2,97%, (trong đó có 2/471 bị cáo bị hủy hoặc sửa án do có tỉnh tiết

mới, clhiém 0,42%).

Như vậy, số bị cáo đã bị xét xử sơ thấm không khang cáo hoặc khang

cáo, bụ kháng cáo, bị kháng nghị nhưng Tòa án cấp phúc thẩm bác khang cáo, kháng nghị chiếm 97,03%. Hay nói cách khác, số bị cáo bị Tịa án cấp sơ thâm

<small>xét xử đúng người, đúng tội và áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự là97,03°%.</small>

Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, thi trong số 438 bị cáo bị xét xử về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 137 có 423 bị cáo phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản do tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai triệu đồng trở lên; 07 bi cáo phạm tội công nhién chiếm đoạt tài

san do đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt ma còn vi

phạm; 8 bị cáo phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản do đã bị kết án về tội chiếm đoạt, chưa được xố án tích mà cịn vi phạm. Số bị cáo đã bị xét xử sơ thâm không kháng cáo hoặc kháng cáo, bị kháng cáo, bị kháng nghị nhưng Tòa

án cấp phúc thâm bác kháng cáo, kháng nghị chiếm 97,03%. Điều này cho

phép kết luận, sỐ bị cáo bị Tòa án cấp sơ thầm xét xử đúng người, đúng tội va

áp dụng đúng quy định cua Bộ luật hình sự là 97,03%. Nhu vậy, có thể nói việc

định tội danh đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong hoạt động xét xử

<small>các vu án hình sự về loại toi phạm nay khơng có gì vướng mắc.</small>

Tuy nhiên, thực tiến định tội danh trong tồn bộ q trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản do Cơ quan điều

tra, Viện kiểm sát và Tòa án vẫn còn sự khác nhau. Sự khác nhau trong việc định tội danh đối với vụ án hình sự cụ thé về tội công nhién chiếm đoạt tài sản giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án xuất phát từ những lý do sau:

- Thứ nhất, về đôi tượng tác động của tội phạm thì tại Điều 137 Bộ luật

<small>hình sự chỉ quy định: "Người nào công nhiên chiêm đoạt tài sản của người</small>

<small>32</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

khác... hi bị phat...". Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật dân sự thì "tài sản bao

gồm va, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản". Vậy, giấy tờ có giá như số

tiết kiệm, thẻ ATM... có phải là đối tượng tác động của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không. Trong thực tiễn áp dụng Điều 137 Bộ luật hình sự, cơ quan điều tre khơng khởi tơ vụ án hình sự về tội cơng nhiên chiếm đoạt tài sản đối với hành vị công nhiên chiếm đoạt số tiết kiệm hoặc thẻ ATM mặc dù số tiền gửi duce ghi trong sơ tiết kiệm hoặc có trong tài khoản của người chủ sở hữu thẻ ATM có giá trị từ hai triệu đồng trở lên. Bởi lẽ, do quy định của pháp luật

về tín dạng và thủ tục lĩnh tiền trong số tiết kiệm và rút tiền trong thẻ ATM nên

việc chếm đoạt được số thiết kiệm, thẻ ATM không đồng nghĩa với việc lấy được sé tiền tiết kiệm hoặc có trong tài khoản thẻ ATM. Điều này cho thay,

<small>khái niệm "tai sản” được quy định trong Bộ luật hình sự va "tai san" được quy</small>

định trcng Bộ luật dân sự có sự khác nhau cần phải giải thích hướng dan thơng nhất áp dụng.

- Thứ hai, do Điều 137 Bộ luật hình sự khơng mơ tả hành vi khách quan

của tội sông nhiên chiếm đoạt tai sản cho nên thực tiễn định tội danh đối với tội phạm này trong một số trường hợp còn gặp một số khó khăn sau đây.

+ Khó khăn thứ nhát, hiểu thé nào là công nhiên chiếm đoạt tài sản.

<small>— Khó khăn thư hai, khi nao thì được coi là người khơng có khả năng</small>

ngăn c¿n hành vi cơng khai chiếm đoạt tài sản hoặc khơng có khả năng bảo vệ

<small>tài sản của mình.</small>

Trong thực tiễn, có trường hợp công khai chiếm đoạt tài sản trước sự chứng kiến của trẻ em cũng bị coi là phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Trường hợp khác, công khai chiếm đoạt tai sản trước sự chứng kiến của người <small>đã thành niên cũng bị coi là phạm tội công nhiên chiêm đoạt tài sản.</small>

Về việc áp dụng các tình tiết định khung hình phạt đối với tội cơng

nhiên chiếm đoạt tài sản. Các tình tiết định khung hình phạt đối với tội phạm

này bao gồm hành hung dé tau thoát; chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi

<small>nã</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

triệu aiéng đến dưới hai trăm triệu đồng; tái phạm nguy hiêm; gây hậu quả nghiêm trọng; chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm tiriệu đồng; gây hậu quả rất nghiêm trọng; chiếm đoạt tài sản có giá tri từ năm trăm triệu đồng trở lên; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Trong đó, các tình tiết tái phạm nguy hiểm, chiếm đoạt tài sản có giá trị... đã được quy định

rõ rang trong Bộ luật hình sự; các tình tiết hành hung dé tau thốt, gây hậu quả

nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đã được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân ciân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định

<small>tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự. Do vậy, việc</small>

nhận thức và áp dụng thống nhất các tình tiết định khung hình phạt đối với tội công mhiên chiếm đoạt tài sản không gặp vướng mắc, bất cập. Theo thống kê của Tỏa án nhân dân tối cao, thì thực tiễn xét xử tội cơng nhiên chiếm đoạt tài sản từ năm 2010 đến 2014 chỉ áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm và chiếm

<small>đoạt tài sản có gia tri...</small>

Vẻ thực tiễn áp dụng hình phạt đối với tội cơng nhiên chiếm đoạt tài sản, theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao cho thấy, trong tống số 471 bị cáo bị kết án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có 2 bị cáo bị phạt tiền; 4 bị cáo bị phạt cải tạo không giam giữ; 434 bị cáo bị phạt tù từ ba năm trở xuống, trong

<small>đó có 125 bị cáo bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo; 20 bị cáo bị phạt tù từ</small>

trên ba năm đến bày năm; 9 bị cáo bị phạt tù từ trên bảy năm đến mười lăm năm và 2 bị cáo bị phạt tù từ trên mười lăm năm đến hai mươi năm. Khơng có

bị cáo nào bị áp dụng hình phạt bổ sung về tội phạm này. Đa SỐ tuyệt đối bị cáo

kháng cáo kêu oan hoặc xin giảm nhẹ hình phạt đều khơng được Tịa án cấp phúc thâm chấp nhận.

Nghiên cứu việc quyết định hình phạt trong một số bản án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, chúng tơi thấy có những bất cập sau:

</div>

×