Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học: Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân quận 2, thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.9 MB, 139 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRUONG DAI HỌC LUẬT HÀ NOI

PHAN THỊ NGỌC PHÚ

GIẢI QUYÉT TRANH CHAP LAO DONG

CÁ NHÂN BANG TOA ÁN VÀ THỰC TIEN ÁP DUNG

TAI TOA ÁN NHÂN DAN QUAN 2, THANH PHO HO CHI MINH

Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THI DUNG

HÀ NOI - 2016

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small>Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ luật học này là cơng trình nghiên cứu</small>

của tơi dưới sự hướng dẫn của TS. Đỗ Thị Dung - Giảng viên chính, Khoa Pháp luật kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội. Các số liệu, tài liệu tham khảo, trích

<small>dân trong luận văn là hồn tồn trung thực, có ngn gôc rõ ràng.</small>

Xác nhận của giảng viên hướng dẫn Người thực hiện

TS. Đỗ Thị Dung Phan Thị Ngọc Phú

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>LỜI MỞ ĐẦU</small>

<small>Chương 1: MOT SO VAN DE CHUNG VE GIẢI QUYẾT TRANH CHAPLAO DONG CA NHAN VA GIAI QUYET TRANH CHAPLAO DONG CA NHAN BANG TOA AN NHAN DAN</small>

1.1. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân 1.1.1. Tranh chấp lao động cá nhân

1.1.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

1.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân 1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa

1.2.4. Nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân

1.3. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân của một số quốc gia trên thế giới

1.3.1. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án của

<small>Cộng hòa Liên bang Đức</small>

1.3.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân băng tòa án của

<small>Cộng hòa Philipin</small>

1.3.3. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án của Vương quốc Thái Lan

<small>Chương 2: QUY ĐỊNH CUA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HANH VEGIAI QUYET TRANH CHAP LAO ĐỌNG CA NHAN BANGTOA AN NHAN DAN</small>

2.1. Quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân

2.2. Quy định về thấm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân

2.3. Quy định về chủ thể tham gia trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small>lao động cá nhân</small>

2.3.4. Các chủ thể khác

2.4. Quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân

2.4.1. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân lao động tại tòa án cấp sơ thâm

2.4.2. Thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại tòa án cấp phúc thâm

2.4.3. Thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân theo thủ tục giảm đốc thâm, tái thẩm, thủ tục đặc biệt

<small>Chương 3: THỰC TIEN GIẢI QUYẾT TRANH CHAP LAO ĐỘNG CANHAN TẠI TOA AN NHAN DAN QUAN 2, THANH PHOHO CHI MINH VA MOT SO KIEN NGHỊ</small>

3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chap lao động cá nhân tai tòa án nhân dân Quận 2, Thành phó Hồ Chí Minh

3.1.1. Những kết quả đạt được 3.1.2. Những tồn tại

3.1.3. Nguyên nhân của những tồn tại

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh

3.2.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động bằng tịa

<small>án nhân dân</small>

3.2.2. Một số kiến nghị hồn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân

3.2.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại tòa án nhân dân Quận 2, Thành

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

1. Tính cấp thiết của đề tài

Mặc dù QHLD được thiết lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên NLD

<small>và NSDLĐ, nhưng trong quá trình thực hiện do lợi ích các bên ln ngược</small>

chiều nhau, NLD muốn tiền lương cao, giảm giờ làm việc, điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động tốt, NSDLĐ muốn trả lương thấp, kéo dài thời giờ làm việc, khơng chú trọng các van đề về an tồn lao động, vệ sinh lao động, vì thế TCLD thường xảy ra. Nhất là TCLDCN giữa cá nhân NLD với NSDLD. Trong những năm gần đây, loại tranh chap này ngày càng phô biến, gia tăng và chiếm đa số trong các loại TCLĐ. Nếu có một cơ chế giải quyết TCLĐCN thích hợp, thấu đáo thì khơng chỉ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân NLD, đơn vị sử dụng lao động, mà còn góp phan bảo vệ các quan hệ sản xuất, thúc đây xã hội phát triển.

Để giải quyết TCLDCN, pháp luật quy định nhiều phương thức khác

<small>nhau như: thương lượng, hòa giải và xét xử tại TAND. Trong đó, phương</small>

thức giải quyết TCLĐCN bằng TAND là phương thức quan trọng, có hiệu quả cao trong việc giải quyết triệt để các TCLĐ nói chung, TCLĐCN nói riêng. Bởi thế, pháp luật lao động cũng như pháp luật tố tụng lao động Việt Nam đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Năm 2012, BLLĐ được sửa đổi đã đặc biệt chú trọng chương về TCLĐ. Năm 2015, BLTTDS được sửa đổi toàn diện, trong đó có nhiều quy định mới về giải quyết TCLĐ nói chung, TCLĐCN nói riêng tại TAND.

Cùng với những nỗ lực của Nhà nước và các nhà làm luật, các quy định của pháp luật về TCLĐCN và giải quyết TCLDCN đã được hoàn thiện đáng kể, tạo cơ sở pháp lý cần thiết, phần nào đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì việc giải quyết TCLĐCN trong thực tế hiện nay còn gặp một số vướng mắc mà nguyên nhân

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

không chỉ xuất phát từ những thiếu sót, mâu thuẫn của các quy định pháp luật, mà còn xuất phát từ việc các cơ quan, tơ chức, cá nhân có thầm quyền cịn lúng túng, sai sót trong việc giải quyết, nên trong nhiều trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp của các bên TCLĐCN vẫn chưa được bảo đảm.

Trong khi đó, thực tiễn giải quyết TCLĐCN tại các cấp TAND trong phạm vi cả nước nói chung, tại TAND Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cho thấy: Tỷ lệ các vụ án về TCLĐCN được thụ lý giải quyết chưa cao, một số vụ án giải quyết trong thời gian kéo dai, có vụ tới hai hoặc ba năm do phải hủy dé xét xử lại; quyền và lợi ich hợp pháp của các bên TCLĐCN chưa được khôi phục kịp thời... Những hạn chế đó đã gây những tác động tiêu cực đến sự 6n định va phát triển của QHLD trong các đơn vi sử dụng lao động, nhất là các doanh nghiệp đóng trên dia bàn Quận 2, Thành phó Hồ Chí Minh.

Do vậy việc nghiên cứu về mặt lý luận, thực trạng pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn về giải quyết TCLĐCN bằng TAND, nhằm khắc phục những điểm yếu, những điểm không phù hợp với tình hình thực tế đã và đang là mỗi quan tâm hàng đầu không chỉ của các bên tham gia QHLĐ mà còn của những người trực tiếp làm công tác xét xử tại TAND. Đồng thời đây cũng là một vẫn đề cấp bách đặt ra cho cơ quan nhà nước có thâm quyền và cũng là một nội dung quan trong dé các nhà làm luật hết sức quan tâm trong bối cảnh sắp sửa đổi, b6 sung BLLD năm 2012 và BLTTDS bắt đầu có hiệu lực.

Từ những ly do này, tơi đã chọn van đề "Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng Tòa án và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hỗ Chí Minh" dé làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Là một trong những vấn đề cơ bản của pháp luật lao động và pháp luật tố tụng lao động, giải quyết TCLĐ nói chung, giải quyết TCLĐCN nói riêng

<small>đã được nhiêu nhà khoa học, luật gia, học viên... quan tâm nghiên cứu ở các</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

TCLĐ nói chung, TCLĐCN nói riêng bằng TAND. Cu thé:

<small>- Giáo trình, sách tham khảo: Đó là giao trình của các cơ sở đào taoLuật trong cả nước, như: Giáo trình luật lao động Việt Nam của Trường Đạihọc Luật Hà Nội năm 2013; Giáo trình luật lao động của Trường Đại Học</small>

Luật Thành phó Hồ Chí Minh năm 2011; Giáo trình luật lao động Việt Nam

của Viện Đại học Mo Hà nội... Sách tham khảo: “Thu tục giải quyết các vụ án lao động theo Bộ luật t6 tụng dân sự” của tác giả Phạm công Bảy, Nxb Chính trị Quốc gia năm 2006. Nhìn chung, các cơng trình này ở mức độ khác nhau đều đề câp đến giải quyết TCLĐCN bằng TAND, nhất là sách tham khảo của tác giả Phạm Công Bảy. Đây là cơng trình chun sâu về cơ chế giải quyết TCLĐCN tại TAND đồng thời đưa ra hướng giải quyết những bất cập còn tồn tại trong việc giải quyết TCLĐCN tại TAND theo quy định của

<small>BLTTDS năm 2004.</small>

- Bài viết dang trên tap chí: Có rat nhiều bài viết về giải quyết TCLD

<small>nói chung và TCLDCN nói riêng đăng trên các tạp chí chuyên ngành như:</small>

"Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án - Một số bất cập và hướng hoàn thiện” của tác giả Lê Thị Hoài Thu; “Tố tụng lao động ở Việt Nam trong bối cảnh có Bộ luật tố tụng dân sự” của tác giả Lưu Bình Nhưỡng đăng trên Tạp chí Luật học, số đặc san về Bộ luật tố tụng dân sự năm 2006; “Luật sửa đôi, bố sung một số điều Bộ luật lao động, những vướng mắc xung quanh cơ chế giải quyết tranh chấp lao động” của tác giả Lưu Bình Nhưỡng đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6 năm 2007; “Những vấn đề lưu ý khi tịa án xét tính hợp pháp của quyết định kỷ luật sa thải trong vụ án lao động” của tác giả Nguyễn Xuân Thu đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, số 17/2004; "Tranh chấp lao động và giải quyết tranh chấp lao động", số đặc san tuyên truyền pháp luật số 02/2014 của tác giả Vũ Thị Thu Hiền; “Một số ý kiến

<small>đê nghị hướng dan, sửa đôi một sô điêu của Bộ luật tô tụng dân su’ của tac</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

giả Trần Văn Tn đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, số 7/2010; "Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân - Từ pháp luật đến thực tiễn và một số kiến nghị" đăng trên Tạp chí Luật học số 10/2011 của tác giả

<small>Phạm Công Bảy.</small>

- Luận án, luận văn: Đó là Luận án tiễn sĩ luật học của tác giả Lưu bình Nhưỡng về “Tài phán lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam” năm 2002; Luận án tiến sĩ luật học về "Cơ chế ba bên trong việc giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Xuân Thu năm 2008; Luận án tiễn sĩ luật học của tác giả Phạm Công Bảy về "Pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại tòa án Việt Nam"... Các luận án này đã phân tích các vẫn đề lý luận, thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết TCLĐ trong đó có TCLĐCN, đồng thời xây dựng các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết TCLĐ nói chung, TCLĐCN nói riêng tại TAND theo quy định của BLLĐ năm 1994 đã sửa đồi, bổ sung các năm 2002, 2006, 2007 và BLTTDS năm 2004 đã được sửa đi, bồ sung năm 2011.

Các luận văn bao gồm: Luận văn "Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân - Một số vẫn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả Vũ Thị Thu Hiền năm 2002; Luận văn "Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân và tình hình thực hiện tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh" của tác giả Nguyễn Công Hoi năm 2012; Luận văn "Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân - Một số bat cập và hướng hồn thiện" của tác giả

<small>Ngơ Thị Tâm năm 2012 tại Trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn của tác</small>

giả Lê Thị Hường về "Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam" năm 2012 tại Khoa Luật, Dai học Quốc gia Hà Nội; Luận văn của Nguyễn Thị Thanh Huệ về “Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại tòa án nhân dân - Một số van dé lý luận và thực tiễn”, Dai học Luật Hà Nội năm 2012; Luận văn của Đoàn Xuân Trường về “Giải quyết

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

tranh chấp lao động cá nhân theo pháp luật lao động ở Việt Nam hiện nay”,

<small>Học Viện khoa học xã hội Việt Nam năm 2014.</small>

- Đề tài nghiên cứu khoa học, báo cáo, hội thảo: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia về "Tranh chấp lao động và giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam - Một số van đề lý luận và thực tiễn" năm 2005 do tác giả Lê Thị Hồi Thu chủ nhiệm đề tài. Các Báo cáo cơng tác hằng năm TAND tối cao, TAND Thành phố Hồ Chí Minh, của TAND Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh; Các bài viết trong các Hội thảo về BLLĐ, BLTTDS...

Có thé thấy rằng, các cơng trình khoa học đã nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau về giải quyết TCLĐCN bằng TAND, nhưng chủ yếu nghiên cứu dựa trên các quy định của BLLD năm 1994 đã sửa đổi, bố sung các năm 2002, 2006, 2007 và BLTTDS năm 2004 đã sửa đổi, bổ sung năm 2011. Có một số cơng trình khoa học nghiên cứu về giải quyết TCLDCN tại TAND theo quy định của BLLĐ năm 2012, nhưng vẫn dựa trên quy định về thủ tục giải quyết TCLDCN trong BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ

<small>sung năm 2011. Chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu việc giải</small>

quyết TCLĐCN băng TAND theo quy định của BLTTDS năm 2015. Đặc biệt là nghiên cứu về thực tiễn giải quyết TCLĐCN bằng TAND tại TAND Quận 2, Thành phơ Hồ Chí Minh.

Vì vậy, có thể nói rằng, đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên về giải quyết TCLĐCN bằng TAND dựa trên quy định của BLTTDS năm 2015 và thực tiễn áp dụng tại TAND Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, để nghiên cứu hoàn thiện, đầy đủ hơn về cơ chế giải quyết TCLĐCN bằng TAND, từ đó có đủ cơ sở lý luận để nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành vào công tác giải quyết TCLĐCN tại TAND Quận 2, Thành phó Hồ Chi Minh, trong quá trình nghiên cứu van dé lý luận, ở mức độ nhất định, tác giả đã dựa trên những ý kiến, những đánh giá của các

<small>nhà khoa học trong các cơng trình nghiên cứu nêu trên.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là tiếp tục làm rõ một số vấn đề lý luận về giải quyết TCLĐCN, đánh giá các quy định của pháp luật về việc giải quyết TCLĐCN băng TAND, thực tiễn giải quyết TCLĐCN bang TAND tại TAND Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó thấy được những điểm đã đạt được và những điểm cịn bất cập để từ đó đưa ra phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật, cũng như công tác giải quyết TCLDCN băng TAND tại TAND Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, ở các TAND cấp huyện trong phạm vi cả nước nói chung.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết TCLĐCN trong BLLĐ năm 2012 và các văn bản hướng dẫn. Đặc biệt, do đề tài nghiên cứu về các vấn đề về giải quyết TCLĐCN nên đối tượng nghiên cứu chủ yêu của luận văn là BLTTDS đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ

<small>hop thứ 10 thơng qua ngày 25 tháng 11 năm 2015 (có hiệu lực từ ngày</small>

1/7/2016). Dé làm rõ van đề nghiên cứu, luận văn còn so sánh với các quy định trước đây trong BLLĐ năm 1994, đã sửa đổi, bổ sung năm 2006, BLTTDS năm 2004, đã sửa đồi, bố sung năm 2011.

Bên cạnh đó, luận văn còn nghiên cứu các van dé thực tiễn. Do là thực tiễn giải quyết TCLĐCN tại TAND Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh, thơng qua các số liệu, bản án của quá trình xét xử các TCLĐCN trong những năm gan đây.

Ngoài ra, luận văn cũng đề cập tới những quy định của một số quốc gia trên thế giới về giải quyết TCLĐCN để rút ra những vấn đề lý luận làm cơ sở để nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về giải quyết TCLĐCN băng TAND ở

<small>Việt Nam.</small>

<small>5. Phương pháp nghiên cứu</small>

<small>Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của</small>

chủ nghĩa Mác - Lénin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử dé giải

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

quyết các vấn đề pháp luật về giải quyết TCLĐCN ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại TAND Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời luận văn cũng dựa trên những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về pháp luật lao động, pháp luật tô tung dân sự về giải quyết TCLDCN băng TAND.

<small>Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp</small>

nghiên cứu cụ thể. Đó là phương pháp phân tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thông kê, dự báo khoa học... Các phương pháp nay có thé

được sử dụng riêng rẽ, có thể được sử dụng kết hợp nhằm làm rõ mục đích và

nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Luận văn làm mới hơn một số khái niệm như giải quyết TCLĐ, giải quyết TCLĐCN bằng TAND, mục đích và vai trị của giải quyết TCLĐCN băng TAND, khái quát các nội dung pháp luật về giải quyết TCLĐCN bằng TAND. Đồng thời luận văn phân tích, đánh giá quy định của pháp luật hiện hành, chỉ ra những tồn tại của các quy định và thực tiễn áp dụng giải quyết TCLĐCN băng TAND tại TAND Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó luận văn kiến nghị hồn thiện pháp luật, tăng cường khâu tô chức và hoạt động của giải quyết TCLDCN băng TAND ở Việt Nam nói chung, tại TAND Quận 2, Thành phó Hồ Chí Minh nói riêng.

<small>Với những ý nghĩa khoa học này, tác giả hy vọng luận văn là tài liệu tham</small>

khảo hữu ích đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp giải quyết TCLDCN, cũng như những người nghiên cứu, học tập về pháp luật giải quyết TCLĐCN bằng TAND. Từ đó, nhằm đảm bảo hơn qun, lợi ích các bên trong mỗi quan hệ pháp luật lao động, va góp phần đảm bảo lợi ích của Nhà nước, thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.

7. Kết cầu của luận văn

Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

<small>dung của luận văn gôm 3 chương:</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Chương 1: Một sô van đề chung về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân và giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân.

Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân.

Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại TAND Quận 2, Thành phó Hồ Chí Minh va một số kiến nghị.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<small>Chương 1</small>

MOT SO VAN DE CHUNG VE GIẢI QUYẾT TRANH CHAP LAO DONG CA NHAN VA GIAI QUYET TRANH CHAP LAO DONG

CA NHAN BANG TOA AN NHAN DAN 1.1. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

1.1.1. Tranh chấp lao động cá nhân - Khải niệm tranh chấp lao động ca nhán

Khi QHLD được xác lập, trong suốt quá trình thực hiện, các bên NLD và NSDLD luôn mong muốn làm thé nào dé bảo đảm tối đa quyên và lợi ích của mình. Mục tiêu hướng tới của bên NLĐ là làm thế nào để có tiền cơng cao, thời giờ làm việc rút ngăn, điều kiện an toàn vệ sinh lao động được đảm bảo... còn mục tiêu hướng đến của NSDLD là làm thé nào để giảm chi phí cho lao động như trả lương thấp, kéo dai thời giờ làm việc... Do lợi ich của các bên ngược chiều như vậy nên tranh chấp lao động giữa NLĐ và NSDLĐ xảy ra mang tính tất yếu, khách quan.

Vậy tranh chấp lao động cá nhân là gì? Muốn hiểu được khái niệm này chúng ta phải tìm hiểu khái niệm TCLD nói chung. Theo khảo cứu của chúng tơi, khái niệm "tranh chấp lao động" chính thức được sử dụng trong Thông tư liên ngành số 02/TT-LN ngày 02/10/1985 của TAND tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động và Tổng cục dạy nghề về việc hướng dẫn thực hiện thâm quyền xét xử của Tòa án về một số việc tranh chấp

<small>trong lao động.</small>

Sau đó, khái niệm tranh chấp lao động được đưa ra trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết TCLĐ năm 1996. Điều 27 Pháp lệnh định nghĩa: "Tranh chấp lao động là bất đồng nảy sinh giữa hai bên về việc thực hiện hợp đồng lao động". Do thời gian này QHLĐ chưa phát triển nên TCLĐ diễn ra cịn ít và

Nhà nước chưa có kinh nghiệm thực tiễn về giải quyết TCLĐ. Theo định

nghĩa trên, pháp luật đã đồng nhất "tranh chấp" với "bất đồng" mặc dù theo

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Từ điển Tiếng Việt "bất đồng" và "tranh chấp" được hiểu rất khác nhau.

Khắc phục bắt cập này, BLLĐ năm 1994 ra đời, tại Điều 157 đã đưa ra định nghĩa về TCLĐ như sau: "Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương và các điều kiện lao động khác, về việc thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước tập thể và trong q trình học nghề". Theo đó, khoản 2 Điều 157 BLLD năm 1994 cũng quy định rõ tranh chấp lao động bao gồm hai loại: TCLĐCN giữa NLD với NSDLD, TCLĐ tập thể giữa tập thể lao động với NSDLĐ. Cơ chế giải quyết TCLĐ

<small>tùy thuộc vào các loại TCLD theo cách phân loại này.</small>

Sau thời gian thực tế áp dụng BLLD năm 1994, Luật sửa đối, bổ sung BLLĐ năm 2006 đã đưa ra định nghĩa TCLĐ như sau: "Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền và lợi ích phát sinh trong quan hệ lao động giữa

<small>người lao động và người sử dụng lao động”. Theo đó, TCLD được phân thànhhai loại như trên.</small>

<small>Bộ luật lao động năm 2012 có hiệu lực từ ngày 01/5/2013 cũng phân loại</small>

TCLĐ thành TCLĐCN và TCLĐ tập thể. Hai loại tranh chấp này có sự khác nhau về quy mô chủ thê tham gia, mức độ ảnh hưởng và có cơ chế giải quyết riêng. Theo Điều 3 BLLĐ năm 2012 thì TCLĐCN là "tranh chấp lao động xảy ra giữa NLD và NSDLĐ", và không đưa ra khái niệm TCLD tập thé nói chung. Qua quy định của pháp luật thì có thể thấy rằng, thơng thường các TCLĐCN phát sinh trong quá trình thực hiện, thay đổi, chấm dứt hợp đồng lao động, trong việc thực hiện chế độ tiền lương, trợ cấp hay bảo hiểm xã hội...

Từ sự phân tích ở trên, có thể khái quát TCLĐCN là tranh chấp về quyên, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong QHLĐ và một số quan hệ liên quan đến quan hệ lao động.

- Đặc điểm của tranh chấp lao động cá nhân

Thứ nhất, một bên chủ thể của TCLĐCN là NLĐ hoặc là một nhóm NLD. Đúng như tên gọi của nó, TCLĐCN là tranh chấp giữa cá nhân NLD

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

hoặc một nhóm NLD với NSDLĐ, nó khác với tranh chấp lao động tập thể ở chỗ chủ thé trong TCLD tập thé là tập the NLD và thường có sự tham gia của tổ chức cơng đồn. Trong TCLĐCN nếu có sự tham gia của một nhóm NLĐ thì giữa những NLĐ này khơng có sự liên kết nào về quyền và lợi ích, mỗi cá nhân NLD có một yêu cầu riêng đối với NSDLĐ. Hiện nay pháp luật lao động Việt Nam khơng quy định nhóm người tham gia TCLĐ gồm bao nhiêu người thì được coi là TCLDCN. Chính vì chủ thé của TCLĐCN là cá nhân NLD

<small>hoặc một nhóm NLD với NSDLĐ cho nên TCLDCN là TCLĐ khơng mang</small>

tính tổ chức, khơng có quy mơ và khơng phức tạp như TCLD tập thé, nó chỉ mang tính chất đơn lẻ, khơng có sự thống nhất ý chí và sự gắn kết giữa những NLD như trong TCLD tập thé.

Thứ hai, nội dụng của TCLDCN là những tranh chấp liên quan đến quyên, nghĩa vụ và lợi ích của một cá nhân NLD hoặc trong một số trường hợp là của một nhóm NLD hoặc NSDLĐ phát sinh từ QHLD hoặc một SỐ quan hệ liên quan đến QHLĐ.

Tranh chấp lao động cá nhân thường phát sinh trong việc áp dụng các quy phạm pháp luật vào từng QHLĐ cụ thể, nghĩa là tranh chấp về những vẫn đề mà pháp luật quy định cho các bên được hưởng, hay phải thực hiện hoặc những vấn dé mà các bên thỏa thuận từ trước trong hợp đồng lao động, như: việc làm, tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,... Hoặc các van đề phát sinh từ quan hệ liên quan đến QHLĐ như: Hợp đồng dao tạo nghé, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bồi thường thiệt hại... Do

<small>đó, TCLĐCN thường phát sinh trong những trường hợp có sự vi phạm pháp</small>

luật. Day là điểm khác biệt của TCLDCN với TCLD tập thé.

Thứ ba, trong TCLDCN, tổ chức cơng đồn tham gia với tư cách bảo vệ quyên, lợi ich hợp pháp cho NLD. Bởi chức năng của tổ chức công doan là

đại diện và bảo vệ quyên, lợi ích chính đáng của người lao động.

Trong việc giải quyết TCLĐ, quyền tham gia giải quyết tranh chấp của

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

tổ chức cơng đồn là một trong những nguyên tắc giải quyết TCLĐCN được pháp luật quy định. Đối với TCLĐCN, tơ chức cơng đồn tham gia với tư cách là người đại diện và bảo vệ quyền lợi cho NLD, dé nghị NSDLĐ xem xét những u cầu của NLĐ. Tổ chức cơng đồn không tham gia với tư cách một bên tranh chấp, trực tiếp yêu cầu NSDLD giải quyết quyền lợi cho tập thé lao động như trong TCLD tập thé.

1.1.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân - Khái niệm giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

Từ quy định về TCLĐ như trên, có thể đưa ra khái niệm giải quyết TCLĐCN như sau: giải quyết TCLDCN là việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhà nước có thâm quyền tiến hành những thủ tục theo luật định nhằm giải quyết những TCLD phát sinh giữa cá nhân NLD với NSDLĐ về việc thực hiện quyền nghĩa vụ và lợi ích của hai bên trong QHLD và một SỐ quan hệ

<small>liên quan với QHLD.</small>

Mục đích của việc giải quyết này là nhằm khôi phục các quyền và lợi ích

<small>hợp pháp cua NLD hoặc NSDLĐ đã bị NSDLĐ hoặc NLD xâm hại; duy trì</small>

và củng cố QHLD, đảm bảo sự ồn định trong sản xuất, kinh doanh trong đơn vi. Bởi vì khi TCLDCN xảy ra, thì ít hoặc nhiều đều ảnh hưởng đến việc làm, thu nhập của NLĐ cũng như tình hình sản xuất, kinh doanh của NSDLĐ. Do đó, việc giải quyết nhanh chóng, đứt điểm TCLDCN có ý nghĩa quan trọng khơng chỉ đối với NLD mà cịn đối với NSDLĐ.

- Mục đích giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

Thứ nhất, giải quyết TCLDCN nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NLD, NSDLD. Đối với NLD, thu nhập có được từ QHLD là nguồn sống chủ yếu của NLD và gia đình họ. Khi tranh chấp xảy ra và không được giải quyết thỏa đáng thì khong chỉ ảnh hưởng đến đời sống của bản than NLD mà còn khiến cuộc sống của gia đình họ gặp khơng ít khó khăn. Thơng qua việc giải quyết tranh TCLĐCN, những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của NLĐ

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

sẽ được đáp ứng, quyên, lợi ich hợp pháp của NLD được đảm bao.

Bên cạnh đó, việc giải quyết TCLĐCN cịn nhằm mục đích bảo vệ quyên, lợi ích hợp pháp của NSDLĐ. Bởi lẽ, trong nhiều trường hợp, không phải mọi yêu cầu của NLĐ đều hợp lý, chính đáng, thậm chí nó có thể xâm phạm đến qun, lợi ich hợp pháp của NSDLĐ. Do đó, bảo vệ lợi ích của NSDLD cũng là mục đích của giải quyết TCLĐCN.

Tht hai, việc giải quyết TCLDCN nhằm duy trì, củng có QHLD và hoạt động sản xuất kinh doanh trong đơn vi sử dụng lao động. QHLD hai hòa, ồn định là một trong những yếu tô quan trọng dé đảm bảo lợi ích cho cả NLD và NSDLĐ. Vì vậy, cần thiết phải có sự dung hịa lợi ích của cả hai bên. Giải quyết TCLĐCN nhằm mục đích giúp các bên cùng nhau tiến hành thương lượng, thỏa thuận giải quyết mâu thuẫn, tránh những xung đột có thể làm cham dứt QHLD. Việc giải quyết TCLDCN không chỉ nhằm củng có, duy trì QHLĐ mà cịn góp phần làm ổn định đời sống, đảm bảo duy trì hoạt động bình thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị sử dụng lao động, góp phan làm cho xã hội 6n định và phát triển.

Thứ ba, giải quyết TCLĐCN nhằm hoàn thiện pháp luật lao động và pháp luật về tố tụng lao động. Khi tham gia giải quyết TCLĐCN, các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động có điều kiện nhìn nhận, đánh giá tình hình, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật lao động, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp nhằm tìm ra giải pháp phù hợp dé từ đó có thé rút ra kinh nghiệm để hồn thiện hơn chức năng, quyền hạn của mình. Mặt khác, quá trình giải quyết TCLĐCN vừa đảm bảo cho các quy phạm pháp luật được áp dụng thống nhất, vừa kiểm tra tính chính xác của các quy phạm pháp luật đồng thời tìm ra sự khiếm khuyết hay bất hợp lý của các quy định pháp luật từ đó sửa đồi, hoàn thiện pháp luật một cách kip thoi.

- Các phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

Phương thức giải quyết TCLDCN được hiểu là cách thức tiến hành giải

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

quyết TCLĐCN. Hiện nay, các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam, TCLĐCN được giải quyết bằng các phương thức sau: Thương lượng, hòa giải, và băng tòa án nhân dân.

Giải quyết TCLDCN bằng phương thức thương lượng. Thương lượng là một quá trình các bên tranh chấp đưa vấn đề tranh chấp ra giải quyết trên tỉnh thần tự quyết định thơng qua hình thức thỏa thuận với nhau về giải quyết tranh chấp đó.

Thương lượng để giải quyết TCLĐCN được xuất phát từ bản chất của

<small>QHLD là được xác lập trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận. Nên khi tranh</small>

chấp xảy ra, tốt nhất là các bên tự thương lượng và dàn xếp với nhau để giải quyết. Phương thức này có rất nhiều ưu điểm. Đó là khơng chỉ giải quyết tranh chấp TCLĐCN một cách nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm quyền và lợi ích các bên trên cơ sở các bên tự định đoạt, mà còn đơn giản, không tốn kém thời gian, tiền bạc, mặt khác lại duy trì được QHLD.

<small>Tuy nhiên, pháp luật các nước cũng như pháp luật Việt Nam không</small>

quy định cụ thể về cách thức tiến hành phương thức này. Các bên hoàn toàn tự quyết định và tự tổ chức tiễn hành thương lượng. Cũng vì thế mà khơng có cơ chế bảo đảm thực hiện kết quả thương lượng. Vì thế, mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng giải quyết TCLDCN bang phương thực này trên thực tế, nếu

mâu thuẫn các bên gay sắt, thì khó thực hiện được.

- Giải quyết TCLĐCN bằng phương thức hòa giải. Hòa giải là quá trình các bên tranh chấp đưa TCLĐ giữa họ ra nhờ người thứ ba (người trung gian) giải quyết. Theo đó, bên thứ ba sẽ hỗ trợ các bên tranh chấp trong quá trình đàm phán, hoặc khi đàm phan bề tắc thì bên thứ ba giúp họ đạt được thỏa

<small>thuận chung.</small>

Hịa giải để giải quyết TCLDCN mang tính bắt buộc. Chi trừ một số TCLĐCN. Thơng qua hịa giải, các bên dé đạt được kết quả của mình, bởi người hịa giải thơng tường là người hiểu biết pháp luật, hiểu biết điều kiện cụ

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

thé của hai bên, có kinh nghiệm trong cơng tác hòa giải.

Cũng như phương thức thương lượng, phương thức hòa giải có ưu điểm rất lớn là giải quyết TCLĐCN một cách nhanh chóng, đúng pháp luật, vừa bảo đảm quyền và lợi ích hai bên, vừa khơng tốn kém thời gian. Theo đó, QHLD nhanh chóng được duy trì và ơn định. Tuy nhiên, cũng do khơng có cơ chế bảo đảm thi hành biên bản hòa giải thành nên phương thức này cũng khó giải quyết TCLĐCN một cách dứt điểm.

- Giải quyết TCLĐCN bằng tòa án nhân dân

Giải quyết TCLĐCN băng tòa án nhân dân là cách thức giải quyết tranh chấp do tòa án với tự cách là cơ quan tài phán mang quyên lực nhà nước tiến

<small>hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Bởi vậy, khi TCLDCN không</small>

được giải quyết băng các phương thức thương lượng hịa giải thì có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án nhân dân giải quyết. Lý do là việc giải quyết

<small>TCLDCN tại tòa án được tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy</small>

định, đội ngũ cán bộ, công chức giải quyết TCLĐCN đều là những người có trình độ, hiểu biết pháp luật lao động và pháp luật tố tụng, có kinh nghiệm trong cơng tác xét xử. Ngồi ra, việc giải quyết TCLĐCN băng tòa án còn phải tuân theo các nguyên tắc chặt chẽ, có khả năng giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn giữa các bên và đặc biệt quyết định hoặc bản án của tòa án được đảm bảo cưỡng chế thi hành của cơ quan thi hành án. Từ những lý do này mà một số tranh chấp lao động cá nhân, do cần bảo đảm nhanh chóng quyền và lợi ích cho các bên, nhất là bên NLĐ, nên pháp luật quy định khi tranh chấp xảy ra, các bên có quyền u cau tịa án giải quyết ngay mà không nhất thiết

<small>phải thông qua phương thức hòa giải.</small>

Bên cạnh những ưu điểm như trên, việc giải quyết TCLĐCN bằng TAND có một số hạn chế so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác như thời hạn giải quyết vụ tranh chấp có thé kéo dai do phải qua nhiều cấp xét

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

xử, gây tốn kém thời gian, tiền bạc cho các bên đương sự.

1.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân 1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án

<small>nhân dân</small>

Q trình giải quyết TCLĐ có thể trải qua nhiều giai đoạn khác nhau,

<small>thông qua các phương thức khác nhau như đã trình bày ở trên. Trong đó phải</small>

khang định rang, giải quyết TCLDCN tại tòa án là phương thức có tam quan

<small>trọng đặc biệt.</small>

Trên cơ sở những phân tích trên, có thể hiểu khái niệm giải quyết TCLDCN bang tòa án là hoạt động giải quyết TCLDCN do Tòa án là cơ quan tài phán mang quyền lực nhà nước tiễn hành theo trình tự, thủ tục nhất định và phán quyết được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.

1.2.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án

<small>nhân dân</small>

Thứ nhất, Việc giải quyết TCLDCN bằng TAND được thực hiện bởi tòa án với tư cách là cơ quan tài phán mang tính quyền lực nhà nước và được tiễn hành theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ.

Tịa án là cơ quan tư pháp, được tô chức chặt chẽ theo ngành dọc theo hệ thống tòa án cấp huyện đến tòa án cấp tỉnh, thành phố và đến tòa án cấp tối cao, VIỆC gial quyét TCLDCN tại tòa án phải tuân theo trình tự, thủ tục chat chẽ. Việc vi phạm thủ tục tố tụng sẽ dẫn đến bản án, quyết định của tịa án có thé bị hủy. Ngồi ra đương sự có thé kháng cáo, u cầu tòa án xét xử lại, nếu thấy phán quyết của tịa án khơng thỏa đáng. Với cơ chế nhiều cấp xét xử, pháp luật cho phép đương sự thực hiện quyền kháng cáo đối với những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của cấp xét xử sơ thâm. Ngay cả khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đương sự vẫn có quyền khiếu nại, người có thâm quyền kháng nghị bản án, quyết định của tịa án theo trình tự giám đốc thâm hoặc tái thẩm.

Ngoài ra, hệ thống TAND được phân chia theo địa giới hành chính lãnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

thổ tương ứng với bốn cấp thâm quyền: TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh, TAND cấp cao và TAND tối cao. Tòa lao động thuộc TAND trực tiếp giải quyết các vụ án TCLĐCN. Hệ thống tòa lao động gồm: Tòa lao động thuộc TAND tối cao, Tòa lao động thuộc TAND cấp cao, Tòa lao động thuộc TAND cấp tỉnh; các thâm phán chuyên trách thuộc TAND cấp huyện (trong

<small>trường hợp khơng có tịa lao động).</small>

Tứ hai, giải quyết TCLDCN bang tòa án là hoạt động giải quyết cuối cùng sau khi TCLĐCN đã được giải quyết ở các giai đoạn khác mà không đạt kết quả (trừ một số trường hợp nhất định). TCLDCN có thể được giải quyết bang nhiều phương thức khác nhau như: thương lượng, hịa giải và tịa án. Mỗi phương thức có những đặc trưng, ưu điểm, hạn chế riêng như đã trình bày.

Việc giải quyết TCLDCN băng tòa án được tiến hành khi các phương

<small>thức thỏa thuận, hòa giải ở các giai đoạn trước đó đã được sử dụng nhưng</small>

khơng đạt kết quả. Đối với đa số các TCLĐCN thì trước khi khởi kiện ra tòa án thủ tục hòa giải là điều kiện cần thiết để thụ lý vụ án lao động tại tòa án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhanh chóng nham tiếp tục QHLĐ, các bên TCLDCN có thể khởi kiện thắng ra TAND yêu cầu giải quyết tranh chấp dù chưa qua thủ

<small>tục thương lượng, hòa giải.</small>

Thứ ba, các phán quyết của TAND về vụ án TCLĐCN được đảm bảo thi hành bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước thông qua cơ quan thi hành án.

Sự bảo đảm thi hành phán quyết của TAND bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước được coi là một ưu điểm, tạo ra sự khác biệt trong cơ chế thi hành phán quyết của các loại cơ quan tài phán. Bởi biên bản hòa giải thành khi hịa giải viên lao động khơng được đảm bảo bằng các biện pháp cưỡng chế nhà

<small>nước mà do các bên đương sự tự nguyện thực hiện chứ không được đảm bảo</small>

băng biện pháp cưỡng chế Nhà nước. Nếu các bên khơng thực hiện thì bên kia khơng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định cưỡng chế thực

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

hiện. Nhưng đối với các bản án, quyết định của tịa án thì các bên có nghĩa vụ phải thi hành, nếu các bên đương sự khơng tự nguyện thi hành thì sẽ bị cưỡng chế thi hành thông qua hoạt động của cơ quan thi hành án.

Do đó các TCLĐCN khởi kiện tại tịa án được giải quyết dứt điểm và có khả năng bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của NLD và NSDLĐ. Quyết định, bản án của tòa án là quyết định cuối cùng trong giải quyết TCLDCN.

1.2.3. Vai trò của giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án

<small>nhân dân</small>

Thứ nhất, việc giải quyết tranh TCLDCN tại tịa án góp phan giải quyết dứt điểm TCLĐCN, góp phan bảo vệ NLD, quyền và lợi ích hợp pháp của

<small>NSDLĐ, lợi ích nhà nước và xã hội.</small>

Bất kỳ chủ thể nào khi tham gia QHLĐ cũng đều quan tâm đến sự an toàn pháp lý. Do đó, địi hỏi mỗi quốc gia đều phải quan tâm xây dựng hệ thống pháp luật, gồm cả luật nội dung và hình thức. Cụ thê là luật nội dung các QHLĐ quy định trong BLLD và tố tụng dân sự, lao động quy định trong BLTTDS. Giải quyết TCLDCNN băng TAND phải đảm bảo tinh dân chủ, bình dang trong giải quyết tranh chấp giữa các đương sự. Co quan TAND phải là nơi NLD và NSDLĐ có quyền yêu cau trong trường hợp quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm, và đều nhận được sự bảo hộ cần thiết của pháp luật. Bên cạnh đó, thơng qua hoạt động xét xử của TAND, pháp luật nhằm giáo

<small>dục ý thức pháp luật, ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong QHLD.</small>

Phán quyết của TAND được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế Nhà nước nên quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được đảm bảo thực hiện triệt để. Bên cạnh đó việc giải quyết TCLĐCN bằng TAND được thực

hiện bởi đội ngũ thâm phán và hội thâm nhân dân có năng lực, chuyên môn, kinh nghiệm nên hạn chế được sự tùy tiện, trái pháp luật về nội dung và thủ tục trong việc giải quyết tranh chấp. Các thâm phán, hội thâm nhân dân xét xử độc lập và chỉ ra phán quyết trên cơ sở pháp luật, đảm bảo tính khách quan

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

trong phán quyết của tòa án.

Mục dich của việc giải quyết TCLDCN bằng TAND khơng chỉ nhằm bảo vệ NLD mà cịn bảo vệ NSDLĐ ké cả khi ho là nguyên đơn hay bị đơn. Bởi vì, người đưa ra yêu cầu (nguyên đơn) chưa chắc đã là người có hành vi đúng đắn, hợp pháp trong thực tế. Do quá trình giải quyết TCLĐCN có sự tham gia và quan tâm của nhiều chủ thé, mỗi chủ thé có tư cách và mối quan tâm khác nhau, do đó quyền và lợi ich của các bên tranh chấp luôn được dam bao.

Do NLD và phía NSDLD có quyền và lợi ích đối ngược nhau, mà chưa được giải quyết bằng các phương thức ơn hịa khác nên pháp luật cần sử dụng tài phán như là một phương thức đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong

Thứ hai, việc giải quyết TCLDCN bang TAND gop phan quan trọng trong viéc duy tri va 6n dinh QHLD. Xuất phát từ việc TAND nhân danh nhà nước giải quyết TCLĐCN nên đã thể hiện vai trò của nhà nước trong việc giải quyết các mâu thuẫn, xung đột về lợi ích trong quá trình tham gia QHLĐ của NLĐ và NSDLĐ nhằm mục đích bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên và

<small>duy trì trật tự, kỷ cương trong QHLD.</small>

Khi giải quyết TCLĐCN và phán quyết của tịa án có vai trị giải tỏa những xung đột giữa các bên. Vì môi trường của mối QHLĐ là một môi trường nhạy cảm và dễ có xung đột, hơn nữa sự vận động của lao động chính là sự vận động của lực lượng sản xuất xã hội, do đó, sự mất ôn định của lực lượng sản xuất này tất yếu dẫn đến sự mất ôn định của các quan hệ sản xuất xã hội. Phan ứng dây chuyên và có tính nhân quả này khơng phải là một van đề khó khăn mới nhận thức được, đặc biệt là khi van dé này được đặt trong bối cảnh nền kinh tế

<small>thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước.</small>

<small>Ngoài ra, việc TAND nhân danh nhà nước đưa ra các căn cứ pháp luật</small>

để giải quyết TCLDCN, vì thế khi đã có đầy đủ cơ sở pháp ly thì sẽ dé dàng khiến các bên tâm phục khâu phục, hiểu biết được pháp luật và từ đó tự điều

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<small>chỉnh hành vi cua mình khi tham gia QHLD.</small>

Thứ ba, giải quyết TCLDCN băng TAND góp phan bảo vệ và tăng cường pháp chế. Việc thực thi pháp luật lao động trở thành một trong những vấn đề pháp lý có tầm quan trọng đặc biệt của bất kỳ một quốc gia nào, bởi vì bên cạnh việc ban hành pháp luật, việc thực hiện pháp luật thì Nhà nước cần

<small>có những biện pháp bảo đảm cho việc thi hành pháp luật được thực hiện một</small>

cách nghiêm chỉnh. Pháp luật về tô tụng lao động, vừa là một biện pháp bảo vệ sự đúng dan và trong sạch của pháp luật, trực tiếp là pháp luật lao động. Chính vì hoạt động đó mà việc giải quyết TCLĐCN bằng TAND góp phần tăng cường pháp chế lao động và đảm bảo cho pháp luật lao động được thi hành nghiêm chỉnh trong đời sống lao động và đời sống xã hội.

Thứ tw, giải quyết TCLDCN bằng TAND góp phần hồn thiện các quy định về tài phán lao động và pháp luật về tài phán nói chung. Thơng qua hoạt động của các cơ quan tố tụng đối với các vụ TCLĐCN các cơ quan nhà nước đúc rút những kinh nghiệm quý báu từ thực tiễn dé sửa đồi, bố sung các quy định khơng cịn phù hợp, nhằm tăng cường hiệu quả pháp lý của các quy định đó.

Ngồi ra, các hoạt động tổng kết kinh nghiệm xét xử và giải quyết TCLĐ nói chung, TCLĐCN nói riêng hằng năm của ngành tịa án có khả năng cung cấp cho các nhà lập pháp những tri thức quý bau dé sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định về giải quyết tranh chấp lao động nói riêng và các quy định về giải quyết tranh chấp nói chung.

1.2.4. Nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân

Giải quyết TCLĐCN băng TAND được pháp luật lao động và pháp luật t6 tụng lao động điều chỉnh. Ở một số nước như Việt Nam, giai đoạn t6 tung lao động được quy định chung trong BLTTDS, ở một số nước thì giai đoạn tố tụng quy định riêng. Dù quy định chung hay quy định riêng thì điểm chung trong điều chỉnh pháp luật về giải quyết TCLĐCN gồm các vấn đề cơ bản là:

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Nguyên tắc giải quyết TCLDCN bằng TAND, thấm quyền giải quyết TCLĐCN băng TAND, chủ thé tham gia trong quá trình giải quyết TCLDCN băng TAND, trình tự, thủ tục giải quyết TCLĐCN băng TAND.

Thứ nhất, về nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng

<small>tòa an nhân dân</small>

Do việc giải quyết TCLDCN bằng TAND có những điểm khác biệt so với việc giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế, nên khi giải quyết TCLĐCN, cơ quan, tô chức, cá nhân có thâm quyền phải tuân theo các nguyên tắc quy định trong BLLĐ. Ngoài ra, TCLĐCN cũng là tranh chấp phát sinh trong đời sông xã hội dân sự, vì thé khi xét xử vụ TCLĐCN tại TAND, chủ thé có thẩm qun cịn phải tn theo các nguyên tắc quy định trong BLTTDS. Cụ thể, các nguyên tắc áp dụng trong q trình hoạt động tơ tụng giải quyết các TCLDCN băng TAND bao gồm:

Các nguyên tắc giải quyết TCLĐCN theo quy định của pháp luật lao động. Đó là các ngun tắc: Tơn trọng, bảo đảm dé các bên tự thương lượng, quyết định trong giải quyết TCLDCN; Thơng qua hịa giải trên cơ sở tơn trọng quyền và lợi ích của các bên tranh chấp, tơn trọng lợi ích chung của xã hội, khơng trái pháp luật; Giải quyết TCLĐCN công khai, khách quan, kịp thời,

<small>nhanh chóng, đúng pháp luật; Bảo đảm sự tham gia của đại diện các bên tranh</small>

chấp trong quá trình giải quyết TCLĐCN; Việc giải quyết TCLĐCN trước hết phải được hai bên trực tiếp thương lượng nhằm giải quyết hai hịa lợi ích của các bên tranh chấp, ơn định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội; Việc giải quyết TCLDCN do cơ quan, tơ chức, cá nhan có thâm quyền giải quyết TCLĐCN tiến hành sau khi một trong hai bên có đơn yêu cầu do một trong hai bên từ chối thương lượng, thương lượng nhưng không thành hoặc thương lượng

<small>thành nhưng một trong hai bên khơng thực hiện.</small>

Đồng thời với đó, khi giải quyết TCLĐCN bằng TAND, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thấm quyền cịn phải tn thủ các nguyên tắc được quy định

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

trong pháp luật tố tụng dân sự. Do là các nguyên tắc: Tuân thủ pháp luật trong tố tung dân sự; Quyền u cầu tịa án bảo vệ qun và lợi ích hợp pháp; Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự; Cung cấp chứng cứ và chứng minh; Bình dang về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng; Bảo đảm quyên bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của đương sự; Hòa giải trong tổ tung dân sự; Hội thẩm

<small>nhân dân tham gia xét xử vụ án TCLDCN; Bao dam có hiệu lực của bản án,</small>

quyết định của tịa án; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự; Bao đảm tranh tụng trong xét xử và nguyên tac bảo đảm quyên khiếu nại, tố cáo trong tố tụng.

Thứ hai, về thẩm quyên giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng

<small>toà an nhân dan</small>

Về mặt tố tụng, thủ tục giải quyết TCLĐCN bằng TAND nói riêng, thủ tục giải quyết TCLĐ bằng TAND nói chung căn cứ vào BLTTDS. Theo đó, thâm quyền của TAND chia thành các nhóm là thâm quyền chung (theo vụ việc), thẩm quyền theo cấp, thẩm quyền theo lãnh thé và thâm quyền theo sự lựa chọn của một bên tranh chấp là nguyên đơn. BLTTDS cùng với BLLĐ đã giúp cho việc giải quyết TCLĐCN được thống nhất. Thông thường, thâm quyền của tòa án trong việc giải quyết TCLĐCN được chia thành: Thâm quyên giải quyết TCLDCN của TAND theo vụ việc; Thâm quyên giải quyết TCLĐCN của TAND theo cấp toà; Tham quyền giải quyết TCLĐCN tại TAND theo lãnh thổ; Thâm quyền giải quyết TCLDCN tại TAND theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu.

Thứ ba, về chủ thé tham gia trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân

Chủ thể tham gia quá trình giải quyết TCLĐCN theo quy định của pháp luật lao động và pháp luật tố tụng dân sự bao gồm: Hội đồng xét xử TAND; Các bên của TCLĐCN (gồm NLĐ và NSDLĐ); Tổ chức đại diện quyền và lợi ích của các bên TCLĐCN (gồm tổ chức cơng đồn và tơ chức đại diện

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

NSDLĐ); Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Người làm chứng: Người có quyền và nghĩa vụ liên quan... Day là những chủ thé tham gia khi giải quyết TCLĐCN tại TAND. Các chủ thể này được pháp luật quy định rất rõ quyền và nghĩa vu trong quá trình giải quyết TCLĐCN.

Thứ tư, về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng toà án nhân dân

Q trình giải quyết TCLĐCN băng TAND khơng được quy định trong pháp luật lao động mà được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự. BLTTDS áp dụng chung cho việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động. Theo đó,

VIỆC giải quyết TCLDCN bang TAND được thực hiện theo các thủ tục so thâm, thủ tục phúc thâm, thủ tục giảm đốc thâm, thủ tục tái thẩm và thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thâm phán TAND tối cao.

1.3. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân của một số quốc gia trên thế giới

1.3.1. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án của Cộng

<small>hòa Liên bang Đức</small>

Giải quyết TCLĐCN băng tồ án ở Cộng hịa Liên bang Đức được quy định trong Luật về tòa án lao động năm 1953. Theo đó, tịa lao động là một hệ thống tịa án độc lập, có thâm qun giải quyết cả TCLDCN và TCLD tập thé. Tòa án lao động gồm 03 cấp: tòa án lao động (cấp sơ thẩm), tòa án lao động bang (cấp phúc thâm), tòa án lao động liên bang (cấp giám đốc thâm, tái thâm). Thâm phán của Hội đồng xét xử tại tòa án lao động (cấp sơ thâm) và tòa án lao động bang gồm 01 thâm phán chuyên nghiệp và 02 thẩm phán danh dự (thâm phán khơng chun); tại tịa án liên bang gồm 03 thâm phán chuyên nghiệp và 03 thầm phán danh dự, trong đó 01 thâm phán danh dự đại diện cho giới chủ và 01 đại diện cho giới tho.’

Quá trình giải quyết TCLĐCN theo quy định trong Luật về tòa án lao

<small>!. Xem: Luật về tòa án lao động của Cộng hòa Liên bang Đức năm 1953.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<small>động được khái quát như sau:</small>

<small>Khi các bên TCLDCN khởi kiện ra tòa án lao động thông qua văn banhoặc một hành động được đăng ký tại một tịa án thích hợp có sự trợ giúp của</small>

các quan chức ở tòa lao động. Việc thụ lý phải được thơng qua ít nhất một tuần trước khi mở phiên tòa. Tòa án bắt đầu việc xem xét hịa giải với sự có mặt của thâm phán chủ tọa của tòa lao động. Tham phán chủ tọa sẽ thảo luận với các bên về toàn bộ van dé tranh chấp theo tinh thần tự do đánh giá mọi khía cạnh của vấn đề. Nếu một bên khơng có mặt trong phiên xem xét hịa giải hoặc nếu phiên xem xét hịa giải khơng thành cơng thì tịa án sẽ ấn định ngày xem xét tố tụng trong thời gian sớm nhất. Nếu cả hai bên vắng mặt hoặc

<small>khơng chịu thương lượng phiên xem xét hịa giải thì tịa án tạm đình chỉ việc</small>

xem xét hịa giải và ân định ngày xem xét tố tụng nếu có một bên yêu cầu. Tại phiên họp xem xét tố tụng, việc nghe các nhân chứng và nghe ý kiến của các chuyên gia phải được tiễn hành trước mặt hội đồng xét xử, bao gồm cả thâm phán chủ tọa và các thâm phán danh dự. Nếu một bên văng mặt tại phiên xem xét tố tụng và nếu bên kia u cầu thì tịa án có thể xét xử vắng mặt. Bên vắng mặt có thé kháng nghị việc xem xét vắng mặt này với tòa lao động trong vịng một tuần lễ. Thơng thường, ngay sau phiên xem xét cuối cùng, tòa án lao động sẽ ra phán quyết về vụ TCLĐCN. Trong vòng 3 tuần, bản án phải được ghi vào số đăng ký và gửi cho các bên trong vịng 3 tuần tiếp đó.

Nếu khơng đồng ý với bản án của tòa án lao động, các bên có quyền

<small>kháng cáo. Đơn kháng cáo phải nộp cho tòa án lao động khu vực trong thời</small>

hạn 1 tháng sau khi nhận được bản phán quyết. Tòa khu vực khi nhận được bản kháng cáo, tiến hành kiểm tra lại phán quyết của tòa lao động về mặt thực tế và về mặt pháp lý sau đó quyết định về vụ tranh chấp.

Các phán quyết của tòa án lao động khu vực có thể bị kháng nghị về những điểm nào đó, nếu việc kháng nghị này được tịa án lao động khu vực

<small>hoặc tòa án lao động liên bang cho phép. Don kháng nghị phải nộp cho tòa an</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<small>lao động liên bang trong thời han | tháng và lý lẽ kháng nghị phải được nêu</small>

rõ trong vòng 1 tháng tiếp theo, trường hợp đặc biệt có thé kéo dài thêm 1

<small>tháng nữa.</small>

<small>Cũng như trong trình tự kháng cáo, ngày tịa án lao động liên bang xem</small>

xét đơn kháng nghị về một điểm trong luật phải được xác định ngay. Tòa lao động liên bang chỉ kiểm tra lại phán quyết của tòa án lao động khu vực về những sai sót về pháp luật. Tịa án liên bang có thể ra quyết định cuối cùng hoặc trả lại hồ sơ cho tòa án lao động khu vực xem xét lại.

1.3.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án của Cộng

<small>hòa Philipin</small>

Tại Philippin, theo Bộ luật lao động Cộng hòa Philippin 1974, hệ thống tài phán lao động gồm hai loại hình bắt buộc và tự nguyện. Loại hình tự nguyện bao gồm các cơ cấu trọng tài tự nguyện do các bên lựa chọn. Loại hình bắt buộc có ủy ban quốc gia về quan hệ lao động (NLRC, hay còn gọi là

<small>tòa án lao động - LC). Tòa án lao động Philippin có 14 chi nhánh được đặt ở</small>

14 vùng mà khơng đặt theo tinh, trong đó bao gồm cả chi nhánh vùng thủ đơ (Manila Metropolis).”

Tịa án lao động của Cộng hoa Philippin thực chat là cơ quan tòa án trọng tài bắt buộc được tổ chức chặt chẽ từ trung ương xuống địa phương có chức năng giải quyết các tranh chấp lao động (mà chủ yếu là các khiếu nại về tiền - money claims) và ra quyết định về các cuộc đình cơng. Chính vì có cơ chế giải quyết đơn giản và dé vận dụng nêu trên nên việc thụ lý giải quyết các tranh chấp lao động ở Philippin thường đạt được hiệu quả cao.

Quá trình tố tụng được tiến hành từ khi thụ lý đến khi thi hành án được khép kín theo quy tắc tố tụng thống nhất. Giúp việc cho các thấm phán, các phân ban và toàn thê ủy ban là các nhân viên thuộc các bộ phận pháp lý về thụ lý, tư vẫn pháp luật, phịng máy tính, phòng thi hành án.

<small>?. Xem: Bộ luật lao động Cộng hòa Philippin nam 1974.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

1.3.3. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án của Vương quốc Thái Lan

Tòa án lao động ở Vuơng quốc Thái Lan là loại tịa án đặc biệt và khơng nằm trong hệ thống tịa án thơng thường, độc lập với tòa án tối cao.

<small>Cơ quan chủ quản của tòa án lao động Thái Lan là Bộ Tư pháp Vương</small>

quốc Thái Lan.

Về mặt co cấu, theo Luật tô chức và hoạt động của tòa án lao động thi tòa án lao động Thái Lan được tổ chức theo ba cấp: tòa án lao động trung

<small>ương, tòa án lao động vùng và tòa án lao động tỉnh. Tòa án lao động trung</small>

ương đặt tại thủ đơ Băngkok, có thâm quyền bao trùm trong cả nước và đồng thời có thâm quyên trong toàn bộ thủ phủ Bangkok và một số địa bàn lân cận

<small>như: Samut Prakarn, Samut Sakhon, Nakhon Pathom, Nonthaburi và PathumThani. Việc thành lập toa án lao động vung va tòa án lao động tỉnh sẽ đượcquy định trong một đạo luật riêng.</small>

<small>Hiện nay, tòa án lao động trung ương có mười một chi nhánh đặt tại</small>

một số tỉnh là địa bàn trọng yếu về sản xuất công nghiệp, dịch vụ, có sử dụng nhiều nhân cơng và thường xảy ra tranh chấp lao động. Giống với tòa án lao

<small>động của Philippin, toa án lao động Thai Lan cũng thành lập bộ phận pháp</small>

chế dé giúp đỡ người khởi kiện hồn thiện hồ sơ tại tịa án.

Nhìn chung, việc giải quyết TCLDCN bằng tòa án theo pháp luật Cộng hòa liên bang Đức, Cộng hòa Philipin và Vương quốc Thai Lan, có thé nhận thấy một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, cơ quan xét xử độc lập, mang tính chun mơn cao, được cơ cầu thành hệ thơng tịa riêng, khơng gộp chung vào thủ tục t6 tụng dân sự ở

<small>Việt Nam.</small>

Thứ hai, tòa án lao động đều được cơ cấu thành các cấp. Tham quyền giải quyết TCLĐCN đều theo cấp toà án/ hoặc cơ quan đặc biét.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Thư ba, thủ tục giải quyết TCLĐCN rat đơn giản, nhanh chóng.

Tứ tư, đội ngũ tham gia giải quyết TCLĐCN chuyên nghiệp và có sự tham gia của chủ yếu là những thâm phán, người trực tiếp xét xử và có

<small>chun mơn trong lĩnh vực này.</small>

Kết luận chương 1

Tranh chấp lao động cá nhân là hiện tượng mang tính khách quan trong QHLD của nền kinh té thị trường. Vì thế, giải quyết TCLDCN là nhu cầu tat yếu của NLD va NSDLD, nhăm khôi phục quyền và lợi ích phat sinh từ QHLD. Trong nhiều phương thức giải quyết TCLDCN thì phương thức giải quyết băng tịa án là phương thức quan trọng, có hiệu quả cao trong việc bảo đảm quyên và lợi ích của các bên tranh chấp.

Việc giải quyết TCLDCN bằng TAND được pháp luật các quốc gia điều chỉnh. Tùy vào điều kiện cụ thé mà các quốc gia quy định thé do một hoặc nhiều ngành luật điều chỉnh. Trường hợp nhiều ngành luật điều chỉnh, thông thường, là luật lao động và luật tố tụng dân sự. Nội dung điều chỉnh về các van đề: các nguyên tắc giải quyết TCLDCN, thâm quyền giải quyết TCLĐCN, chủ thể tham gia trong qúa trình giải quyết TCLĐCN, cũng như trình tự, thủ tục giải quyết TCLĐCN. Có thể thấy rằng, giải quyết TCLĐCN băng tịa án có vai trị rất lớn trong việc giải quyết dứt điểm tranh chấp, vừa bao đảm quyên, lợi ích các bên tranh chấp vừa góp phan ồn định QHLĐ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<small>Chương 2</small>

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VE GIẢI QUYET TRANH CHAP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN BẰNG

TOA ÁN NHÂN DAN

2.1. Quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng tòa án nhân dân

Khi giải quyết TCLĐCN băng TAND đòi hỏi vừa phải tuân theo nguyên tắc được quy định tại Điều 194 BLLĐ năm 2012, vừa phải tuân theo các nguyên tắc được quy định trong Chương 2, từ Điều 3 đến Điều 25

<small>BLTTDS năm 2015.</small>

Theo Điều 194 BLLĐ năm 2012 thì khi giải quyết TCLDCN bang TAND, chủ thé có thâm quyền phải tuân theo các nguyên tắc như sau:

- Nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm để các bên tự thương lương, quyết định trong giải quyết TCLĐCN. Nguyên tắc này xuất phát từ việc QHLĐ được thiết lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên, nên khi tranh chấp xảy Ta, các bên cần được tự thương lượng để bảo vệ quyền và lợi ích của bên mình. Việc tự thương lượng và giải quyết TCLĐCN được thực hiện ngay từ khi tranh chấp phát sinh và trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp. Đây là nguyên tắc quan trong, vì nguyên tắc này thé hiện rõ quyền tự quyết của các bên tranh chấp, đồng thời dé duy trì được QHLĐ.

- Ngun tac thơng qua hịa giải, trên cơ sở tơn trọng qun và lợi ích của hai bên tranh chấp, tơn trọng lợi ích chung của xã hội, không trái pháp luật. Đôi với TCLĐCN, pháp luật quy định chỉ thơng qua ngun tắc hịa giải tại hịa giải viên lao động, không qua thủ tục giải quyết tại hội đồng trọng tài như tranh chấp tập thể về lợi ích. Nguyên tắc này được thực hiện trong quá trình giải quyết TCLĐCN từ khi các bên thương lượng mà khơng thành hoặc

<small>các bên khơng có thiện chí thương lượng thì có qun u câu hịa giải viên</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

giải quyết tranh chấp. Hòa giải ở đây được hiểu là có sự tham gia của người thứ ba (hịa giải viên). Người này có hiểu biết pháp luật lao động, dé dàng đưa ra phương án dé các bên lựa chọn. Cũng như nguyen tắc thương lượng ở trên, nguyên tắc hòa giải nhằm giúp các bên hiểu biết nhau hơn, hiểu biết pháp luật

<small>và đặc biệt là duy trì QHLĐ.</small>

- Ngun tắc giải quyết cơng khai, khách quan, kịp thời, nhanh chóng, dung pháp luật. Nguyên tắc này xuất phát từ đặc thù của QHLD, với sự tham gia của hai bên - NLD và NSDLD - có lợi ích ngược chiều nhau. Hơn nữa do mục đích hai bên xác lập QHLD là NLD nhăm mang lại thu nhập dé bao dam đời sống bản thân và gia đình, NSDLĐ sử dụng sức lao động của NLĐ đưa vào quá trình sản xuất, kinh doanh dé mang lại lợi nhuận. Nếu TCLĐCN xảy ra thì sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống của NLĐ cũng như quá trình sản xuất, kinh doanh của đơn vị sử dụng lao động, nên đòi hỏi phải được giải quyết nhanh chóng, kip thời, bảo đảm quyền và lợi ich các bên. Dé đạt được mục đích này, cơ quan, tơ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phải khách

<small>quan, công khai và thực hiện theo quy định của pháp luật.</small>

- Nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của đại diện các bên trong quá trình giải quyết TCLDCN. Nguyên tắc nay là sự cụ thé hóa của việc áp dụng cơ chế ba bên trong giải quyết TCLĐ nói chung, TCLĐCN nói riêng. Đây là nguyên tắc đặc thù khi giải quyết TCLĐCN, chỉ áp dụng trong q trình giải quyết TCLĐ, trong đó TCLĐCN mà không áp dụng khi giải quyết các tranh chấp dân sự, thương mại. Bởi vi chi trong QHLĐ mới có tổ chức đại diện các bên được pháp luật thừa nhận. Theo đó, tơ chức cơng đồn đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ, cịn tơ chức đại điện của NSDLĐ như Phịng

<small>tương mai va cơng nghiệp Việt Nam (VCCI), Liên minh các hợp tác xã(VCA), Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ va vừa (VINASME) đại diện và bao</small>

về qun, lợi ích cho bên NSDLĐ.” Có thé thấy việc quy định nguyên tắc này

<small>3, Xem: Nghị định số 53/2014/NĐ-CP ngày 26/5/2013.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

trong quá trình giải quyết TCLĐCN chính là nhằm nhăm đề cao vai trị của tơ chức đại diện các bên để bảo vệ lợi ích cho bên mình.

- Việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân trước hết phải được hai bên trực tiếp thương lượng nhằm giải quyết hài hịa lợi ích hai bên tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội. Nguyên tắc này một lần nữa nhắn mạnh quyền được tự do thương lượng để giải quyết TCLĐCN. Đồng thời đặt ra yêu cầu đối với cơ quan, tô chức giải quyết TCLDCN, là trước khi tiễn hành giải quyết tranh chấp bang tịa án, thì

<small>phải bảo đảm cho các bên tự thương lượng với nhau.</small>

Tuy nhiên, có thé thay rằng, nguyên tac này trùng với nội dung trong nguyên tắc thứ nhất, vì vậy việc BLLĐ năm 2012 quy định thêm nguyên tắc này, mặc dù có ý nhân mạnh, nhưng không cần thiết.

- Việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân do cơ quan, tô chức, cá nhân có thẩm quyên giải quyết tranh chấp tiễn hành sau khi một trong hai bên có đơn yêu cau do một trong hai bên từ chối thương lượng hoặc thương

<small>lượng nhưng không thành hoặc thương lượng thành nhưng một trong hai bên</small>

không thực hiện. Đây cũng là nguyên tắc mới được bồ sung trong BLLĐ năm 2012. Nguyên tắc này cũng nhắn mạnh thâm quyền giải quyết TCLĐCN và thời điểm các chủ thể có thẩm quyền được thụ lý giải quyết TCLĐCN. Đồng thời nguyên tắc này cũng một lần nữa khăng định sự coi trọng của pháp luật đối với quyền tự thương lượng của các bên. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thâm quyên chi thụ lý giải quyết TCLĐCN khi các bên tranh chấp không

<small>thương lượng được với nhau, hoặc đã thương lượng thành nhưng sau đó</small>

khơng thực hiện, nhằm bao đảm quyền tự định đoạt của các bên về quyền và

lợi ích của mình được giải một cách triệt dé, tránh những bất đồng vẫn có thé <small>Xảy ra.</small>

Tuy nhiên, những nội dung trong nguyên tắc này chủ yếu liên quan đến thủ tục giải quyết TCLĐCN, vì thế với tư cách là nguyên tắc giải quyết

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

tranh chấp thì cũng cần phải xem lai, nhằm bảo dam đúng tinh chat của một nguyên tắc là tư tưởng chỉ đạo, quán xuyên các quy định của pháp luật về giải quyết TCLĐCN.

Ngoài các nguyên tắc được pháp luật lao động quy định như trên, khi tiến hành giải quyết TCLĐCN bằng TAND, chủ thể có thâm quyền cịn phải tuân theo các nguyên tắc quy định trong BLTTDS. Theo tinh thần quy định tại chương 2, từ Điều 3 đến Điều 25 BLTTDS năm 2015, các hoạt động tố tụng trong giải quyết TCLĐCN phải tuân theo các nguyên tắc cơ

<small>bản sau đây:</small>

- Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong quá trình to tụng. Day là nguyên tắc quan trọng trong giải quyết mọi tranh chấp dân sự, lao động, kinh tế nói chung, giải quyết TCLĐCN nói riêng. Khi tiến hành giải quyết TCLĐCN, mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thâm quyền đều phải tuân theo quy định của BLTTDS. Có như thé mới bảo đảm đúng, day đủ quyền và lợi ích của các bên tranh chấp.

- Nguyên tắc quyén yêu cầu tòa án bảo vệ quyển và lợi ich hợp pháp. Khi quyền và lợi ích hợp pháp của NLD hoặc NSDLD bị xâm phạm, thì mỗi bên đều có quyền khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết. Tuy nhiên quyền yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp chỉ đặt ra khi các bên hịa giải khơng thành

<small>hoặc cơ quan hịa giải khơng thực hiện hịa giải trong thời gian luật định hoặchòa giải thành nhưng các bên khơng thực hiện theo biên bản hịa giải thành.</small>

Và khi đó tịa án buộc phải thụ lý đơn u cầu và tiến hành giải quyết TCLĐCN theo quy định của pháp luật. Lưu ý là đối với một số TCLDCN quy định tại khoản 1 Điều 201 BLLD, thì các bên khơng nhất thiết phải qua hịa giải mà có thể gửi đơn thang ra tòa án dé tòa án giải quyết.

- Nguyên tắc quyên quyết định và tự đoạt của đương sự. Khi xảy ra TCLĐCN, các đương sự có quyền quyết định việc có yêu cầu các cơ quan có thâm qun giải quyết tranh chấp hay khơng. Đối với các loại tranh chấp bắt

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

buộc phải qua hịa giải, thì các bên có quyền quyết định việc yêu cầu hòa giải

<small>hay khởi kiện ra tòa án.</small>

Khi đã khởi kiện vụ án TCLDCN, các đương sự có quyền quyết định việc rút lại đơn yêu cau, thay đổi, bố sung yêu cầu, có quyền tự nguyện thỏa thuận với nhau về các nội dung tranh chấp. Chỉ khi các bên khơng thương lượng và hịa giải được với nhau thì khi đó tịa án mới tiễn hành xét xử theo

<small>quy định của pháp luật.</small>

- Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh. Theo nguyên tắc này, các đương sự khi đưa vụ việc ra tòa án phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp cho tòa án các tài liệu, chứng cứ cần thiết dé tịa án xem xét, quyết định. Điều này có hai ý nghĩa: trước hết đương sự phải chứng minh răng mình khơng phải là khơng có cơ sở dé kiện tụng; mặt khác, các tài liệu, chứng cứ sẽ giúp tịa án có thê đánh giá sơ bộ về vụ việc đó xem có thuộc thẩm quyền của mình hay

<small>khơng, có phải là TCLDCN hay khơng.</small>

Ngồi ra khi vụ án đã được tòa án thụ lý giải quyết, tức là đã phát sinh trách nhiệm của tòa án phải giải quyết vụ án một cách đúng dan và kip thời. Trong các TCLĐCN, có thé có những tình tiết, những chứng cứ có trong các tài liệu đang do NLD, NSDLD, tô chức đại diện các bên hoặc cơ quan khác lưu giữ. Dé có cơ sở cho tịa án giải quyết vụ án, NLD, NSDLD, tổ chức dai diện các bên hoặc cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đang lưu giữ tài liệu đó phải có nghĩa vụ cung cấp cho tòa án hoặc đương sự.

- Nguyên tắc bình dang về quyên và nghĩa vụ của các đương sự.

Trong QHLD, các bên NSDLD va NLD có vị thế phụ thuộc, khơng bình đăng. NLD ln phụ thuộc vào NSDLD về kinh tế và về tô chức. Tuy nhiên, khi xảy ra TCLĐCN, pháp luật là chỗ dựa vững chắc bảo đảm sự cơng băng và bình dang cho các bên. Các quy định của pháp luật tố tung cho thấy rằng trước pháp luật, khơng có sự phân biệt về địa vị xã hội, dân tộc, tôn giáo,

<small>giới tính, ai cũng bình đăng với nhau vê qun và nghĩa vụ tô tụng. Điêu này</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

được thê hiện ở chỗ: khi tham gia tố tụng NLD hoăc NSDLĐ có quyền như nhau trong việc đưa ra yêu cầu và các chứng cứ để chứng minh cho u cầu của mình. Các bên có quyền được u cầu tòa án thu thập chứng cứ và được chấp nhận nếu yêu cầu có căn cứ, có quyên thực hiện các hành vi tố tụng theo quy định khi tham gia tố tụng.

- Ngun tắc hịa giải trong tơ tụng dân sự. Hòa giải là một biện pháp được tòa án tiễn hành để giúp các bên thỏa thuận với nhau về vụ TCLĐCN. Lợi ích của việc hịa giải là tạo ra bầu khơng khí hịa bình khi các bên đang đối mặt với nhau vì xung đột, do đó, nó có thê giúp các bên giải tỏa được bất đồng để tiếp tục duy trì mối QHLĐ hoặc cùng nhau giải quyết tốt các van đề tranh chấp hoặc tránh được những ảnh hưởng xấu mà tranh chấp mang lại, trên cơ sở quyền tự định đoạt với sự trợ giúp của người thứ ba trung lập là tịa án. Tịa án có trách nhiệm trong nỗ lực hòa giải để các bên chủ động quyết định về vụ việc của họ trước khi can thiệp bằng quyền lực nhà nước. Điều đó sẽ thực sự góp phần vào việc đảm bảo sự ơn định, hài hịa của mối QHLĐ.

- Nguyên tắc bảo đảm quyên bảo vệ của đương sự. Theo nguyên tắc này, đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định pháp luật dé bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của minh. Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của

<small>đương sự.</small>

Trong quan hệ TCLĐCN, do vị thế khơng bình dang của NLD và NSDLD nên khi tham gia tố tụng, tòa án phải tạo điều kiện để NLĐ thực hiện day đủ quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, có thể khăng định được răng trong giải quyết TCLĐCN nói chung và trong tranh tụng tại toa nói riêng, vai tro vi trí của luật sư ln là cần thiết và quan trọng, đặc biệt trong điều kiện các TCLĐCN xảy ra ngày càng tăng như thời gian gần đây.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

- Nguyên tắc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án TCLĐCN. Nguyên tắc này đảm bảo cho việc xét xử vụ án của tòa án được khách quan, đúng pháp luật trên cơ sở đề cao tính độc lập và tự chủ của mỗi thành viên hội đồng xét xử trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, cũng như trong việc thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật.

Trong các vụ án TCLDCN, Hội thâm nhân dân có thê là những cán bộ

<small>chuyên trách làm công tác công đồn ở Liên đồn lao động của các địa</small>

phương, cơng đồn ngành hoặc cũng có thể là cán bộ đang công tác tại các cơ quan quản lý chuyên môn. Đó là những người vừa có kiến thức pháp lý, lại năm bắt được nguyện vọng và thực tế đời sống của NLĐ cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của NSDLĐ. Trên cơ sở đó, việc xem xét, quyết định về việc giải quyết tranh chấp sẽ khách quan và chính xác hơn. Khi tham gia xét xử vụ án, Hội thắm nhân dân là một thành viên của hội đồng xét xử, có quyền

<small>và nghĩa vụ như các thành viên khác theo quy định của pháp luật.</small>

- Nguyên tắc bảo đảm có hiệu lực của bản án, quyết định của tòa án. Bản án, quyết định án về giải quyết TCLĐCN có hiệu lực pháp luật phải được

<small>các bên nghiêm chỉnh thi hành. Tòa án được giao nhiệm vụ thi hành bản án,</small>

quyết định và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó. Tịa án có qun u cầu cơ quan thi hành án thông báo tiến độ, kết quả thi hành bản án, quyết định của tòa án. Nguyên tắc này nhằm bảo vệ quyên và lợi

<small>ích của các bên TCLĐCN.</small>

- Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong q trình giải quyết TCLĐCN. Trong q trình tịa án giải quyết TCLĐCN băng tòa án, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với tất cả các giai đoạn, các hoạt động t6 tung, nhằm kip thời phát hiện những vi phạm pháp luật trong quá trình tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng. Cu thé về các van dé: tuân thủ pháp luật, đảm bảo thực hiện các quyên và sự bình đăng của các đương sự, những khía cạnh liên quan đến chun mơn, nghiệp

<small>vụ của những người tiên hành tô tụng...</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Trong quá trình giải quyết TCLĐCN, quyên tự định đoạt của các bên được tôn trọng, trách nhiệm chứng minh của các đương sự được dé cao nên cần thiết hạn chế tối đa sự can thiệp của các cơ quan công quyền vào q trình giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, BLTTDS năm 2015 đã thu hẹp phạm vi tham gia của Viện kiểm sát trong giải quyết TCLĐCN hơn so với

<small>trước đây.</small>

- Nguyên tắc bảo đảm quyên tranh luận trong giải quyết tranh chấp lao động cá nhân. Việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên.... nguyên đơn, bị đơn và những người có qun, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định. Các cơ quan, tơ chức có thâm qun có trách nhiệm tạo điều kiện dé luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: nghiên cứu hồ sơ, tranh luận dân chủ tại phiên tòa, nhằm bảo đảm quyền và

<small>lợi ích các bên.</small>

Đề thực hiện nhiệm vụ này, BLTTDS năm 2015 đã có nhiều quy định dé cao vai trò của đương sự trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án cũng như các quy định bảo đảm cho các bên đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như ngun tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh, nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự, các quy định về quyền và

<small>nghĩa vụ của đương sự...</small>

- Nguyên tắc bảo đảm quyên khiếu nại, tố cáo trong tô tung dân sự. Khi TAND giải quyết TCLDCN, nếu co quan, tô chức, cá nhân có thâm quyền có hành vi, quyết định trái pháp luật thì cá nhân, t6 chức, co quan có quyền khiếu nại, tố cáo với chủ thé có thẩm quyền. Nguyên tắc này cụ thé hóa và bảo dam quyền của NLĐ, đơn vị sử dụng lao động đã được quy định trong Hiến pháp

<small>năm 2013.</small>

</div>

×