Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.27 MB, 80 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
TRÁNG A SAY
HUY KET HON TRÁI PHÁP LUẬT TẠI TOA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIEN DONG, TINH ĐIỆN BIEN
LUẬN VAN THẠC SĨ LUAT HOC
HA NOI, NAM 2016
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">TRÁNG A SAY
HUY KET HON TRÁI PHÁP LUẬT TẠI TOA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIEN DONG, TINH ĐIỆN BIEN
LUẬN VAN THẠC SĨ LUAT HOC Chuyên ngành: Lua Dân sự va Tó tụng dân sự
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan
HÀ NỘI, NĂM 2016
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn dam bao độ tin cậy, chính xác và frung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được cong bố.
TÁC GIÁ LUẬN VĂN
TRÁNG A SAY
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">MỞ ĐÂU...- 5-5 S121 121212121111211111111110111111 2111121111111. rxe 2 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài...¿- 5 St cE‡EcEeErrkexeree 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài...-¿-¿- - 5s +*E+E£E£EEEE+E£ESEEEEEEEEEErrkrkrkersree 3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu r0 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của dé tài...-- - 2 2+s+s+se£ezszxexszee 4 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài... -¿- 5: + St x+E‡EEEEEE+EEEEEEEEEErEeErrerkrkrkd 5 6. Những điểm mới của luận văn... -- ¿2 + te SE E3 E2E5E515E 1155151155555 Esz 5 7.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn...---- +22 2 cz£+c+xzsz2 6 8. Bố cục của luận văn...--- 2. St Sn S121 13 1111151 155155111111115111 5151111115155. ce2 6 CHUONG 1: MOT SO VAN DE LÝ LUẬN VE KET HON TRAI PHÁP LUAT VA HUY VIỆC KET HON TRAI PHAP LUẬTT... 8 1.1. Khái quát chung về kết hôn trái pháp luật ...--- ¿5= s+s+sz+szs+2 8 1.1.1. Khái niệm kết hôn...-- 2 ¿2 2S SE+E£EE+EE£E£EESEEEEEEEEEEEEEEEEerkrrrred 8 1.1.2. Khái niệm kết hôn trái pháp lat... cececesescesecscesseseseeeeeees 9 1.2. Khái quát chung về hủy việc kết hôn trái pháp lat... eee 10 1.2.1. Khái niệm hủy việc kết hôn trái pháp luật...---- - 2 2s s<zc+¿ 10 1.2.2. Bản chất pháp ly của hủy việc kết hôn trái pháp luật ... - 11 1.3. Sự cần thiết phải hủy việc kết hôn trái pháp luật...--- 2 - +: 12 1.4. Khái quát sự điều chỉnh về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong hệ thống
<small>::19800518/198)/:001117757 ...aA. .-al)Sầ. 13</small>
1.4.1. Pháp luật phong kiến về xử lý kết hôn trái pháp luật...- 13
<small>1.4.2. Pháp luật thời kỳ Pháp thuộc ...--- - ¿+ + +E+E+Ee£szxererxeree 15</small>
1.4.3. Pháp luật Việt Nam từ cách mạng tháng Tám đến nay...-- 17 CHƯƠNG 2: HUY KET HON TRAI PHAP LUẬT THEO QUY ĐỊNH CUA PHAP LUẬT HIỆN HÀNH...-- 2 2E s+E‡ESEE+E+EeEeEErkrkrrrree 22
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">2.4. Căn cứ và đường lỗi xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật... 30
2.5. Hậu quả pháp lý của hủy việc kết hôn trái pháp luật... --- 43
2.5.1. Quan hệ nhân than giữa các bên kết hôn trái pháp luật ... 44
2.5.2. Quan hệ tài sản giữa các bên kết hôn trái pháp luật... .--- 46
<small>2.5.3. Quan giữa hệ cha, mẹ Va COTN...- 2S 11333323 ssrrrreeerreree 47</small> CHUONG 3: THỰC TIEN HUY VIỆC KET HON TRÁI PHÁP LUẬT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN ĐƠNG, MỘT SĨ VUONG MAC, BAT CẬP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HỒN THIỆN... 50
3.1. Sơ lược về tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa bàn huyện Điện Biên <small>Dong, tinh Dien Bien 0001075... ... 50</small>
3.2. Một số nguyên nhân dẫn đến kết hôn trái pháp luật tại Điện Biên Đông, <small>tỉnh Điện Biên. ... .. - - --- - C12131 11111111330 1 11111110 1n ru 50</small> 3.3. Thực tiễn xử hủy kết hôn trái pháp luật tại Tịa án nhân dân huyện Điện <small>Baer PC, tình Điển. BiG so sec cna: nghe gìn GE.: than tHH121011188536065 0056 HN 44883)6011.8055880830188.34 54</small> 3.4. Những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật hủy việc kết hôn trái <small>pháp luật tai Tịa án nhân dân huyện Điện Biên Đơng, tinh Điện Bién... 62</small>
3.5. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hủy việc kết <small>¡10i0sy89¡t:)8ii: 011177 ... 64</small>
3.5.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về kết hôn trái pháp luật và hủy kết
<small>/10i8ix89:1:)s8i: 01177 -..a....aAl1A 65</small>
3.5.2. Các giải pháp nhằm hạn chế việc kết hôn trái pháp luật và đảm bảo hiệu quả của hủy việc kết hôn trái pháp luật...-- ¿2s + + *+k+E+E£EeEzxzxexeree 67 KET LUAN ...- -- - SE 1E E1 1 1 E1 111 18111111111 1111111111 01111111111 1t kg 72 DANH MỤC TAI LIEU THAM KHẢO... 2-2 + £x+x+EeEvzrxes 73
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">BLTTDS Bộ luật tô tụng dân sự
Bộ DLBK Bộ dân luật Bắc kỳ năm 1931 Bộ DLGY Bộ dân luật Giản yếu năm 1883
<small>Bộ DLTK Bộ dân luật Trung kỳ năm 1936</small>
<small>HN&GD Hôn nhân va gia đình</small>
<small>HVLL Hồng Việt Luật lệ</small>
KHTPL Kết hơn trái pháp luật
ND số: 67/2015 Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 sửa đối, bổ sung một số điều của Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 quy định về xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực bơ trợ tư pháp,
<small>hành chính tư pháp, hơn nhân và gia đình, thi hànhán dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã</small>
<small>NLHVDS Nang luc hanh vi dan su</small>
Nxb Nha xuất ban
QTHL Quốc triều hình luật
<small>TAND TAND</small>
TANDTC Tịa án nhân dân tơi cao
TTLT số: 01/2016 Thơng tư liên tịch số:
<small>01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của</small>
Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy
<small>định của Luật hơn nhân và gia đình năm 2014</small>
UBND Ủy ban nhân dân
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>Hôn nhân và gia đình là một trong những quan hệ xã hội cơ bản. Trong</small>
những năm qua cùng với sự vận động và phát triển của kinh tế, xã hội, quan hệ hơn nhân và gia đình đã và đang có những thay đổi mạnh mẽ. Bên cạnh các yếu tố tích cực tác động vào đời sơng gia đình thì hiện nay những tập tục, lề thói cũ trong đời sơng hơn nhân va gia đình vẫn tồn tại ở một số địa phương. Bên cạnh đó, những quan niệm và biểu hiện của lối sống phương tây đã du nhập vào nước ta, tác động tới tư tưởng và lỗi sống của một bộ phận nam, nữ thanh niên làm cho quan hệ hơn nhân có sự biến động nhiều chiều, kế cả theo chiều hướng xấu. Cùng với đó là sự gia tăng ngày càng nhiều các trường hợp ly hôn, chung sông như vợ chồng mà không đăng ký kết hơn hay
<small>thậm chí là cả các trường hợp KHTPL. KHTPL đã có những tác động tiêu cực</small>
đến các mặt của đời sống xã hội, ảnh hưởng tới đạo đức, nhân cách, lỗi sống của con người, phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, ảnh hưởng tới quyền và
<small>lợi ích hợp pháp của cơng dân, ảnh hưởng tới sức khoẻ và việc duy trì nịi</small>
giống của dân tộc. Vì vậy, KHTPL là một trong những vấn đề đang được
<small>Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay.</small>
Bên cạnh những biện pháp nhằm giáo dục ý thức pháp luật trong dân cư nhằm hạn chế các trường hợp KHTPL, hiện nay hệ thống pháp luật về hơn nhân và gia đình cũng đã quy định về vấn đề này một cách cụ thể và nghiêm khắc bằng chế tài huỷ việc KHTPL. Là chế tài của Luật HN&GD nên hậu quả của huỷ việc kết hôn trái pháp luật là rất nặng nề, ảnh hưởng tới cuộc sống của các bên chủ thể, tới quyền lợi của con cái họ, quyền lợi của người liên quan và ảnh hưởng tới trật tự xã hội. Do đó, nghiên cứu về vấn đề KHTPL và hủy KHTPL trong Luật HN&GD là vô cùng cần thiết dé áp dụng vào thực tế đúng và linh hoạt khi xử lý các trường hợp này. Có như vậy ý nghĩa của chế tài mới được phát huy, bảo vệ được qun, lợi ích hợp pháp của cơng dân, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Trên cơ sở đó đề xuất những luận cứ cho việc hoàn thiện pháp luật về xử lý các trường hợp KHTPL. Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Hủy kết hơn trái pháp luật tại Tịa án nhân dân huyện Điện
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">2. Tình hình nghiên cứu đề tài
KHTPL là van đề được quan tâm trong thực tiễn cuộc sống và trong hệ thống pháp luật. Bởi ngoài việc xử lý kịp thời các hành vi vi phạm thì đây cịn là biện pháp răn đe, giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của mọi
<small>cơng dân, bảo đảm tính hiệu quả của pháp luật. Do vậy, trong thời gian qua</small>
cũng đã có một số cơng trình nghiên cứu về vẫn đề này. Đã có một số bài viết mang tính chất nghiên cứu một số nội dung của van đề huỷ việc KHTPL được
<small>đăng tải trên tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Ví dụ như</small>
“Bàn về huỷ kết hôn trái pháp luật” của tác giả Thái Công Khanh trên Tap chí Toa án nhân dân số 4, tháng 2/2007; “Tham quyền giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hơn trái pháp luật thuộc Tồ án nào?” của tác giả Nguyễn Thi Hương trên Tạp chí Tồ án nhân dân số 20 tháng 10/2009... Trong đó có cả một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ luật học nghiên cứu liên quan. Có thé ké ra một số cơng trình nghiên cứu chủ yếu như: #y kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp của
<small>Phạm Thị Thu, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2002. Khóa luận này trình</small>
bày vấn đề mang tính chất khái quát về hủy việc kết hôn trái pháp luật mà khơng đi phân tích van dé thực tiễn. Hay như: Một số vấn dé lý luận và thực tiễn về kết hơn trái pháp luật trong tình hình xã hội hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2012 của Nguyễn Huyền Trang. Ở luận văn này, tác giả đánh giá thực trạng của việc kết hôn trái pháp luật nhưng chỉ đề cập về vấn đề hủy việc kết hơn trái pháp luật. Cơng trình, “Chế định kết hơn trong Luật hơn nhân và gia đình - Vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án Tiến sĩ luật học tai trường Đại học Luật Hà Nội năm 2015 của tác giả Bùi Thị Mừng đã phân tích những khía cạnh có liên quan đến hủy kết
<small>hơn trái pháp luật.</small>
Tuy nhiên, chỉ Luận án Tiến sĩ luật học “Ché định kết hơn trong Luật hơn nhân và gia đình - Van dé ly luận và thực tiễn ” của tác giả Bùi Thi Mừng
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">KHTPL theo Luật HN&GD năm 2014 đã có những điểm khác biệt, có ý nghĩa thực tiễn và lý luận sâu sắc. Do đó, luận văn này nghiên cứu vấn đề hủy KHTPL theo Luật HN&GD năm 2014 là một đề tài hồn tồn mới, khơng có sự trùng lặp với các cơng trình nghiên cứu trước đấy, đặc biệt là đề tài này được tiếp cận khơng chỉ từ góc độ lý luận mà còn được nghiên cứu gắn với thực tiễn xử lý việc KHTPL tại TAND huyện Điện Biên Đơng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
* Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về KHTPL, các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc xử lý KHTPL và <small>thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp,</small> kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết các trường hợp
* Nhiệm vu: Dé đạt được mục dich nghiên cứu trên, luận văn cần phải giải quyết được những nhiệm vụ cụ thê sau:
- Nghiên cứu một số van dé lý luận về KHTPL và hủy việc KHTPL. - Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về hủy việc KHTPL, đồng thời có sự so sánh với các quy định của pháp luật trước đây về vấn đề này.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá việc giải quyết hủy KHTPL tại TAND huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên qua các vụ việc cụ thể trong thực tiễn.
- Kiến nghị và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc xử hủy KHTPL trong đời sông đồng bao dân tộc các vùng miền núi nói riêng và thực tiễn cuộc sống nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Cơ sở lý luận về hủy việc KHTPL, các quy định về hủy KHTPL theo pháp luật Việt Nam hiện hành; thực trạng KHTPL và việc áp dụng pháp luật giải quyết hủy việc KHTPL qua các vụ
<small>việc cụ thê tại Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><small>KHTPL trong Luật HN&GD năm 2014 cũng như xem xét thực trạng áp dụng</small>
chế tài hủy việc KHTPL tại Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông, tỉnh <small>Điện Biên trong thực tiễn xét xử.</small>
<small>Hủy việc KHTPL được nghiên cứu theo Luật HN&GD năm 2014, có sựso sánh với Luật HN&GD năm 2000. Tuy nhiên, do Luật HN&GD năm 2014</small>
mới có hiệu lực, thực tiễn xét xử chưa có nhiều nên phần thực tiễn áp dụng còn
<small>được nghiên cứu trên cơ sở các vụ việc theo Luật HN&GD năm 2000.</small>
Hủy việc KHTPL được giải quyết theo trình tự, thủ tục TTDS nên việc nghiên cứu vấn đề này theo quy định của pháp luật TTDS và các quy định của
<small>BLTTDS năm 2005, BLTTDS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/7/2016.</small>
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài là phương pháp biện chứng duy vật và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời,
<small>tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như phương pháp</small>
phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp lịch sử để đánh giá vấn đề một cách khách quan, toàn diện nhất.
6. Những điểm mới của luận văn
So với những cơng trình nghiên cứu về hủy việc KHTPL trước đây, luận văn có những điểm mới như sau:
- Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các trường hợp KHTPL; làm rõ những điểm bat cập, chưa phù hợp của các quy định này; phân tích thực trạng và nguyên nhân dẫn đến
<small>các trường hợp KHTPL tại huyện Điện Biên Đông trong giai đoạn hiện nay.</small>
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng KHTPL và việc áp dụng chế tài hủy KHTPL, tác giả mong muốn đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm hồn thiện pháp luật và tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn giải quyết, xét xử các trường hợp KHTPL tại TAND huyện Điện
<small>Biên Đông, tỉnh Điện Biên nói riêng và cả nước nói chung.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><small>đặc thù.</small>
- Là cơng trình kết hợp nghiên cứu giữa lý luận và thực tiễn theo Luật
<small>HN&GD năm 2014 với những quy định mới so với các Luật HN&GD trước đây.</small>
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Với tư cách là một cơng trình khoa học ứng dụng, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ mang lại những đóng góp về mặt khoa học và ứng dụng vào thực <small>tiễn xét xử của TAND huyện Điện Biên Đơng nói riêng và các Tịa án trong</small> cả nước nói chung về việc xử lý các trường hợp KHTPL.
* Ý nghĩa khoa học
Gop phan hoàn thiện cơ sở lý luận về KHTPL và hủy việc KHTPL. Góp phần hệ thống hóa những quy định của pháp luật hiện hành quy định về hủy việc KHTPL; phân tích và chỉ ra những điểm bất cập của các quy định này trong thực tiễn xét xử.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng hủy việc KHTPL tại TAND huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên nhăm đánh gia đúng tình hình thực tế các quan hệ
<small>Hơn nhân và gia đình giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, qua nghiên cứu thực trạng</small>
giải quyết các vụ việc hủy KHTPL giúp đánh giá một cách đúng đắn về nguyên nhân dẫn đến thực trạng nói trên và những khó khăn, vướng mắc của Tịa án trong q trình giải quyết, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và và tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn xét xử
<small>hủy việc KHTPL tại Tòa án hiện nay.</small>
- Trang bị kiến thức và nâng cao hiểu biết trong lĩnh vực HN&GD nói chung và việc áp dụng chế tài hủy việc KHTPL nói riêng trong giai đoạn hiện <small>nay.</small>
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
<small>của luận văn gôm 3 chương:</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Chương 3: Thực tiễn hủy việc kết hơn trái pháp luật tại Tịa án nhân dân huyện Điện Biên Đông, một số vướng mắc, bất cập và phương hướng
<small>hoàn thiện</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">1.1. Khái quát chung về kết hôn trái pháp luật 1.1.1. Khái niệm kết hơn
Hơn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế bào của xã hội. Vì vậy, Nhà nước ta luôn quan tâm củng cố chế độ hôn nhân và dé ra những biện pháp nhằm lăm ổn định quan hệ này. Gia đình ra đời, tồn tại và phát triển trước hết nhờ Nhà nước thừa nhận hôn nhân của đôi nam nữ, đồng thời quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ trong quan hệ vợ chồng. Hôn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa một người nam và một người nữ, sự liên kết đó phải được Nhà nước cơng nhận bằng sự phê chuẩn dưới hình thức pháp lý là đăng ký kết hơn. Vì vậy, khoản 5 Điều 3 Luật HN&GD năm 2014 quy định: “Kế hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của <small>gol ^ bá , 7A L4</small>
<small>. Trên cơ sở đó, việc kêt</small>
Luật này về diéu kiện kết hôn và đăng ký kết hôn hôn phải đảm bảo các yếu tô sau:
Thứ nhất, việc kết hôn phải thé hiện ý chí tự nguyện của nam, nữ muốn kết hôn. Dé đảm bảo nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GD là xây dựng gia đình no 4m, bình đăng, hạnh phúc, tiễn bộ thì việc kết hơn của hai bên kết hôn phải thể hiện sự thống nhất, tự nguyện về mặt ý chí và phù hợp với tình cảm của bản thân. Hay nói cách khác, họ phải thật sự mong muốn được chung sống với nhau và xây dựng gia đình mà khơng có bất cứ sự cưỡng ép, lừa dối nào.
Thứ hai, việc kết hôn phải tuân theo những điều kiện và thủ tục theo quy định của pháp luật. Việc kết hôn phải tuân thủ các quy định của pháp luật HN&GĐ về điều kiện kết hôn, thủ tục đăng ký kết hôn. Sở di đây là một trong hai yếu tố không thẻ thiếu bởi vì thơng qua việc đăng ký kết hơn, Nhà nước có thé quan lý một cách thống nhất quan hệ hôn nhân phát sinh giữa vợ và chồng.
Như vậy, với việc định nghĩa một cách rõ ràng cụ thể khái niệm kết hôn tại khoản 5 Điều 3 của Luật HN&GD năm 2014 đã góp phan đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật một cách thống nhất.
<small>' Quốc hội nước CHXHCNVN (2014), Luật Hôn nhân và gia đình</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">nước có thâm qun.
1.1.2. Khái niệm kết hôn trái pháp luật
Từ khái niệm kết hôn có thé thấy khi việc kết hơn của hai bên nam và nữ tuân thủ các điều kiện theo pháp luật quy định và thực hiện đúng về thâm quyên, thủ tục đăng ký kết hơn thì việc kết hơn đó là hợp pháp. Các trường hợp kết hơn mà các bên nam, nữ không thỏa mãn điều kiện kết hơn nhưng vẫn đăng ký kết hơn thì bị coi là KHTPL. Khoản 6 Điều 3 Luật HN&GD năm 2014 quy định: “Kế hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng kỷ kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyên nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Diéu 8 của Luật này”. Như vay, chỉ coi là KHTPL khi mang hai dấu hiệu cần và đủ, đó là vi phạm một trong các điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 8 và các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 Luật HN&GD năm 2014 và có đăng ký kết hơn. Dấu hiệu có đăng ký kết hơn là để phân biệt với trường hợp hai bên nam, nữ chung sống như vợ chồng dù có tuân thủ các điều kiện kết hơn hay khơng nhưng khơng đăng ký kết hơn thì
<small>cũng không coi là KHTPL.</small>
Quyền kết hôn là quyền của mỗi con người, nhưng khi kết hơn thì họ phải tn thủ các điều kiện mà pháp luật quy định. Nếu vi phạm thì việc kết hơn đó là trái pháp luật. Việc KHTPL gây ảnh hưởng tiêu cực tới sự ôn định
<small>của xã hội, tới sự quản lý của Nhà nước. Từ góc độ pháp lý, KHTPL ảnh</small>
hưởng trực tiếp tới quyền lợi chính đáng của cơng dân, ảnh hưởng tới nhân quyên, tới sự nghiêm minh của pháp luật. Về mặt xã hội, một gia đình cần
<small>được xây dựng từ những “viên gạch” của sự tự nguyện, của tình yêu thương</small>
của hai bên nam nữ, của sự bảo đảm về thể lực và trí lực, của các giá trị đạo đức xã hội, phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Có thể thấy, KHTPL là việc kết hơn tuy có đăng ký kết hơn nhưng một
<small>hoặc cả hai bên kêt hơn có sự vi phạm quy định vê điêu kiện kêt hôn, xâm</small>
<small>? Quốc hội nước CHXHCNVN (2014), Luật Hơn nhân và gia đình</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể ảnh hưởng tiêu cực tới sự ồn định và bền vững của gia đình, đến truyền thống đạo đức, phong tục, văn
<small>hoá của dân tộc, xâm phạm trật tự kỷ cương của Nhà nước và pháp luật.</small>
1.2. Khái quát chung về hủy việc kết hôn trái pháp luật 1.2.1. Khái niệm hủy việc kết hôn trái pháp luật
Xuất phát từ ảnh hưởng tiêu cực về nhiều mặt của việc KHTPL, yêu cầu ngăn chặn, xử lý và hạn chế KHTPL là hết sức cần thiết và có ý nghĩa to lớn. Pháp luật quy định các biện pháp xử lý KHTPL gồm: Huỷ việc KHTPL hoặc xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, chủ thé thực hiện mà áp dụng các
<small>biện pháp khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ đi sâunghiên cứu huỷ việc KHTPL theo Luật HN&GD năm 2014.</small>
Theo Từ điển Tiếng Việt, “huỷ có nghĩa là làm cho khơng cịn tơn tại hoặc khơng có giá trị nữa” *. Có thể hiểu huỷ việc KHTPL là biện pháp làm cho việc KHTPL không con tồn tại hoặc làm cho việc KHTPL khơng có giá
<small>trị nữa. Luật HN&GD năm 2014 khơng có quy định nào giải thích cụm từ</small>
“hủy việc kết hơn trái pháp luật”. Tuy nhiên, theo Từ điền giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội đã có sự giải thích khá đầy đủ: “Huy việc KHTPL được hiểu là biện pháp chế tài của Luật HN&GD đối với trường hợp nam, nữ kết hôn nhưng không tuân thủ đầy đủ các điều kiện được Luật HN&GD quy định” *. Từ cách giải thích trên ta có thé hiểu hủy việc
<small>KHTPL như sau:</small>
Hủy việc KHTPL là việc Tòa án theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tơ chức có thầm quyền tác động tới việc KHTPL làm cho quan hệ đó khơng cịn tồn tại hoặc khơng có giá trị pháp lý nữa. Đây là sự thể hiện thái độ không thừa nhận của Nhà nước đối với việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng nhưng không tuân thủ các quy định về điều kiện kết hôn, điều kiện công nhận quan hệ hôn nhân. Là biện pháp chế tài nên các bên phải gánh chịu những hậu
<small>3 Trung tâm Từ điền học (2003), Tir điển Tiếng Việt, Nxb Da Nẵng</small>
<small>k Trường Dai học Luật Hà Nội (1999), Tir điên giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">quả pháp lý bat lợi từ hành vi vi phạm pháp luật đó, giữa các bên không phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng.
Như vậy, hủy việc KHTPL là biện pháp chế tài của Luật HN&GD, áp dụng cho các chủ thê có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm một trong các điều kiện kết hôn được pháp luật quy định, thé hiện thái độ phủ nhận của Nhà nước đối với quan hệ đó, các bên trong quan hệ khơng phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.
1.2.2. Bản chất pháp lý của hủy việc kết hôn trái pháp luật
Hủy KHTPL là một chế tài của pháp luật. Trong bất cứ xã hội nào, dưới chế độ nào thì giai cấp thống trị cũng có cách thức xử lý, giải quyết các trường hợp KHTPL băng cách hủy bỏ, tiêu hủy hoặc không công nhận quan hệ vợ chồng giữa các bên KHTPL hoặc bắt phải ly dị.
- Mục đích hủy KHTPL: Do việc KHTPL là sự vi phạm một trong các điều kiện kết hôn nên gây ra những ảnh hưởng xấu, tiêu cực cho gia đình, xã hội cần bị xử lý nghiêm minh. Thiết lập trật tự kỷ cương của gia đình, xã hội, bảo đảm chất lượng nòi giống, phù hợp với đạo đức.
- Hủy KHTPL là chế tài pháp luật, thể hiện ở khía cạnh sau:
<small>+ Việc xử lý hủy KHTPL không phụ thuộc vào ý chí của các bên đương sựmà chỉ phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Ví dụ như: Giữa hai bên nam, nữ có</small>
quan hệ huyết thống kết hơn với nhau và khi có u cầu hủy KHTPL thì Tịa án sẽ quyết định hủy mà khơng có ngoại lệ.
+ Có tính chất cưỡng chế: Buộc các bên phải tn thủ, nếu vi phạm sẽ bị xử lý với mức hình phạt cao hơn. Vì hệ quả của việc kết hơn này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nịi giống, truyền thống đạo đức, trật tự gia đình.
+ Buộc các bên phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi, không mong muốn như buộc các bên phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng, nếu vi phạm có thê sẽ bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự.
- Về ngun tắc khơng thừa nhận quan hệ hôn nhân phát sinh giữa các bên nam, nữ trong kết hôn trái pháp luật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">- Tuy nhiên, khi áp dụng chế tài này có sự linh hoạt nhất định vì hủy việc KHTPL ảnh hưởng trực tiếp đến quyên, lợi ich của các bên nam, nữ và con
<small>cái của họ.</small>
1.3. Sự cần thiết phải hủy việc kết hôn trái pháp luật
Việc KHTPL ảnh hưởng rất lớn đến các mối quan hệ xã hội cũng như những quyền và lợi ích cơ bản của cơng dân. Do đó việc xử lý KHTPL là hết sức cần thiết, mang lại ý nghĩa to lớn. Bằng các chế tài của pháp luật, việc xử lý KHTPL đã góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân, các chủ thé bị hành vi KHTPL này xâm hại. Bảo vệ những quyền lợi ích của những chủ thể đặc biệt trong xã hội như phụ nữ và trẻ em, xử lý nghiêm minh đối với những hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe cũng như nhân thân của những đối tượng này. Mang lại quyền bình dang, quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể chính là ý nghĩa lớn nhất của chế tài hủy KHTPL.
- Hủy KHTPL là một biện pháp chế tài nhằm buộc các bên kết hôn cũng như tất cả mọi người tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn, nhằm bảo đảm việc kết hôn phù hợp với mục đích xây dựng gia đình: Đảm bảo sự lành mạnh của thế hệ con cái, hạnh phúc, bền vững của gia đình.
- Xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm điều kiện kết hôn. Tùy vào mức độ vi phạm, hậu quả của hành vi vi phạm mà pháp luật cịn xem xét dé xử lý về mặt hình sự đối với những hành vi phạm tội được quy định trong BLHS.
- Đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên nam, nữ và con cái trong quan
<small>hệ hôn nhân hợp pháp.</small>
- Đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Quan hệ hơn nhân và gia đình có tính chất đặc thù. Trong đó, các chủ thể được gắn kết với nhau bởi quan hệ tình cảm thân thuộc. Vi vậy, pháp luật HN&GD quy định chặt chẽ về van dé này, việc xác lập quan hệ hôn nhân phải tuân thủ các điều kiện kết hôn. Nếu vi phạm một trong các điều kiện kết hơn thì quan hệ đó khơng được Nhà nước thừa nhận là quan hệ vợ chồng, buộc áp dụng các chế tài xử lý nhằm đảm bảo xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa bình đăng, hạnh phúc và tiến bộ.
Khơng chỉ bảo vệ quyền va lợi ích hợp pháp của các cá nhân trong xã
<small>hội, việc xử lý các hành vi vi phạm nay còn giúp các cơ quan nha nước thuận</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">tiện trong quá trình quản lý cũng như giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng quan hệ hơn nhân và gia đình
<small>là những quan hệ vô cùng nhạy cảm nên việc xử lý các trường hợp KHTPL</small>
không chỉ đơn thuần là việc dùng sức mạnh của pháp luật dé xử lý những vi phạm mà hơn thế những chế tài đó cịn phải thật phù hợp với thực tế cuộc sông, hướng tới mục tiêu quan trọng nhất là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Pháp luật luôn đi đôi với pháp chế, đòi hỏi sự tuân thủ tuyệt đối của tất cả các chủ thể trong xã hội, nhưng áp dụng pháp luật để xử lý những vi phạm trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình thì lại phải hết sức mềm
<small>dẻo, linh hoạt, không chỉ dựa trên quy định của pháp luật mà còn phải căn cứ</small>
vào thực tế các quan hệ hôn nhân cụ thể. Mục đích và ý nghĩa của việc xử lý kết hơn trái pháp luật chi thực sự đạt được khi dung hòa được hai van dé này, đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, góp phần vào việc tạo ra những gia đình 6n định, hạnh phúc được xây dựng trên cơ sở tình yêu giữa vợ và chồng,
<small>tình yêu thương giữa cha mẹ và con cái.</small>
1.4. Khái quát sự điều chỉnh về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam
1.4.1. Pháp luật phong kiến về xử lý kết hôn trái pháp luật
Nhà nước Việt Nam thời kỳ phong kiến với chế độ quân chủ, mọi quyền lực tập trung vào tay Vua, pháp luật ban hành là dé bảo vệ vị trí đặc quyền của vua và các tầng lớp quan lại, gia trưởng. Các đạo luật đều do vua ban hành. Di sản pháp luật thời kỳ này khơng cịn được lưu giữ nhiều, tiêu biểu cho pháp luật thời kỳ nà là hai bộ luật Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật) dưới triều Lê (1428 - 1788) và Bộ luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ) năm 1815 dưới thời Nguyễn. Đây là hai bộ luật chính thống và quan trong nhất của triều Lê và triều Nguyễn, ban hành nhằm điều chỉnh những mối quan hệ hình sự và dân sự phát sinh trong đời sống xã hội phong kiến.
Theo quy định tại hai bộ luật này thì về nguyên tắc, giấy chứng nhận kết hôn được coi là một văn bằng pháp lý đặc biệt quan trọng làm gắn bó vợ chồng trong các quyền và nghĩa vụ nhất định. Nếu việc ký kết văn bang đó đã
<small>phạm vào các điêu câm của luật thì nó sẽ bị coi là vơ hiệu và có thê bị tiêu</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">huỷ. Vì vậy, khi xác lập quan hệ hôn nhân, nếu các bên vi phạm vào các điều kiện về cắm kết hơn thì dù có giấy chứng nhận do cơ quan có thâm quyền cấp
<small>thì hơn nhân đó cũng bi coi là trái pháp luật va sẽ bị tiêu huỷ. Pháp luật thời</small>
kỳ này đã quy định các trường hợp cắm kết hơn, đó là:
- Cam kết hơn khi đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng (Điều 317 Bộ luật Hồng Đức);
- Cam kết hôn khi cha mẹ bị giam cằm tù tội (Điều 99 Luật Gia Long); - Cam kết hôn giữa những người thân thích (Điều 319 Luật Hồng Đức); - Cấm quan lại không được lay con hát làm vợ (Điều 323 Bộ luật Hồng Đức); - Cấm học trò lấy vo của thầy học đã chết, anh, em lay vo cua em, anh da chết (Điều 324 Bộ luật Hồng Đức);
- Cam quan lại ở biên tran kết thông gia với tù trưởng vùng đó (Điều 33 Bộ luật Hồng Đức);
- Cam quan ty lay con gái trong hạt mình (Điều 316 Bộ luật Hồng Đức). Trong cả hai bộ luật đều có quy định về các trường hợp tiêu hơn. Tiêu hôn là biện pháp xử lý trường hợp vi phạm các điều kiện về cắm kết hôn. Ca hai bộ luật trên đều có những điều kiện nhằm giới hạn những trường hợp có thê tiêu hủy hơn nhân. Có sự phân biệt trường hợp vi phạm điều kiện thường và trường hợp vi phạm các điều kiện thiết yếu để có những biện pháp xử lý tương ứng. Đối với trường hợp vi phạm điều kiện thiết yếu thì pháp luật khơng cơng nhận tính hợp pháp và bị tiêu hủy. Còn đối với trường hợp vi phạm điều kiện thường thì có thê chỉ bị phạt mà hơn nhân vẫn ton tai, khơng bị tiêu hủy. Ví dụ, Điều 316 Bộ luật Hồng Đức quy định: Đối với những trường hợp khi các bên kết hôn đã vi phạm nghiêm trọng các điều kiện cắm kết hôn, tức là đã vi phạm vào các điều kiện thiết yếu thì pháp luật khơng cơng nhận tính hợp pháp của việc kết hơn đó và cần phải tiêu hủy. Điều 317 và Điều 323 Bộ luật Hồng Đức quy định: các bên sẽ phải chia lìa hoặc phải ly di khi vi phạm vào các điều kiện quan trọng của việc xác lập hôn nhân. Theo
<small>quy định của hai bộ luật này, việc tiêu hủy chỉ có hiệu lực trong tương lai mà</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">khơng có giá trị trở về trước, tức là ké từ thời điểm kết hơn đến khi bị tiêu hủy thì hơn nhân vẫn được coi là có giá trị pháp lý. Đây là điểm khác với pháp
<small>luật hiện hành, pháp luật hiện hành không thừa nhận quan hệ hôn nhân phát</small>
sinh giữa các bên nam, nữ trong kết hôn trái pháp luật. Hậu quả pháp lý của
<small>việc tiêu hôn là các bên phải chia lìa hoặc ly dị, tức là hậu quả pháp lý của</small>
việc tiêu hôn được giải quyết như trường hợp ly hơn.
Như vậy, có thé thay trong cổ luật kết hôn bị coi là vô hiệu khi vi phạm một trong các điều kiện cấm kết hôn. Tuy nhiên, không phải tat cả các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn đều bị tiêu hủy. Chỉ những trường hợp vi phạm nghiêm trọng các điều kiện kết hôn mới bị tiêu hủy, còn những trường hợp vi phạm những điều kiện thường thì khơng bị tiêu hủy mà đương sự có thể phải chịu những hình phạt nhất định. Hậu quả của việc tiêu hủy hôn nhân là buộc các bên phải chấm dứt quan hệ chung sống như vợ chồng. Hai bộ luật này thể hiện sự tiễn bộ trong việc bảo vệ quyền lợi của gia đình và sự ơn định của xã hội, thể hiện những nét đặc thù mang đậm phong tục, tập quán của người Việt Nam. Pháp luật hiện hành cũng là sự kế thừa có chặt lọc những tinh hoa đó.
<small>1.4.2. Pháp luật thời kỳ Pháp thuộc</small>
Sau khi biến Việt Nam thành một nước thuộc địa, thực dân Pháp đã chia nước ta thành ba miền: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Cùng với những thay đổi về mặt hành chính, chúng cũng lần lượt ban hành những văn bản pháp luật
<small>mới trong đó có quan hệ Hơn nhân và gia đình dựa trên cơ sở của Bộ luật Dânsự Napoleon 1804.</small>
Trong giai đoạn nay có ba bộ luật được ban hành ở ba miền: Bộ dân luật giản yêu Nam kỳ năm 1883, Bộ dân luật Bắc kỳ ngày 30/3/1931 và Bộ Hoàng
<small>Việt Trung kỳ hộ luật năm 1936.</small>
Trong đó đáng chú ý nhất là Bộ dân luật Bắc kỳ vì đây là bộ luật đã phản ánh trung thực các phong tục tập quán điều chỉnh quan hệ Hơn nhân và gia đình của người Việt, đặc biệt là trong đó có các quy định về việc hủy việc kết
<small>hôn trái pháp luật (tiêu hôn). Trong các văn bản quy phạm pháp luật này quy</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">định việc kết hôn sẽ bị vô hiệu nếu vi phạm một trong các quy định cấm kết
<small>hôn sau đây:</small>
Thứ nhất, kết hơn giữa những người thân thích về trực hệ và một số người thuộc bàng hệ (Điều 74 Bộ dân luật Bắc kỳ và Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật). Ngoài ra Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật cịn quy định cắm kết hơn giữa chồng với con gái riêng của vợ hoặc vợ góa với con trai riêng của chồng (Điều 74).
Thứ hai, pháp luật quy định cắm lay vợ thứ nếu chưa lấy vợ chính (Điều 81 Bộ dân luật Bắc kỳ và Điều 79 Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật).
Thứ ba, Bộ dân luật Bắc kỳ và Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật quy định cam kết hôn khi một trong hai bên kết hơn đang có tang cha hoặc tang me (thời kỳ chịu tang là 27 tháng); nếu lễ kết hơn đã làm trước khi phát tang hay cịn gọi là cưới chạy tang thì việc kết hơn có giá tri. Nếu vợ chính chết trước thì chồng chi được lay vợ khác khi đã hết tang vợ chính (thời hạn là 1 năm); người vợ phải chịu tang chồng 27 tháng rồi mới được tái giá; phụ nữ đã ly dị chồng chi được cải giá sau thời hạn 10 tháng ké từ thời điểm ly di chồng (Điều 84 Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật và Bộ dân luật Bắc kỳ).
Mặt khác, việc kết hôn phải đảm bảo được sự tự nguyện của hai bên nam nữ kết hôn (Điều 76, Điều 77, Điều 78 Bộ dân luật Bắc kỳ) đồng thời phải đảm bảo được sự đồng ý của cha mẹ.
Nếu việc kết hôn mà do một bên bị nhằm lẫn hoặc bị cưỡng ép thì có thê
<small>xin Tịa án cho tiêu hơn.</small>
Về hậu quả pháp lý của việc tiêu hơn, sau khi Tịa án ra quyết định tiêu hơn thì tài sản của vợ chồng được thanh tốn như khi vợ chồng ly hơn. Nghĩa là, nếu khi tiêu hơn mà các bên có con chung thì tài sản được chia theo quy định trong hơn ước. Nếu khơng có hơn ước thì tài sản được thanh toán theo thể thức giao trả cho vợ kỷ phần của vợ bằng hiện vật, nếu tài sản riêng của vợ đã bị bán đi để chi dùng cho gia đình hoặc cho riêng người chồng thì người vợ cũng khơng có quyền địi lại nữa. Số tài sản chung còn lại được chia đều cho vợ chồng. Trong trường hợp khi tiêu hơn các bên có con chung thì quy định khơng thanh tốn tài sản. Người vợ được hưởng một phần khối tài
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">sản chung phụ thuộc vào cơng sức đóng góp của vợ để tăng khối tài sản chung đó và do Tịa án quyết định. Người vợ có quyền được lấy tư trang, phục sức của mình. Đối với quan hệ giữa cha mẹ và con cái, con sinh ra trong cuộc hơn nhân đó vẫn là con chính thức, các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đối với con cũng được áp dụng tương tự như khi cha mẹ ly hôn. Việc tiêu hôn phải được hộ lại ghi vào số giấy tờ và hộ tịch (Điều 89 và Điều 90 Bộ dân luật Bắc kỳ và Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật).
Như vậy, pháp luật thời kỳ này đã có sự tiến bộ rõ nét trong việc quy định về vấn đề hủy việc KHTPL so với hệ thống pháp luật phong kiến đã tồn tại trước đó. Về vẫn đề tiêu hơn đã quy định một cách cụ thể và rõ ràng hơn trong Bộ dân luật Bac kỳ và Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật. Trong đó, các van dé như những trường hop nao thì xử lý tiêu hơn, cơ quan có thẩm quyền giải quyết, người có quyền u cầu xin Tịa án tiêu hôn cũng như hậu quả pháp lý của việc tiêu hôn đã được điều chỉnh cụ thẻ.
1.4.3. Pháp luật Việt Nam từ cách mạng tháng Tám đến nay
Cách mang tháng 8 năm 1945 thành công đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ độc lập đầu tiên của nước ta. Ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 90/SL
<small>cho phép vận dụng những quy định trong pháp luật cũ có chọn lọc quy lệ và</small>
chế định trong các bộ dân luật cũ, theo nguyên tắc khơng trái với lợi ích của
<small>Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa và lợi ích của nhân dân lao động.</small>
Năm 1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam ban hành, đánh dau một bước ngoặt mới trong lịch sử lập pháp của nước ta. Năm 1950 Nha nước ta đã ban hành hai Sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, đó là Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật và Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn. Tuy nhiên, cả hai Sắc lệnh này đều khơng có quy định về hủy
<small>việc việc KHTPL.</small>
Từ năm 1954, sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi,
<small>dat nước tam chia cat thành hai miên với hai chê độ chính trị khác biệt. Miễn</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Bắc được giải phóng bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, dau tranh thống nhất đất nước.
* O mién Nam: Từ năm 1954 đến năm 1975 dưới chế độ Ngụy quyền Sài Gòn (Việt Nam Cộng hòa) ban hành một hệ thống pháp luật riêng. Quan hệ hôn nhân và gia đình được điều chỉnh trong ba văn bản pháp luật là:
- Luật Gia đình ngày 02/1/1959 của chế độ Ngơ Đình Diệm.
- Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng. - Bộ dân luật ngày 20/12/1972 của chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
Trong thời kỳ này việc kết hôn của hai bên nam, nữ phải tuân theo các quy định về điều kiện kết hôn và cắm kết hôn nếu một trong hai bên vi phạm thì hơn thú sẽ vơ hiệu và sẽ bi tiêu hủy. Hôn thú vô hiệu khi vi phạm độ tuổi; sự tự nguyện của các bên kết hơn, khơng có sự ưng thuận của cha mẹ, ơng bà, người giám hộ; vi phạm điều cắm kết hôn; vi phạm hình thức kết hơn: Hơn lễ cử hành không công khai, với điều kiện cử hành hôn lễ trái phép có tính cách gian lận. Khi hơn thú vơ hiệu thì vợ chồng, cha, mẹ, ơng bà, người giám hộ, cơng tố viên có quyền u cầu tiêu hôn. Hôn thú sẽ không bị tiêu hủy đối với trường hợp người kết hôn lập hôn thú đã đến tuổi trưởng thành, hoặc nếu
<small>người đàn bà đã thụ thai hoặc có con hoặc trường hợp hơn thú đã được thừa</small>
nhận một cách công nhiên hoặc mặc nhiên hoặc biết việc lập hôn thú mà dé yên một năm không khiếu nại.
<small>- Hậu quả pháp lý của việc tiêu hủy hôn thú, tại Bộ dân luật năm 1972quy định:</small>
+ Mặc dù hơn thú bị tiêu hủy thì các con nếu có vẫn được coi là con
<small>chính thức.</small>
+ Về quan hệ vợ chồng, pháp luật vẫn thừa nhận quan hệ vợ chồng từ khi kết hôn đến khi bị tuyên hủy, sự tiêu hủy khơng có hiệu lực hồi tố đối với vợ chồng.
<small>+ Về quan hệ tài sản, giải quyết như đối với trường hợp ly hơn, sự thanh</small>
<small>tốn tài sản sau khi tiêu hôn sẽ làm như trong trường hợp ly hơn.</small>
Luật Gia đình năm 1959 quy định hơn thú có thể bị vơ hiệu trong những trường hợp sau: Khi khơng có sự ưng thuận của một hoặc hai bên, nếu một
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">bên đã ưng thuận vi bi nhằm lẫn về người hoặc về căn cước thì bên bị nhằm lẫn có thể kiện xin tiêu hôn”.
Tương tự, trường hợp bị cưỡng bức kết hôn cũng có thể xin tiêu hơn. Nếu người bị nhằm lẫn hoặc bị cưỡng bức cịn vị thành niên thì cha mẹ của người đó có quyền khởi tơ xin tiêu hơn. Quyền kiện xin tiêu hơn chỉ có giá tri trong thời hạn sáu tháng, ké từ ngày phát hiện sự nhằm lẫn, hoặc hết sự cưỡng bức. Hôn thú có thể bị kiện xin xử tiêu hơn vì sự bat lực vĩnh viễn đã có trước khi lập hôn thú của một trong hai bên. Quyền kiện tiêu hơn trong trường hợp này chỉ có giá tri trong thoi han một năm, ké từ khi khám phá ra sự bắt lực. Nếu nam chưa đủ 18 tuổi, nữ chưa đủ 15 tudi đã kết hôn mà không được đặc cách cho miễn ti thì cũng bị xử tiêu hôn. Tuy nhiên, đến thời điểm bị phát giác mà hai bên đã đủ tuổi kết hôn, hoặc người vợ đã thụ thai thì sẽ khơng bị
<small>tiêu hơn. Con sinh trong các cuộc hôn thú bị tuyên là vô hiệu bị coi như conngoại hôn.</small>
* Ở miên Bắc: Từ sau năm 1954 đến trước khi Luật HN&GD năm 2014 có hiệu lực (trước ngày 01/01/2015). Quan hệ hôn nhân và gia đình được điều
<small>chỉnh trong ba văn bản pháp luật là: Luật HN&GD năm 1959, Luật HN&GDnăm 1986 và Luật HN&GD năm 2000.</small>
- Căn cứ xử hủy việc KHTPL là việc vi phạm điều kiện kết hôn được
<small>quy định trong pháp luật, theo các văn bản pháp luật trên thì căn cứ xử hủy</small>
bao gồm:
<small>+ Vi phạm điều kiện độ tuổi: Khi một trong hai bên kết hôn không đủ</small> tuôi theo quy định của pháp luật.
+ Vi phạm sự tự nguyện: Việc kết hôn được xác lập trên cơ sở cưỡng ép, lừa đối, ép buộc.
+ Vị phạm nguyên tắc một vợ, một chồng: Kết hôn khi một bên hoặc cả hai bên đang có vợ, có chồng.
+ Vi phạm phạm vi cam kết hơn:
Giữa những người có họ trong phạm vi ba đời lại kết hôn với nhau: Luật HN&GD năm 1959 quy định: “cam kết hôn giữa anh chị em ruột, anh chị
<small>Ÿ Quốc hội nước CHXHCNVN (1959), Luật Hơn nhân và gia đình</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha. Đối với những người khác có họ trong phạm vi năm đời hoặc có quan hệ thích thuộc về trực hệ, thì việc kết hơn sẽ giải quyết theo phong tục, tập quán” (Điều 9). Luật HN&GD năm 1986 và Luật HN&GD năm 2000 đều quy định cu thể về cắm kết hơn giữa những người có quan hệ thích thuộc về trực hệ, giữa những người có họ trong
<small>phạm vi ba doi.</small>
Những người mắc các bệnh nhất định mà pháp luật không cho kết hôn lại kết hôn với người khác: Luật HN&GD năm 1959 cắm những người bat lực hoàn toàn về sinh lý; mặc một trong các bệnh hủi, hoa liễu, loạn óc, mà chưa chữa khỏi khơng được kết hôn (Điều 10); Luật HN&GD năm 1986 cam kết hôn trong những trường hợp đang mắc bệnh tâm thần khơng có khả năng nhận thức hành vi của mình; đang mắc bệnh hoa liễu (Điều 7); Luật HN&GD năm 2000 cam người mat năng lực hành vi dân sự, người cùng giới tính kết hơn (Điều 10).
- Đường lối xử lý việc KHTPL theo ba văn bản pháp luật trên:
<small>+ Luật HN&GD năm 1959 không quy định biện pháp chế tài đối với</small> những trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn. Theo Thông tư số 112-NCPL ngày 19/8/1972 hướng dan thi hành Luật HN&GD năm 1959 thì đường lối xử lý: Xử tiêu hơn những vi phạm điều kiện kết hôn đang tiếp diễn và tính chất nghiêm trọng như: tảo hơn, đang có vợ, có chồng mà lay vợ hoặc chồng khác, lấy người trong họ hàng mà Luật tuyệt đối cam kết hôn; lấy người đang mắc một bệnh trong những bệnh tật mà Luật cam kết hôn. Với những hôn nhân trước đây vi phạm điều kiện kết hôn nhưng nay đã chấm dứt hoặc vi phạm khơng có tinh chất nghiêm trong và có thé sửa chữa dé dang như: kết hơn khơng đăng ky thì xử lý theo đường lối ly hôn nhăm chiếu cố đến quyền lợi của đương sự nhất là phụ nữ và con cái của họ, cũng như chiếu có đến phong tục tập quán của địa phương.
+ Luật HN&GD năm 1986 và năm 2000: Về nguyên tắc, việc KHTPL sẽ bị Tòa án xử hủy. Tuy nhiên, có xem xét đến hành vi vi phạm điều kiện kết hôn, mức độ vi phạm và hoàn cảnh vi phạm, đánh giá thực chất quan hệ tình
<small>5 Quốc hội nước CHXHCNVN (1959), Luật Hơn nhân và gia đình</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">cảm, thực tế chung sống giữa hai người KHTPL kế từ khi kết hôn cho đến khi
<small>Tịa án xem xét cuộc hơn nhân của họ.</small>
<small>- Hậu quả pháp lý của hủy việc KHTPL theo ba văn bản pháp luật trên:</small>
+ Về quan hệ nhân thân: Luật HN&GD năm 1959 quy định: Về nguyên tắc, khi hơn nhân bị Tịa án tiêu hủy thì có hiệu lực cả trong quá khứ và tương lai, tức là giữa họ không phát sinh quan hệ vợ chồng kể từ khi chung sống với nhau. Khi Tòa án hủy hôn nhân, họ phải chấm dứt quan hệ chung sống bất hợp pháp, mọi quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng không phát sinh. Quan hệ cấp dưỡng giữa hai bên không được đặt ra.
Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên nam, nữ phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng (khoản 1 Điều 17 Luật HNGD năm 2000).
+ Về tài sản được giải quyết theo nguyên tắc: tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người ấy; tài sản chung được chia căn cứ vào cơng sức đóng góp của mỗi bên; qun lợi chính đáng của bên bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn được bảo vệ. Luật HN&GD năm 1959, những khoản chi
<small>tiêu riêng cua ai thì người đó phải trả. Luật HN&GD năm 2000 thì quy định</small>
tài sản chung được chia theo thỏa thuận, nếu khơng thỏa thuận được thì u cầu Tịa án giải quyết, ưu tiên bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
+ Về con cái: Quyền lợi của con được giải quyết như trong trường hop
<small>cha mẹ ly hôn.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><small>CHƯƠNG 2</small>
HUY KET HON TRÁI PHÁP LUẬT THEO QUY ĐỊNH CUA PHAP LUAT HIEN HANH
2.1. Nguyên tắc xử hủy kết hôn trái pháp luật
Mọi trường hợp kết hôn không tuân thủ một trong các điều kiện kết hôn do pháp luật quy định đều bị coi là KHTPL. KHTPL về nguyên tắc phải xử hủy. Tuy nhiên, hủy việc KHTPL không những ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sơng của chủ thé có hành vi KHTPL mà cịn ảnh hưởng tới gia đình, xã hội và
<small>đặc biệt là con cái họ. Vì vậy, khi xử lý các trường hợp này, Tịa án phải cótrách nhiệm làm rõ từng hành vi, chỉ ra từng hoàn cảnh vi phạm, phân tích</small>
mọi chỉ tiết, tính chất, mức độ vi phạm, tìm hiểu sâu sắc tâm lý chủ thể thực hiện hành vi vi phạm, đặc biệt, cần phải xem xét, đánh giá thực tế cuộc sống chung đó. Trên cơ sở đó áp dụng một cách linh hoạt các chế tài tương ứng để CÓ SỰ giải quyết một cách thấu tình đạt lý nhằm đạt được mục tiêu chung.
+ Hồn cảnh kết hơn trái pháp luật. Ví dụ: Trường hợp kết hôn của cán bộ, bộ đội miền Nam có vợ, có chồng ở miền Nam tập kết ra Bắc lại lay vo hoặc chồng khác. Việc cán bộ, bộ đội miền Nam có vợ, có chồng ở miền Nam tập kết ra Bắc lại lay vợ hoặc chồng khác là vi phạm pháp luật nhưng vi phạm pháp luật trong trường hợp này là do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh.
+ Tính chất, mức độ của việc vi phạm điều kiện kết hôn như: Tại thời điểm có u cầu hủy việc KHTPL thì các chủ thé van đang tiếp tục vi phạm các điều kiện kết hôn, điều kiện công nhận quan hệ hôn nhân. Tính nghiêm trọng được thé hiện ở việc KHTPL đã và sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi chính đáng của người kết hôn, ảnh hưởng tới thuần phong mỹ tục của dân tộc, tới trật tự xã hội. Hành vi vi phạm điều kiện kết hôn dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng như ảnh hưởng tới sự lành mạnh của con cái, phá vỡ chế độ hôn nhân một vợ, mộ chồng, vi phạm thuần phong mỹ tục, truyền thống đạo đức.
+ Thực tế quan hệ chung sống của hai bên như trường hợp: Sau khi bị cưỡng ép kết hôn hoặc bị lừa đối kết hôn mà bên bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn đã biết nhưng đã thông cảm, tiếp tục chung sống hịa thuận và đã
<small>có con cái, tài sản chung.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Tòa án căn cứ vào các yếu tố trên dé có thé xử ly một cách đúng dan, khách quan, hợp tình, hợp lý, hạn chế hậu quả xảy ra cho các đương sự.
- Về nguyên tắc, khoản 2 Điều 11 Luật HN&GD năm 2014 quy định một cách khái quat như sau: “7rong rường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cau hủy việc kết hôn trải pháp luật mà cả hai bên kết hơn đã có đủ các điều kiện kết hơn theo quy định tại Diéu 8 của Luật này và hai bên u cẩu
<small>cơng nhận quan hệ hơn nhán thì Tịa án cơng nhận quan hệ hơn nhân đó.</small>
Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật nay” ’.
Theo hướng dẫn tại TTLT số: 01/2016 có thê giải quyết theo hai hướng sau: + Nếu tại thời điểm có yêu cầu giải quyết việc KHTPL các bên vẫn tiếp tục vi phạm điều kiện kết hơn thì xử hủy. Vì hành vi vi phạm vẫn cịn và hậu quả của hành vi đó ảnh hưởng đến mục đích xây dựng gia đình, đến chất lượng nịi giống, trật tự xã hội và gia đình.
+ Nếu các bên đã đáp ứng day đủ các điều kiện kết hơn và có u cầu cơng nhận quan hệ hơn nhân thì khơng hủy KHTPL đó mà có thể công nhận quan hệ hôn nhân hoặc xử cho ly hơn khi có u cầu. Lúc này hành vi vi phạm khơng cịn nữa, hậu quả của hành vi vi phạm cũng đã được khắc phục, giảm thiêu những anh hưởng đến các bên KHTPL và con cái của họ *.
Như vậy, về mặt nguyên tắc xử lý đối với KHTPL là xử hủy nhưng biện pháp xử lý cần rất mềm dẻo, linh hoạt. Khi giải quyết Tòa án áp dụng linh hoạt nhưng vẫn bảo đảm đúng nguyên tắc để giải quyết việc KHTPL được
<small>hiệu quả, đạt được mục tiêu là bảo vệ lợi ích chính đáng của cá nhân, góp</small>
phần xây dựng gia đình văn hóa, tiến bộ và gin giữ sự 6n định xã hội, truyền thống đạo đức...
2.2. Người có quyền u cầu Tịa án hủy việc kết hôn trái pháp luật Dé hạn chế được tình trạng KHTPL đang diễn ra ngày càng gia tăng thì việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm điều kiện kết
<small>7 Quốc hội nước CHXHCNVN (2014), Luật Hôn nhân và gia đình</small>
<small>Š Tịa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ tư pháp (2016), Thơng te liên tịch số:01⁄2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tịa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sátnhân dân toi cao - Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">hơn có ý nghĩa rat quan trọng. Pháp luật quy định cụ thé những chủ thé có quyền u cầu cơ quan Tịa án hủy việc KHTPL. Trong tố tụng dân sự, về nguyên tắc, Tịa án chỉ xem xét giải quyết khi có đơn khởi kiện hoặc yêu cầu của cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức. Trong hủy việc KHTPL, Luật HN&GD năm 2014 quy định các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền u cầu Tịa án hủy KHTPL. Tại Điều 10 Luật HN&GD năm 2014 quy định những người có quyền yêu cầu hủy việc KHTPL như sau: “7. Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về to tụng dân sự, có qun tu mình u cau hoặc dé nghị cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Diéu này u cau Tịa án hủy việc kết hơn trải pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy
định tại điểm b khoản 1 Diéu 8 của Luật này.
2. Cá nhân, cơ quan, tô chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tổ tụng dân sự, có qun u cau Tịa án hủy việc kết hơn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Diéu 8 của Luật này:
a) Vợ, chong của người đang có vợ, có chong mà kết hơn với người
<small>khác, cha, mẹ, con, người giảm hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác</small>
của người kết hôn trái pháp luật;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; c) Cơ quan quan ly nhà nước ve trẻ em;
<small>d) Hội liên hiệp phụ nữ.</small>
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hơn trái pháp luật thì có quyên dé nghị cơ quan, tô chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này u cau Tịa án hủy việc kết hơn trải pháp luật”.
Như vậy, theo điều luật trên chủ thể có quyền yêu cầu hủy việc KHTPL rất rộng, gồm có ba nhóm: Người bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hơn; Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con,
<small>người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người KHTPL;</small>
Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, trẻ em, Hội Liên hiệp phụ nữ.
<small>? Quốc hội nước CHXHCNVN (2014), Luật Hơn nhân và gia đình</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">2.2.1. Người bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn
Người bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn là nạn nhân trực tiếp của việc KHTPL. Vì vậy, Luật HN&GD năm 2014 đã quy định cho họ quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi quyền kết hơn bị xâm phạm thì họ tự bảo vệ mình băng cách trực tiếp u cầu Tịa án hoặc đề nghị cá nhân, tô chức quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật HN&GD năm 2014 yêu cầu Tịa án hủy việc KHTPL đó. Quyền chủ động nay cịn thé hiện tính thực tế va mềm déo của pháp luật. Bởi, chỉ có người bị cưỡng ép, bị lừa đối kết hôn mới ý thức được yêu cầu hủy việc KHTPL đó là cần thiết cho cuộc sống gia đình họ hay khơng. Đặc biệt trong trường hợp cuộc sống chung đã 6n định, hai bên
<small>đã thực sự thơng cảm, u thương nhau, giữa họ đã có con chung, tài sản</small>
chung thì việc yêu cầu hủy việc KHTPL nên dé cho họ tự quyết định.
Người bị cưỡng ép, bị lừa đối có quyền yêu cầu nhưng bản thân người cưỡng ép, người lừa déi thì có quyền u cầu huỷ việc KHTPL của mình hay khơng? Khi họ thực hiện hành vi cưỡng ép, lừa dối người khác kết hơn với mình là để mong muốn đạt được mục đích kết hơn với người đó nhưng trong q trình chung sống gia đình khơng hạnh phúc, khơng được theo ý muốn hoặc với một lý do nào đó, họ muốn huỷ việc KHTPL của chính mình. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì người có hành vi cưỡng ép, lừa dối, ép buộc người khác kết hơn với mình khơng có quyền u cầu hủy việc kết hơn trái pháp luật đó. Theo quan điểm của tác giả thì những người này cũng có quyền u cầu hủy việc KHTPL của chính mình. Vì khi gia đình khơng hạnh phúc, khơng theo như ý muốn thì quyền lợi của chủ thể này cũng không được
<small>đảm bảo.</small>
2.2.2. Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, về trẻ em; Hội liên hiệp
<small>phụ nữ</small>
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 187 BLTTDS năm 2015 quy định: “Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vì nhiệm Vụ, quyền hạn của mình có
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">qun khởi kiện vụ án về hơn nhân va gia đình theo quy định của Luật hơn nhân và gia đình ”'°.
<small>Hiện nay, theo quy định của pháp luật, các cơ quan khác nhau thực hiện</small>
việc quản lý nhà nước đối với từng mảng cơng tác riêng. Cơ quan Văn hóa, Thể thao và Du lịch các cấp thực hiện chức năng quan lý nhà nước về cơng tác gia đình; cơ quan Lao động- Thương binh và Xã hội các cấp quản lý nhà nước về công tác trẻ em.
Hội Liên hiệp Phụ nữ, với chức năng và thẩm quyên theo quy định của pháp luật đã đóng góp tích cực vào việc bảo vệ quyền, lợi ích của phụ nữ, trẻ em nói riêng và của các thành viên trong gia đình nói chung. Xuất phát từ đặc thù của tổ chức, khi tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc KHTPL, Hội Liên hiệp phụ nữ đều có biện pháp tìm hiểu, năm tình hình vụ việc, kiến nghị và phối hợp với các cơ quan có thâm quyền đề thúc đây việc xem xét, giải quyết vụ việc. Đồng thời, Hội có văn bản kiến nghị các cơ quan chức năng nghiên cứu, xem xét giải quyết những van dé liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ theo thâm quyên.
Như vậy, cơ quan Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cơ quan Lao động -Thương binh và Xã hội, Hội liên hiệp phụ nữ theo quy định của pháp luật về TTDS, có quyền u cầu Tịa án hủy việc KHTPL do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này.
2.2.3. Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với
<small>người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp</small>
luật khác của người kết hôn trái pháp luật
Trường hợp KHTPL do vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật HN&GD năm 2014 thi theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 10 của Luật này: Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn
<small>với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp</small>
luật khác của người KHTPL có quyền yêu cầu hủy việc KHTPL đó.
<small>Việc quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý, bởi đó là những người cóquan hệ vợ chong, quan hệ huyệt thơng và có liên quan mật thiệt với các chủ</small>
<small>'° Quốc hội nước CHXHCNVN (2015), Bộ luật Tổ tụng Dân sự</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">thê KHTPL, quyền và lợi ích hợp pháp của họ trực tiếp bị xâm phạm từ việc KHTPL. Do đó, pháp luật quy định họ có quyền u cầu hủy việc kết hơn trái pháp luật. Có một van đề đặt ra, người KHTPL do vi phạm độ tuổi nhưng khi họ chưa đạt tuổi để có đủ điều kiện về năng lực hành vi TTDS thì họ có quyền u cầu hủy việc KHTPL của mình khơng? Người mat NLHVDS tại thời điểm kết hơn nhưng sau đó họ khỏi bệnh thì có quyền yêu cầu hủy việc KHTPL không? Những chủ thé khác như người đang có vợ, có chồng kết hơn với người khác có quyền u cầu hủy KHTPL của chính mình hay khơng thì pháp luật lại khơng có quy định... Như vậy, bản thân người trực tiếp tham gia quan hệ KHTPL thì pháp luật lại khơng quy định cho họ có quyền yêu cầu hủy việc KHTPL dé tự bảo vệ quyên, lợi ich hợp pháp của minh. Vì vậy, pháp luật cần có quy định theo hướng mở rộng phạm vi người có quyền yêu cầu hủy việc KHTPL để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho những chủ thể trực tiếp tham gia quan hệ kết hôn trái pháp luật.
2.2.4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác
Khoản 3 Điều 10 Luật HN&GD năm 2014 quy định: “Cá nhân, cơ quan, tô chức khác khi phát hiện việc kết hơn trái pháp luật thì có quyên dé nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Diéu này u cau Tịa án hủy việc kết hơn trái pháp luật” “1.
<small>Pháp luật chỉ quy định “cha, mẹ, con, người giảm hộ hoặc người đại diện</small>
theo pháp luật khác của người KHTPL” có quyền yêu cầu hủy hủy việc KHTPL. Vậy những người này của vợ hoặc chồng của người KHTPL có quyền u cầu hủy việc KHTPL khơng? Ví dụ: Anh A và chị B là vợ chồng, chị B mắc bệnh tâm thần, anh A kết hôn với chị C. Vậy cha, mẹ chị B có quyền yêu cầu hủy KHTPL giữa anh A và chị C theo quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật HN&GD năm 2014 không? Chị B là nạn nhân của việc KHTPL cần được bảo vệ, đặc biệt chị B đang mắc bệnh tâm thần khơng thể tự mình u cầu Tịa án hủy việc KHTPL giữa anh A và chị C được. Vì vậy, cha, me chị B có quyền đề nghị Tòa án hủy việc KHTPL giữa anh A và chị C dé bảo
<small>vệ quyên lợi của chị B.</small>
<small>!! Quốc hội nước CHXHCNVN (2014), Luật Hơn nhân và gia đình</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Trường hop chi B làm việc trong cơ quan, tơ chức thì cơ quan tổ chức nơi chị B làm việc cũng có quyền dé nghị Tịa án hủy việc KHTPL giữa anh A và chị C dé bảo vệ quyền lợi của chị B.
2.3. Tham quyền và Thủ tục xử hủy kết hôn trái pháp luật
Khỏan 1 Điều 11 Luật HN&GD năm 2014 quy định: “Xử ly việc kết hơn
<small>trái pháp luật được Tịa án thực hiện theo quy định tại Luật này và pháp luật</small>
về t6 tụng dân sự”. Như vậy, thâm quyền huỷ việc KHTPL thuộc về Tồ án và trình tự giải quyết việc dân sự theo quy định của Luật này và BLTTDS năm 2015. Tại Khoản 1 Điều 29 BLTTDS năm 2015 quy định huỷ việc KHTPL là loại việc dân sự thuộc thâm quyền giải quyết của Tòa án. Theo quy định tại điểm b Khoản 2, khoản 4 Điều 35; Điều 37; điểm g Khoản 2 Điều 39; điểm b Khoản 2 Điều 40 BLTTDS năm 2015 thì TAND cấp huyện nơi cư trú của một trong các bên hoặc TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết huỷ việc KHTPL. Việc xác định đúng thâm quyền giải quyết có ý nghĩa rất quan trọng, tránh sự chồng chéo khi thực hiện nhiệm vụ, góp phần giúp Tịa án giải quyết đúng đắn, có hiệu qua, tạo điều kiện cho các bên yêu cầu tham gia tố tụng, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tiết kiệm thời gian, công sức. Tuy nhiên, việc xác định thâm quyền vẫn còn nhiều tranh cãi. Theo điểm g Khoản 2 Điều 39 BLTTDS năm 2015, thẩm quyền của Tịa án theo lãnh thé thì: “Téa án nơi việc dang ky kết hôn trải pháp luật được thực hiện có thẩm quyên giải quyết yêu câu hủy việc kết hôn trái pháp luật”. Nhưng tại điểm b Khoản 2 Điều 40 BLTTDS năm 2015, thâm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu quy định: “... øgười yêu cau có thể yêu cẩu Tòa án nơi cư trú của một trong các bên dang ký kết hôn trai pháp luật giải quyết ”'2. Trong q trình áp dụng nên có sự vận dụng linh hoạt dé đạt được mục đích giải quyết vụ việc hiệu quả. Điểm b Khoản 2 Điều 40 BLTTDS năm 2015 là quy định mang tính tùy nghi, đương sự có quyền lựa chọn Tịa án để u cầu giải quyết nhằm tạo điều kiện thuận tiện nhất cho đương sự, tiết kiệm được công sức, vật chất của người dân và Nhà nước, phù hợp với các trường hợp có thé xảy ra trong thực tiễn. Do vậy, với những
<small>!? Quốc hội nước CHXHCNVN (2015), Bộ luật Tổ tụng Dân sự</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">trường hợp pháp luật quy định không cần bat cứ điều kiện gi ma mang tính tùy nghi như điểm b khoản 2 Điều 40 BLTTDS năm 2015 thì đương sự có quyền lựa chọn một trong các Toà án dé giải quyết việc yêu cầu hủy KHTPL.
Về thủ tục tố tụng, huỷ việc KHTPL là một loại việc dân sự. Theo trình tự giải quyết việc dân sự, Toà án thụ lý khi có đơn yêu cầu và các tài liệu chứng minh cho u cầu đó. Tồ án tiễn hành mở phiên họp giải quyết việc dân sự có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát. Theo quy định của pháp luật tố tụng, giải quyết việc dân sự khơng có thủ tục hịa giải. Tồ án xem xét chứng cứ và quyết định tại phiên họp giải quyết việc dân sự. Vấn đề hồ giải khơng được đặt ra đối với thủ tục giải quyết việc dân sự. KHTPL là loại việc khơng được hịa giải. Vì về nguyên tắc KHTPL là phải xử hủy do đã vi phạm các điều kiện kêt hôn pháp luật quy định. Tuy nhiên, khi giải quyết Tồ án khơng chỉ giải quyết về vấn đề nhân thân của người KHTPL mà còn giải quyết cả van đề con chung và tài sản chung của họ, van đề này có thé hịa giải được. Vì vậy, có thể tiến hành hịa giải đối với việc giải quyết hậu quả về con chung và tài sản chung khi xử hủy KHTPL, tránh những mâu thuẫn phát sinh, tiết kiệm thời gian, công sức của họ và của người tiễn hành tố tụng.
Theo Điều 361 BLTTDS năm 2015 quy định: “Việc dan sự là việc co quan, tổ chức, cá nhân khơng có tranh chấp, nhưng có u cau Tịa án cơng
<small>nhận hoặc khơng công nhận một sự kiện pháp ly là căn cứ làm phat sinh</small>
qun, nghĩa... hơn nhân và gia đình ... của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ” ?'. Van đề đặt ra, khi giải quyết về con chung, tài sản chung, nếu hai bên đương sự thoả thuận được với nhau thì Tồ án cơng nhận sự thoả thuận đó. Nhưng nếu hai bên khơng thống nhất được, tức là có tranh chấp, thì Tồ án giải quyết như thế nào? Hiện nay có những quan điểm khác nhau về việc giải quyết vẫn đề này. Có quan điểm cho răng, khơng thê giải quyết đồng thời mà phải tách ra dé giải quyết theo thủ tục việc HG&GD đối với yêu cầu hủy việc KHTPL và thủ tục giải quyết vụ án HN&GD đối với tranh chấp về nuôi con hoặc về tài sản. Quan điểm khác cho rằng, mặc dù đây là hai nội dung khác nhau nhưng khi Tòa án đã thụ lý hủy việc KHTPL, nếu có tranh
<small>'3 Quốc hội nước CHXHCNVN (2015), Bộ luật Tổ tụng Dân sự</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">chấp về con cái hoặc về tài sản thì Tịa án giải quyết ln mà khơng cần phải tách ra thành một vụ án độc lập. Đó là vấn đề mà pháp luật chưa có hướng dẫn. Tuy vụ và việc là hai thủ tục hoàn toàn khác nhau được quy định độc lập trong BLTTDS năm 2015. Quan điểm của tác giả là khi Tòa án đã thụ lý việc hủy KHTPL, nếu có tranh chấp về con cái hoặc về tài sản thì Tịa án quyết định luôn mà không cần phải tách ra thành một vụ án độc lập. Vì Tịa án có tách ra giải quyết tranh chấp con cái hoặc tài sản bằng một vụ kiện khác thì hậu quả vẫn là Tịa án quyết định, khơng có gì khác.
2.4. Căn cứ và đường lối xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật KHTPL là việc kết hơn có đăng ký kết hơn tại co quan Nhà nước có thâm qun theo đúng thủ tục pháp luật quy định, nhưng một hoặc cả hai bên kết hôn vi phạm một hoặc nhiều điều kiện kết hôn do pháp luật quy định. Do đó căn cứ xử hủy KHTPL chính là hành vi vi phạm điều kiện kết hôn.
Về nguyên tắc, Nhà nước không thừa nhận những trường hợp nam nữ kết hôn mà không tuân thủ đầy đủ những điều kiện kết hơn. Do vậy, việc
<small>KHTPL sẽ bị Tịa án xử hủy. Tuy nhiên, hủy việc KHTPL ảnh hưởng trực</small>
tiếp đến cuộc sống của hai người kết hôn trái pháp luật và con cái của họ. Vì vậy, khi xử lý các trường hợp yêu cầu hủy việc KHTPL, Tòa án phải xác minh làm rõ hành vi vi phạm điều kiện kết hôn, điều kiện công nhận quan hệ
<small>hôn nhân, mức độ vi phạm và hoàn cảnh vi phạm, đặc biệt là xem xét, đánh</small>
giá thực chất quan hệ tình cảm, thực tế chung sống giữa hai người KHTPL kê từ khi kết hơn cho đến khi Tịa án xem xét cuộc hơn nhân của họ, từ đó Tịa án có quyết định đúng đắn, bảo đảm “thấu tình, đạt lý”. Khoản 2 Điều 11 Luật HN&GD năm 2014 quy định: “rong trường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cẩu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hơn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này và hai bên yêu câu công nhận quan hệ hơn nhân thì Tịa án cơng nhận quan hệ hôn nhân do. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên du điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này ”"*.
<small>'* Quốc hội nước CHXHCNVN (2014), Luật Hôn nhân và gia đình</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Theo hướng dan tại khoản 1 Điều 4 của TTLT số 01/2016 thì: “Khi xem xét, giải quyết yêu cầu có liên quan đến việc hủy kết hơn trái pháp luật, Tịa án phải căn cứ vào yêu cầu của đương sự và điều kiện kết hôn, điều kiện công nhận quan hệ hôn nhân quy định tại Điều 8 và Điều 11 của Luật hơn nhân và gia đình dé quyết định” 'Ÿ.
2.4.1. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm tuổi kết hôn
Điểm a Khoản | Điều 8 Luật HN&GD năm 2014 quy định về độ tuôi kết hôn đối với nam là từ đủ 20 tuổi trở lên; đối với nữ là từ đủ 18 tuổi trở lên. Ở đây luật chỉ quy định độ tuôi tối thiêu mà không giới hạn độ tuôi tối đa đối với nam và nữ khi kết hôn. Việc quy định độ tuổi kết hôn đã được các nhà lập pháp nghiên cứu trên cơ sở khoa học về tâm, sinh lý con người Việt Nam. Đạt đến độ tuổi này con người mới có sự phát triển đầy đủ về thé chat va trí tuệ.
Về thê chất, con người đạt đến độ tuôi này mới phát triển toàn điện, đủ sức khỏe đảm đương vai trò làm cha mẹ, vợ chồng; đồng thời còn bảo đảm việc sinh con khỏe mạnh dé duy trì nịi giống.
Về trí tuệ, ở độ tuổi này con người mới có sự phát triển đầy đủ để nhận thức được cuộc song, bay tỏ được ý chí, tình cảm cua minh trong cuộc sống, trong các giao dịch dân sự và có kinh nghiệm sống, kiến thức trong việc ni dạy con cái và có khả năng gánh chịu trách nhiệm đối với việc xây dựng gia đình. Quy định độ tuôi tối thiêu như vậy là tạo tiền đề cho việc xây dung gia đình hạnh phúc, âm no, vững bén.
Về cách tính tuổi kết hơn, theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 2 TTLT: 01/2016 thì “bắt buộc nam phải đủ hai mươi tuổi, nữ phải đủ mười tám tuổi
<small>trở lên và được xác định theo ngày, tháng, năm sinh”. Trường hợp không xácđịnh được ngày sinh, tháng sinh thì thực hiện như sau:</small>
- Nếu xác định được năm sinh nhưng khơng xác định được tháng sinh thì
<small>tháng sinh được xác định là thang một của năm sinh;</small>
<small>! Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ tư pháp (2016), Thông te liên tịch số:</small>
<small>01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">- Nếu xác định được năm sinh, tháng sinh nhưng không xác định được ngày sinh thì ngày sinh được xác định là ngày mùng một của tháng sinh ' .
Quy định về tuổi kết hôn hiện hành về cơ bản đã đóng góp tích cực trong việc xây dựng chế độ hôn nhân lành mạnh, hạnh phúc và bền vững; bảo đảm cho cá nhân có được sự phát triển cần thiết về thê chất, trí tuệ, kinh nghiệm xã hội, từ đó tạo điều kiện cho việc thực hiện tốt các quyên, nghĩa vụ trong hôn nhân va gia đình. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành, quy định này cũng đã phát sinh một số van dé. Về năng lực chủ thể, quy định về tuổi kết hôn hiện nay chưa đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với quy định về người đã thành niên trong các ngành luật khác như BLDS, BLHS, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.... Theo Điều 20 BLDS năm 2015, người đã thành niên có đầy đủ NLHVDS là người từ đủ 18 tuổi trở lên không bị mat NLHVDS sự hoặc bị hạn chế NLHVDS thì được tham gia tất cả các quan hệ dân sự. Trong khi đó, Luật HN&GD năm 2014 vẫn quy định nam từ đủ 20 ti trở lên mới có quyền kết hơn, như vậy vơ tình đã hạn chế nhiều quyền dân sự của họ trong việc kết hôn. Nhiều trường hợp nam công dân kết hôn ở tuổi đủ 18, 19 bị coi là trái luật, trong khi về mặt pháp lý họ là người đã thành niên, có đủ NLHVDS.
Về đường lối xử lý: Theo khoản 2, 3 Điều 4 TTLT số: 01/2016, khi có yêu cầu hủy việc KHTPL đối với trường hợp này thì tùy từng trường hợp cụ thé mà Tòa án quyết định như sau:
- Trường hợp tại thời điểm kết hôn, một trong hai bên kết hôn không đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng sau đó cả hai bên đã đủ ti theo quy định tại Điều 8 Luật HN&GD năm 2014 thì Tịa án xử lý như sau:
+ Nếu hai bên kết hơn cùng u cầu Tịa án cơng nhận quan hệ hơn nhân thì Toa án quyết định cơng nhận quan hệ hơn nhân đó kê từ thời điểm các bên kết hơn có đủ tudi kết hơn.
+ Nếu một hoặc hai bên yêu cầu hủy việc KHTPL hoặc có một bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân hoặc có một bên u cau ly hơn cịn bên kia khơng có u cầu thì Tịa án quyết định hủy việc KHTPL.
<small>'© Tịa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ tư pháp (2016), Thông tu liên tịch số:</small>
<small>01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">+ Trường hợp hai bên cùng yêu cầu Tịa án cho ly hơn hoặc có một bên u cầu ly hơn cịn bên kia u cầu cơng nhận quan hệ hơn nhân thì Tịa án giải quyết cho ly hôn.
- Trường hợp hai bên đã đăng ký kết hơn nhưng tại thời điểm Tịa án giải quyết hai bên kết hôn van không đáp ứng điều kiện tuổi kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật HN&GD năm 2014 thì thực hiện như sau:
+ Nếu có u cầu hủy việc KHTPL thì Tịa án quyết định hủy việc KHTPL; + Nếu một hoặc cả hai bên yêu cầu ly hôn hoặc yêu cầu công nhận quan hệ hơn nhân thì Tịa án bác u cầu của họ và quyết định hủy việc KHTPL '”.
Như vậy, không phải mọi trường hợp kết hôn khi chưa đủ tuổi kết hon đều bị xử hủy khi có yêu cầu mà tùy vào từng trường hợp, căn cứ vào việc có cịn vi phạm độ ti kết hơn khơng, căn cứ vào yêu cầu của hai bên KHTPL mà Tòa án có các phán quyết khác nhau. Q trình giải quyết việc xem xét tại thời điểm yêu cau cả hai bên đã đủ tuổi kết hơn hay chưa có ý nghĩa rất quan trọng.
2.4.2. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm sự tự nguyện
Điểm b Khoản 1 Điều 8 Luật HN&GD năm 2014 quy định: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định ”.
Việc kết hôn thiếu sự tự nguyện của một hoặc hai bên sẽ bị coi là KHTPL. Sự tự nguyện kết hôn là nguyên tắc hiến định trong các ngành luật tư nói chung và ngành Luật HN&GD nói riêng, là nguyên tắc hiến định trong các quy định pháp luật về nội dung và các quy định pháp luật về hình thức. Sự tự nguyện là việc thê hiện ý chí, tình cảm của hai bên mong muốn được gắn bó với nhau trong quan hệ vợ chồng, được chung sống với nhau suốt đời dé thoả mãn nhu cầu tình cảm, xây dựng gia đình. Nam và nữ tự mình quyết định việc kết hôn mà không bị tác động bởi ý chí của bất cứ ai. Việc hai bên nam, nữ đến với nhau phải xuất phát từ tình cảm, từ mong muốn trở thành vợ chồng của nhau và cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc. Ý chí của hai bên phải thống nhất với sự thé hiện ý chí. Luật HN&GD quy định sự thể hiện ý
<small>chí là việc họ cùng có mặt tại cơ quan Nhà nước có thâm qun đê thực hiện</small>
<small>! Tịa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ tư pháp (2016), Thông te liên tịch số:</small>
<small>01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">việc nộp tờ khai đăng ký kết hơn. Trường hợp đặc biệt có thể vắng mặt trong thủ tục nộp đơn nhưng ngày tiến hành đăng ký kết hôn và trao giấy chứng nhận kết hơn thì phải có mặt cả hai bên nam, nữ.
Dé bảo đảm cho việc kết hơn được hồn tồn tự nguyện, pháp luật quy định việc kết hôn khi một bên hoặc cả hai bên kết hôn bị cưỡng ép, lừa dối thì việc kết hơn đó vi phạm sự tự nguyện.
- Cưỡng ép kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải kết hôn trái với ý muốn của họ.
- Lừa dối dé kết hôn là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch và dẫn đến việc đồng ý kết hơn; nếu khơng có hành vi này thì bên bị lừa dối đã khơng đồng ý kết hôn.
Trường hợp kết hôn thiếu sự tự nguyện của một trong hai bên bị cưỡng ép, lừa dối hoặc cản trở hôn nhân tiến bộ sẽ không được thừa nhận và bị coi là KHTPL, đó là căn cứ để Toà án xem xét và quyết định huỷ việc KHTPL đó.
Về đường lối giải quyết: Theo TTLT số: 01/2016 hướng dẫn: Trường hợp kết hôn khi một bên bị cưỡng ép hoặc bị lừa đối kết hôn là vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại điểm d khoản 1 Điều 8 của Luật HN&GD năm 2014. Tuy nhiên, nếu sau khi bị cưỡng ép kết hôn hoặc bị lừa đối kết hôn mà bên bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn đã biết nhưng đã thơng cảm, tiếp tục chung sống hịa thuận thì thời điểm đủ điều kiện kết hôn là thời điểm đương sự biết mình bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn nhưng vẫn tiếp tục sống chung như vợ chồng '*.
Như vậy, có thể thấy việc hủy việc KHTPL hay không trong trường hợp thiếu sự tự nguyện của một hoặc cả hai bên kết hôn cần căn cứ vào tình cảm, cuộc sơng vợ chồng sau khi kết hơn. Nếu sau khi kết hôn mà hai bên kết hôn khơng có tình cảm với nhau, cuộc sống nảy sinh nhiều mâu thuẫn thì việc hủy việc KHTPL là đúng đắn. Nếu hai bên kết hơn có cuộc sống hạnh phúc, cùng
<small>'3 Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ tư pháp (2016), Thông tu liên tịch số:</small>
<small>01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">u thương, thơng cảm cho nhau thì việc hủy việc KHTPL là khơng cần thiết, vì mục đích của việc kết hơn này hồn tồn phù hợp với bản chất của hôn nhân.
2.4.3. Kết hôn với người đang mat năng lực hành vi dân sự
<small>- Khác với Luật HN&GD năm 2000, Luật HN&GD năm 2014 không</small>
quy định cam kết hôn đối với người mat NLHVDS mà chuyên đổi một cách linh hoạt thành điều kiện: “Người kết hôn phải không bị mat năng lực hành vi dân sự ” (điểm c khoản 1 Điều 8 Luật HN&GD năm 2014).
- Điều 22 BLDS năm 2015 quy định: “Khi một người do bị bệnh tam thân hoặc mắc bệnh khác mà khơng thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo u cau của người có qun, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tơ chức hữu quan, Tịa án ra quyết định tuyên bố người này là người mat năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm than”.
Người kết hôn là người khơng bị mat NLHVDS do đó người bi mat NLHVDS sẽ không đủ điều kiện để kết hôn. Dưới góc độ pháp lý, khi nam nữ kết hơn trước tiên họ phải thể hiện ý chí tự nguyện. Những người đang mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình thì khơng thé thé hiện ý chi cua ho một cach đúng dan duoc, vì vậy khơng có căn cứ xác định sự tự nguyện khi kết hôn của họ. Hơn nữa, việc nam nữ kết hôn sẽ phát sinh quan hệ hơn nhân và gia đình, phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng với nhau và các thành viên trong gia đình với xã hội. Những người dang mắc bệnh không thể nhận thức va làm chủ hành vi của mình thì khơng thể thực hiện được nghĩa vụ làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ. Vì vậy, nếu kết hơn sẽ làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các
<small>thành viên khác trong gia đình. Mặt khác, BLDS năm 2015 quy định: “Moi</small>
giao dịch dân sự của người mắt năng lực hành vi dân sự do người đại diện
<small>theo pháp luật xác lập và thực hiện ”. Trong khi đó, quan hệ hơn nhân và gia</small>
đình, đặc biệt là trong việc kết hơn không thé thực hiện việc đại diện, bởi quyền kết hôn và ly hôn là quyền nhân thân gắn với bản thân mỗi người mà không thê chuyển giao, không thé ủy quyền cho người khác, nên khơng thé có trường hợp người đại điện đứng ra kết hôn thay cho người mat NLHVDS.
</div>