Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.19 MB, 115 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
ĐẠI HỌC QUOC GIA HA NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
DIEU KIEN KET HON VÀ HẬU QUÁ PHÁP LÝ CUA CÁC VI PHAM DIEU KIEN KET HON THEO PHAP LUAT VIET NAM
<small>Hà Nội — 2023</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
TRAN HỮU DOANH
<small>ĐIÊU KIỆN KÉT HÔN VÀ HẬU QUÁ PHÁP LÝ CỦA CÁC VI PHẠMDIEU KIEN KET HON THEO PHÁP LUAT VIỆT NAM</small>
Mã số : 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
<small>Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Thanh Hương</small>
<small>Hà Nội - 2023</small>
<small>il</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Tơi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả tôi nêu trong Luận văn chưa được công bố tại bat kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tơi đã hồn thành tắt cả các mơn học và đã thanh tốn tắt cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan đề nghị Truong Đại học Luật - Đại hoc Quốc gia
<small>Hà Nội xem xét dé tơi có thé bảo vệ Luận văn.</small>
<small>Tôi xin chân thành cảm ơn!</small>
NGƯỜI CAM ĐOAN
TRAN HỮU DOANH
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>3. Mục tiêu nghiên cứu</small>
1.1.2. Khái niệm điều kiện kết hôn
1.1.4. Khái niệm hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết hôn
1.4.1. Pháp luật Cộng hịa Pháp về điều kiện kết hơn và hậu quả pháp
1.4.3. Pháp luật Thái Lan về điều kiện kết hôn và hậu quả pháp lý của
<small>2.2.1. Biện pháp dân sự</small>
<small>2.2.2. Biện pháp hành chính2.2.3. Biện pháp hình sự</small>
<small>3.2.1. Hồn thiện các quy định của pháp luật HN&GD</small>
<small>3.2.2. Hồn thiện các quy định có liên quan trong các văn bản pháp</small>
KET LUẬN CHƯƠNG 3
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, <small>hơn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản</small>
<small>doanh nghiệp, hợp tác xã</small>
Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội đồng Thâm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của <small>Luật HN&GD năm 2000</small>
Thông tư liên tịch số <small>01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân</small> dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của <small>Luật Hôn nhân và gia đình.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><small>Tên Bảng Trang</small>
<small>Bảng 3.1. Tỷ lệ tảo hôn của người dân tộc 71</small>
thiểu số theo giới tính và vùng kinh tế xã hội, năm
Bảng 3.2. Tỷ lệ kết hôn cận huyết của người 71 dân tộc thiêu số năm 2014 và năm 2018
<small>VI</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">MỞ ĐẦU 1. Tinh cấp thiết của đề tài
Pháp luật nói chung, pháp luật hơn nhân và gia đình nói riêng được đặt ra để Nhà nước quản lý xã hội theo trật tự, đồng thời để bảo vệ quyền con người, quyền
công dân. Nhằm thực hiện nhiệm vụ đó, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định nhiều chế định, trong đó có điều kiện về kết hôn, đăng ký kết hôn, bảo vệ chế độ hơn nhân và gia đình, kết hơn trái pháp luật, những hành vi bị cắm...
Kết hôn là quyền cơ bản của con người, tuy nhiên, quyền này cần phải được thực hiện trong khuôn khổ mà pháp luật cho phép. Bởi vì kết hơn là việc xác lập quan hệ vợ chồng giữa một người nam và một người nữ dựa trên sự tự nguyện nhằm mục đích phát triển gia đình, xã hội bền vững. Đây là sự kiện pháp lý mà khi một người nam và một người nữ kết hôn, họ sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Do vậy, khi kết hôn họ phải đảm bảo các yêu cầu về điều kiện kết hơn, đăng ký kết hơn, vì chỉ có đảm bảo được các yêu cầu về điều kiện kết hôn, đăng ký kết <small>hơn thì quan hệ hơn nhân của họ mới được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.</small>
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển không đồng đều của xã hội, dẫn tới một số nơi những mối quan hệ cũng như những vấn đề về tâm sinh lý của con người ngày càng trở nên phức tạp, một số nơi lại chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của hủ tục, tập quán lạc hậu. Điều này tác động không nhỏ đến quan hệ hơn nhân gia đình, trong đó có việc kết hơn giữa hai bên. Trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp, các bên trong quan hệ hôn nhân kết hôn không đảm bảo được các điều kiện kết hơn theo quy định
của pháp luật có thể kể đến như việc tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa đối kết hén..., gây ra những ảnh hưởng vô cùng tiêu cực đến mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình, đến lỗi sống và đạo đức xã hội. Những trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn vẫn tồn tại như một hiện tượng xã hội khơng chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên chủ thé trong quan hệ hơn nhân mà cịn dé lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội như những vấn đề về
<small>đạo đức, thuân phong mỹ tục, các vân đê về sức khỏe, duy trì giơng noi và hướng</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">tới việc xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững cũng không được đảm bảo, điều này tác động khơng nhỏ đến q trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính vì
vậy, việc đảm bảo điều kiện kết hôn là một trong những van đề đã và đang được
Đảng, Nhà nước, các cơ quan có thâm quyền và tồn xã hội đặc biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh những biện pháp nhằm giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân nhằm hạn chế việc kết hôn không đảm bảo điều kiện kết hơn thì hiện nay, hệ thống pháp luật cũng đã quy định một cách cụ thé và nghiêm khắc những chế tài, những hậu quả pháp lý mà các chủ thể vi phạm quy định về điều kiện kết hơn phải gánh chịu. Nhìn chung, các quy định của luật hơn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và hậu quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện kết hôn cơ bản đã đảm bảo sự phát triển 6n định của các quan hệ hơn nhân, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ chế độ hơn nhân gia đình, đồng thời giúp thực hiện có hiệu quả các chính sách pháp luật về
<small>hôn nhân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì thực tiễn việc áp dụng</small>
pháp luật về điều kiện kết hôn và hậu quả của vi phạm điều kiện kết hơn vẫn cịn <small>tơn tại những vướng mắc, bât cập.</small>
Xuất phát từ thực tiễn trên, cũng như mong muốn hệ thống hóa những lý
thuyết, lý luận nền tảng của điều kiện kết hôn, hậu quả vi phạm điều kiện kết hơn,
trên cơ sở đó phân tích và đánh giá thực trạng thực thi pháp luật dé từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm hồn thiện quy định của pháp luật, góp phần vào việc xây dựng gia đình Việt Nam tiễn bộ, hạnh phúc và bền vững, tác giả lựa chọn đề tài:
“Điều kiện kết hôn và hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết hôn theo pháp
luật Việt Nam” dé làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. _ Tình hình nghiên cứu đề tài
Các quy định về điều kiện kết hôn mang ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm quyên kết hôn, một trong những quyền cơ bản của con người. Chính
vì thế, chế định kết hơn nói chung và điều kiện kết hơn, hậu quả của việc vi phạm điều kiện kết hơn nói riêng đã được rất nhiều tác giả, nhà khoa học, cán bộ làm công tác thực tiễn nghiên cứu trong nhiều cơng trình khoa học, giáo trình giảng dạy, bài
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><small>việt trên tạp chí và một sơ sách chun khảo. Dưới đây là một sơ cơng trình tiêu</small>
<small>biêu như sau:</small>
- Nguyễn Thành Đạt (2021), /y kết hôn trái pháp luật và hậu quả pháp ly, Luận văn Thạc sĩ khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã trình bày, phân tích và đánh giá cụ thể các vấn đề liên quan đến hủy kết hôn trái pháp luật và hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật theo quy định của pháp luật Việt
Hôn nhân và gia đình, cũng như việc nâng cao ý thức của mỗi cá nhân về điều kiện kết hôn.
- Phan Đình Dương (2019), Biện pháp xử lý việc kết hôn trái pháp luật — Thực trạng tại tỉnh Bắc Kạn, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Dân sự, trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn đã trình bày những vấn đề lý luận chung về biện pháp xử lý việc kết hôn trái pháp luật. Bên cạnh đó, luận văn cũng phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý việc kết hôn trái pháp luật trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này.
- Trần Đức Mạnh (2019), 7c tiễn thực hiện pháp luật về điều kiện kết hôn và giải pháp hạn chế nan tảo hơn tại một số tỉnh miễn nui phía Bắc, Luận văn Thạc <small>sĩ chuyên ngành Luật Dân sự, trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn tập trung làm</small>
rõ những van đề lý luận và pháp luật về điều kiện ti kết hơn; phân tích thực tiễn
thực hiện pháp luật về độ tuổi kết hôn tại các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Sơn La; từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật và đề xuất giải pháp nhằm hạn chế nan tảo <small>hôn tại các tỉnh này.</small>
- Đặng Thị Hồng Thái, (2018), Quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện kết hôn và thực tiễn thi hành tại tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành
Luật Dân sự, trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn trình bày một số vấn đề lý luận
về điều kiện kết hơn; phân tích quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn trong
<small>Luật HN&GD năm 2014 và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tinh Vĩnh Phúc; từ đó</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật <small>vê van đê nay.</small>
- Bùi Thị Mừng, (2011), Quyên kết hôn và ly hôn của phụ nữ Việt Nam và
Thai Lan nhìn dưới góc độ so sánh luật, Tạp chí luật học số 2, năm 2011. Bài viết
đã chỉ ra điểm khác biệt cơ bản trong quyền tự do kết hôn và ly hôn giữa phụ nữ Thái Lan và Việt Nam. Pháp luật Thái Lan, đặc biệt giáo lý đạo Hồi hầu như thể hiện sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ, cho phép người đàn ông được lấy nhiều <small>vợ, điêu nay ít nhiêu ảnh hưởng đên quyên tự do ket hôn của người phụ nữ.</small>
- Huỳnh Thị Trúc Giang (2016), Kết hôn giả tạo và hướng xử lý trong giải đoạn chuyển tiếp giữa Luật HN&GP năm 2000 với Luật HN&GP năm 2014, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tr.36-41. Trong bai viết này, tác giả đã phân tích quy định về kết hôn giả tạo trong Luật HN&GD năm 2014. Thơng qua đó, tác giả chỉ ra các vấn đề pháp lý phát sinh trong việc giải quyết kết hôn giả tạo trong giai đoạn chuyên tiếp giữa Luật HN&GD năm 2000 với Luật HN&GD năm 2014 và đề xuất các giải pháp khắc phục.
- Nguyễn Thị Lan (2016), Chế định kết hôn theo Luật HN@&GÐ năm 2014, Tạp chí Luật học, trang 23 - 30. Trong bài viết này, tác giả đã đề cập một số vấn đề cơ bản trong chế định kết hôn như: khái niệm, hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải
quyết trường hợp đăng ký kết hôn tại cơ quan không đúng thẩm quyền, hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng. Trên cơ sở phân tích những điểm vướng
mắc, bat cập của van dé này, tác giả đã đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kết hơn.
<small>- Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật HN&GP, Nxb Trẻ</small>
thành phó Hồ Chí Minh. Day là một cơng trình nghiên cứu tơng quan những van dé lý luận và thực tiễn về Luật HN&GD năm 2000. Tại tiết thứ 2, tác giả đã dé cập đến nội dung “kết hôn”, với các nội dung chỉ tiết của chế định kết hơn. Đặc biệt, tác giả
có nhiều cách tiếp cận nội dung khá mới mẻ xung quanh vấn đề kết hôn như vấn đề
<small>“môi giới hôn nhân”, “khái niệm kêt hôn”.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Từ nhiều hướng và mức độ tiếp cận khác nhau, các cơng trình nghiên cứu đã
làm sáng tỏ một số van dé lý luận về điều kiện kết hôn, kết hôn trái pháp luật, dé từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật. Tuy nhiên, chưa có bat kỳ một cơng trình nghiên cứu chun sâu và hệ thống hóa tồn diện những vấn đề lý luận điều kiện kết hơn. Mặt khác, các cơng trình này cũng chỉ mới đề cập đến biện pháp hủy kết hôn trái pháp luật, chưa có nghiên cứu tổng quát các hậu quả pháp lý
khác của vi phạm điều kiện kết hôn và thực tiễn giải quyết từ đó làm rõ những
<small>vướng mac, bat cập và nguyên nhân.3. Mục tiêu nghiên cứu của dé tài</small>
Mục tiêu tổng quát: Mục đích nghiên cứu tổng quát của Luận văn là hệ thống hóa cơ sở lý luận về điều kiện kết hôn, hậu quả pháp lý của những vi phạm điều kiện kết hôn; phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, làm rõ ngun nhân, vướng mắc; thơng qua đó đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về điều kiện kết hôn và hậu quả của vi phạm điều kiện kết
<small>Mục tiêu cu thé: De dat được những mục tiêu nêu trên, luận văn thực hiện các</small>
<small>nhiệm vụ cụ thê như sau:</small>
<small>- Thứ nhât, luận văn xây dựng và hệ thông hóa các vân đê lý luận về điêu kiện</small>
<small>kêt hơn và hậu quả pháp lý của các vi phạm điêu kiện két hôn như khái niệm, đặcđiêm, pháp luật một sô quôc gia trên thê giới vê điêu kiện kêt hôn, những hậu qua</small> pháp lý của vi phạm điều kiện kết hôn...
- Thứ hai, trên cơ sở so sánh với pháp luật của một số quốc gia trên thé giới,
<small>luận văn phân tích, làm rõ các quy định pháp luật của pháp luật hơn nhân và gia</small>
đình Việt Nam hiện hành về điều kiện kết hôn, những vi phạm điều kiện kết hôn và
<small>hậu quả của các vi phạm điêu kiện kêt hôn.</small>
- Thứ ba, luận văn đánh giá thực trạng áp dụng quy định pháp luật về điều kiện kết hôn và giải quyết hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết hôn thông
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">qua thực tiễn xét xử tại Tòa án, qua đó tìm ra những hạn chế, bất cập trong việc giải
<small>quyết các vụ việc có liên quan.</small>
- Thứ tư, luận văn kiến nghị, đề xuất giải pháp dé hoàn thiện pháp luật về điều kiện kết hôn, hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết hôn nhằm nâng cao
<small>hiệu quả thi hành pháp luật, đảm bảo thực hiện hiệu quả, phù hợp với tình hình kinh</small>
tế - xã hội Việt Nam hiện nay.
4. _ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về điều kiện kết
hôn, vi phạm điều kiện kết hôn và hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết
hôn, các quy tắc pháp lý xuất phát từ các nguồn của pháp luật như văn bản quy
phạm pháp luật, tập quán pháp, tiền lệ pháp, các học thuyết pháp lý...; thực tiễn thực hiện pháp luật thông qua các bản án, quyết định giải quyết tranh chấp tại Tòa
án, báo cáo sơ kết, tổng kết của các cơ quan nhà nước có thâm quyền có liên quan.
Trong khn khổ luận văn, việc nghiên cứu đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi
điều kiện kết hôn, hậu quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định
của pháp luật Việt Nam hiện nay đối với người Việt Nam kết hôn với người Việt Nam và một phạm vi vừa đủ cho các kết luận khoa học và quy định pháp luật từ kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới.
5. _ Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Với tính cấp thiết của đề tài và các kết quả nghiên cứu đạt được, Luận văn sẽ góp phần xây dựng, hệ thống hóa tồn diện nền tảng lý thuyết về điều kiện kết hôn, hậu quả pháp lý của vi phạm điều kiện kết hơn. Do đó, Luận văn có thê trở thành tài <small>liệu tham khảo có giá trị cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật; phục vụ cho</small>
<small>nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động thực tiễn.</small>
Từ kết quả nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về điều kiện kết hôn và hậu quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện kết hôn; qua đó đánh giá, bình luận những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn và đề xuất các giải pháp. Luận văn có giá
trị tham khảo đối với các luật gia, các chủ thé áp dụng pháp luật có liên quan...
<small>6. Ket câu của Luận văn</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
<small>luận văn gồm 03 chương:</small>
Chương 1: Những vấn dé lý luận về điều kiện kết hôn và hậu quả pháp lý của
các vi phạm điều kiện kết hôn.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về diéu kiện kết hôn và hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết hôn.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện và những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt
<small>Nam về điều kiện két hôn và hậu quả của các vi phạm điêu kiện két hôn.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>CHƯƠNG I</small>
NHỮNG VAN DE LÝ LUẬN VE DIEU KIEN KET HON VÀ HẬU QUA PHAP LY CUA CAC VI PHAM DIEU KIEN KET HON
1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm về kết hôn
Theo Từ dién Bách khoa Việt Nam, Kết hôn được hiểu là sự kết hợp hai người khác giới dé lập gia đình, sinh con đẻ cái, thực hiện chức năng sinh học và các
chức năng khác của gia đình”[40, tr.476]. Theo Từ dién giải thích thuật ngữ Luật
học của trường Đại học Luật Hà Nội, hôn nhân được hiểu là: “Sw lién kết giữa
người nam với người nữ dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đăng theo điều kiện và trình tự nhất định, nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh
phúc và hịa thuận” [62, tr.252]. Theo quan điểm của luật gia Nguyễn Quang Quýnh, “Giá thú (hay hôn thú) là sự phối hợp giữa một người đàn ông và một
người đàn bà theo thể thức luật định” [51, tr234]. Luật gia Vũ Văn Mẫu lại nhìn
nhận về kết hơn (hay cịn gọi là giá thú) như sau: “Giá thú được hiểu là việc trai gái lấy nhau trước mặt viên hộ lại và phát sinh ra những nghĩa vụ tương hỗ cho hai bên
về phương diện đồng cư, trung thành và tương trợ”... [64. tr.100].
Tiếp cận dưới góc độ xã hội học, quan hệ hơn nhân gia đình là loại quan hệ xã
hội được xác lập giữa hai chủ thể nam và nữ, tồn tại và phát triển theo quy luật của tự nhiên với mục đích đảm bảo sự sinh tồn, phát triển của xã hội loài người. Ngay cả trong xã hội nguyên thủy của loài người, khi khơng có bất kỳ một quy tắc, một
<small>quy định nào thì quan hệ hơn nhân gia đình vẫn được xác lập, con người vẫn chung</small>
sống, sinh con đẻ cái và tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ khác cho tới ngày nay. Do đó, quyền kết hôn cũng là một trong những quyền tự nhiên của con người, giống như quyền được sống, quyền được tự do, quyền được mưu cau hạnh phúc... Tuy nhiên, trải qua các giai đoạn lịch sử, với sự xuất hiện của các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, đặc biệt với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, những quy tắc xã hội dần xuất hiện nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội khách quan mang tính ý
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">chí. Từ đó, kết hơn khơng cịn là một quyền tự do theo bản năng của con người, mà
trở thành một quan hệ xã hội được đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật.
Dưới góc độ pháp lý, kết hơn là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân giữa hai chủ thể nam và nữ, kể từ thời điểm quan hệ hôn nhân được xác lập, giữa họ phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng với nhau. Theo định nghĩa chính thức của pháp luật Việt Nam hiện hành được quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật HN&GD năm 2014 thì: “Kế: hơn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chong theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hơn”. Nói cách
khác, kết hơn được xem xét với ý nghĩa là một chế định pháp lý được ghi nhận trong văn bản quy phạm pháp luật về điều kiện kết hôn, đăng ký kết hôn, các hình thức xử lý đối với vi phạm pháp luật về kết hôn.
Pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến khơng có điều khoản nào quy định về
“giá thú ”, “kết hôn ” hay “hôn nhân ”, mà đây chi là khái niệm tong quát dé chi việc hai bên nam nữ lấy nhau thành vợ chồng. Đến thời kỳ Pháp thuộc, những quy định thời phong kiến tiếp tục được kế thừa, tuy nhiên, cũng có sự sửa đơi, bố sung theo
<small>quy định của Bộ luật dân sự Napoleon của Pháp năm 1804. Vì vậy, trong thời kỳ</small>
này khái niệm kết hôn cũng chưa được quy định một cách rõ ràng.
<small>Cho tới khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành cơng, nước Việt Nam</small> Dân chủ Cộng hịa ra đời đến nay, Nhà nước ta đã lần lượt ban hành 04 đạo luật đề
<small>hơn HN&GD năm 1986; Luật HN&GD năm 2000 và Luật HN&GD năm 2014.</small>
<small>Trong đó, Luật HN&GD năm 1959 và Luật HN&GD năm 1986 chưa đưa ra khái</small> niệm về kết hôn, mà khái niệm này chỉ được giải thích trong phan giải nghĩa một số
danh từ: “Kế? hôn là việc nam nữ lấy nhau thành vợ thành chong theo quy định của pháp luật”. Đến khi Luật HN&GD năm 2000 ra đời thì khái niệm kết hơn mới
<small>chính thức đưa tại khoản 2 Điều 8 như sau: “Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan</small>
hệ vợ chong theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hơn” [19]. Theo đó, quan hệ hơn nhân phải đảm bảo hai yếu tố là thé hiện ý chí của cả
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">nam và nữ là mong muốn được kết hôn với nhau và quan hệ đó được Nhà nước thừa
<small>nhận. Định nghĩa về kết hơn này được Luật HN&GD năm 2014 tiếp tục kế thừa và</small>
ghi nhận tại khoản 5 Điều 3: “Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn va đăng ký kết hôn” [20]. Như vậy, thuật ngữ kết hôn trong Luật HN&GD năm 2014 đã phan ảnh được tồn diện,
đầy đủ bản chất của quan hệ hơn nhân trong xã hội hiện nay. Kết hôn được hiểu là việc nam nữ lấy nhau thành vợ chồng và được Nhà nước thừa nhận và để được Nhà
<small>nước thừa nhận, hai bên nam nữ khi xác lập quan hệ vợ chồng phải tuân thủ các quy</small>
định của pháp luật về kết hôn, cụ thể là về điều kiện kết hơn và đăng ký kết hơn. Dưới góc độ pháp lý, kết hôn phải thỏa mãn hai yếu tố sau:
Thứ nhất, khi quyết định việc kết hôn, hai bên nam nữ phải thể hiện ý chí
mong muốn kết hơn với nhau, xác lập quan hệ vợ chồng với nhau, mặt ý chí phải
thống nhất với hành vi thể hiện của nam nữ là phải hồn tồn tự nguyện, khơng bị cưỡng ép, lừa dối, nhằm lẫn. Day là cơ sở dé đảm bảo cho nguyên tắc hôn nhân tự
nguyện, tiễn bộ được tn thủ và đo đó, khi kết hơn, người kết hơn phải bày tỏ ý chí
tự nguyện kết hơn trước cơ quan Nhà nước có thâm quyền. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, cơ quan có thâm quyền đăng ký kết hơn sẽ tiếp nhận Tờ
khai đăng ký kết hôn và giải quyết việc đăng ký kết hơn. Khi đó, hai bên nam, nữ
phải thé hiện ý chí của mình rằng họ hồn tồn mong muốn được kết hơn với nhau, găn bó với nhau trong quan hệ vợ chồng và cùng nhau xây dựng gia đình no ấm,
dựng gia đình bền vững. Trong trường hợp khi tiến hành đăng ký kết hôn, phát hiện thay có dấu hiệu của sự lừa dối, cưỡng ép hoặc kết hơn giả tao, cơ quan có thầm quyền sẽ từ chối việc đăng ký kết hôn. Trường hop đã đăng ký kết hôn mà phát hiện thay các dấu hiệu vi phạm sự tự nguyện kết hơn thì việc kết hơn có thé bị hủy khi có <small>u câu.</small>
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Thứ hai, việc kết hôn phải được Nhà nước thừa nhận và chỉ được Nhà nước
<small>thừa nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân tuân thủ các quy định của pháp luật về</small>
điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý bằng
việc đưa ra các quy định đề điều chỉnh vấn đề kết hôn, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán, truyền thống lịch sử, văn hóa của từng vùng mién, địa phương khác nhau, vì vậy quy định của pháp luật về kết hôn cũng mang những nét đặc thù riêng biệt
của từng Nhà nước, từng quốc gia. Ví dụ: theo quy định của Luật Gia đình của
Cộng hịa Liên bang Đức thì người chưa thành niên và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự muốn kết hơn thì phải được sự đồng ý của người đại diện, người giám hộ; một số nước trên thế giới hiện nay do ảnh hưởng của Hồi giáo vẫn thừa nhận chế độ đa thê, như: Iran cho phép một người chồng được phép lấy bốn người vợ; hôn nhân đồng giới cũng đã được cho phép và công nhận hợp pháp tại một số
quốc gia trên thế giới như Hà Lan (2001), Bi (2003), Áo (2019)...
Ngồi ra, nam nữ kết hơn buộc phải đáp ứng quy định về đăng ký kết hôn. Tại
Điều 9 Luật HN&GD năm 2014 quy định:
“Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyên thực
hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc hôn nhân không được
<small>đăng kỷ theo quy định tại khoản này thì khơng có giả trị pháp lý” [20].</small>
Khác với các nghi lễ về cưới hỏi, dạm ngõ, tô chức hôn lễ tại nhà thờ,... thuộc về phong tục, tập quán, tín ngưỡng của từng dân tộc, từng địa phương, đăng ký kết
hôn là một thủ tục pháp lý, là cơ sở dé luật pháp bảo vệ quyền lợi và sự ràng buộc <small>về nghĩa vụ của môi người trong quan hệ vợ chong.</small>
Ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 17 Luật Hộ tịch năm 2014 thì cơ quan có thẩm quyền về đăng ký kết hôn là UBND cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ thực hiện đăng ký kết hôn. Về thủ tục đăng ký kết hôn, để đảm bảo việc kết hôn phù hợp hơn với các quy định của pháp luật, UBND xã sau khi nhận hồ sơ đăng ký kết hôn phải tiến hành điều tra, xác minh về những van dé mà các bên nam nữ đã
<small>khai. Nêu những điêu mà các bên nam nữ đã khai là đúng và phù hợp với các điêu</small>
<small>11</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">kiện kết hơn thì UBND xã có trách nhiệm tiến hành đăng ký việc kết hơn cho họ
<small>theo đúng quy định của pháp luật.</small>
Tóm lại, hai bên nam nữ phải thực hiện việc đăng ký kết hơn tại cơ quan nhà
nước có thâm quyền thì Nhà nước mới có căn cứ dé thừa nhận quan hệ hôn nhân,
mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng; mọi nghi thức khác không tuân theo quy định của pháp luật về đăng ký kết hôn như nghi thức dam ngõ, cưới hỏi theo phong tục của Việt Nam tuy có sự chứng kiến của nhiều người, được sự đồng ý của hai bên gia đình và thực hiện theo các thủ tục nhất định (dạm ngõ, đón
dau, bái lễ gia tiên, lại mặt,...) đều khơng phải nghi thức được pháp luật ghi nhận va
khơng có giá trị pháp lý. Những nghỉ thức này chỉ có giá trị về mặt tinh thần, phong
tục, tập quán, do đó,các bên nam nữ trong trường hợp này muốn trở thành vợ chồng
hợp pháp vẫn cần phải đăng ký kết hôn tại cơ quan có thâm qun.
Qua những phân tích ở trên, có thé đưa ra khái niệm “kết hơn” như sau: “Kế: hôn là sự kiện pháp lý nhằm xác lập quan hệ vợ chồng giữa hai bên kết hôn trên cơ sở tuân thủ các điều kiện kết hôn và được cơ quan nhà nước có thẩm qun cơng
<small>nhận theo quy định của pháp luật ”.</small>
1.1.2. Khái niệm điều kiện kết hôn
Tùy từng thời kỳ, từng chế độ xã hội, từng phong tục, tập quán tại từng khu vực mà những quy định về quan hệ HN&GD sẽ có sự khác nhau, trong đó có các điều kiện hơn. Nhìn chung, các điều kiện kết hơn được hình thành dựa trên nền tảng
của những chuẩn mực đạo đức và pháp luật mà con người phải tuân theo. Ở nước ta,
việc kết hôn được chỉ được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ bang phap luat khi cac bên nam, nữ kết hôn đã tuân thủ day đủ các điều kiện kết hôn va đăng ký kết hôn. Nếu vi phạm các điều kiện kết hơn thì quan hệ HN&GD đó sẽ khơng có giá trị pháp
<small>lý, cũng như khơng được Nhà nước bảo vệ theo luật HN&GD.</small>
Tại khoản 5 Điều 3 Luật HN&GD năm 2014 quy định: “Kế hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chong với nhau theo quy định cua Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn ” [20]. Theo đó, điều kiện kết hơn và thực hiện thủ tục
<small>12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">đăng ký kết hôn tại Cơ quan nhà nước có thắm quyên là quy định bắt buộc khi nam
nữ kết hôn với nhau, là điều kiện tiên quyết để xem xét tính hợp pháp của quan hệ
vợ chồng. Nếu không đáp ứng dù chỉ một trong những điều kiện quy định thì hơn
<small>nhân đó là trái pháp luật và không được pháp luật thừa nhận. Do đó, việc đưa ra</small>
khái niệm đầy đủ và khái qt về điều kiện kết hơn có ý nghĩa quan trọng trong việc phản ánh bản chất pháp lý của việc kết hôn, đồng thời tạo ra cơ sở lý luận cho việc
<small>áp dụng pháp luật một cách phù hợp.</small>
Trong Từ điển tiếng Việt, từ “Điêu kiện ” được hiểu là: “diéu nêu ra như một
đòi hỏi trước khi thực hiện một việc nào đó” [63]. Theo các tiếp cận này thì điều kiện kết hơn có thé được hiểu là những yêu cầu, đòi hỏi bắt buộc phải tuân thủ, phải
đáp ứng trước khi thực hiện việc kết hôn. Theo Từ điển luật học, thì: “Điều kiện kết hơn là đòi hỏi về mặt pháp lý đối với nam, nữ và chỉ khi thỏa mãn những địi hỏi đó thì nam nữ có qun kết hơn” [62]. Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Thị Vân thì: “Diéu kiện kết hôn là những tiêu chuẩn pháp by do cơ quan nhà nước có thẩm
qun đặt ra thơng qua các quy phạm pháp luật buộc các bên nam nữ phải đáp ứng
trên cơ sở đó việc kết hơn của họ mới được pháp luật công nhận ” [50]. Đồng quan điểm nêu trên, tac giả Đặng Thị Hồng Thái cho rằng: “Điêu kiện kết hôn là các tiêu chuẩn pháp lý do luật HN@&GÐ đặt ra, buộc các bên nam, nữ phải tuân theo khi đăng ky kết hôn, trên cơ sở đó việc kết hơn của họ mới được thừa nhận ” [39].
Như vậy, dù tiếp cận theo góc độ nào, các tác giả đều có điểm chung khi nói về điều kiện kết hơn là những địi hỏi của pháp luật đặt ra khi kết hôn và chỉ khi đáp
ứng đầy đủ các điều kiện đó, thì hai bên nam nữ mới được phép thực hiện việc kết
hôn, việc kết hơn đó mới được coi là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Việc pháp luật dé ra những quy định về điều kiện kết hơn giữa nam, nữ nham mục đích thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, đồng thời ngăn chặn việc kết hôn trái pháp luật, cùng những hậu quả do việc kết hôn trái pháp luật gây ra, giúp gia đình phát triển bình thường, đảm bảo mục đích của hơn nhân, giữ gìn các giá trị
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Tóm lại, khái niệm điều kiện kết hơn có thé hiểu là: “Điều kiện kết hơn là quy định của pháp luật về những yêu cau bắt buộc mà hai bên kết hôn cần phải đáp ứng, la
cơ sở dé cơ quan Nhà nước có thẩm quyển công nhận việc kết hôn hợp pháp ”. 1.1.3. Khái niệm vi phạm điều kiện kết hơn
Để có cách nhìn nhận đúng đắn về khái niệm “vi phạm điều kiện kết hôn”,
chúng ta cần phân biệt được khái niệm “vi phạm điều kiện kết hôn và khái niệm
“kết hôn trái pháp luật”. Trong đó, theo phần giải thích thuật ngữ được quy tại khoản 6 Điều 3 Luật HN&GD năm 2014, thì “Kết hơn trái pháp luật” là “việc nam,
nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyên nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật nảy ”[20] Khái niệm này đã nhắc tới nội dung “vi phạm diéu kiện kết hôn”, từ đó dẫn đến nhiều
quan điểm, cách hiểu khác nhau về hai khái niệm này.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, khái niệm “kế? hôn trái pháp luật” đồng nghĩa
với “vi phạm diéu kiện kết hôn ”, điều này xuất phat từ cách hiểu vi phạm điều kiện
kết hôn là việc không tuân thủ điều kiện kết hôn hoặc vi phạm các hành vi bị cắm theo quy định tại Điều 8 Luật HN&GD, cũng tương tự như việc kết hôn trái pháp luật, nên có thể hiểu kết hơn trái pháp luật là vi phạm điều kiện kết hôn, vi phạm điều kiện kết hôn là kết hôn trái pháp luật. Do đó, hậu quả pháp lý và hướng xử lý là giống nhau.
Quan điểm thứ hai cho rang không đồng nhất hai khái niệm “kết hôn trái pháp
luật” và “vi phạm điều kiện kết hôn”. Bởi lẽ, “vi phạm điều kiện kết hôn” bao gồm
cả các trường hợp nam, nữ sống chung như vợ chồng không đăng ký kết hơn, trong đó một hoặc hai bên vi phạm điều kiện kết hôn hoặc vi phạm các hành vi bị cắm <small>theo Luật HN&GD. Do đó, tùy từng trường hợp mà hậu quả pháp ly và hướng xử lý</small> là không giống nhau.
Theo từ điển tiếng Việt, “vi phạm” là “không tuân theo hoặc lam trái lại những điều đã được quy định ” [63], theo đó, “vi phạm điều kiện kết hôn” được hiểu là không tuân theo hoặc làm trái lại các quy định về điều kiện kết hôn được quy
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">định trong Luật HN&GD. Khi kết hôn, các bên nam nữ phải tuân thủ các điều kiện
được pháp luật quy định, đồng thời không vi phạm các trường hợp cam kết hơn thì hơn nhân mới được coi là hợp pháp. Điều đó có nghĩa là, chỉ khi tuân thủ các điều kiện kết hơn thì hơn nhân mới có giá trị pháp lý, giữa các bên mới phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Nếu các bên nam, nữ chỉ sông chung với nhau như vợ chồng nhưng không tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hơn thì cũng không được Nhà nước công nhận, tùy trường hợp cịn có thé bị xử lý vi phạm (hành chính, hình sự) theo quy định.
Mặt khác, Luật HN&GD năm 2014 có sự tách bạch giữa điều kiện kết hơn và thực hiện thủ tục đăng ký kết hơn, trong đó đăng ký kết hơn chi là một hình thức dé giám sát, quản lý việc tuân thủ theo các điều kiện kết hôn do pháp luật đặt ra các
cho các bên nam nữ trong việc kết hôn. Nếu điều kiện kết hơn là những địi hỏi của pháp luật đặt ra khi kết hôn, và chỉ khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện đó thì hai bên nam nữ mới được phép thực hiện việc kết hôn, việc kết hơn đó mới được coi là hợp pháp, thì đăng ký kết hơn là một nghỉ thức có giá trị pháp lý và có ý nghĩa được cơ quan nhà nước có thâm qun ghi nhận sự kiện kết hơn. Như vậy, nội dung “vi phạm điều kiện kết hôn” chỉ bao hàm những vi phạm về mặt nội dung điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 8 Luật HN&GD, không bao hàm việc đăng ký kết hôn. Việc vi phạm trình tự, thủ tục, thẩm quyền đăng ký kết hôn không đồng nhất với
<small>việc vi phạm điêu kiện kêt hôn.</small>
Trường hợp nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà khơng đăng ký kết hơn thì quan hệ giữa họ không phải là quan hệ hôn nhân mà chỉ được hiểu là việc “nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau như là vợ chong” [20] theo định nghĩa tại khoản 7 Điều 3 Luật HN&GD năm 2014. Do đó, căn cứ vào việc đáp ứng các điều kiện kết hơn, có hai trường hợp sống chung như vợ chồng là: Trường hợp thứ nhất là việc sống chung như vợ chồng mà hai bên nam, nữ đã đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định. Hành vi sống chung này
<small>không được nhà nước bảo vệ nhưng cũng không vi phạm pháp luật. Trường hợp thứ</small>
hai là việc sống chung như vợ chồng mà một trong các bên hoặc cả hai bên nam, nữ
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">vi phạm điều kiện kết hôn, vi phạm các điều cắm theo quy định của pháp luật là
<small>hành vi vi phạm pháp luật và cần phải bị xử lý tùy theo mức độ vi phạm.</small>
Như vậy, các bên nam nữ vi phạm điều kiện kết hơn có thể thuộc một trong hai trường hợp: Một là, các bên đã đăng ký kết hôn, xác lập quan hệ vợ chồng
nhưng một trong hai bên hoặc cả hai bên đã vi phạm điều kiện kết hôn tại thời điểm kết hôn; Hai là, các bên chung sống với nhau như vợ chồng, không đăng ký kết hôn đồng thời vi phạm điều kiện kết hôn hoặc vi phạm các trường hợp cấm kết hơn theo
quy định của pháp luật. Do đó, tác giả cho rang cách hiểu tách biệt, không đồng nhất khái niệm “vi phạm diéu kiện kết hôn ” và khái niệm “kết hôn trái pháp luật” theo quan điểm thứ hai là hợp lý.
Từ những phân tích trên, có thé hiểu khái niệm: “Vi phạm điều kiện kết hôn là
việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chơng có đăng kỷ kết hôn hoặc chung sống như vợ
chong nhưng vi phạm điều kiện kết hôn hoặc vi phạm các trường hop cam chung sống như vợ chong theo quy định của pháp luật. ”.
1.1.4. Khái niệm hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết hơn
Xét dưới góc độ pháp lý, hành vi vi phạm pháp luật nói chung và việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hơn nói riêng xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của cơng dân, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, khiến cho các cơ quan nhà nước khó có thể nắm bắt và quản lý được các vấn đề liên quan đến hộ tịch, khai sinh hay giải quyết những tranh chấp khác, bên cạnh đó, việc vi phạm điều kiện kết hơn cịn ảnh hưởng xấu tới nhiều mặt của đời sống xã hội như vi phạm nghiêm trọng về đạo đức, nhân cách, lối sống của gia đình Việt Nam, phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, ảnh hưởng đến sức khỏe và việc duy trì nịi giống.
Do đó, Nhà nước ta đã thê hiện thái độ nghiêm khắc thông qua các biện pháp xử lý những trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn. Biện pháp xử lý những trường vi phạm điều kiện kết hôn chính là cách thức mà nhà nước dùng để xử lý những
trường hợp vi phạm pháp luật về kết hôn. Theo đó, tùy theo mức độ và biện pháp xử
lý vi phạm, chủ thể vi phạm điều kiện kết hôn sẽ phải gánh chịu những hậu quả
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">pháp lý nhất định. Theo ngữ nghĩa tiếng Việt thì hậu quả được hiểu là những kết
kết quả tất yếu của một sự kiện, hành vi pháp lý do pháp luật đặt ra dẫn đến làm phát sinh, thay đổi hoặc cham dứt quan hệ pháp luật nhất định. Theo pháp luật Việt Nam, tùy từng trường hợp cụ thể mà hành vi vi phạm có thế bị xử lý ở từng mức độ <small>khác nhau, bao gôm:</small>
+ Công nhận quan hệ vợ chồng hoặc không công nhận quan hệ vợ chồng.
+ Hủy kết hôn trái pháp luật, đây là là một chế tài dan sự được áp dụng đối với việc kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn của các chủ thé kết hôn trong quan hệ kết hôn trái pháp luật.
<small>+ Bi xử phạt vi phạm hành chính: Do tính chất đặc thù của quan hệ HN&GD</small>
nên những hậu quả pháp lý của biện pháp hành chính được áp dụng phơ biến dé xử lý việc vi phạm điều kiện kết hôn là cảnh cáo và phạt tiền.
<small>+ Bị xử lý hình sự: Trong từng trường hợp cụ thể mà từng người phạm tộikhác nhau phải chịu những hình phạt, những hậu quả pháp lý khác nhau. Tuy nhiên,</small>
pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng thì mục đích chủ yếu
<small>của hình phạt khơng phải là trừng tri người phạm tội; mà là việc cải tạo, giáo dục</small>
người phạm tội dé họ từ một con người lầm lỗi, vi phạm pháp luật trở thành người
có ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn
ngừa họ phạm tội mới, điều này được thể hiện đặc biệt rõ nét trong các quy định về hình phạt đối với các tội phạm về HN&GD. Tuy nhiên, việc xử lý hình sự đối với các vi phạm pháp luật về HN&GD nói chung và vi phạm điều kiện kết hơn nói riêng cịn rất hạn chế. Nồi bật là tình trạng vi phạm chế độ một vợ, một chồng xảy ra tương đối nhiều, đặc biệt là ở nông thôn và miền núi nhưng rất ít bị xử lý, do đó,
có nhiều quan điểm cho rằng chế tài hình sự được xem như một thứ “công cụ pháp <small>lý bị lãng quên”.</small>
<small>17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Như vậy, theo nghĩa hẹp “Hau quả pháp lý của việc vi phạm điêu kiện kết hơn
có thé hiểu là những hệ quả, biện pháp do nhà nước đặt ra đối với việc nam, nữ xác
lập quan hệ vợ chong có đăng ký kết hơn hoặc chung sống như vợ chong vi phạm
quy định về điều kiện kết hôn nhằm đảm bảo sự ồn định của gia đình và trật tự xã <small>hội ”.</small>
1.2. Ý nghĩa của việc quy định về điều kiện kết hôn và hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết hôn
1.2.1. Ý nghĩa của việc quy định về điều kiện kết hôn
Cũng tương tự như những quyền tự do cá nhân khác, mỗi cá nhân đều có quyền tự do kết hôn nhưng phải thực hiện quyền này trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Mỗi cá nhân không sống một cách đơn lẻ mà sống trong mối quan hệ với các cá nhân khác, gia đình và xã hội, do đó, khi thực hiện quyền kết hơn của mình, người đó cũng phải tơn trọng quyền của người khác; người kết hơn khơng chỉ bảo <small>vệ lợi ích của bản thân mình mà phải tơn trọng lợi ích của người khác, lợi ích của</small> gia đình và xã hội. Vì vậy, bản thân người kết hơn phải tn thủ pháp luật về kết hôn, về điều kiện kết hơn và đăng ký kết hơn. Ở góc độ này, chế định kết hôn đã tạo ra chuẩn mực pháp lý cho hành vi ứng xử của chủ thể thi hành pháp luật mà theo đó, người kết hơn nhận biết được rằng mình được phép và khơng được phép làm gì khi kết hơn.
Kết hơn là hoạt động làm thay đôi tư cách pháp lý của hai bên tham gia quan hệ HN&GD. Theo đó, sau khi kết hơn thì pháp luật trao cho người vợ và người
chồng những quyền và nghĩa vụ để đảm bảo, duy trì, phát triển, xây dựng một gia đình hạnh phúc, khơng chỉ với hai bên vợ, chồng mà còn với những thành viên khác trong gia đình. Gia đình là đơn vị nhỏ nhất cấu thành nên xã hội, gia đình có hạnh phúc thì xã hội mới phát triển và ngày càng văn minh. Chính vì vậy, việc nhà nước
quy định về kết hơn nói chung và điều kiện kết hơn nói riêng có ý nghĩa rất quan
<small>trọng đơi với gia đình, nhà nước và xã hội.</small>
<small>18</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Thứ nhất, đối với gia đình, mục đích của hơn nhân chính là trách nhiệm với
sự gắn bó, cơng khai, lâu dài giữa hai vợ chồng. Ngồi ra, hơn nhân cũng là một
phương tiện để đảm bảo sự duy trì giống nịi, hương hỏa (đó là sự ra đời của những
đứa trẻ) và phát triển cuộc sống (nhờ có sự sắp xếp, sẻ chia, gánh vác về mặt kinh tế
của các bên sẵn sàng hy sinh cho nhau trong mối quan hệ. Xuất phát từ mục đích
cao đẹp của hơn nhân như vậy, cho nên việc đặt ra các quy định về điều kiện kết
hôn là thực sự cần thiết nhằm giúp cho các bên đạt được cuộc hôn nhân hợp pháp và bền vững. Chỉ khi các bên đáp ứng các điều kiện kết hơn thì khi đó họ mới có thé đảm bảo về sức khỏe thé chat cũng như sự trưởng thành trong tư duy dé đưa ra cam kết có tính trách nhiệm đối với quyết định kết hơn của mình. Đồng thời, chỉ khi đó, họ mới có đủ nhận thức và năng lực để gánh vác những nghĩa vụ về phong tục, tập
quán, tài chính, pháp lý đối với gia đình, xã hội và đối với nhau. Những nghĩa vụ mà họ phải gánh vác có thể là về việc sinh con, nuôi dưỡng con cái, chia sẻ các loại chỉ phí sinh hoạt trong gia đình, cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc,... đều là những trách nhiệm, nghĩa vụ mà một người khi chưa đủ những điều kiện nhất định không thé gánh vác được.
Thứ hai, đối với xã hội, hôn nhân chính là quan hệ nền tảng dé tạo nên một gia đình, các gia đình đều xuất phát từ mối quan hệ giữa người vợ và người chồng rồi đến giữa cha, mẹ và con và những thành viên khác trong gia đình. Mỗi một gia đình
là một tế bào của xã hội, gia đình hạnh phúc chính là nên tảng của một xã hội hạnh
phúc và phát triển. Chính vì vậy, chế độ hơn nhân nói chung và điều kiện kết hơn nói riêng có tầm quan trọng rất lớn đến sự ồn định và phát triển của từng gia đình va rộng hơn là tồn xã hội. Nếu như các bên nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng không đảm bảo tuân thủ đúng các điều kiện về kết hôn, cũng như việc quy định về điều kiện kết hôn không khả thi hoặc dé dang bị phá vỡ thì sẽ tạo ra rất nhiều những hệ
lụy đến xã hội. Chăng hạn, kết hơn cận huyết có thể dẫn đến việc những đứa trẻ (những thế hệ sau) được sinh ra trong di tật, hoặc việc sinh con khi cơ thể người mẹ <small>chưa phát triên hoàn thiện có thê khiên nguy cơ tử vong của cả mẹ và con tăng cao,</small>
<small>19</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">việc cha mẹ chưa trưởng thành đã phải gánh vác những trách nhiệm to lớn có thể dẫn đến đói nghèo, khơng có khả năng ni dạy con cái một cách phủ hợp,... Day đều là những nguyên nhân gây mắt ôn định, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Thứ ba, đối với nhà nước, việc nghiên cứu dé ban hành hoặc ghi nhận những
quy định của pháp luật về điều kiện kết hơn nói riêng và chế định hơn nhân nói
<small>chung đã tạo hành lang pháp lý cho cơ quan nhà nước khi áp dụng các quy định của</small>
pháp luật, có cơ sở để cơng nhận hơn nhân hợp pháp cũng như xác định các chế tài
nếu có sự vi phạm điều kiện kết hơn. Dién hình là hành vi “tảo hôn” đang xảy ra khá phé biến ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa của nước ta. Đồng thời, cũng thé hiện sự quan tâm của các cấp chính quyền đối với sự phát triển về mặt tâm lý, sinh lý của nam, nữ có thể làm trịn trách nhiệm cơng dân của mình
đối với xã hội. Ngồi ra, việc quy định về điều kiện kết hôn cũng thể hiện trách nhiệm pháp lý của nhà nước trong việc thực hiện những cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Như vậy, nếu việc quy định về điều kiện kết hơn có tính khả thi, phù hợp sé góp phan dam bảo cho cuộc hôn nhân được 6n định từ đó tạo ra những cộng đồng én định. Ngược lại, cộng đồng ôn định sẽ dẫn đến xã hội được
<small>phát triển.</small>
1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định về hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện
kết hôn
Hôn nhân và gia đình là một trong những quan hệ xã hội cơ bản, kết hôn là bước khởi đầu để hình thành nên gia đình vì vậy việc quy định các điều kiện kết hôn là yêu cầu tất yếu của xã hội [36]. Tuy nhiên, do tác động của nhiều yếu tơ kinh tế, chính trị, xã hội tồn tại rất nhiều trường hợp “vượt rào” gây những hậu quả tiêu
cực đối với chính các bên kết hơn và tác động xấu đến xã hội. Chính vì vậy, việc quy định về hậu quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện kết hơn có những vai trị, ý
<small>nghĩa quan trọng xét trên các khía cạnh sau đây:</small>
Thứ nhất, việc quy định hậu quả pháp lý tạo hành lang pháp lý dé áp biện pháp
<small>xử lý việc vi phạm điêu kiện kết hơn sẽ góp phân vào sự ôn định trật tự công cộng,</small>
<small>20</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">đảm bảo sự ôn định của xã hội ở một chừng mực nhất định. Đây được coi là các chế
tài áp dụng cho các hành vi vi phạm pháp luật về kết hôn tương ứng với mức độ của
việc vi phạm. Việc đưa ra các biện pháp chế tài này đã phần nào giảm bớt tình trạng
kết hơn khơng đảm bảo hoặc tuân thủ các điều kiện kết hôn do pháp luật quy định. Chăng hạn, khi đặt ra các biện pháp xử lý kết hơn trái pháp luật, có thể sẽ làm giảm thiểu tình trạng tảo hơn, kết hơn gia tạo, kết hôn vi phạm nguyên tắc hôn nhân một
vợ một chồng... Nhà nước đưa các quan hệ kết hơn về đúng quỹ đạo của nó, để các
quan hệ HN&GD tồn tại và phát triển theo đúng định hướng của mà nhà nước mong
Thứ hai, việc quy định hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm điều kiện kết hơn
khơng chỉ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân trong quan hệ
<small>hôn nhân, mà cịn bảo vệ lợi ích chung của gia đình và xã hội. Khi các biện pháp xử</small>
lý vi phạm điều kiện kết hôn được áp dụng dé xử lý các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn trên thực tế, các bên vi phạm phải chấm dứt ngay hành vi trái pháp
luật. Điều đó có thê trực tiếp hoặc gián tiếp đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên nam nữ không tuân thủ điều kiện kết hơn và các chủ thể có liên quan. Bởi
vì, việc cham dứt ngay hành vi vi phạm sẽ giảm bớt nguy cơ sinh ra những đứa trẻ
đị tật do kết hơn cận huyết thống hoặc giảm bớt tình trạng trẻ em lang thang cơ nhỡ do bố mẹ vi phạm chế độ một vợ một chồng dẫn đến bất hịa trong gia đình gây
Thứ ba, việc quy định về hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết hơn
góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của gia đình. Các truyền
thống về tình cảm gia đình, tình yêu thương, sự chia sẻ khó khăn của hai vợ chồng là những truyền thống tốt đẹp được lưu giữ qua nhiều thế hệ. Việc áp dụng các biện pháp xử lý những trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn tạo ra sự răn đe đối với các bên kết hôn và các chủ thể liên quan khi có ý định vi phạm điều kiện kết hơn. Từ
đó, góp phần quan trọng vào việc ngăn ngừa tình trạng kết hơn trái pháp luật, chăng <small>hạn người Việt Nam ta tôn vinh va coi trọng đức tính chung thủy và coi đó là một</small> nét đẹp văn hóa truyền thống. Do đó, việc xử lý kết hôn trái pháp luật trong trường
<small>21</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">hop vi phạm chế độ một vợ, một chồng tức là kết hơn khi đang có vợ, có chồng
<small>chính là biện pháp giữ gìn truyền thống chung thủy của dân tộc ta...</small>
Thứ tư, việc quy định về hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết hơn
góp phần giảm tải sức nặng đối với nền kinh tế, đây lùi tình trạng đói nghèo và lạc hậu, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Giảm đi những con người
xã hội sẽ bớt đi gánh nặng phải nuôi dưỡng những đối tượng này. Mặt khác, ngăn chặn được tình trạng kết hơn trái pháp luật, xã hội sẽ tạo ra được nhiều gia đình hạnh phúc bền vững, sinh ra được nguồn nhân lực có chất lượng cao dé cung cấp cho nền kinh tế. Hơn nữa, khi các bên vi phạm điều kiện kết hôn bị chấm dứt quan
chồng mà chỉ có thé tham gia với tư cách cá nhân. Điều đó sẽ góp phan ồn định các <small>môi quan hệ về kinh tê, các giao lưu dân sự trong xã hội.</small>
1.3. Các yếu tố cơ bản tác động đến pháp luật về điều kiện kết hôn và hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết hơn
1.3.1. Yếu tố kinh tế - xã hội
Dưới góc độ của triết học, pháp luật với tư cách là kiến trúc thượng tầng luôn
bi chi phối bởi cơ sở hạ tầng, do đó, nội dung của các quy định pháp luật luôn chịu ảnh hưởng của các quan hệ kinh tế xã hội, chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật. Kinh tế, xã hội ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử đều chi phối đến việc xây dựng
pháp luật, trong đó, có cả các quy định về pháp luật hơn nhân gia đình nói chung và
<small>các điêu kiện kết hôn, hậu quả pháp lý của việc vi phạm điêu kiện kết hơn nói riêng.</small>
nền kinh tế chim đắm trong nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân phải sống trong cảnh bị bóc lột, đói nghèo cả về vật chất và tinh thần, dẫn tới xã hội thời kỳ này quan niệm hôn nhân là một loại quan hệ xuất phát từ quyền lợi gia đình, dong họ. Mục đích của hơn nhân trước hết là nhằm duy trì sự giao kết giữa hai dịng họ, nhằm thờ phụng tơ tiên và kế thừa dòng đõi, hương hỏa cho gia tộc, đồng thời nhằm bảo vệ
<small>22</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">quyền lợi của tối đa cho người đàn ơng trong gia đình. Vì vậy, quy định về kết hơn
<small>ở thời kỳ này thể hiện rõ sự bất bình đăng, trọng nam khinh nữ, bảo vệ chế độ gia</small>
trưởng, các quy định về kết hôn theo sự sắp đặt của cha mẹ hay quan niệm “gái
chính chun chỉ có một chồng”, cịn đàn ông được phép lấy nhiều vợ (hay còn gọi là thê, thiếp)... đã phản ánh rõ thực trạng bất bình đắng giữa nam nữ thời kỳ phong kiến.
Không chi sự bất bình dang giữa nam và nữ, trong xã hội phong kiến, vì hồn cảnh kinh tế, vì những khoản nợ truyền đời mà có khơng ít những cuộc hơn nhân
mang tính chất gả bán con cái của cha mẹ. Vì đói nghèo và lạc hậu, nên ngay cả
hạnh phúc của một đời người cũng có thể đem ra dé trao đổi bằng tiền, điều này đã
làm biến đối ngay cả những hành vi, những xử sự thường nhật. Khi mục đích kinh
tế được đặt lên hàng đầu khiến người ta có thé dé dàng bỏ qua những lẽ sống, những chuẩn mực đạo đức. Kết hôn vốn được coi như một nét đẹp, là kết quả của tình yêu, nay lại được chuyền hóa thành những hợp đồng, những thỏa thuận mang nặng mục đích kinh tế mà coi nhẹ đi những chức năng của gia đình.
Nguồn gốc của những tồn tại, hạn chế đó là do trong suốt thời kỳ đô hộ nước ta, Trung Quốc đã không ngừng cố gắng đồng hóa dân ta và đặc biệt là các triết lý nho giáo của Trung Quốc với tư tưởng gia đình, gia trưởng, cùng với sự phân biệt
giàu nghèo, quyền lực, địa vị của những con người trong xã hội phong kiến. Bên cạnh những hạn chế nhất định, các quy định về kết hôn của pháp luật Việt Nam thời kỳ nay cũng có những đóng góp nhất định nhằm củng cố trật tự gia đình phong kiến.
Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, nước ta giành được độc lập, dé phù hợp với nhiệm vu kinh tế, chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ <small>nghĩa xã hội, nhà nước đã ban hành Luật HN&GD năm 1959, đây là luật HN&GD</small> đầu tiên ở nước ta, đồng thời cũng là một trong những đạo luật được ban hành sớm nhất, là cơng cụ pháp lý dé nước ta xóa bỏ chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến, <small>lạc hậu, xây dựng chê độ hơn nhân và gia đình kiêu mới, dân chủ và tiên bộ. Bắt</small>
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ XIX, nền kinh tế của nước ta bước vào giai
đoạn phát triển mới với cơ chế thị trường thay cho cơ chế kinh tế tập trung, bao cấp.
Sự thay đổi nay tác động mạnh mẽ đến mọi phương diện của đời sống xã hội trong
đó có quan hệ hơn nhân gia đình, từ đó, địi hỏi u cầu cấp thiết phải có sự thay đơi thích hợp để điều chỉnh các mối quan hệ trong hơn nhân và gia đình. Trước tình <small>hình đó, ngày 29 tháng 12 năm 1986, luật HN&GD năm 1986 đã được ban thông</small>
qua, kế thừa những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ của chế độ hơn nhân gia đình trong
luật HN&GD năm 1959 và những truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, sửa đổi bổ sung những quy định phù hợp với quan hệ hơn nhân gia đình trong thời kỳ mới, từ đó góp phần xóa bỏ những tập tục lạc hậu, tản dư của chế độ HN&GD phong kiến.
Sau gần 14 năm thi hành thì luật HN&GD năm 1986 cũng đã bộc lộ những điểm không phù hợp, nguyên nhân chủ yếu là do luật HN&GD năm 1986 được ban hành trong thời kỳ đầu đổi mới, dẫn đến chưa có điều kiện thé chế hóa đường lỗi
đổi mới của Đảng và Nhà nước trong Hiến pháp năm 1992 nên nhiều quy định của
luật chưa phù hợp với sự vận động của các quan hệ hơn nhân gia đình trong cơ chế
kinh tế thị trường và sự giao lưu kinh tế. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình phát
triển kinh tế - xã hội, nhà nước ta đã ban hành Luật HN&GD năm 2000 thay thé cho Luật HN&GD năm 1986 với những sửa đổi, b6 sung đáng ké như: Quy định cắm
người chưa có vợ, chưa có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ (Khoản 2 Điều 4 Luật HN&GD năm 2000), quy định cắm kết
hôn giữa những người cùng giới tính (Khoản 5 Điều 10 Luật HN&GD năm <small>2000),...</small>
Luật HN&GD năm 2000 đã góp phan quan trọng vào việc dé cao vai trị của gia đình trong đời sống xã hội; giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam; phát triển nguồn nhân lực, ôn định và phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và của từng địa phương nói riêng. Mặc dù đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên, sau hơn 13 năm thi hành, Luật HN&GD năm 2000 cũng đã bộ 16 khơng ít hạn chế bat cập trong bối cảnh đất nước bước sang
<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">giai đoạn phát triển mới, cùng với tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
<small>và hội nhập quốc tế, xã hội Việt Nam đang chịu những tác động tích cực và tiêu</small>
cực, khơng chỉ về mặt kinh tế ma cịn cả về mặt văn hóa, xã hội. Trước tình hình đó,
Luật HN&GD năm 2014 đã được ban hành dé phù hợp với sự hội nhập và phát triển của xã hội, ví dụ như xu hướng cơng khai đồng tính ngày càng rộng rãi, đặc biệt là nhiều quốc gia trên thế giới đã bắt đầu công nhận việc hôn nhân đồng giới, thì ở
Việt nam, nếu như trước đây, Luật HN&GD năm 2000 cấm kết hôn giữa những
<small>người cùng giới tính, thì hiện nay, van đề này được ghi nhận tại khoản 2 Điều 8</small>
<small>Luật HN&GD năm 2014, theo đó: “Nha nước khơng thừa nhận hơn nhân giữa</small>
những người đơng giới ” [20].
Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến tư tưởng của một bộ phận giới trẻ: lối sống muốn hưởng thụ, sống thử, cơng khai giới tính thật, du nhập lối sông phương tây các cặp đôi chung sống với nhau như vợ chồng.... Vì vậy, van
kết hôn giữa những người cùng giới... xảy ra ngày càng phơ biến. Do đó, pháp luật HN&GD cần có những thay đổi dé phù hợp với các van dé nảy sinh trong xã hội nói
chung và vấn đề điều kiện kết hôn, xử lý vi phạm điều kiện kết hơn nói riêng. 1.3.2. Yếu tố truyền thống, phong tục, tập quan
Trải qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, những truyền thống, phong tục,
tập quán thể hiện bản sắc văn hóa và truyền thống của các dân tộc có những biến
đổi (cả theo chiều hướng tích cực và hạn chế). Theo đó, những phong tục, tập qn tiến bộ, tích cực dù được thể chế hóa thành quy định pháp luật hay không cũng
phương thực hiện các phong tục tập quán tốt đẹp, xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu cho thấy có nhiều chuyền biến tích cực về nhận thức, góp phan quan trọng <small>trong việc bảo vệ các giá trị chuân mực đạo đức con người, tuy nhiên, việc vận</small>
<small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">động xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu ở vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó
<small>khăn, vướng mac.</small>
Yếu tơ phong tục, tập qn ảnh hưởng nhiều đến quan hệ nam nữ chung sống
hôn giữa những người cùng dòng máu trực hệ:... gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực cho bản thân cuộc hơn nhân, gia đình và xã hội. Do đó, pháp luật cần có những quy định để loại bỏ những hủ tục lạc hậu ra khỏi đời sống nhân dân. Pháp luật điều chỉnh việc kết hôn
không chỉ chịu sự tác động và chỉ phối bởi phong tục, tập quán của dân tộc mà pháp luật cũng có vai trị quan trọng trong việc lưu giữ các giá trị truyền thống về HN&GD mà chúng ta cần phát huy. Những truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp về HN&GD của dân tộc được đề cao có ảnh hưởng tích cực tới việc thực thị pháp luật về kết hơn. Ví dụ,
truyền thống trọng tình, trọng nghĩa đề cao lòng chung thủy được phát huy sẽ là cơ sở
việc cắm kết hơn đối với người đang có vợ hoặc có chồng được tuân thủ. Ngược lại, nếu
truyền thống này bị xem nhẹ, sẽ ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả điều chỉnh của pháp luật.
Vì thế, trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, việc giữ gìn và phát huy nền văn hóa Việt
Nam đậm đà bản sắc dân tộc có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực thi pháp luật về
HN&GD góp phan xây dựng gia đình Việt Nam hạnh phúc, bền vững. 1.3.3. Yếu tố đạo đức
Đạo đức cũng là một yếu tố có ảnh hưởng nhất định đến việc điều chỉnh pháp
luật về chế định kết hơn nói chung, điều kiện kết hơn và cách thức xử lý với việc vi phạm điều kiện kết hơn nói riêng. Đạo đức thường là những quy tắc, chuẩn mực <small>hành vi ứng xử của con người, phù hợp với lợi ích chung của xã hội, phù hợp với</small> giá tri tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Đạo đức là một loại thể chế đặc
biệt, được điều tiết bằng dư luận của xã hội và chính lương tâm của từng cá nhân.
Sức điều tiết của nó cũng mạnh mẽ khơng thua kém pháp luật. Khi xây dựng pháp luật, đặc biệt là pháp luật về HN&GD, người ta luôn chú ý đến van dé đạo đức. Nhiều quy phạm pháp luật đã được nâng lên từ các quy phạm đạo đức, đạo đức
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">chính là sự kết hợp hài hồ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Do đó, khi điều
<small>chỉnh việc kết hôn, cần phải cân nhắc yếu tố lỗi, yếu t6 tình cảm của các chủ thé,</small>
xem xét và cân nhắc cách thức xử lý như thế nào là hợp tình hợp lý, có tính đạo
đức, giảm thiểu tối đa tác động tiêu cực của việc kết hôn trái pháp luật đến các đương sự, đặc biệt là con chung. Ở một góc độ nào đó, có thé nói đạo đức của mỗi con người được biểu hiện ở năng lực hành động tự nguyện, tự giác vì lợi ích của những người khác và xã hội. Vi vậy, khi xử lý việc vi phạm điều kiện kết hôn, cơ quan có thâm quyền xử lý cần xem xét đến vấn đề lương tâm và đạo đức của các bên tham gia vào quan hệ kết hôn trái pháp luật và các chủ thể khác dé có sự điều
<small>chỉnh cho hợp lý.</small>
1.4. Pháp luật của một số quốc gia về điều kiện kết hôn và hậu quả pháp lý <small>của các vi phạm điêu kiện kêt hôn</small>
1.4.1. Pháp luật Cộng hịa Pháp về điều kiện kết hơn và hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết hôn
<small>+ Về điều kiện kết hôn:</small>
Thứ nhất, điều kiện về độ tuổi, khác với quy định của pháp luật Việt Nam,
pháp luật của Pháp quy định độ tuổi kết hôn chung cho cả nam và nữ là 18 tudi,
đồng nhất với độ tuôi của người thành niên (Điều 144 BLDS Pháp). Ngồi ra, pháp luật Pháp cũng có quy định về trường hợp ngoại lệ cho phép người chưa thành niên
được kết hơn nếu có sự đồng ý của cha mẹ hoặc của ông bà nội và ông bà ngoại
(trong trường hợp cha, mẹ của người chưa thành niên đều đã chết hoặc thể hiện được ý chí) (Điều 148, 149, 150 và 159 BLDS Pháp). Đối với người chưa thành niên ở độ tuổi 18 (chưa đủ 18 tuổi) mà khơng có cha, mẹ, cũng như khơng có ơng bà nội, ngoại hoặc họ đều không thé hiện được ý chí thì việc kết hơn được thừa nhận nếu có sự đồng ý của hội đồng gia tộc (Điều 160 BLDS Pháp). Những ngoại lệ này hoàn toàn khác biệt với quan điểm lập pháp của Việt Nam, vì Việt Nam không
cho phép người chưa thành niên kết hôn, khơng có bat kỳ ngoại lệ nào.
<small>27</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Thứ hai, việc kết hơn phải có sự ưng thuận của hai người kết hôn. Điều 146 BLDS Pháp quy định: “Khơng thể kết hơn nếu khơng có sự ưng thuận ”[14]. Một <small>trong những tư tưởng chủ đạo trong BLDS Pháp là tơn trọng tự do ý chí của chủ</small> thể, theo đó, sự ưng thuận của các bên là điều kiện không thể thiếu trong giao kết hợp đồng cũng như trong việc kết hôn. Sự ưng thuận của hai người kết hôn theo quy định của BLDS Pháp có nét tương đồng với điều kiện “Việc kết hôn do nam và nữ
tự nguyện quyết định ” theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ ba, không vi phạm những trường hợp cam kết hôn. Điều 147 BLDS Pháp
quy định việc kết hơn khi đang có có vợ, có chồng là trái pháp luật. Trong xã hội hiện đại, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng, trong đó có Pháp.
Điều 161, 162, 163 BLDS Pháp cấm kết hơn giữa tất cả những người có quan hệ về trực hệ, bao gồm cả quan hệ thông gia (bố chồng và con dâu, mẹ vợ và con ré, ông bà của chồng va cháu dâu...); về bàng hệ, cấm kết hôn giữa anh/em trai và chi/em gái (kế cả giữa các anh em trai với nhau/chị em gái với nhau); cấm kết hôn
<small>giữa bác, cô, chú với cháu (cũng như giữa cô với chau gái, bác trai với cháu trai).</small>
Pháp luật Pháp cũng cấm việc kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, cũng như kết hôn giữa người con nuôi với cha mẹ của người nhận nuôi, với con của người nhận nuôi va với các thành viên khác trong gia đình của cha mẹ ni, cụ thể,
theo Điều 356 BLDS Pháp thì hậu quả của việc ni con ni theo hình thức đầy đủ
là làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi va cham dứt quan hệ cha mẹ và con giữa người con đã làm con nuôi với cha mẹ đẻ (cũng như chấm dứt các quan hệ gia đình với các thành viên khác trong gia đình gốc) nên các quy định
về cam kết hôn đối với những người có quan hệ huyết thống như đã nêu ở trên cũng
<small>được áp dụng đôi với những chủ thê trong quan hệ nuôi con nuôi.</small>
Đối với trường hợp kết hôn giữa hai người cùng giới tính, BLDS của Pháp đã thừa nhận quyền kết hôn của hai người cùng giới tính. Với việc thơng qua Luật số 2013 - 404 ngày 17 tháng 5 năm 2013, Pháp trở thành quốc gia thứ 9 trong Liên
<small>28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">minh châu Âu và quốc gia thứ 14 trên thế giới công nhận hơn nhân giữa hai người
cùng giới tính. Quy định của Luật này được đưa vào trong Điều 143 BLDS với nội
dung: “Việc kết hôn được tiến hành bởi hai người khác giới tính hoặc cùng giới
tính”. Do đó, việc kết hơn giữa hai người cùng giới tính hiện nay là hoàn toàn hợp pháp, nếu ho đáp ứng được các điều kiện kết hôn
<small>+ Về hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết hôn.</small>
<small>Liên quan đên việc xử ly va hậu quả pháp lý của việc vi phạm điêu kiện kêt</small>
<small>hônBLDS Pháp quy định như sau:</small>
Thứ nhất, pháp luật Pháp cho phép người có quan hệ hơn nhân với một trong hai bên kết hơn có quyền phản đối việc tổ chức lễ kết hôn của người đó (Điều 172 BLDS Pháp). Ngồi ra, pháp luật cũng trao quyền này cho cha mẹ và ông bà nội ngoại (nếu khơng có cha mẹ) đối với việc phản đối việc tô chức lễ kết hôn của con, cháu của họ ké cả khi họ đã thành niên (Điều 173 BLDS Pháp). Đối với trường hop
tổ chức lễ kết hôn cho người chưa thành niên ở độ tuổi 18 (nhưng chưa đủ 18 tuổi)
mà người này khơng có cha, mẹ và ông bà nội, ngoại và không được sự đồng ý của hội đồng gia tộc thì cơ, dì, chú, bác, anh, chi, em của người kết hơn cũng có quyền phản đối việc kết hơn (Điều 174 BLDS Pháp). Việc phản đối này được thực hiện theo một trình tự, thủ tục luật định và cơ quan có thâm quyền sẽ xem xét, ra quyết
định cho phép hoặc không cho phép việc kết hôn được tiến hành hay không (Điều
175 BLDS). Quy định này nhằm đem lại sự đồng thuận trong gia tộc đối với việc kết hơn của người trong gia tộc và cũng góp phần làm giảm thiểu tinh trạng kết hôn
Thứ hai, về quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, pháp luật Pháp quy định khá chặt chẽ về quyền này đối với từng trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn, cụ thể: Điều 180 BLDS Pháp quy định đối với trường hợp kết hôn không có sự ưng
thuận của người kết hơn thì một hoặc cả hai bên đã kết hơn mà khơng có sự tự do ý chí, viện cơng tổ có quyền u cầu hủy việc kết hôn. Điều 181 BLDS Pháp quy
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">định đối với trường hợp kết hôn cần thiết phải có sự đồng ý của cha mẹ, ông bà hay
<small>hội đồng gia tộc mà không có sự đồng ý của những người này thì họ có quyền yêu</small>
cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Điều 182 BLDS Pháp quy định đối với các
trường hợp kết hôn vi phạm về độ tuổi, khi đang có vợ, có chồng, kết hơn giữa những người có mối quan hệ họ hàng huyết thống hoặc giữa những người có quan hệ gia đình phát sinh do việc ni con ni thì người có quyền u cầu hủy việc kết hơn gồm: vợ, chồng, tất cả những người có lợi ích bị ảnh hưởng do việc kết hôn gây
<small>ra và viện cơng tơ.</small>
Dù thuộc trường hợp nào thì khi giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn, cơ quan nhà nước có thâm quyền u cầu hai bên kết hơn phải ngừng việc sống chung (Điều
<small>184 BLDS Pháp).</small>
Thứ ba, khi xem xét yêu cầu hủy việc kết hôn, pháp luật Pháp quy định giải
quyết một cách linh hoạt, không phải mọi trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn đều bị tuyên bố hủy kết hôn. Cu thé, vo, chồng và những họ hàng mà cần phải có sự
đồng ý của họ về việc kết hơn khơng có quyền u cầu hủy việc kết hôn nữa nếu việc kết hôn đã được những người này chấp thuận công khai hoặc ngầm định hoặc
nếu sau một năm ké từ khi biết việc kết hơn mà khơng có u cầu. Người vợ hoặc
chồng cũng khơng có quyền u cầu hủy kết hơn nữa nếu đã qua 5 năm kể từ khi
người nay đủ tuổi dé thé hiện sự tự nguyện kết hôn mà không yêu cầu hủy việc kết hôn (Điều 183 BLDS Pháp).
Thứ tư, về hậu quả pháp lý khi việc kết hôn bị tuyên bố hủy bỏ, về nguyên tắc, việc kết hôn không làm phát sinh hiệu lực của hôn nhân, các bên kết hơn khơng có
tư cách vợ, chồng. Tuy nhiên, pháp luật Pháp có quy định ngoại lệ để đảm bảo lẽ công bằng. Cu thé, theo Điều 201 BLDS Pháp thì trường hợp việc kết hơn bị hủy
nhưng hai người kết hơn ngay tình thì việc kết hơn đó vẫn làm phát sinh hiệu lực
chỉ làm phát sinh hiệu lực đối với người vợ/chồng ngay tình. Đây là điểm khác biệt <small>của pháp luật Pháp so với pháp luật Việt Nam. Pháp luật của Việt Nam chỉ quy định</small>
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">về nguyên tắc, khi việc kết hôn bị hủy thì các bên kết hơn đều khơng có các quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng. Nhưng có một điểm tương đồng với pháp luật Việt Nam, đó
là pháp luật Pháp quy định dù việc kết hôn bị hủy, nếu họ đã có con chung, thì các
bên vẫn có các quyền và nghĩa vụ đối với con chung như các trường hợp con sinh ra <small>từ quan hệ hôn nhân hợp pháp.</small>
Như vậy, có thé thay pháp luật Pháp quy định khá chỉ tiết về điều kiện kết hôn và việc xử lý khi có vi phạm điều kiện kết hơn. Việt Nam có thé tham khảo một số quy định của pháp luật Pháp dé hoàn thiện pháp luật về kết hôn và biện pháp xử lý
<small>việc vi phạm điêu kiện kêt hôn.</small>
1.4.2. Pháp luật Hàn Quốc về điều kiện kết hôn và hậu quả pháp lý của các vi phạm điều kiện kết hôn
+ Về điều kiện kết hôn:
Thứ nhất, điều kiện về độ tuổi, pháp luật của Hàn Quốc quy định độ tuổi kết hôn chung cho cả nam và nữ là 18 tuổi, đồng nhất với độ tuôi của người thành niên
(Điều 807 BLDS Hàn Quốc). Bên cạnh đó, pháp luật Hàn Quốc cũng cho phép
người chưa thành niên kết hôn nếu được sự chấp thuận của cha mẹ. Điều 803 Bộ
Luật Dân sự Hàn Quốc quy định người chưa thành niên được phép kết hôn nếu có
sự đồng ý của cha mẹ. Nếu một cha hoặc mẹ không thé thé hiện được sự đồng ý thì cần có sự đồng ý của người cịn lại, nếu cả cha và mẹ không thé thé hiện sự đồng ý
thì cần có sự đồng ý của người giám hộ. Việc cho phép người chưa thành niên kết hôn nếu có sự đồng ý của cha, mẹ như pháp luật Pháp đã nêu ở phần trên.
Thứ hai, việc kết hơn phải có sự ưng thuận của hai người kết hơn: Hiến pháp Hàn Quốc năm 1987 có quy định: “Hơn nhân và cuộc sống gia đình được hình thành và duy trì trên cơ sở nhân phẩm cá nhân và bình đăng về giới, Nhà nước hướng đến mục tiêu đó theo thẩm quyên. ” (Điều 36) và “Mọi công dân déu được bảo đảm về giá trị và phẩm giá con người và có quyền mưu cẩu hạnh phúc nhà nước có trách nhiệm xác nhận và đảm bảo các quyên con người cơ bản và bat khả xâm phạm của cá nhân. ” (Điều 10). Bên cạnh đó, Luật Dân sự Hàn Quốc quy định
<small>31</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">về trường hợp hủy hôn nhân xảy ra “Khi tun bó về ý định kết hơn đã được thực hiện bởi lừa doi hoặc cưỡng ép” (Điều 816)
Trong pháp luật Hàn Quốc, nguyên tắc tự nguyện là nguyên tắc đầu tiên, quan
trọng nhất và xuyên suốt trong các quan hệ dân sự trong đó có quan HN&GD. Sự tự
nguyện trong quan hệ hôn nhân được hiểu là việc người nam và nữ tự mình quyết định việc kết hơn và thé hiện sự mong muốn trở thành vợ chồng của nhau và khơng phụ thuộc vào ý chí của người khác, điều này tương đồng với điều kiện “Việc kết
hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định ” theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ ba, không vi phạm những trường hợp cấm kết hôn như:
- Không có thỏa thuận hơn nhân. Tại khoản 1 Điều 815 BLDS Hàn Quốc quy định: “Hôn nhân là vô hiệu trong bat kỳ trường hop nào sau: 1. Khi không có thỏa thuận kết hơn giữa các bên”. Trường hợp này tương tự như kết hôn giả tạo theo pháp luật Việt Nam, trường hợp các bên kết hôn không có thỏa thuận kết hơn dẫn
đến hủy hơn nhân được hiểu, mặc dù các bên đồng thuận và thực hiện việc đăng ký
kết hôn nhưng thực chất không nhằm mục đích chung sống, xây dựng gia đình mà để đạt được các mục đích khác.
- Đang trong quan hệ hơn nhân với người khác: Điều 810 BLDS Hàn Quốc quy định: “Ai đang có người phối ngẫu khơng được kết hơn lại. ”. Theo đó, nếu khi xác lập hơn nhân, một trong hai bên kết hơn cịn dang ở trong tinh trang tồn tại hôn nhân với người khác và quan hệ hơn nhân này chưa cham dứt thì việc kết hơn đó sẽ
bị hủy. Giữa những người kết hơn có quan hệ huyết thống, cha mẹ con ni: Điều
809 BLDS Hàn Quốc có quy định:
“1. Khơng được phép kết hôn giữa huyết thong trong anh em họ đời thứ 8.
2. Không được phép kết hôn giữa các bên là người phối ngẫu của huyết thong
trong anh em họ đời thứ 6, huyết thông trong anh em họ đời thứ 6 của người phối
thông gia hoặc quan hệ thông gia trước như người phối ngẫu của huyết thong trong anh em họ đời thứ 4 với người phối ngẫu.
<small>32</small>
</div>