Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học: Nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.47 MB, 73 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

NGUYEN THỊ MỸ LINH

NHAP TAI SAN RIENG VÀO TÀI SAN CHUNG CUA VO CHONG

LUAN VAN THAC Si LUAT HOC

<small>Hà Nội — 2024</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

NGUYEN THỊ MỸ LINH

NHAP TÀI SAN RIÊNG VÀO TÀI SAN CHUNG CUA VO CHONG

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tung dân sự Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Minh Hồng

<small>Hà Nội - 2024</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

LỜI CAM ĐOAN

<small>Tôi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu cua riêng tơi. Các</small>

kết quả tôi nêu trong Luận văn chưa được công bố tại bất kỳ cơng trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực. Tơi da hồn thành tat cả các mơn học và đã thanh tốn

tat cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Đại học Luật - Đại học Quốc

<small>gia Hà Nội.</small>

Vậy tôi viết Lời cam đoan đề nghị Trường Đại học Luật — Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.

<small>Tơi xin chân thành cảm ơn!</small>

NGƯỜI CAM ĐOAN

NGUYEN THỊ MỸ LINH

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

LỜI CẢM ƠN

Đề hoàn thành Luận văn này, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành

đến tồn bộ q Thầy Cơ giáo Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà

Nội đã tận tinh day dỗ tôi trong suốt thời gian qua. Những kiến thức mà các

Thầy Cô truyền đạt là những nền tang vô cùng quý giá dé tôi tiếp tục học

<small>tập và nghiên cứu khoa học sau này. Cám ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn</small>

bè, Thầy Cơ, những người đã đọc, góp ý cho Luận văn của tơi trong suốt

<small>q trình thực hiện.</small>

Đặc biệt, Luận văn này sẽ khơng thể hồn thành nếu khơng nhận được sự hướng dan tận tình, sâu sắc của giảng viên — TS Bùi Minh Hồng. Tôi xin

chân thành gửi lời biết ơn sâu sắc đến thầy, người đã dành nhiều thời gian,

tâm huyết đọc và chỉnh lý Luận văn giúp tôi.

Cuối cùng, với những tình cảm biết ơn chân thành và sâu sắc nhất xin chúc quý thầy cô, người thân, bạn bè của tôi sức khỏe và thành công.

<small>Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!</small>

<small>1</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small>MỤC LỤC</small>

LOT CAM ĐOAN...-- 56-25-22 21211 2121127112110211211 11. 1111. rree i LOT CAM ON 08... “1+... ii DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIET TẮTT...- 2-5252 ++E++£xeExerxerxerxee v

DANH MUC BẢNG...--- 5-5222 2E 21121122107111111211211211 21111 1e. vi MỞ ĐẦU... 55-55-2122 E2E122127171711211211211 2111111111111 21111 1 1c rre. |

CHƯƠNG 1. NHỮNG VAN DE LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH VE

NHẬP TAI SAN RIÊNG VÀO TAI SAN CHUNG CUA VQ

CHONG THEO PHAP LUAT HON NHÂN VA GIA ĐÌNH

<small>VIET NAM 1 ...Ả... 9</small>

1.1. Những van dé ly luận về nhập tài sản riêng vào tài sản chung của

VO CHONG veeccsessessessssssessessecsessussusssessecsecsessessussusssssscssessessessessessusssesseeseesecses 9

1.1.1. Quyền sở hữu của vo chồng đối với tài sản riêng...---:5¿5¿ 9

1.1.2. Khai niệm nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vo chồng... 15

<small>1.1.3. Y nghĩa của việc nhập tài sản riêng vao tai sản chung của vợ</small>

1.1.4. Nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật

<small>Việt Nam qua từng thời k}...-- -- + + tk *veEsseesreeerersreree 19</small>

1.2. Quy định về việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng

<small>theo Luật HN&GD năm 20 Ì4...-- .- 5 + 3 E9 Ekeskkskerskesere 24</small>

1.2.1. Quyền nhập hoặc không nhập tai sản riêng vào tai sản chung

của vợ CHONG. ..ceccessessesssessessessessessusssessecsecsessussussussecssessecsecsessessuesseeseesecses 24 1.2.2. Điều kiện về nội dung dé việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung

vợ chồng có giá trị pháp lý...--- ¿- 2 s+++EE£EEtEECEEEEEEEEEEkerkerkerkeee 25 1.2.3. Điều kiện về hình thức để việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung

vợ chong có giá trị pháp lý...--- 2 2 s+c++EE+EEtEEtEEEEEEEEEEkerkerkerreee 28

<small>iii</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>1.2.4. Hậu quả pháp lý của việc nhập tài sản riêng vao tài sản chung vợ</small>

CHƯƠNG 2. THỰC TIEN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VE NHAP TÀI SAN RIÊNG VÀO TAI SAN CHUNG CUA VO CHONG VA

MOT SO KIÊN NGHỊ HOÀN THIEN PHÁP LUẬTT... 36

<small>2.1. Thực tiễn áp dụng quy định nhập tải sản riêng vào tài sản chung của</small>

2.2. Những bat cập và vướng mắc trong áp dụng pháp luật về việc nhập

tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng...-- 2-2-5 sec: 40 2.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về nhập tài sản riêng vào tài

sản chung của vợ chỒng...--- 2 2 2+ E+EE£EE£EEEEEEEEEEEEEEEEEEerkrrkerree 51

2.4. Giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về nhập

tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng...---- 2-5 s55: 54 KET LUẬN CHƯƠNG 2...--...----2222+c E2 E1... re 59 KẾT LUẬN ...-- ¿2252 2< SE E21 2112112111111 111111111211 211 11 1c ca 60

DANH MỤC TAI LIEU THAM KHẢO...---2-©2255¿©52£xzzzcced 61

<small>1V</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIET TAT

<small>Bộ luật dân sự : | BLDS</small>

<small>Hơn nhân và gia đình | : | HN&GD</small>

Quyên sử dụng đất :| QSDD

<small>Tòa án nhân dân : | TAND</small>

Uy ban nhân dan : | UBND

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

DANH MỤC BANG

Bảng 2.1. Số lượng vụ án các loại và vụ án H&GD đã được Tòa án giải

quyết trên phạm vi cả nước trong 05 năm vừa qua...---2- 37 Bảng 2.2. Số lượng hồ sơ công chứng sáp nhập tài sản riêng vào tài sản

chung vợ chồng tại Văn phịng cơng chứng tại một số tỉnh ở nước ta... 39

<small>vi</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

MỞ ĐÀU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hôn nhân là cơ sở của gia đình, hai bên vợ, chồng đến với nhau bằng

tình yêu và cùng nhau xây dựng một mái ấm gia đình hạnh phúc. Gia đình

được xem như là tế bào của xã hội và luôn luôn chiếm một vị trí quan trọng

trong đời sống xã hội, bởi lẽ, gia đình là cái nơi ni dưỡng con người, là mơi trường quan trọng dé hình thành và giáo dục nhân cách mỗi người. Trong mỗi

giai đoạn phát triển của lịch sử, tùy từng thời kỳ phát triển mà tính chất, kết cấu của gia đình có thé khác nhau, tuy nhiên, những chức năng cơ bản của gia đình thì gần như khơng thay đối, đó là chức năng sinh đẻ dé duy trì nịi giống, chức năng giáo dục và chức năng kinh tế. Trong đó, nội dung chức năng kinh

tế của gia đình là sự tham gia của các thành viên vao quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra của cải, vật chất nhăm bao đảm cho sự tn tại và phát triển của gia đình nói riêng và sự phát triển của tồn xã hội nói chung. Mối quan hệ gia đình bao gồm quan hệ nhân thân và các quan hệ về tài sản

giữa các thành viên trong gia đình đều vơ cùng phong phú và đa dạng, do đó, bên cạnh những quy định điều chỉnh về quan hệ nhân thân, pháp luật

HN&GD cũng dành nhiều quy định điều chỉnh quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình và đặc biệt là giữa hai bên trong quan hệ vợ chồng.

Dưới sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường, tính chất mối quan

<small>hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình và đặc biệt là giữa hai bên vợ</small>

chồng trong mối quan hệ hơn nhân cũng có nhiều thay đổi, vợ chồng ngày càng có nhu cau thực hiện các hoạt động kinh tế độc lập, khang định quyền tự do định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu riêng, bên cạnh đó, cũng có những

cặp vợ chồng muốn tập trung xác lập tài sản chung dé cùng nhau phát triểngia đình. Vì vậy, các quy định điều chỉnh về quan hệ tài sản giữa các thành

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

viên trong gia đình, chế độ tài sản của vợ chồng luôn là một trong những vấn

đề được các nhà làm luật quan tâm và xây dựng dé trở thành một trong những

chế định quan trọng nhất của pháp luật HN&GD. Trong xã hội hiện đại, sau

khi kết hơn vợ chồng chung sống, bình dang, cùng nhau hoặc tự mình tham

gia các quan hệ tài sản nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của gia đình,

cũng như để bảo đảm lợi ích thiết thực của bản thân mỗi thành viên trong gia đình; vợ, chồng có nhu cầu tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật điều

chỉnh và có quyền, nghĩa vụ tài sản phát sinh từ các quan hệ đó.

Trên cơ sở đó, pháp luật tạo điều kiện cho phép vợ chồng được tự do

thỏa thuận định đoạt tài sản của mình nhưng vẫn phải đảm bảo nghĩa vụ mà

vợ chồng với người thứ ba và không được gây những ảnh hưởng không tốt tới quyền và lợi ích chính đáng của các thành viên khác trong gia đình, điều này

góp phan bảo đảm sự ổn định của các quan hệ HN&GD nói riêng và quan hệ dân sự nói chung. Trong đó quy định về việc vợ, chồng được phép nhập nhập tài sản riêng vào tài sản chung là một nội dung quan trọng trong chế định về tài sản vợ chồng theo Luật HN&GD. Tuy nhiên, trong suốt một thời gian dài, pháp luật Việt Nam khơng có quy định cụ thé rõ ràng về tai sản chung, tai sản

riêng, việc nhập tai sản riêng vao tài sản chung cua vợ chồng. Do đó, vợ,

chồng gặp nhiều khó khăn khi mong muốn xác nhập tài sản riêng vào tài sản chung để thực hiện các nghĩa vụ chung hay vơ tình khiến tài sản riêng trở thành tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mặc dù không mong muốn. Chỉ

đến khi Luật HN&GD năm 2014 được ban hành, chúng ta mới thấy những quy định riêng, cụ thể về việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vảo tài sản chung. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để vợ, chồng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình liên quan đến các giao dịch do vợ, chồng tham gia xác lập,

thực hiện, là sự thực hiện hóa các chế độ tài sản của vợ chong. Bén canh do,

<small>quy định vê quyên nhập tai sản riêng của vợ, chong vào tai san chung còn bao</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

vệ quyền lợi hợp pháp của người thứ ba trong giao dịch với vợ chồng. Mặc dù

vậy, việc áp dụng quy định dé thực hiện quyền nhập tài sản riêng của vo,

chồng vào tài sản chung trong thực tiễn vẫn còn nhiều lúng túng, khó khăn

xuất phát từ bất cập trong quy định của pháp luật và những nguyên nhân khác. Do vậy, dé nâng cao hiệu quả áp dụng quy định thực hiện quyền nhập tài sản

riêng của vợ, chồng vào tai sản chung trên thực tế cần có những giải pháp phủ hợp cả về hoàn thiện quy định của pháp luật cũng như tổ chức thực hiện các

<small>quy định này.</small>

Vì những lý do đó, tơi lựa chọn đề tài: “Nhập tai sản riêng vào tài sản

chung của vợ chong theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” làm đề

<small>tài luận văn thạc sĩ của mình.</small>

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ khi Luật HN&GD năm 2014 có hiệu thi hành đến hiện tại, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu chun sâu về việc nhập tài sản riêng vảo tài

sản chung vợ chồng, mà chỉ có một số nghiên cứu có nhắc tới việc nhập tài

sản riêng vào tài sản chung vợ chồng như:

Đoàn Thị Lương, (2018), Các trường hợp thỏa thuận về tài sản vợ

chong - Thuc tién tai van phòng công ching, Luan văn thạc sĩ trường Dai hoc Luật Hà Nội. Luận văn chủ yếu trình bày một số vấn đề lý luận về tài sản vợ chồng tại văn phịng cơng chứng, phân tích các trường hợp thỏa thuận về tài sản vợ chồng (trong đó có thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ

chồng) theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn tại các văn phịng

cơng chứng: từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và

nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về vẫn đề này.

Lại Thị Hồng, (2012), Những khía cạnh pháp lý của việc công chứng

các thỏa thuận tai sản cua vợ chong, Luan van thac si khoa Luat - Dai hoc

<small>Quoc Gia Ha Nội; Luan văn tập trung làm rõ những van đê ly luận chung vê</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

tài sản vợ chồng, với vai trò là cơ sở pháp lý đảm bảo tính hợp pháp, có căn

cứ của các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng (trong đó có thỏa thuận nhập tài

sản riêng vào tài sản chung vợ chồng) tại cơ quan công chứng, những vấn đề

lý luận về công chứng, xây dựng văn bản công chứng và bảo đảm giá trị của

<small>văn bản công chứng. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật tại Văn phịng</small>

Cơng chứng Hà Nội, tác giả phân tích mối liên hệ giữa các quy định của pháp

luật về tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GD, BLDS, Luật Đất đai, Luật Nhà ở... và Luật Cơng chứng, từ đó, đề xuất nhằm bảo đảm tính chính xác,

<small>khách quan và giá trị pháp ly của văn bản công chứng, nâng cao hiệu quả thực</small>

hiện công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng tại các tổ chức hành nghề công chứng.

Lê Thị Hà Thu, (2022), Quyên tu chủ của vợ, chong trong chế độ tài sản

cua vợ chong theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn thực hiện, Luận văn thạc sĩ trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn đã trình bày một sỐ

vấn đề lí luận về quyền tự chủ của vợ, chồng trong chế độ tài sản của vợ chồng,

phân tích quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tự chủ của vợ, chồng trong chế độ tài sản của vợ chồng và thực tiễn thực hiện; từ đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về

van đề này.Lê Ngọc Anh, (2021), Chế độ tài sản vợ chong theo thỏa thuận và việc đảm bảo quyên, lợi ích hợp pháp của người thứ ba, Luận văn thạc sĩ trường Đại học Luật Hà Nội. Trong phần nghiên cứu, tác giả đã đưa ra những

van dé lý luận và quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận và việc đảm bảo quyên, lợi ích của người thứ ba, phân tích thực tiễn thực hiện từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về vấn đề này.

Đoàn Ngọc Dung, Quyển và nghĩa vụ của vợ chẳng về tài sản trong chế

độ tài sản theo luật định và thục tiễn thực hiện, Luận văn thạc sĩ trường Đại

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

học Luật Hà Nội. Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận về quyên và nghĩa vụ của vợ chồng về tài sản trong chế độ tài sản theo luật định, phân tích thực trạng phấp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền và

nghĩa vụ của vợ chồng về tải sản trong chế độ tài sản theo luật định; từ đó đưa

ra kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật về van đề này.

<small>Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam Trường Đại học Luật</small>

<small>Ha Nội, (2021), Nxb Tư pháp, Giáo trình do nhóm tác giả biên soạn là một</small>

cơng trình đầy đủ và tồn diện, tập trung phân tích và lý giải ở góc độ khoa

học những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật hơn nhân gia đình đồng thời phân tích các quy định của Luật HN&GD năm 2014, trong đó có quy định về

nhập tài sản riêng của vợ, chồng vảo tài sản chung.

Một điểm chung của các cơng trình nghiên cứu kể trên, đó là chỉ nêu một cách khái quát vấn đề nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung dưới góc độ quyền của vợ, chồng hoặc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Như vậy, Luận văn này là cơng trình đầu tiên nghiên cứu

chun sâu, tồn diện vấn dé nhập tài sản riêng của vợ, chồng vao tài sản

<small>chung theo Luật HN&GD năm 2014.</small>

<small>3. Mục tiêu nghiên cứu</small>

3.1. Mục tiêu nghiên cứu tổng quát

Mục tiêu nghiên cứu tông quát của Luận văn là trên cơ sở nghiên cứu khái niệm, phân tích thực trạng quy định của pháp luật về việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chong, từ đó đưa ra các khuyến nghị, giải pháp nâng cao hiệu

quả của việc áp dụng quy định pháp luật trên thực tế ở Việt Nam.

3.2. Mục tiêu nghiên cứu chỉ tiết

Trên cơ sở mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn đi sâu giải quyết các

vấn đề cụ thể sau:

- Nghiên cứu làm rõ các lý luận chung về nhập tài sản riêng của vợ,

<small>chông vào tài sản chung;</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

- Hệ thống các quy định pháp luật về nhập tài sản riêng của vợ, chồng

<small>vào tải sản chung;</small>

<small>- Phân tích và đánh giá các quy định pháp luật, hiệu quả thực thi pháp luật</small>

hiện hành đối với van đề nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tai san chung;

- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng, lý giải nguyên nhân của các bất cập trong công tác áp dụng quy định về việc nhập tai sản riêng của vợ, chồng vào

<small>tai sản chung;</small>

- Kiến nghị, đề xuất giải pháp dé hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu

<small>quả thi hành pháp luật, đảm bảo thực hiện hiệu quả, phù hợp với tình hình</small>

kinh tế - xã hội hiện nay.

4. Đối tượng nghiên và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật hiện hành về việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung tại nước

<small>ta hiện nay. Từ đó phân tích, đánh giá các quy định pháp luật, đưa ra những</small>

tồn tại, nguyên nhân trong công tác áp dụng pháp luật, kiến nghị đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.

<small>4.2. Phạm vỉ nghiên cứu</small>

Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn về không gian và thời

gian. Về không gian, luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy

định pháp luật ở Việt Nam về nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản

chung. Về thời gian, đề tài giới hạn phạm vi tập trung nghiên cứu các quy

<small>định của Luật HN&GD năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có</small>

liên quan đến vấn đề nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung.

<small>5. Phương pháp nghiên cứu</small>

Đề hoàn thành luận văn, tác giả đã sử dụng rất nhiều các phương pháp

<small>nghiên cứu khác nhau. Trong đó, phương pháp duy vật biện chứng và phương</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<small>pháp duy vật lịch sử giúp tác giả đánh giá được sự phù hợp của các quy định</small>

pháp luật đối với xã hội, tìm hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa chúng.

Các quy định của pháp luật là tam gương phản chiếu xã hội va xã hội là cơ sở

thực tiễn của pháp luật.

Luận văn cũng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Dang

Cộng Sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam về xây dựng và phát triển gia đình, xã hội và đất nước.

<small>Cùng với đó, luận văn cịn sử dụng phương thức thu thập tải liệu,</small>

phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, đánh giá, tổng hợp và cùng với một số phương pháp khác. Nhưng trong đó, phương pháp chính được sử dụng là tong hợp và phân tích, cụ thé là tổng hợp các văn

<small>bản quy phạm pháp luật, những thơng tin thu nạp trong q trình nghiên cứu</small>

dé tài. Sau đó, tiến hành phân tích và đưa ra đánh giá từng van dé, từ đó rút ra kết luận chung về vấn đề đã nghiên cứu.

6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn

<small>Luận văn là một cơng trình nghiên cứu khoa học, trên cơ sở nghiên cứu</small>

các quy định của pháp luật, có sự tham khảo các quan điểm của các nhà

nghiên cứu pháp luật, đã có được một số điểm mới và đóng góp sau:

- Hệ thống những van đề lý luận về tài sản chung: tài sản riêng của vo, chồng và việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung cùng các quy định của pháp luật hiện hành về van dé này.

- Phân tích và đánh giá nội dung các quy định pháp luật về tài sản chung; tài sản riêng của vợ, chồng và việc nhập tai sản riêng của vợ, chồng vào tai sản chung; nhận diện những khó khăn, những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng quy định pháp luật trên thực tế.

- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực

<small>thi các quy định của pháp luật hôn nhân gia đình, pháp luật cơng chứng....</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

liên quan đến tài sản chung; tai sản riêng của vợ, chồng và việc nhập tai sản

riêng của vợ, chồng vào tài sản chung.

- Luận văn có thé được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công

<small>tác học tập tại các cơ sở đảo tạo luật hoặc các cá nhân khác có quan tâm,</small>

nghiên cứu về các đề tài có liên quan; là tài liệu tham khảo góp phần xây

<small>dựng hoạch định chính sách pháp luật hơn nhân và gia đình; cho cán bộ thực</small>

thi pháp luật; là tài liệu tham khảo để các văn phịng cơng chứng, các cá nhân thực hiện quyền của công dân theo quy định pháp luật một cách hiệu quả và

<small>phù hợp.</small>

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm hai chương:

Chương 1: Những van dé lý luận và quy định về nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chông theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam

Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định về nhập tài sản riêng vào tai

san chung của vợ chong và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<small>CHƯƠNG 1.</small>

NHUNG VAN DE LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH VE NHẬP TAI SAN

RIÊNG VÀO TÀI SAN CHUNG CUA VO CHONG THEO PHÁP LUAT HON NHÂN VA GIA ĐÌNH VIỆT NAM

1.1. Những vấn đề lý luận về nhập tài sản riêng vào tài sản chung của

vợ chồng

1.1.1. Quyền sở hữu của vợ chong doi với tài sản riêng

Sở hữu tải sản là quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013 của nước ta, cụ thê như sau:

“Mọi người có quyên sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải dé dành,

nhà ở, tư liệu sinh họat, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác ” [S].

Cụ thê hóa nội dung về quyền sở hữu của công dân, Nhà nước ta đã ban

hành BLDS năm 2015 để quy định một cách bao quát, chung nhất về tài sản,

quyền tài sản của cơng dân, theo đó, quyền sở hữu được thê hiện bởi ba quyền

năng là: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.

Trên cơ sở đó, Luật HN&GD cũng đã ghi nhận về chế độ tài sản của vợ

chồng, theo đó, pháp luật HN&GD cho phép và ghi nhận vợ, chồng có quyền

<small>sở hữu tài sản riêng. Việc xác định đâu là tài sản riêng, đâu là tài sản chung</small>

vợ chồng sẽ khác nhau tùy thuộc vào chế độ tài sản mà vợ chồng lựa chọn là

chế độ tai sản theo thỏa thuận hay chế độ tai sản theo luật định, việc xác định tài san chung, tài sản riêng. Về nguyên tắc, trường hợp vợ chồng lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận thì tài sản riêng của vợ, chồng được xác

định theo thỏa thuận của vợ chồng: con trường vợ chồng lựa chọn áp dụng

<small>chê độ tải sản theo luật định thì tài sản riêng của vợ, chông bao gôm:</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

- Một là, tài sản mỗi bên vợ chong có được từ trước khi kết hôn:

Theo quy định tại Điều 43 Luật HN&GD năm 2014:

“Tài sản riêng của vợ, chong gom tài sản mà mỗi người có trước khi

kết hôn ” [14].

Sự kiện kết hôn hay thời kỳ hôn nhân là một trong những căn cứ quan trọng dé xác định tài sản là tài sản chung hay tài sản riêng, vợ chồng. Theo

quy định của pháp luật hiện hành, thời kỳ hôn nhân được hiểu là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ, chồng được tính từ ngày đăng ký kết hôn được ghi nhận trong giấy chứng nhận đăng ký kết hôn hoặc kể từ ngày được công nhận

quan hệ hôn nhân do co quan nhà nước có thâm quyền cấp. Kê từ thời điểm này, quan hệ hôn nhân được pháp luật bảo vệ, vợ, chồng có quyền và nghĩa

vụ u thương, tơn trọng, chăm sóc lẫn nhau theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, quan hệ tải sản vợ, chồng sẽ phải chịu sự điều chỉnh của Luật HN&GĐ. Trước ngày đăng ký kết hôn, tài sản của mỗi bên vợ, chồng theo nguyên tắc xác định quyền sở hữu sẽ là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng nếu hai vợ chồng khơng có thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung.

Sau khi đăng ký kết hôn, họ sẽ bắt đầu cuộc sống chung và cùng nhau tạo lập

ra tai sản chung. Việc pháp luật HN&GD ghi nhận tài san ma mỗi bên vợ,

chồng có được trước khi kết hơn là tài sản riêng đã góp phan bảo vệ quyên lợi của mỗi bên vợ, chồng, bảo vệ quyền sở hữu của họ đối với tài sản của mình,

<small>việc quy định trên cũng là căn cứ pháp lý quan trọng khi phải xác định tài sản</small>

của vợ chồng khi xảy ra tranh chấp.

- Hai là, tài sản của vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng

<small>trong thời kỳ hôn nhân</small>

Theo quy định của Luật HN&GD năm 2014 thì tài sản riêng vợ, chồng là tài sản vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn

nhân. Khi chủ sở hữu tài sản để lại di sản thừa kế hay tặng cho tài sản của

<small>10</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

mình cho một bên vợ, chồng thì quyền sở hữu sẽ được xác lập với mỗi bên

vợ, chồng. Ý chí của chủ sở hữu tài sản khi đó là nhằm mục đích chuyền dịch

quyền sở hữu cho từng cá nhân chứ không phải cho cả hai vợ chồng. Do đó,

để đảm bảo quyền tự định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của mình trong

viéc chuyén dich tai san, phap luat hién hanh da ghi nhan kha nang xac lap

quyền sở hữu hay quyền sử dung riêng đối với tai sản mà vợ, chồng được

thừa kế, tặng cho riêng. Trong thực tế đời sống, chủ sở hữu thường sẽ đề lại thừa kế riêng hoặc tặng cho riêng đối với những người thân trong gia đình, họ

hàng hay bạn bè thân quen của mỗi bên vợ, chồng. Việc này được thực hiện

theo ý chí tự nguyện của chủ sở hữu mà không bị ai ép buộc. Mỗi bên vợ,

chồng khi nhận được tài sản đó có thé xác lập quyền sở hữu riêng cho minh.

Ngoài ra, trên thực tế cịn có trường hợp chủ sở hữu tuyên bồ tặng cho

chung dé lại thừa kế chung cho cả hai vợ, chồng nhưng lại xác định riêng tỷ lệ giá trị tài sản mà vợ, chồng sẽ được hưởng. Theo nguyên tắc, phần được xác

định riêng đó sẽ thuộc tài sản riêng của vợ, chồng mà khơng được nhập vào

tài sản chung, tai sản đó chỉ trở thành tài sản chung khi hai vợ, chồng tự

<small>nguyện nhập vào tài sản chung hoặc thỏa thuận tài sản đó là tài sản chung.</small>

- Ba là, tai sản phục vụ nhu cầu thiết yếu cua vo, chồng

Nhu cầu thiết yếu được giải thích tại khoản 20 Điều 3 Luật HN&GD

<small>năm 2014 như sau:</small>

“Nhu câu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở,

học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cau sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc song của mỗi người, mỗi gia đình” [14].

Đây là điểm mới trong quy định của Luật HN&GD năm 2014 mang ý nghĩa mở rộng so với khái niệm tài sản riêng chỉ bao gồm “do ding, tu trang

cá nhân ” của vợ, chồng theo Luật HN&GD năm 2000. Mặc dù đã được giải

<small>thích cụ thê như trên, tuy nhiên, việc xác định tai san là nhu câu thiệt yêu của</small>

<small>11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

vo, chồng trên thực tế vẫn phát sinh một sỐ vướng mặc nhất định. Bởi lẽ, đối

với mỗi gia đình khác nhau, hồn cảnh sống khác nhau, điều kiện kinh tế khác

nhau thì những nhu cầu được coi là thiết yếu cũng sẽ khác nhau. Có thé với

một số gia đình thì nhu cầu thiết yếu chỉ là những đồ dùng sinh hoạt hàng

ngày như quan, áo, giày, đép,... nhưng đối với một số gia đình khác thì nhu

cầu thiết yêu phải bao gồm cả những tiện nghi khác như ơ tơ, máy tính hay

những vật dụng có giá trị lớn khác. Thơng thường, khi có tranh chấp xảy ra,

cơ quan nhà nước có thâm quyền sẽ dựa vào điều kiện, hồn cảnh cụ thé của

từng gia đình để nhận định một cách linh hoạt.

- Bốn là, tài sản mà vợ chồng được chia khi chia tài sản chung trong

<small>thời kỳ hôn nhân</small>

Điều 29 Luật HN&GD năm 2000 chỉ cho phép vợ, chồng chia tài sản

chung trong thời kỳ hôn nhân trong ba trường hợp, bao gồm: chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân dé đầu tư kinh doanh riêng; dé thực hiện nghĩa

<small>vụ riêng hoặc trong trường hợp có lý do chính đáng khác. Tuy nhiên, khơng</small>

chỉ trong những trường hợp trên mà còn nhiều trường hợp khác vợ, chồng muốn chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân, vi dụ: nhiều trường hợp vợ,

chồng có mâu thuẫn với nhau nhưng khơng muốn ly hơn vì nhiều lý do ràng buộc khác mà vẫn muốn chia tài sản chung. Quy định trên có phần làm hạn chế quyền tự định đoạt về tài sản của vợ chồng, khơng cịn đáp ứng được nhu cầu thực tế của xã hội. Do đó, Luật HN&GD năm 2014 đã bỏ quy định này, cho phép vợ chồng được quyên thỏa thuận việc chia tài sản chung trong thời

kỳ hôn nhân mà không cần đáp ứng điều kiện về mục đích của việc chia tài

<small>sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo quy định định của Luật HN&GD năm2000. Tuy nhiên, thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa</small>

hai vợ, chồng cần đáp ứng các điều kiện về hình thức về nội dung được quy định từ Điều 38 đến Điều 40 Luật HN&GD năm 2014, cụ thé: về hình thức,

<small>12</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải lập thành văn bản có cơng

chứng, về nội dung của thỏa thuận không được trái quy định của pháp luật và

đặc biệt không được làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình,

qun, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mat năng

lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người khác. Trường hợp một trong hai bên vợ, chồng muốn chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhưng khơng thỏa thuận được với nhau thì có thể u cầu Tịa án giải quyết.

Theo đó, sau khi chia tài sản chung vợ, chồng trong thời kỳ hơn nhân

thì tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau

khi chia tài sản chung được xác định là tài sản riêng của vợ, chồng (Điều

<small>40Luật HN&GD năm 2014).</small>

<small>- Năm là, tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu</small>

riêng của vo, chồng.

<small>Ngoài những loại tài sản được liệt kê bên trên, pháp luật còn quy định một</small>

số loại tài sản khác thuộc sở hữu riéng cua vo, chong, cu thé nhu sau: Tai san

hình thành từ tai sản riêng của vợ, chồng (Khoản 2 Điều 43 Luật HN&GD năm

2014) [14]; Quyén su dung đất mà vo hoặc chồng được thừa kế riêng, tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng (Khoản 1 Điều 33

Luật HN&GD năm 2014) [14]; Quyền tai sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ

theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ; Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền

sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tịa án hoặc cơ quan có thâm quyền khác; Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp

luật về ưu đãi người có cơng với cách mạng: quyền tài sản khác gắn liền với

nhân thân của vợ, chồng (Điều 11 Nghị định 126/2014/NĐ-CP) [18].

Việc pháp luật HN&GD ghi nhận quyền sở hữu tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng có ý nghĩa quan trọng trong việc phân định rõ ràng quyền và

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

lợi ích riêng của mỗi bên vợ, chồng, đồng thời, là cơ sở để giải quyết các

tranh chấp liên quan đến tài sản vợ chồng. Trên thực tế, khi vợ chồng chung

sống hịa thuận, hạnh phúc thì vấn đề tài sản riêng ít khi được đặt ra, chỉ đến

khi xảy ra tranh chấp thì các quy định này mới trở nên thực sự cần thiết bởi

nó góp phần bảo vệ quyền lợi của mỗi bên vợ, chồng có tài sản riêng và bên thứ ba khi tham gia giao dịch.đó. Bên cạnh đó, việc pháp luật ghi nhận quyền

sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng góp phần tạo hành lang pháp lý vững chắc

dé mỗi bên vợ, chồng thực hiện day đủ các quyền năng của chủ sở hữu tài sản

riêng, bao gồm:

- Quyền chiếm hữu: Vợ, chồng với tư cách là chủ sở hữu sẽ tự quản lý tài sản riêng của mình, tuy nhiên, nếu người có tai sản riêng khơng thé tự mình trực tiếp quản lý tài sản đó do các điều kiện khách quan, chủ quan hoặc

khách quan (ốm đau, bệnh tật,...) thì có thể ủy quyền cho người khác quản lý tài sản của mình, trường hợp một bên vợ, chồng không thể tự quản lý tài sản riêng của mình và cũng khơng ủy quyền cho người khác quản lý tài sản riêng đó thì theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật HN&GD năm 2014, bên cịn lại trong mối quan hệ vợ chồng mới có quyền quản lý tài sản đó, tuy nhiên, việc

quản lý tai sản vẫn phải đảm bảo lợi ích của người có tài sản.

- Quyền sử dụng: Vợ, chồng có quyền tự do quyết định sử dụng tài sản của mình dé đáp ứng nhu cầu cá nhân hoặc thỏa thuận cùng sử dụng tài sản riêng của mỗi bên nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu chung cho gia đình, tuy

nhiên, quyền này có thé bị hạn chế trong trường hợp tai sản chung của vợ

chồng không đủ dé đảm bảo đời sống của gia đình thì người có tài sản riêng

có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng của mình để phục vụ nhu cầu đời sống

<small>chung của gia đình.</small>

- Qun dinh doat: Vo, chồng có quyền tự mình định đoạt tài sản riêng mà khơng phụ thuộc vào ý của người kia, tuy nhiên, cũng tương tự như quyền

<small>14</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

sử dụng, quyền định đoạt tài sản riêng cũng có thê bị hạn chế trong trường

hợp hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng là nguồn sống duy nhất của gia

<small>đình, khi đó, việc định đoạt tài sản riêng đó phải có sự thỏa thuận của cả hai</small>

vợ và chồng.

- Vợ, chồng sở hữu tài sản riêng đó có quyền nhập hay không nhập tài

sản riêng của minh vào tài sản chung của vợ chồng (khoản 1 Diéu 44 va

khoản Điều 46 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014) [14].

Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, quyết định nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng là phương thức dé mỗi bên vợ, chồng thực hiện quyền sở hữu tài sản riêng của minh. Về nguyên tắc, vợ, chồng với tư cách là chủ sở hữu có tồn quyền định đoạt số phận thực tế hay số phận pháp lý đối với tài sản riêng của mình, trong đó bao gồm cả quyền quyết định

<small>việc nhập hay không nhập tài sản riêng của mình vào tài sản chung. Mỗi bên</small>

vợ, chồng khơng phải chủ sở hữu tài sản có nghĩa vụ tơn trọng quyền sở hữu riêng cua vo, chồng mình, đồng thời, không được tự ý định đoạt tài sản của người kia cũng như không được cản trở họ thực hiện các quyền năng chiếm

<small>hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng đó.</small>

1.1.2. Khái niệm nhập tài sản riêng vào tai sản chung của vợ chong

Theo Từ điển Tiếng Việt, “Nhdp” được hiểu là việc “hop chung lại thành một khối, một chỉnh thể” [53, tr. 713]. Theo đó, đưới góc độ ngôn ngữ, việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng có thé được hiéu là việc vợ, chồng dem

tài sản riêng của mình hợp lại thành một với tài sản chung vợ chồng.

Dưới góc độ pháp lý, nhập tai sản riêng vợ, chồng vào tài sản chung xuất phát từ quyền định đoạt của vợ chồng đối với tài sản riêng. Quyền tự

định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản được thể hiện thơng qua các khía

cạnh như là chuyển giao quyền sở hữu, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc

hủy bỏ tài sản. Trong trường hợp này, vợ, chồng là chủ sở hữu tài sản riêng đã

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

từ bỏ một phần quyền sở hữu của mình và chuyền giao một phần quyền sở

hữu đó cho người còn lại để biến tài sản riêng thành tài sản thuộc sở hữu

chung vợ chồng.

Về bản chất, nhập tải sản riêng vợ, chồng là một giao dịch dân sự dựa

trên ý chí tự nguyện, thỏa thuận của vợ chồng. Trước hết, người vợ hoặc

chồng sở hữu tài sản riêng bằng quyền năng và ý chí của mình đồng ý sáp

nhập tài sản riêng vào tài sản chung, bên cạnh đó, người cịn lại trong mối

quan hệ vợ chồng đồng ý tiếp nhận tài sản riêng đó nhập vao tài sản chung.

Sự thống nhất về mặt ý chí này phải được thê hiện thông qua thỏa thuận của vợ chồng.

Quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận, định đoạt tài sản là một trong những quyền cơ bản của cơng dân nói chung và hai bên vợ, chồng nói riêng

<small>mà Nhà nước có trách nhiệm tơn trọng, bảo vệ và đảm bảo việc thực hiện.</small>

Tuy nhiên, quyền nhập tài sản riêng vợ, chồng vào tài sản chung không phải là một quyền tuyệt đối. Việc nhập tài sản riêng vợ, chồng vảo tài sản chung chỉ hợp pháp khi nó khơng xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các cá nhân, tổ chức khác, không nhằm trốn tránh các nghĩa vụ về tài sản của

VỢ, chồng. Ngoài ra, đối với những tài sản đặc biệt được nhập vào tải sản chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tn theo hình thức nhất định (ví dụ như phải được lập thành văn bản, phải được công chứng, chứng thực, đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm

qun,...) thì thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tai sản chung của vợ chồng

<small>cũng phải bảo đảm các hình thức đó.</small>

Việc pháp luật quy định quyền nhập tài sản riêng vảo tài sản chung vợ chong là cần thiết, bởi lẽ, trong đời sống hôn nhân, vợ chồng tham gia vào rat nhiều các mối quan hệ khác nhau liên quan đến tài sản, để phục vụ các nhu

<small>câu: ăn ở, di lại, học hành, chăm sóc sức khỏe, kinh doanh, xây dựng gia</small>

<small>16</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

đình,... khi đó, vợ hoặc chồng bằng ý chí của mình có thể đưa tài sản riêng

vào tài sản chung nhằm đáp ứng những nhu cầu đó [24].

Từ những phân tích trên, ta có thé hiểu: “Nhập tài sản riêng vào tài sản

chung của vợ chồng là việc vợ, chẳng chuyển giao một phan hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu riêng của mình thành tài sản thuộc sở hữu chung vợ chong,

theo sự thỏa thuận giữa vo, chong và phù hợp với các quy định của pháp luật

nhằm thực hiện các nghĩa vụ cũng như đáp ứng nhu cau về tài sản ”.

1.1.3. Ý nghĩa của việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chong

- Đảm bảo giải quyết kịp thời các nhu cau về hoạt động sản xuất, kinh doanh, thực hiện các nghĩa vụ về tài sản của vợ chong, đáp ứng nhu cau

chính đáng khác của vợ chỗng

Việc nhập tài sản riêng vợ, chồng vào tài sản chung được hình thành

nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, trong bối cảnh cảnh xã hội ngày càng phát triển, các nhu cầu thiết yếu để xây dựng và phát triển gia đình ngày càng nhiều hơn, đơi khi, tài sản chung của vợ chồng khơng đủ để đảm bảo thì vợ, chồng có thé đưa tai sản riêng của mình vào tai sản chung dé đáp ứng những

nhu cầu đó. Bên cạnh đó, nhiều trường hợp, vợ, chồng khơng muốn có sự rạch rịi về tai sản trong quan hệ hơn nhân có thé thỏa thuận khơng giữ tài sản riêng mà nhập toàn bộ tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng dé cùng nhau quản lý, sử dụng và định đoạt. Điều này thể hiện sự gắn kết cùng giải quyết

các mục tiêu chung của gia đình, là cách dé các thành viên trong gia đình chia sẻ và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, cùng nhau xây dựng gia đình phát triển, hạnh phúc.

- Tôn trọng quyền tự định đoạt tai sản của vợ chong

Vợ, chồng là chủ sở hữu tài sản thì đương nhiên có tồn quyền định

đoạt tài sản bao gồm cả việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Vợ, chồng

<small>có thê sử dụng, tài sản riêng vào mục đích khác nhau, tham gia vào các môi</small>

<small>17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

quan hệ khác nhau, quyết định nhập hay không nhập tài sản riêng vào tài sản

chung. Pháp luật không bắt buộc vợ, chồng phải nhập tài sản riêng của mình

vào tài sản chung mà dé vợ chồng tự do thỏa thuận, miễn là không trái với

điều cắm của luật và không trái đạo đức xã hội. Khi cần thiết, vợ, chồng có

thé thỏa thuận về việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung dé phuc vu cac nhu

cầu của gia đình theo hình thức phủ hợp với quy định của pháp luật.

- Giảm thiểu các mâu thuẫn có thể phát sinh giữa vợ và chong

Việc pháp luật hôn nhân và gia đình cho phép vợ, chồng được nhập tài

sản riêng của mình vào tài sản chung vợ chồng, cũng như hạn chế quyền của một bên vợ, chồng đối với tài sản riêng của mình trong một số trường hợp nhất định thé hiện mong muốn của Nhà nước trong việc tạo điều kiện để vo, chồng thé hiện trách nhiệm với gia đình, thơng qua việc đưa tài san riêng vào

sử dụng chung, nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội ấm no, phát trién.

Từ đó, góp phan bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của các thành viên trong gia

đình, tránh những mâu thuẫn xảy ra làm tổn thương đến tình cảm và sự đồn kết trong gia đình [47].

- Phát huy cách nhìn về xã hội học, thể hiện gid trị van hóa của gia

<small>đình Việt Nam.</small>

Gia đình vốn được coi là nền tảng của xã hội, là môi trường rèn luyện và giáo dục đạo đức, lối sống, ứng xử cho mỗi cá nhân. Cũng trong gia đình, mỗi cá nhân được trao nhận tình cảm u thương, gan bó, được thé hiện tinh

thần trách nhiệm của mình với người thân. Và trong các mối quan hệ của gia đình, quan hệ giữa vợ và chồng ln cần đề cao sự thủy chung, tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau góp sức xây dựng gia đình phát triển, ni dạy, chăm sóc

con cái trưởng thành. Bên cạnh đó, dé duy tri su ồn định của một gia đình thì nên tảng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi. Bởi vậy, dé đảm bảo cho

<small>vợ và chong có đủ điêu kiện đê cùng nhau giải quyêt các nhu câu chung, thiệt</small>

<small>18</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

yếu của gia đình, pháp luật HN&GD Việt Nam đã cho phép vợ, chồng trên cơ

Sở sự tự nguyện có quyền chia sẻ tài sản riêng của mình dé thực hiện các cơng

việc chung trong gia đình. Đó cũng là sự thể hiện tình yêu thương, đùm bọc,

chở che, là hệ giá trị gia đình mang tính bền vững, gắn bó.

1.1.4. Nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chong theo pháp luật

<small>Việt Nam qua từng thời kỳ</small>

Tại Việt Nam, trong xã hội phong kiến không quy định về chế độ tài sản vợ chồng, không phân biệt tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng cũng như không đặt ra việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung.

Theo các quy định điều chỉnh về vấn đề tài sản của vợ chồng được ghi nhận trong hai bộ luật là Quốc triều hình luật và Hồng Việt luật lệ thì tồn bộ tải

sản mà vợ, chồng có được từ trước khi kết hơn hoặc do vợ chồng tạo dựng

trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung của vợ chồng và được đặt

dưới sự quản lý của người chồng.

Đến thời kỳ Pháp thuộc, pháp luật đã có những quy định về chế độ

HN&GD trong đó có những quy định cụ thể về tài sản của vợ chồng và nhập

tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng. Thời kỳ này, thực dân Pháp áp dụng

chính sách “chia để tri” chia nước ta thành ba phần gồm Bắc Ky, Trung Kỳ và Nam Kỳ và tương ứng với mỗi miền đất nước thực dân Pháp ban hành và áp dụng các bộ luật riêng đề điều chỉnh các quan hệ xã hội ở nước ta, trong đó có quan hệ HN&GD, cụ thể: Ở Bắc kỳ, thực dân Pháp áp dụng bộ Dân luật

Bắc Kỳ năm 1931; áp dụng bộ Dân luật Trung kỳ năm 1936 ở Trung Kỳ và ở Nam Kỳ là tập Dân luật giản yếu năm 1883.

Do cùng chịu ảnh hưởng của BLDS Pháp năm 1804, bộ Dân luật Bắc

kỳ năm 1931 ở Bắc Kỳ và Dân luật Trung Kỳ năm 1936 ở Trung Kỳ có

những quy định tương tự nhau về quan hệ HN&GD nói chung và về quan hệ tài sản vợ chồng nói riêng. Theo đó, pháp luật ghi nhận việc vợ chồng có thé

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

lập thỏa thuận về chế độ hôn nhân, quan hệ tài sản, cụ thể như sau: “Về

đường tài sản, pháp luật chỉ can thiệp đến tồn thể vợ chơng khi nào vợ

chong khơng có tùy ý lập hơn ước riêng với nhau mà thôi, miễn là hôn ước

riêng ấy không được trái với phong tục và trái với quyên lợi của người chong là người chủ trương trong đoàn thể” [4] (Điều 104 Dân luật Bac kỳ). Theo đó, pháp luật cho phép vợ, chồng tự do thỏa thuận với nhau về chế độ tài sản bao gồm các vấn đề về tài sản chung, tài sản riêng, việc nhập hay không nhập tài sản riêng vảo tài sản chung vợ chồng thông qua hôn ước riêng. Tuy nhiên,

<small>do ảnh hưởng của phong tục tập quán và hôn ước riêng không được trái với</small>

quyền lợi của người chồng nên việc đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ, cũng như thỏa thuận trong hôn ước riêng trên thực tế cịn nhiều hạn chế.

Ngồi ra, Bộ Dân luật Bắc kỳ tại Điều 106, 107 và Dân luật Trung kỳ

tại Điều 105 đều dự liệu một chế độ tài sản pháp định áp dụng chung cho vợ

chồng trong trường hợp vợ, chồng không lập khế ước hôn nhân, cụ thé: “Néu

hai vợ chong khơng có tư ước với nhau thì cứ theo lệ hợp nhất tài sản, nghĩa là bao nhiêu lợi tức tài sản của chong va cua vợ hợp làm một với nhau” [4,5].

Theo đó, sau khi kết hơn mà hai vợ chồng khơng có thỏa thuận với

nhau thì tất cả tài sản của vợ, chồng có được trước và trong thời kỳ hơn nhân đều được nhập và hợp nhất vào tài san chung vợ chồng. Tuy nhiên, việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng chỉ mang tính chất tạm thời, bởi lẽ, theo quy định tại Điều 112 Dân luật Bắc Kỳ và Điều 110 Dân luật Trung

kỳ thì trong trường hợp vợ chồng ly hơn thì những tài sản riêng của vợ chồng đã hợp nhất tạm thời vào tài sản chung vợ chồng sẽ được phân chia cho vợ, chồng theo nguyên tắc tài sản riêng của bên nảo thì bên đó lấy lại trong

<small>trường hợp khơng có con chung; cịn trường hợp có con chung thì tồn bộ tải</small>

sản của vợ chồng do người chồng quản lý và dé dành cho các con, người vợ không được thu hồi bat kỳ tài sản riêng nào..

<small>20</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Bên cạnh đó, quan hệ HN&GD tại Nam Ky chịu sự điều chỉnh bởi Dân

luật giản yếu năm 1883. Nội dung về HN&GD chủ yếu quy định trong 8 thiên

(chương) từ thiên IV đến thiên XI về: thất tung (mat tích); giá thú (kết hơn); li

ly hơn; phụ hệ và con chính thức; con ni; thân quyền (quyền những người

trong gia đình đặc biệt là người chồng); vị thành viên, giám hộ; thành niên.

Trong đó, Dân luật giản u Nam kỳ khơng có quy định về chế độ tài

sản, khế ước, quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng nên việc điều chỉnh các quan hệ này chủ yếu được dựa theo án lệ. Ban đầu, các án lệ tại Nam Kỳ

<small>áp dụng quan niệm người vợ cũng có cả tài sản riêng và tải sản chung vợ</small>

chồng. Sau đó, do quan điểm người vợ khơng được ngang hàng với chồng nên án lệ bắt đầu thay đổi theo hướng khơng cơng nhận quyền có tài sản riêng của người vợ. Do đó, pháp luật cũng khơng đặt ra vấn đề về nhập tài sản riêng vào

tài sản chung vợ chồng.

<small>Sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành cơng, nước Việc Nam</small>

dân chủ cộng hịa ra đời. Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh 97/SL và Sắc lệnh

159/SL dé điều chỉnh các quan hệ về HN&GD ở nước ta. Hai sắc lệnh này đã

có những quy định tiến bộ nhằm xóa bỏ những hạn chế, ảnh hưởng của tư

tưởng thực dân, phong kiến trong các chế độ cũ như: quy định “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình” (Điều 5 Sắc lệnh 97/SL); “người đàn bà có chong có tồn năng lực về mặt hộ ” (Điều 6 Sắc lệnh 97/SL), theo đó, vợ chồng bình đăng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của

vợ chồng. Mặc dù Hai sắc lệnh này khơng có quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng cũng như việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng, tuy nhiên, hai sắc lệnh này vẫn có vai trị to lớn trong việc khang định bản chat của nền pháp chế mới dân chủ, tiến bộ.

Ngày 31/12/1959, Luật HN&GD năm 1959 ra đời quy định tat cả tài

<small>sản của vợ, chông không phân biệt ngn gơc có được trước, trong và sau khi</small>

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

cưới đều là tài sản chung và khơng có tài sản riêng giữa vợ và chồng; đồng thời giao cho vợ và chồng quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với

tài sản chung đó (Điều 15). Theo đó, mặc dù pháp luật khơng có quy định về nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng, nhưng việc sáp nhập này được

thực hiện một cách bắt buộc và đương nhiên khi hai vợ chồng kết hôn.

Ngày 30/04/1975, nước ta hồn tồn giải phóng, nước ta đổi tên thành

<small>nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với mục tiêu hướng tới chủ nghĩa</small>

xã hội và để phù hợp với tình hình mới, Hiến pháp năm 1980 đã được Quốc hội khóa VI thơng qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 18/12/1980. Đây là lần đầu tiên

nguyên tắc “Hôn nhân tự nguyện, tiễn bộ, một vợ một chong, vợ chong binh

dang” được ghi nhận thành nguyên tắc hiến định, được quy định tại Điều 64 Hiến pháp năm 1980, kéo theo đó, Luật HN&GD năm 1986 cũng được Quốc

hội thông qua ngày 29/10/1986 thay thé Luật HN&GD năm 1959. Trên cơ sở

kế thừa và phát triển trên cơ sở Luật HN&GD năm 1959, Luật HN&GD năm

1986 đã có quy định tách biệt về tài sản chung và tai sản riêng vợ chong,

trong đó, tài sản chung vợ chồng bao gồm: tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản do vợ chồng đường tặng cho chung, thừa

kế chung. Luật thé chế hóa ngun tắc “vợ chồng bình đẳng” thơng qua việc

xác định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng có nghĩa vụ ngang nhau trong việc

chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, những giao dịch có giá trị lớn

cần được sự thỏa thuận và đồng ý của cả hai vợ chồng. Bên cạnh đó, Luật

HN&GD năm 1986 cũng đã quy định về tai sản riêng của vợ, chồng bao gồm

những tài sản vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn hoặc tài sản được tặng cho riêng, thừa kế riêng và vợ chồng có quyền quản lý, sử dụng, định đoạt đối với

<small>tai sản riêng của mình.</small>

Trên cơ sở ghi nhận tai sản riêng, tài sản chung vợ chong, lần đầu tiên

tại pháp luật quy định một cách rõ ràng về việc: “Vợ, chong có quyên tự mình

<small>22</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

quyết định việc nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung” (Điều

<small>16 Luật HN&GD năm 1986).</small>

Ngày 09/06/2000, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật HN&GD năm

2000 tai kỳ họp thứ X, gồm 13 chương, 110 điều quy định về chế độ HN&GD

trên cơ sở kế thừa nhiều nội dung của Luật HN&GD năm 1986, đồng thời bố sung những quy định mới nhăm giải quyết những khó khăn, vướng mắc, bất

<small>cập của Luật cũ trong thời kỳ mới. Trong đó, việc nhập tài sản riêng vào tải</small>

sản chung vợ chồng tiếp tục được Luật HN&GD năm 2000 ghi nhận tại Điều 32 như sau: “Vợ, chẳng có quyên nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung” [12]. Đồng thời, Điều 13 Nghị định 70/2001/NĐ-CP đã có hướng dẫn về vấn dé này, cụ thé như sau: “Việc nhập tài sản là nhà ở, quyển sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên vợ

hoặc chong vào tài sản chung của vợ chong theo quy định tại phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chong; Van bản đó có thể được công

<small>chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật; Việc nhập tải sản riêng</small>

của một bên vào tài sản chung của vợ chỗng nhằm tron tránh thực hiện các

nghĩa vụ riêng của bên đó về tài sản thì vơ hiệu” [15].

Ngày 19/06/2014, Luật HN&GD năm 2014 được Quốc hội khóa XIII thơng qua, gồm 9 chương và 133 điều với điểm mới đáng chú ý là đây là lần đầu tiên, pháp luật HN&GD nước ta ghi nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận. Theo đó, vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tải sản theo

luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận (Khoản 1 Điều 28 Luật HN&GD năm 2014) [14]. Đây là một thay đổi lớn về tư tưởng lập pháp ở nước ta, được xây dựng trên cơ sở tham khảo pháp luật các quốc gia trên thế giới, tạo điều kiện giúp vợ chồng tự mình lựa chọn chế độ tài sản phù hợp với điều kiện,

nhu cầu của họ và gia đình. Trong chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận, vợ

<small>chơng có thê thỏa thuận về quan hệ tài sản giữa vợ, chông, phân định tài sản</small>

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<small>chung, tài sản riêng, thỏa thuận việc giữ hoặc khơng giữ tài sản riêng mà nhập</small>

tồn bộ tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng. Bên cạnh đó, nhằm đáp ứng

các yêu cầu thực tiễn xã hội, chế độ tài sản vợ chồng theo luật định cũng có

những điểm mới nổi bật trong quy định thành phần tài sản chung của vợ

chồng, nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung, quy định đăng ký tài sản quyền sở hữu đối với tài sản chung....

<small>Nhìn chung, so với pháp luật thời kỳ trước, Luật HN&GD năm 2014 đã</small>

thé hiện được sự đầy đủ, rõ ràng, cụ thé đối với mối quan hệ về tài sản giữa vợ, chồng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc áp dụng pháp luật trên thực tế và giải quyết những vướng mắc còn tồn tại ở trong xã hội.

1.2. Quy định về việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng

<small>theo Luật HN&GD năm 2014</small>

1.2.1. Quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung của

vợ chong

Khoản 1 Điều 44 Luật HN&GD năm 2014 quy định về quyền chiếm

<small>hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng như sau:</small>

“1, Vợ, chong có quyên chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng

<small>cua mình; nhập hoặc khơng nhập tai sản riêng vào tai sản chung ”[14].</small>

Theo đó, pháp luật HN&GD cho phép một bên vợ, chồng có quyền

quyết định việc nhập hay không nhập tài sản riêng của mình vào tài sản

chung. Về bản chất quyền nhập hay không nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng là quyền định đoạt của vợ chồng đối với tài sản riêng của

mình, nhưng quyết định nhập hay không nhập sẽ quyết định việc tài sản đó có

<small>cịn là tài sản riêng nữa khơng và phải thực hiện theo trình tự, thủ tục theo quy</small>

định của pháp luật [29]. Ví dụ như nếu vợ, chồng muốn sáp nhập nhà ở,

quyền sử dụng đất hay nhưng tài sản có giá trị lớn thuộc sở hữu của một bên vào tài sản chung của vợ chồng thì phải lập thành văn bản có đầy đủ chữ ký

<small>24</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

của hai bên và chứng thực theo quy định, tuy nhiên, nếu việc nhập tài sản

riêng vào tài sản chung dé trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ thì việc nhập tài

<small>san đó vào tải sản chung là vô hiệu [43].</small>

Về nguyên tắc, việc quyết định nhập hay không nhập tài sản riêng của

vo, chồng vào tài sản chung phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của người sở hữu tài sản riêng đó. Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp dé phục vu những nhu cầu thiết yếu của gia đình mà người vợ hoặc người chồng buộc phải nhập tài sản riêng của mình vào tài sản chung mới có thể giải quyết mà

người đó quyết định khơng nhập tài sản riêng vào tài sản chung thì có phần

<small>khơng hợp lý và khơng phù hợp với mục đích của quan hệ hơn nhân là xây</small>

dựng gia đình. Do đó, pháp luật HN&GD cũng có quy định hạn chế quyền định đoạt đối với tài sản riêng của vợ, chồng trong trường hợp đặc biệt dé đáp

ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, cụ thể:

“Trong trường hợp vợ chơng khơng có tài sản chung hoặc tài sản

chung khơng đủ để đáp ứng nhu câu thiết yéu của gia đình thì vợ, chong có

nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên” [14] (khoản 2 Điều 30Luật HN&GD năm 2014).

1.2.2. Điều kiện về nội dung để việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ

chong có giá trị pháp lý

Theo quy định của pháp luật, việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng (khoản 1 Điều 46

Luật HN&GD năm 2014). Xét về ban chất, đây là một giao dich dân sự giữa vợ và chồng vì thỏa thuận này làm phát sinh, thay đôi, cham dứt một phan

quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng được nhập vào tai sản chung. Do đó, trước hết thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng phải đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự theo

quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015, bao gồm:

<small>25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

- Thứ nhất, Chủ thể tham gia giao dịch có năng lực pháp luật dân sự

<small>dán sự, năng lực hành vi dân sự phù hop với giao dich dân sự được xác lập</small>

Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của các chủ thé tham gia giao dịch, do đó, chỉ có những người có năng lực

hành vi dân sự mới được pháp luật coi là có đầy đủ ý chí riêng và nhận thức được hành vi của họ để có thé tự mình xác lập, thực hiện các quyên, nghĩa vụ

phát sinh từ giao dịch dân sự đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trong giao

<small>dịch dân sự đó. Cho nên, giao dịch dân sự do cá nhân xác lập chỉ có hiệu lực</small>

nếu phù hợp với mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân được quy định từ Điều 16 đến Điều 21 BLDS 2015, ngược lại, nếu khơng đáp ứng được điều

<small>kiện này thì giao dịch sẽ vơ hiệu [42].</small>

Bên cạnh đó, chủ thé trong trường hợp này chính là bản thân hai bên vợ chồng trong thỏa thuận nhập tai sản riêng vào tài sản chung. Theo đó, hai bên vợ chồng trong quan hệ hơn nhân được xác định là đã có năng lực hành vi dân

sự đầy đủ, do đã dam bảo quy định về độ tuôi kết hôn theo điểm a khoản 1

Điều 8 Luật HN&GD năm 2014: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên” [14]. Đôi chiếu với Điều 16 BLDS năm 2015 thì trừ trường hợp một

trong hai bên vợ chồng hoặc cả hai bên vợ chồng bị tòa án tuyên bố mat năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, hai vợ, chồng trong thỏa

<small>thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung được xác định là có năng lực hành</small>

vi dân sự và được toàn quyên xác lập mọi loại giao dich

- Thứ hai, Chủ thể tham gia giao dịch hoàn tồn tự nguyện

Khơng chỉ ở Việt Nam, mà trong pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thé giới, tự nguyện là một yếu tố không thé thiếu dé một giao dich dân sự không bị coi là vô hiệu, trong đó sự tự nguyện được thể hiện thơng qua sự

thông giữa hai yếu tố là tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Vi phạm sự tự nguyện của chủ thê là vi phạm quy định của pháp luật dẫn đến giao dịch dân sự đó không

<small>26</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

phát sinh hậu quả pháp lý (bị vô hiệu). BLDS năm 2015 đã quy định một số

<small>trường hợp giao dịch dân sự xác lập khơng có sự tự nguyện sẽ bị vô hiệu, bao</small>

gồm vô hiệu do giả tạo (Điều 124); vô hiệu do xác lập tại thời điểm mà chủ thể tham gia giao dịch không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

(Điều 125); vơ hiệu do nhằm lẫn (Điều 126); vơ hiệu đo bị lừa đối, bị đe doạ,

cưỡng ép (Điều 127).

Trong việc nhập tải sản riêng vào tài sản chung, sự tự nguyện thể hiện

thông qua việc vợ chồng cùng nhau bàn bạc, thống nhất việc định đoạt tài sản và hiểu rõ về hậu quả pháp lý của các quyết định mình đã đưa ra. Sự thỏa thuận của vợ chồng cũng phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tơn trọng quyền sở hữu tài sản của vợ chồng, thật vậy, trừ một số trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định, một bên vợ, chồng có tài sản riêng thì có quyền sở hữu độc lập

và toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó mà khơng phụ thuộc vào ý chí của bên kia. Vợ chồng thỏa thuận với nhau về việc tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản chung mà không ai được quyền cưỡng ép, lừa dối, đe

dọa buộc vợ, chồng có tài sản riêng phải nhập vào tài sản chung vợ chồng.

- Thứ ba, Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cắm

<small>của luật, không trải đạo đức xã hội</small>

Dé giao dịch dân sự nói chung và thỏa thuận nhập tai sản riêng vào tài

sản chung vợi chồng nói riêng có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung

của giao dịch, của thỏa thuận không vi phạm điều cắm của luật, không trái

đạo đức xã hội. Pháp luật không đưa ra định nghĩa cụ thể về điều cắm của luật hay đạo đức xã hội, tuy nhiên, ta có thé hiểu: điều cam của luật là những quy định không cho phép chủ thé thực hiện những hành vi nhất định; đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống

xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Theo đó, vợ chồng chỉ được phép thỏa thuận đối với những tài sản được phép giao dịch, những công việc

<small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

được phép thực hiện không vi phạm điều cắm của luật, không trái đạo đức xã

hội. Những thỏa thuận của vợ chồng nói chung và thỏa thuận nhập tài sản

riêng vào tài sản chung vợ chồng nói chung được xác lập nhăm trốn tránh

<small>pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội là những giao dịch dân sự có mục đích vànội dung khơng hợp pháp, không làm phát sinh hiệu lực pháp luật của giao</small>

<small>dịch dân sự đó.</small>

1.2.3. Điều kiện về hình thức để việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chẳng có giá trị pháp lý

Việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng là một giao dịch dân sự, do đó, thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng cũng phải đáp ứng các điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự nói chung.Hình

thức của giao dịch dân sự là phương tiện thé hiện nội dung của giao dịch dân

sự màthông qua phương tiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thê

biết được nội dung của giao dịch dân sự đã xác lập. Hình thức của giao dịch

dân sự có thé thể hiện bang lời nói, bằng văn bản, có cơng chứng, chứng

thực,... tuy nhiên, đây sẽ là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong

trường hợp luật có quy định cụ thé về hình thức đối với từng loại giao dich cụ thê (Khoản 2 Điều 117 BLDS năm 2015).

Luật HN&GD năm 2014 cho phép vợ, chồng lựa chọn chế độ tài sản VỢ chồng theo luật định hoặc chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận, do đó, hình thức của thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng trước

hết phụ thuộc vào chế độ tài sản do vợ chồng lựa chọn:

- Trường hợp, vợ chồng thỏa thuận nhập tải sản riêng vào tải sản chung vo chồng trong thỏa thuận xác lập chế độ tài sản vợ chồng thì phải tuân thủ về hình thức theo quy định tại Điều 47 Luật HN&GD năm 2014 như sau:

“Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hơn, bằng hình thức văn

<small>28</small>

</div>

×