Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (28.52 MB, 118 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
HÀ NOI - 2024
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>Tôi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các</small>
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nào
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Trường Đại học Luật xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
<small>Tôi xin chân thành cảm ơn!</small>
<small>Người cam đoan</small>
<small>MỤC LỤC</small>
<small>MỤC LỤC</small>
1.1. Khái quát chung về bảo lãnh ...-- ¿2-2 + £+££+E+£E+E+zEEzErEerxerxrree 11
<small>1.1.1. Khái niệm bảo lãnh... -- 2-55 E£+EE£EE+EEtEEEvEEerkeerxerrerrxee 11</small>
1.1.2. Đặc điểm của bảo Lamhe. ceececsescsesssessssesessccessecstsvcevsscessecevsneevens 15 1.1.3. Ý nghĩa của bảo lãnh ...-- ¿+ + x+S£+E£ESEESEEEEEEerkerkerkerree 18
<small>1.1.4. Phân loại bảo lãnh...--- - - Ăc 11 1131119311111 1111885111118 xx 19</small>
1.2. Cấu trúc quan hệ bảo lãnh ...--- 2 ¿+ s E+E£+E+E£EE+EE2EEZErEerxerxrree 20 1.2.1. Chủ thỂ...-- 2-5252 E9SESEEEEE2E2E5E12111121121711111211 11111111 xe 20
<small>1.2.2. Phạm vi bảo lãnh ...- - -- -- << <5 2233332222311 ke xeeeeree 21</small>
1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo lãnh ... 22
<small>dân sự Việt NaIm...-- -- - - - << + 1111112301110 vn ng 111g ng 24</small>
1.4. Bảo lãnh theo quy định của pháp luật một số quốc gia...-- 31
<small>1.4.1. Bảo lãnh trong pháp luật dan sự Cộng hòa Pháp... 31</small>
1.4.2. Bảo lãnh trong pháp luật dan sự Trung Quốc...-..--- 34
<small>2.1. Định nghĩa bảo lãnh theo pháp luật dân sự Việt Nam ... 40</small>
<small>2.3. Phạm vi bảo lãnh ...---- 211111111 11125333 111 1119999351111 tren. 49</small>
2.4.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bảo lãnh...-- 2-2 5 szxzcs2 53 2.4.2. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận bao lãnh...--- 52-52 62
LUẬT VIỆT NAM VE BẢO LÃNH ...--- 2 ©22©22+EE+EEezEerEcrrerrerrxee 74
3.1.2. Những hạn chế, vướng mẮC...--2- 2 2 2 +E+EE+E++E+Eerxerxreee 75
3.2. Dinh hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo lãnh...-- 98 3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo lãnh... 100
KET LUẬN ...-- -- ©5252 2< 2EEEEEEEEE1 211211211211 211 1111111111211 211 11 1c 107
MỞ DAU
<small>Bảo lãnh là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được</small>
quy định tại Bộ luật Dân sự 2015. Đây là một biện pháp bảo đảm đối nhân có ý nghĩa quan trong và được sử dụng rất phổ biến trong đời sống dân sự nói
chung và kinh doanh, thương mại nói riêng. Bảo lãnh có rất nhiều loại, đáp
bảo lãnh thường xuất hiện trong các giao dịch đời sống đơn giản mà không tuân theo bất kỳ một quy chế chung nào. Sau này, khi Nhà nước phát triển hơn, pháp luật được chú trọng thì bảo lãnh nói chung được thống nhất điều chỉnh bằng pháp luật dân sự. Bảo lãnh theo pháp luật dân sự khá đa dạng và
khơng ngừng đổi mới, hồn thiện các quy định về các biện pháp bảo đảm nói chung mà khung pháp lý về bảo đảm cũng có những sự thay đổi đáng ké cả về chất lẫn về lượng.
Hiện nay, dé điều chỉnh quan hệ bảo lãnh, pháp luật dân sự đã có các
<small>quy định khung tại Bộ luật dân sự năm 2015. Pháp luật chuyên ngành (ví dụ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">như pháp luật ngân hàng) cũng có những quy định chỉ tiết để điều chỉnh. Các quy định về bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 đóng vai trị là cơ sở nên tảng dé điều chỉnh quan hệ bảo lãnh. Xuất phát từ thực tiễn đời sống dan
<small>sự, kinh doanh thương mại đa dạng, việc sử dụng biện pháp bảo đảm thực</small>
hiện nghĩa vụ là bảo lãnh ngày càng phổ biến, nhu cầu bảo lãnh và được bảo
đang còn nhiều vướng mắc, bất cập, việc thực hiện các thủ tục pháp lý liên quan đến nghĩa vụ bảo lãnh và tài sản bảo đảm trong giao dịch bảo lãnh còn nhiều hệ lụy. Trong thực tiễn xét xử tại Tòa án khi áp dụng các quy định của pháp luật về bảo lãnh cũng đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng bên
phát triển kinh tế nói riêng, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia vào quan hệ pháp luật này. Nghiên cứu đề tài “Bao lãnh trong pháp luật Việt Nam” nhằm mục đích hướng tới việc hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh tạo tiền đề cho việc áp dụng vào thực tiễn đời sống, phát huy
<small>được vai trò của bảo lãnh là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện</small>
nghĩa vụ quan trọng trong đời sống pháp luật dân sự.
Với những lý do trên đây, học viên đã lựa chọn đề tài “Báo lãnh theo
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo lãnh không phải là một chế định mới trong pháp luật Việt Nam, đây là một trong những biện pháp bảo đảm xuất hiện từ rất sớm trước khi được pháp điển hóa trong luật thành văn. Trải qua khá nhiều văn bản pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">luật cũng như các BLDS từ 2005 đến 2015, chế định bảo lãnh đã có những thay đổi lớn. Bảo lãnh là một trong các biện pháp bảo đảm được áp dụng
<small>thương mại, thậm chí cả trong hoạt động quản lý nhà nước. Bảo lãnh cũng là</small>
một trong các chế định có nhiều tranh luận về bản chất cũng như quá trình áp
<small>q trình từ khi bảo lãnh chính thức được ghi nhận trong văn bản quy phạm</small>
pháp luật cho đến nay, mỗi giai đoạn thay đổi và phát triển của bảo lãnh đều
hoc, giáo trình, tài liệu tham khảo, bai báo nghiên cứu về Bảo lãnh và các vấn dé liên quan xung quanh bảo lãnh, nếu chỉ xem xét các cơng trình nghiên cứu gan đây nhất về các quy định bảo lãnh theo pháp luật dân sự hiện hành là
chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường đại học Tây Đô, số 13 năm 2021. Bài nghiên cứu chủ yếu phân tích các yêu tố của chủ thé trong
<small>quan hệ bảo lãnh theo các quy định hiện hành của BLDS 2015, từ đó đưa ra</small>
một số kiến nghị như bé sung thuật ngữ pháp lý, sửa đổi b6 sung một số quy
đa quyên lợi cho các chủ thé.
năm 2015 và Pháp luật Dân sự Pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 07(359) tháng 04/2018. Bài nghiên cứu tập trung so sánh các yếu tố cơ bản
hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo lãnh của Việt Nam [4].
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">- Phạm Văn Đàn, Pháp luật về bảo đảm thực hiện Hợp dong tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh, Luận án tiến sỹ Luật Kinh tế năm 2016, Học viện Khoa học xã hội. Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện
thực tiễn cấp tín dụng có bảo đảm, Tạp chí Ngân hàng số 16/2020. Bài viết đã phân tích sâu về một số yêu tô của bảo lãnh như tinh chất của bảo lãnh, phạm vi bảo lãnh, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, chấm dứt bảo lãnh, quyền được hoàn trả của bên bảo lãnh, thế quyền của bên nhận bảo lãnh, từ đó đưa
đổi tình trạng pháp lý (cá nhân chết, doanh nghiệp bị pha sản....) [8].
mình để đảm bảo cho khoản vay hay khoản tín dụng được cấp của một bên khác, từ đó đưa ra một số gợi ý nhằm hoàn thiện quy định pháp luật hiện
<small>hành [7].</small>
- TS. Bùi Đức Giang, Khuôn khổ pháp ly chung vé bảo lãnh: một số
pháp lý chung về bảo lãnh theo BDLS, đồng thời phân tích các yếu tố của
<small>bảo lãnh ngân hàng theo pháp luật chuyên ngành ngân hàng nói riêng, từ đó</small>
đưa ra các lưu ý đối với bên bảo lãnh là các Ngân hàng khi tham gia vào
<small>quan hệ này [9].</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">- ThS. Liên Đăng Phước Hải (Khoa Luật, trường Dai học Kinh tế - Luật,
<small>pháp luật Việt Nam, Tạp chí Điện tử Toa an nhân dân ngày 19/04/2022. Bài</small>
cứu đã tìm hiểu và làm rõ nội hàm về bảo lãnh trong BLDS 2015 đưa lại một cái nhìn thống nhất và rút ra các bài học thực tiễn từ việc phân tích nội hàm
<small>của bảo lãnh nói trên [17].</small>
- Tưởng Duy Lượng, Có được bảo lãnh bằng tài sản cụ thể và việc bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19 (323)
<small>- Nguyễn Thị An Na - Thạc sĩ, giảng viên khoa Đảo tạo Luật sư, Học</small>
Tạp chí Nghề Luật, số 01/2021 - năm thứ mười sáu. Bài nghiên cứu của thạc
- Nguyễn Hải Ngân, Cau trúc, các moi quan hệ pháp lý của các bên tham gia bảo lãnh, Tạp chi Khoa học kiêm sát, số chuyên đề 03 năm 2020. Bài nghiên cứu nhằm nhận diện cấu trúc và đặc trưng pháp lý của mối quan
<small>hệ nghĩa vụ được tạo ra bởi bảo lãnh và hiệu lực giữa chúng với nhau, góp</small>
phần làm rõ cơ sở lý luận cho việc ứng dụng và thực thi pháp luật về bảo
<small>lãnh, đặc biệt là lĩnh vực bảo lãnh ngân hang [24].</small>
số 02 (28)/2019. Bài nghiên cứu đưa ra các van đề lý luận nhằm làm rõ các nội dung chưa rõ ràng dẫn đến những cách hiểu không thống nhất của chế
<small>định bảo lãnh trong BLDS 2015 [23].</small>
- Nguyễn Thành Nam, Hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh Ngân hàng ở
là lĩnh vực ngân hàng, đồng thời đề ra một số định hướng và giải pháp nhằm
- Nguyễn Thị Kim Thanh, Một số bình luận về bảo lãnh theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, Tạp chí Cơng thương số 11 tháng 06/2019. Bài báo đã nghiên cứu sâu về việc triển khai áp dụng các quy định về bảo lãnh theo BLDS 2015 trong thực tiễn, nêu ra các vướng mắc cịn tơn tại trong giao lưu dân sự, từ đó đề xuất một số ý tưởng nhăm hoàn thiện pháp luật [32].
- Tiến sỹ Tuấn Đạo Thanh, 7hé chấp, bảo lãnh dé đảm bảo nghĩa vụ của bên thứ ba qua thực tiễn hoạt động cơng chứng, Tạp chí Dân chủ và Pháp
lý luận về bảo lãnh. Tại bài nghiên cứu này chủ yếu nghiên cứu các quy định tại BLDS 2005 và các văn bản pháp luật khác có liên quan, xuất phát từ quy
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">định tại Điều 369 BLDS 2005 quy định về việc xử lý tài sản của bên bảo lãnh mà tiễn sỹ Tuấn Đạo Thanh cho rằng bảo lãnh có tính chất “/ỡng tinh” vừa
- Nguyễn Thi Thanh Thủy, Bảo lãnh để đảm bảo tién vay của Ngân
<small>hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học</small>
<small>năm 2017 tại Học viện Khoa học xã hội [34].</small>
<small>- Th§. Lê Văn Sua, Bảo vệ bên Bảo lãnh trong lịch sử pháp luật ViệtNam, Tạp chí Điện tử của Tịa án nhân dân, ngày 19/04/2022. Bài nghiên cứu</small>
đã phân tích và so sánh các cơ chế bảo vệ bên bảo lãnh theo tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra các gợi mở hồn thiện chế định
<small>bảo lãnh tại Việt Nam [31].</small>
Và các bài báo, công trình khoa hoc,... khác về bảo lãnh nói chung cũng
<small>Nhìn chung các bai báo, bai nghiên cứu,...trên đã nghiên cứu một cách</small>
<small>Hiện nay bảo lãnh là một trong những biện pháp bảo đảm được sử dụng</small>
thương mại nói riêng. Trên thực tế trong quá trình thực hiện các quy định về
vậy, viéc tiếp tục nghiên cứu, thực hiện đề tài này sẽ tiếp tục làm rõ những
pháp luật về bảo lãnh hiện nay để từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật dân sự về bảo lãnh.
<small>3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu</small>
<small>3.1. Mục tiêu nghiên cứu</small>
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về bảo lãnh, đánh giá thực
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật dân sự Việt Nam về bảo lãnh.
<small>3.2. Nhiệm vu nghiên cứu</small>
Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu ở trên, Luận văn dé ra các nhiệm
<small>vụ nghiên cứu sau đây:</small>
những vấn đề lý luận về bảo lãnh
<small>- Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp</small>
luật về bảo lãnh; đánh giá và chỉ ra các ưu điểm, hạn chế, các vướng mắc cần
<small>tháo gỡ và hoàn thiện.</small>
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về bảo lãnh, quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành về bảo lãnh: thực
<small>4.2. Phạm vi nghiên cứu</small>
<small>cứu các quy định hiện hành của Bộ luật Dân sự 2015, có so sánh với các quy</small>
định về bảo lãnh trong các bộ luật dân sự Việt Nam trước đây và bảo lãnh
<small>Nam trong giai đoạn từ 2015 - 2022.5. Phương pháp nghiên cứu</small>
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận văn chủ yếu sử dụng các
<small>phương pháp nghiên cứu sau:</small>
- Phương pháp lịch sử: nhằm khái quát quá trình hình thành và phát triển của chế định bảo lãnh tại Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử tương ứng
<small>với các quy định của pháp luật từng thời kỳ khác nhau. Đánh giá vai trò, ýnghĩa cua bảo lãnh qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau.</small>
hoàn thiện quy định của pháp luật về chế định bảo lãnh.
- Phương pháp so sánh: nhằm so sánh các yếu t6 cơ bản giữa pháp luật
trên thế giới như Pháp, Trung Quốc
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Lam sáng tỏ các van dé lý luận và thực tiễn của chế định bảo lãnh trong khuôn khổ pháp luật dân sự Việt Nam mà trọng tâm là BLDS 2015 hiện hành, từ đó góp phần đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo lãnh trong các quan hệ dân sự nói chung và các quan hệ kinh tế
<small>-thương mại nói riêng.</small>
Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo lãnh nhằm nâng cao hiệu quả thi hành và áp dụng pháp luật.
trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập về pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về giao dịch bảo đảm nói riêng.
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tai liệu tham khảo thì nội dung của Luận văn có kết cấu gồm ba chương, có kết luận của từng chương,
<small>bảo lãnh</small>
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>Chương 1</small>
1.1. Khái quát chung về bảo lãnh
<small>1.1.1. Khát niệm bảo lãnh</small>
Theo Từ điển Tiếng Việt “Bảo lãnh là bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ
nghĩa cơ bản đó, có thể hiểu bảo lãnh là cách thức mà các chủ thé lựa chọn dé bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ thông qua cam kết của một bên khác,
cam kết này ràng buộc trách nhiệm cho một chủ thể khác phải thực hiện và chịu trách nhiệm đối với bên có quyên.
Theo Từ điển Luật học “Bao lãnh là việc là việc người thứ ba (sau đây
<small>lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được</small>
<small>bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh khơng có khảnăng thực hiện nghĩa vụ của minh” [ L].</small>
Về nội dung, có thê thấy từ các khái niệm trên thì bảo lãnh là cam kết thực hiện nghĩa vụ cho một chủ thé khác. Về tính chất, có thé thấy nội dung khái niệm định nghĩa bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm đối nhân..
Tính chất đối nhân của bảo lãnh được hiểu là bên bảo lãnh chấp nhận làm một con nợ dự phòng của nghĩa vụ được bảo đảm, sẵn sàng dùng bất cứ
được bảo lãnh. Khác với bảo đảm đối vật, trong bảo lãnh không xác định cụ thé tài san nào dùng dé bao đảm mà bảo lãnh là bảo đảm bằng toàn bộ khối tài
<small>11</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">sản của mình. Quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thường thé hiện dưới các
<small>hình thức sau:</small>
bộ khối tài sản của mình (mà khơng chỉ rõ là tài sản cụ thé nào) dé bảo dam
<small>thực hiện nghĩa vụ. Truong hợp có sự kiện vi phạm xảy ra, trách nhiệm của</small>
<small>bên bảo đảm là phải thực hiện thay nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ trong phạm</small>
vi mà mình đã cam kết với bên có quyền. Đây là trường hợp bảo đảm đối
Thứ hai, bên bảo đảm cam kết dùng tài sản cụ thể của mình đề bảo đảm thực hiện nghĩa vu của bên có nghĩa vụ, điển hình của trường hợp này là thé
Nếu sau khi xử lý tài sản mà vẫn chưa đủ thì bên có quyền phải u cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thanh tốn phần cịn thiếu, cịn trách nhiệm của bên bảo đảm đã cham dứt cùng với việc xử lý tài sản nói trên.
đối với phần còn thiếu trong phạm vi bảo đảm mà bên bảo đảm đã cam kết với
<small>bên có quyên.</small>
<small>12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">giá về khả năng thực hiện nghĩa vụ thay của bên bảo lãnh. Bên bảo lãnh cũng có thé đã lường trước việc họ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu có phát
Từ khái niệm của bảo lãnh và các hình thức thể hiện tính chất đối nhân,
khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đầy đủ nghĩa vụ đối với bên có quyền. Nghia vụ của bên có nghĩa vụ có thé là nghĩa vụ về tài chính hoặc cũng cũng thể là nghĩa vụ khác (nghĩa vụ về tài sản, nghĩa vụ sửa chữa đồ vật,...). Cam kết bảo lãnh trong trường hợp này là cam kết thông thường, bên bảo lãnh dùng tồn bộ tài sản của mình (khơng xác
Ví dụ: Ơng A vay của ơng B 100 triệu đồng, khoản vay được ông C bảo lãnh. Đến hạn mà ơng B khơng thanh tốn được tiền cho ông A, Ông A yêu cầu ông C phải trả nợ thay cho ông B. Việc trả nợ thay này được ơng C
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Thứ hai, trong khái niệm bảo lãnh không xuất hiện yếu tố “tài sản cụ thể”. Như đã nói ở trên, tính chất đối nhân của bảo lãnh thê hiện ở việc bên bảo lãnh chấp nhận dùng bất cứ tài sản nào trong khối tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh. Bên có quyền trên cơ sở đánh
cầm cố). Tài sản cụ thé đó được dùng dé đảm bảo cho chính nghĩa vụ của bên bảo lãnh đối với bên có quyền, khơng được dùng để bảo đảm cho nghĩa vụ
<small>của bên có nghĩa vụ.</small>
Ví dụ, ơng A vay của ông B 100 triệu đồng, khoản vay được ông C bảo
ông C không tự giác thực hiện nghĩa vụ thì ơng A có quyền xử lý số tiết kiệm nói trên dé thu hồi nợ cho mình. Trường hợp ơng C cam kết bảo lãnh tồn bộ nghĩa vụ của ơng A thì sau khi xử lý xong số tiết kiệm 80 triệu đồng mà vẫn cịn thiếu thì ơng B vẫn được quyền yêu cầu ông C tiếp tục thực hiện nghĩa vụ cịn thiếu thay cho ơng A.
Thứ ba, bảo lãnh được thực hiện với hình thức bên bảo lãnh cam kết với bên có qun sẽ thực hiện cơng việc cụ thé thay cho bên có nghĩa vụ, nếu
số lượng hàng này mà có thể khơng cần nhận tiền công hay tiền hàng.
Trong quan hệ bảo lãnh, bên bảo lãnh xuất hiện với vai trò như là một
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">con nợ dự bị để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của con nợ chính.
Từ khái niệm về bảo lãnh nói trên, có thé thay bảo lãnh có các đặc điểm
<small>cơ bản sau:</small>
Thứ nhất, mối quan hệ bảo lãnh có sự phân tách cụ thể giữa quan hệ
<small>biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác được quy định trong BLDS thì</small>
chỉ có hai biện pháp là có tính chất đối nhân: bảo lãnh và tín chấp. Tuy nhiên, đối với tín chấp có thê thấy phạm vi chủ thể của tín chấp đã được xác định cụ thê là tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở, đối tượng được tín chấp là cá nhân, hộ gia đình nghèo và bên nhận tín chấp là các tơ chức tín dụng, mục đích của biện pháp tín chấp nhằm đảm bảo cho cá nhân, hộ gia đình nghèo được vay một khoản tiền dé sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng theo quy định của pháp luật
sự. Bên bảo lãnh có thể dùng năng lực và tất cả khối tài sản (không xác định cụ thé tài sản nào) của mình dé đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cho bên có nghĩa vụ, ngồi ra bảo lãnh cũng có thể kết hợp đồng thời với các biện pháp bảo đảm khác như thế chấp, cầm có,... để dùng tài sản thuộc sở hữu của mình bảo
<small>đảm thực hiện chính nghĩa vụ bảo lãnh.</small>
Thứ hai, về chủ thé trong quan hệ bảo lãnh, mặc dù khơng có quy định
<small>bảo các tiêu chí như: có uy tín hoặc có tài sản hoặc vừa có uy tín vừa chứngminh được năng lực tài chính đê đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ đơi với</small>
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">bên có quyền.
Thứ ba, đối với quyền và nghĩa vụ được thiết lập giữa bên có quyền
một phần của giao dịch hoặc nằm trong nội dung giao dịch đó cho dù bảo
<small>có tính phụ thuộc vào nghĩa vụ được bao đảm, nghĩa vụ bảo lãnh thường</small>
khơng xuất hiện trước nghĩa vụ được bảo đảm, nó có thé được thé hiện dưới hình thức là hợp đồng phụ bảo đảm cho hợp đồng chính hoặc cũng có thê là
điều khoản trong hợp đồng chính. Nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ phụ đặt ra bên cạnh nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền. Bên bảo lãnh
<small>nghĩa vụ được bảo đảm thì sẽ không phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng cho</small>
dù không có bảo lãnh thì nghĩa vụ được bảo đảm vẫn có thé tồn tại một mình..
nghĩa vụ chuyên giao nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm thì trừ trường hợp có
khơng được chuyền giao cùng với nghĩa vụ.
<small>Sự kiện bảo lãnh xảy ra khi nghĩa vụ đên hạn mà bên có nghĩa vụ vân</small>
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ, bên có quyền có thê
vụ thay cho bên được bảo lãnh. Đồng thời, khi nhận được yêu cầu bảo lãnh từ bên có quyền thì bên bảo lãnh khơng được viện các lý do về năng lực của bên
Thứ tư, mặc dù khơng có quy định phân loại và thể hiện một cách minh
hai biện pháp bảo đảm trong đó bên nhận cầm có, thế chấp xác lập một vật quyền trên tài sản cụ thé. Nếu so sánh với biện pháp bảo đảm đối nhân khác là tín chấp thì giữa bảo lãnh và biện pháp tín chấp cũng có nhiều điểm khơng giống nhau, phạm vi chủ thể của tín chấp rất hẹp khi chỉ cho phép bên tín
Nếu các bên có thỏa thuận về việc đưa tai sản cụ thé của bên bảo lãnh vào giao dịch để đảm bảo cho cam kết bảo lãnh thì việc bảo đảm bằng tài sản đó phải “mượn” hình thức cầm cố hoặc thế chấp để thực hiện. Trong quan hệ thế chấp, cam cố tài sản, bên thế chấp, cầm cé có thé dùng tài san
<small>17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì đây là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính mình. Việc tổn tại song song hai loại biện pháp bảo đảm nói trên trong quan hệ bảo lãnh cũng là một cách thức linh hoạt giúp bảo đảm tối đa quyền
<small>lợi của bên nhận bảo đảm.</small>
Về tính chất của bảo lãnh, trong bài nghiên cứu về thế chấp, bảo lãnh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của bên thứ ba qua thực tiễn hoạt động công chứng được đăng tải trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về công chứng, tác giả là tiến sỹ Tuấn Đạo Thanh cho rằng bảo lãnh là biện pháp bảo
bên bảo lãnh: “Trong trường hop đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
<small>được bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng</small>
nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của minh dé thanh toán cho bên nhận bảo lãnh” [33]. Tiến sỹ Tuấn Đạo Thanh cho rằng biện
điểm này khác biệt với quan điểm của hầu hết các nhà nghiên cứu luật học về bản chất của bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm đối nhân. Xuất phát từ khái niệm và nội hàm của bảo lãnh, học viên cũng thống nhất với quan điểm của
các nhà nghiên cứu luật học về tính chất đối nhân của bảo lãnh.
<small>Bảo lãnh với tư cách là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện</small>
<small>18</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">quyền và lợi ích hợp pháp nếu như Bên có nghĩa vụ không thực hiện hay thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ.
Bảo lãnh đảm bảo niềm tin cho các bên khi tham gia vào giao dịch dân
Hiện nay, trong đời sống dân sự nói chung bảo lãnh được sử dụng với
hiện tư cách của các bên khi tham gia vào giao dịch này (bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai đối với chủ đầu tư xây dựng dự án
<small>nhà ở,...).</small>
<small>1.1.4. Phân loại bảo lãnh</small>
thành bảo lãnh bằng nghĩa vụ tài chính hoặc bảo lãnh bằng nghĩa vụ thực hiện
<small>cơng việc, nghĩa vụ giao vật.</small>
Căn cứ vào lĩnh vực bảo lãnh, có thể phân loại bảo lãnh thành bảo lãnh ngân hàng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh trong pháp luật về xây dựng (bảo lãnh
công trình,...), bảo lãnh trong lĩnh vực thuế quan, bảo lãnh trong lĩnh vực đầu
<small>19</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">tư (bảo lãnh ký quỹ để thực hiện dự án đầu tư), bảo lãnh nhà ở hình thành
<small>trong tương lai,...</small>
Căn cứ vào chủ thé của bảo lãnh, có thể phân loại bảo lãnh thành bảo lãnh của cá nhân và bảo lãnh của tổ chức, bảo lãnh của doanh nghiệp và bao
<small>lãnh của Nhà nước, bảo lãnh của công ty mẹ với công ty con,...</small>
thành bảo lãnh có điều kiện và bảo lãnh vô điều kiện. 1.2. Cau trúc quan hệ bảo lãnh
1.2.1. Chủ thể
Quan hệ bảo lãnh được cấu thành từ ba chủ thể: bên có quyền là bên
<small>nhận bảo lãnh, bên có nghĩa vụ là bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh là bên</small>
giới hạn hay hạn chế cũng như khơng có điều kiện cụ thé dé trở thành chủ thé
Về ngun tắc, bên có quyền và bên có nghĩa vụ cùng xác lập một nghĩa vụ, nghĩa vụ này có thể gọi là nghĩa vụ được bảo đảm. Sau đó, bên bảo
lãnh đứng ra bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm đó. Cần
<small>bảo lãnh và bên được bảo lãnh).</small>
<small>Thông thường, bảo lãnh được xác lập giữa bên bảo lãnh và bên nhậnbảo lãnh, còn nghĩa vụ được bảo đảm lại được xác lập giữa bên có nghĩa vụ</small>
và bên có quyền. Do có sự khác nhau về cơ cấu thành phần chủ thé giữa các giao dịch, hợp đồng nói trên, được hiểu rằng chủ thé trong quan hệ bảo lãnh
<small>20</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">có thé khơng đồng thời là chủ thé trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm. Vì vậy, về mặt lý thuyết các chủ thé trong quan hệ bảo lãnh có thé hồn tồn tự quyết định việc xác lập giao dịch bảo lãnh mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể tham gia giao dịch xác lập nghĩa vụ được bảo đảm. Việc này cũng phần nào thể hiện tính độc lập tương đối của bảo lãnh đối với nghĩa vụ được
<small>bảo đảm.</small>
<small>Bên bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ khi bên có nghĩa vụ không thực</small>
<small>hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc khi khơng có khả năng thực hiện</small>
nghĩa vụ. Bên nhận bảo lãnh chỉ được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh nếu hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Đồng thời, bên bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi bảo lãnh đã cam kết.
<small>1.2.2. Phạm vi bảo lãnh</small>
Nếu các bên khơng có thỏa thuận cụ thể về giới hạn, phạm vi của bảo lãnh thì có thê hiểu đơn giản là bên bảo lãnh sẽ phải bảo đảm cho toàn bộ nghĩa vụ của bên bảo lãnh, đồng thời bảo lãnh với cả khoản tiền phạt cũng như bồi thường thiệt hại, điều này có thể vận dụng các quy định của pháp luật để xác định cụ thé.
nguyện, thỏa thuận và lựa chọn của các chủ thể tham gia vào quan hệ này, đặc
<small>biệt là giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.</small>
<small>21</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Như đã nói ở trên, bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm có tính chất đối nhân, được hình thành bởi sự thỏa thuận của các chủ thể. Trong quan hệ bảo lãnh có các chủ thé: bên nhận bảo lãnh, bên bảo lãnh và bên được bao lãnh.
Thứ nhất, quan hệ nghĩa vụ được bảo lãnh: một nghĩa vụ cụ thể được
<small>được bảo lãnh). Thứ hai, nghĩa vụ bảo lãnh được hình thành từ sự thỏa thuậncủa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Thứ ba, nghĩa vụ hồn lại hình thành</small>
giữa bên được bảo lãnh đối với bên bảo lãnh nếu bên bảo lãnh đã thực hiện
<small>xong nghĩa vụ bảo lãnh.</small>
nghĩa vụ) phải hình thành nên một nghĩa vụ cụ thể xác định. Nghĩa vụ này có
(ví dụ, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, bên có quyền và bên có
không phải là một chủ thể trong nghĩa vụ được bảo đảm giữa bên có quyền và
thì mới phát hành được bảo lãnh. Mối quan hệ giữa bên có quyền và bên có nghĩa vụ được hình thành từ giao dịch mà cơ bản nó ton tại độc lập với quan
<small>22</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">hệ bảo lãnh của bên thứ ba. Theo từng cơ cấu giao dịch riêng và mang tính độc lập như vậy lại hình thành nên các quyền và nghĩa vụ khác nhau của từng chủ thể trong từng quan hệ.
Giữa bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh tồn tại quan hệ bảo lãnh, việc
<small>khơng đúng hoặc bên có nghĩa vụ khơng có khả năng thực hiện.</small>
<small>bên có nghĩa vụ khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.</small>
<small>Trường hợp xảy ra sự kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bên có nghĩa vụ phải</small>
hoàn lại giá trị nghĩa vụ mà bên bảo lãnh đã thực hiện thay cho mình. Nếu bên
trả một phần nghĩa vụ. Cơ cấu này không liên quan đến bên có qun, việc
<small>hồn trả hay khơng hồn trả sẽ phụ thuộc vào thỏa thuận hoặc mức độ thựchiện nghĩa vụ thay của bên bảo lãnh.</small>
lãnh và bên có nghĩa vụ, mối quan hệ này độc lập với bên có quyền. Bên có
việc nghĩa vụ của mình được bên thứ ba bảo lãnh. Bên có quyền khơng nhận
<small>được lợi ích trực tiêp nào trong mơi quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên có</small>
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">của bên nhận bảo lãnh, tuy nhiên về mặt pháp lý chủ thê trong hợp đồng chỉ
Thực tế, ngồi hình thức xác lập riêng đối với từng chủ thê như trên thì
theo nhu cầu phù hợp với các quy định của pháp luật.
1.3. Sự hình thành và phát triển của chế định bảo lãnh trong pháp
<small>luật dân sự Việt Nam</small>
<small>Bảo lãnh là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được</small>
quy định trong BLDS của nhiều quốc gia trên thé giới. Tại Việt Nam, bao
thay đổi lớn.
Từ thời kỳ phong kiến nhà Lê, chế định bảo lãnh đã xuất hiện và được pháp điển hóa trong Quốc triều Hình luật (Bộ luật Hồng Đức) như sau:
<small>“Người mac nợ tron mát, thì người đứng bảo lãnh phải hoàn trả tiên gốc ma</small>
<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">thơi; nếu trong văn tự có ghi rõ người sẽ trả thay, thì người ấy phải trả như "người mắc nợ, trái luật, thì bị xử phạt 80 trượng. Nếu "Người mắc nợ có con,
Xem xét Điều 590 nói trên, việc “con nợ trốn mắt” có thê được diễn
<small>giải là khơng trả được nợ hoặc là không trả đủ, không trả đúng, khi đó người</small>
<small>được xác lập theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo pháp định. Bảo lãnh</small>
<small>trả được nợ. Trường hợp này, con của người được bảo lãnh sẽ trở thành con</small>
nợ, thay thế cho cha, mẹ. Như vậy, người có nghĩa vụ bảo lãnh được hưởng quy chế của người có nghĩa vụ dự bị và chỉ trong trường hợp con nợ đã khơng
<small>cịn khả năng trả được nợ, thì người bảo lãnh mới chịu trách nhiệm [10].</small>
lãnh thông qua phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm. Theo Quốc triều Hình luật,
người bảo lãnh giới hạn nghĩa vụ của mình, nếu như khơng có sự thỏa thuận về việc bảo đảm toàn bộ.
Ở giai đoạn cận đại, dân luật Việt nam chịu ảnh hưởng rất lớn từ dân luật Pháp, việc nay được thé hiện rõ trong các BLDS Bắc Kỳ, Trung Ky và nhiều án lệ ở Nam Kỳ. BLDS Bắc Kỳ 1931 quy định, người bảo lãnh có thê
<small>cịn bao nhiêu, người bảo lãnh phải trả. Theo BLDS Trung Ky 1936, người</small>
dẫn quy chế người có nghĩa vụ dự bị của mình, mà chính tịa án, khi nhận
<small>được đơn kiện của người nhận bảo lãnh, phải đặt người bảo lãnh vào tình</small>
<small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">trạng người có nghĩa vụ dự bị bằng cách: 1) đưa người được bảo lãnh vào vụ án và tiễn hành trước thủ tục buộc người này trả nợ; 2) Cho thực hiện các biện pháp ngăn chặn tâu tán tài sản của người bảo lãnh trong thời gian xử lý tài sản
<small>của người được bảo lãnh.</small>
BLDS Bắc Kỳ năm 1931 và BLDS Trung Kỳ năm 1936 có quy định về
nợ được kế vi chủ nợ trong tat cả các quyên lợi của người này.
Tại Bộ Dân luật năm 1972, bảo lãnh được quy định cụ thé tại Thiên thứ 6 - nói về những khế ước bảo chứng và vật quyền phụ thuộc (từ Điều 1323
<small>của bảo lãnh, hậu quả của sự bảo lãnh (hậu quả giữa chủ nợ với người bảo</small>
<small>lãnh, hậu quả giữa trái hộ với người bảo lãnh, hậu quả giữa các người bảo</small>
“Điều 1325 - Sự bảo lãnh khơng thể được suy đốn mà phải có cam kết
<small>minh thị rõ ràng ”</small>
“Điêu 1330 - Người bảo lãnh khơng thể bị địi hỏi trước khi món nợ bị đáo hạn. Dấu trái hộ bị truất hạn kỳ, người bảo lãnh van được hưởng
Theo Bộ Dân luật năm 1972 thì chủ nợ có thé truy sách người bảo lãnh
thê viện dẫn biệt lợi hậu truy. Theo đó, Điều 1332 Bộ Dân luật này quy định: “Viện dan biệt lợi hậu truy là đòi hỏi trái chủ phải truy sách người trái
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><small>hộ chính trước.</small>
Muốn vậy người bảo lãnh phải viện dẫn khước biện này ngay sau khi bị truy sách và phải chỉ định cho chủ nợ biết những tài sản nào của trái hộ có thể chấp hành được để trả nợ.
<small>Những tai sản này phải là những tai sản ở trong quản hạt tòa thượng</small>
định những tài sản nào của con nợ có thé xử lý. Trường hợp này, nếu bên có quyền khơng xử lý, thì người nhận bảo lãnh phải chịu chịu thiệt hại trong mức giá trị tài sản khơng xử lý. Ngồi ra, Bộ luật này cũng quy định “Điều 1334
<small>-biệt lợi hậu truy sẽ không áp dụng cho người bảo lãnh đã khước từ -biệt lợi</small>
một nghĩa vụ phụ và có tính chất dự bị. Trừ trường hợp người mắc nợ đã
Theo Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước số 52-LCT/HĐNN8 ngày 29/04/1991 về Hợp đồng dân sự, bảo lãnh được quy định tại Điều 40 và Điều 41,cụ thé như sau:
“Điều 40. Bảo lãnh
<small>1. Bảo lãnh là việc cá nhân hoặc pháp nhân, gọi chung là người bảo</small>
2. Người bảo lãnh đã thực hiện xong cam kết, có quyên yêu cầu người
<small>27</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Điêu 41. Hình thức bảo lãnh
<small>Việc bảo lãnh phải lập thành văn bản. Văn bản bảo lãnh phải có chứng</small>
thực của cơ quan công chứng Nhà nước, nếu pháp luật có quy định” [13].
nghĩa vụ khơng thực hiện hoặc thực hiện hợp đồng không đúng khi đến hạn.
bảo lãnh đưa ra là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác bằng tài sản của mình hoặc băng việc thực hiện một cơng việc cụ thé. Giới hạn bảo lãnh chỉ năm trong việc bảo đảm cho các hợp đồng kinh tế, tương ứng với việc xử lý tài sản bảo đảm của bên bảo lãnh chỉ giới hạn trong khuôn khổ quan hệ thực hiện hợp đồng.
Thời điểm BLDS 1995 ra đời và có hiệu lực thi hành, các quy định về
lãnh thiên về một biện pháp bảo đảm đối vật nhiều hơn là một biện pháp đối nhân. Theo đó, tại Điều 366 quy định:
“]- Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyên (goi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
<small>được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên</small>
<small>người được bảo lãnh khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.</small>
2- Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của
<small>mình hoặc băng việc thực hiện công việc.</small>
<small>28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">3- Việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội được thực hiện theo quy định tại Diéu 376 của Bộ luật nay” [26].
Với việc quy định cụ thể trong BLDS đã đưa bảo lãnh từ một biện pháp bảo đảm trong hợp đồng dân sự, kinh tế trở thành một biện pháp bảo đảm
thực hiện bảo lãnh cũng như các nội dung liên quan đến quyền lợi của các bên
rằng “người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình ”, như vậy người bảo lãnh khơng thé lay danh dự và uy tín của mình ra làm đối tượng đảm bảo cho cam kết bảo lãnh.
Đến giai đoạn BLDS 2005 được thông qua ngày 14/06/2005, bảo lãnh tiếp tục được khăng định là một trong các biện pháp bảo đảm thực
<small>hiện nghĩa vụ.</small>
Theo đó, tại Điều 261 BLDS 2005 định nghĩa “Bảo lãnh là việc người
<small>bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây</small>
gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không dung nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình” [27]. Néu xem xét ngữ nghĩa trong điều khoản trên thì đã bỏ đi nội dung về việc “bền bảo lãnh chỉ
đối nhân. Tương ứng với việc quy định như trên, pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm khơng cịn điều chỉnh đăng ký đối với bảo lãnh nữa. Mặc dù
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">trong khái niệm không đề cập đến “tdi sản” của bên bảo lãnh, tuy nhiên các điều khoản về bảo lãnh của BLDS 2005 vẫn có bóng dáng của nó, BLDS
<small>2005 đã đưa vào quy định bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của</small>
mình để thanh tốn cho bên nhận bảo lãnh nếu đã đến thời hạn thực hiện
<small>nghĩa vụ thay mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng</small>
<small>nghĩa vụ.</small>
Cho đến BLDS 2015 được xem là BLDS kế thừa những tinh hoa của
khơng có q nhiều điểm khác biệt so với BLDS 2005, một số khác biệt so với BLDS 2005 chủ yếu là các sửa đơi, bồ sung mang tính chất kỹ thuật, hình
<small>thức bảo lãnh và cách thức thực hiện bảo lãnh. BLDS 2015 cũng đã bỏ đi quy</small>
định về “tdi san” của bên bảo lãnh so với BLDS 2005 mà thay thé bằng quy
BLDS sau này lại có cách tiếp cận thiên về bảo vệ bên nhận bảo lãnh nhiều hơn khi trao cho bên nhận bảo lãnh nhiều quyền hơn, cách thức thực hiện bảo lãnh có phần đơn giản hơn, thể hiện mục đích “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” nhiều hơn. Nói như vậy khơng có nghĩa là các BLDS không bảo vệ
Quá trình phát triển và hình thành chế định bảo lãnh tại Việt Nam đã
<small>có từ rât lâu, trải qua các giai đoạn lịch sử găn liên với đặc trưng của kinh tê</small>
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">- xã hội khác nhau sẽ có những thay đổi nhất định cả về chất lẫn về lượng. Cách tiếp cận về bảo lãnh và cơ cấu giao dịch về bảo lãnh đã có những sự phát triển đáng kinh ngạc yêu cầu các nhà làm luật phải cân nhắc hết sức thận trọng với mỗi điều khoản. Khơng thể phủ nhận, bảo lãnh đóng góp một
vướng mắc, rủi ro của bảo lãnh để khắc phục các hạn chế của bảo lãnh là việc làm cần thiết.
<small>không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vu” thì theo pháp luật dan</small>
<small>sự Pháp lại định nghĩa “người bảo lãnh một nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ</small>
đó đổi với người có qun nếu người có nghĩa vụ khơng tự mình thực hiện
<small>hoặc thực hiện không dung nghĩa vu” [Š].</small>
BLDS Pháp đã có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, nhìn chung chế định bảo lãnh trong BLDS Pháp được quy định rất cụ thể, phân biệt rõ
<small>bảo lãnh, hiệu lực của việc bảo lãnh giữa người có nghĩa vụ và người bảo</small>
<small>lãnh, hiệu lực của việc bảo lãnh giữa những người bảo lãnh cho cùng một</small>
người về cùng một nghĩa vụ), cham dứt việc bảo lãnh, bảo lãnh theo luật định
<small>31</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">và bảo lãnh theo quyết định của tòa án.
<small>Trong pháp luật dân sự Pháp, bảo lãnh được quy định một cách minh</small>
thị là một trong các biện pháp bảo đảm đối nhân (các biện pháp bảo đảm đối nhân theo BLDS Pháp gồm bảo lãnh, bảo lãnh độc lập và thư bảo trợ). Nếu
<small>biệt nên bảo lãnh theo pháp luật Việt Nam và bảo lãnh theo pháp luật dân sự</small>
Pháp có nhiều điểm khác biệt.
Xem xét đến đặc điểm của bảo lãnh, nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ phụ
<small>được đặt bên cạnh nghĩa vụ chính là nghĩa vụ được bảo đảm. Nghĩa vụ bảo</small>
lãnh có tính độc lập tương đối với nghĩa vụ được bảo đảm cũng như các quan
<small>hệ giữa bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh có sự khác biệt</small>
bảo lãnh, nếu không có nghĩa vụ bảo lãnh thì nghĩa vụ được bảo đảm vẫn có thê xác lập, thực hiện bình thường giữa bên có nghĩa vụ và bên có quyền.
Tính chất phụ thuộc nói trên của bảo lãnh trong BLDS Pháp được thể hiện khá rõ nét khi có những quy định về hậu quả pháp lý của việc chấm dứt
cho bên được bảo lãnh nếu đến hạn mà bên này không thực hiện hoặc khơng
<small>thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Nói cách khác, nghĩa vụ của bên bảo lãnh</small>
<small>32</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">thì đương nhiên biện pháp bảo đảm cũng phải triệt tiêu theo. Cách tiếp cận
<small>của pháp luật dân sự Pháp là đặt nghĩa vụ bảo lãnh của bên bảo lãnh mang</small>
tính chất dự bị nhiều hơn, vai trị của bên bảo lãnh khơng được xem là “đồng
<small>trả nợ” với bên được bảo lãnh.</small>
bên có nghĩa vụ thì bên nhận bảo lãnh mới được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, ngược lại bên bảo lãnh có được yêu cầu bên có quyền phải tiến hành các thủ tục yêu cầu và bán tài sản của bên có nghĩa vụ trước, khi bên có nghĩa vụ khơng cịn tài sản để thực hiện nghĩa vụ nữa thì bên bảo lãnh mới
<small>thực hiện nghĩa vụ thay.</small>
Điều 2298 BLDS Pháp quy định “người bảo lãnh chỉ phải thực hiện
<small>thực hiện khơng đúng nghĩa vụ và trước đó người có nghĩa vụ đã được yêu</small>
lãnh từ bỏ quyên yêu cdu người có quyển phải yêu cau người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ băng tài sản của mình trước, hoặc trừ trường hợp người
<small>bảo lãnh phải liên đới chịu trách nhiệm với người có nghĩa vụ; trong trường</small>
hợp này, hiệu lực của việc bảo lãnh được diéu chỉnh theo các quy định về
<small>nghĩa vụ liên doi” [5].</small>
bảo lãnh từ bỏ quyền yêu cầu người có quyền phải yêu cầu người có nghĩa vụ
<small>thực hiện nghĩa vụ băng tai sản của mình trước thì đương nhiên người có</small>
<small>33</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>Việc kê biên và bán tài sản của bên có nghĩa vụ đặt ra trong hai trường hợp:</small>
Nhìn chung, về cách thức thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, pháp luật dân sự
<small>cách thức thực hiện bảo lãnh như trên.</small>
Ngồi ra, về hình thức của bảo lãnh, nếu thông thường hiểu đơn giản là sự thỏa thuận hoặc cam kết của bên thứ ba về việc thực hiện nghĩa vụ thay
nguyện thì trong pháp luật dân sự Pháp có quy định thêm về các hình thức
<small>có nghĩa vụ trước khi thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ.</small>
1.4.2. Bảo lãnh trong pháp luật dân sự Trung Quốc
Thuật ngữ bảo lãnh được định nghĩa trong BLDS Trung Quốc năm 2020 có nguyên gốc là từ “Bao chứng”: “Bảo chứng nghĩa là (1) cam đoan, dam bảo diéu gì hoặc (2) lam chứng bảo lãnh cho người khác (về hành vi, tài
<small>sản hoặc tin dụng)” [15, tr.396].</small>
mang trái vụ không thực hiện trái vụ đến hạn hoặc phát sinh tình huong khác
<small>theo thỏa thuận thì người bảo lãnh sẽ thực hiện trái vụ hoặc chịu trách nhiệm</small>
<small>34</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">hợp dong” [15, D681].
Bảo lãnh trong pháp luật dân sự Việt Nam không bắt buộc yêu cầu đến ý kiến của người có nghĩa vụ, nói cách khác, bên thứ ba có thé đơn phương
đưa ra đề nghị bảo lãnh đối với bên có quyền mà có thể khơng xuất phát từ đề
với pháp luật dân sự Trung Quốc cũng có cách hiểu tương tự khi quy định:
“Hop dong bảo lãnh là hop đồng kèm theo của hợp đồng trải quyén
<small>trải vụ chính, người thứ ba đơn phương đưa ra bảo lãnh với người có trải</small>
Nhìn chung, cách hiểu cơ bản về bảo lãnh trong pháp luật dân sự Trung
luật dân sự Pháp, hợp đồng bảo lãnh của pháp luật dân sự Trung Quốc xuất
<small>với pháp luật dân sự Việt Nam.</small>
Pháp luật dân sự Trung Quốc xác định đối tượng không được làm
<small>người bảo lãnh: “co quan pháp nhân không được pháp làm người bảo lãnh,</small>
trừ trường hợp được Quốc vụ viện phê chuẩn sử dụng các khoản vay từ chính
phi lợi nhuận vì mục đích cơng ích, tổ chức phi pháp nhân không được phép làm người bảo lãnh” [15, D683]. Có thê thấy, bên bảo lãnh theo pháp luật Việt Nam có thể khơng hạn chế hoặc cắm một chủ thé xác định nào, được hiểu giới hạn phạm vi chủ thể được làm bên bảo lãnh theo pháp luật dân sự Việt Nam là linh hoạt và rộng rãi, cịn theo pháp luật dân sự Trung Quốc có
<small>35</small>
</div>