Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.43 KB, 17 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO</b>
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT</b>
<b>Giảng viên hướng dẫn :TS. Đoàn Đức Hiếu</b>
<b>Sinh viên thực hiện :</b> Nguyễn Minh Phúc – 21143197
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>MỤC LỤC</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Các quá trình nhận thức cũng như mọi lĩnh vực khác nhau của thế giới hiện thực luôn vận động theo quy luật khách quan. Các quy luật của thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy là những mối liên hệ bền vững, bản chất và tất yếu, lặp đi lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng. Trong lĩnh vực nhận thức, nhận thức của con người diễn ra hết sức tinh vi, phức tạp, nó cũng thân thủ theo những quy luật nhất định. Những quy luật của tư duy đã trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều khoa học như sinh lý thần kinh cao cấp, tâm lý học, y học, logic học và triết học. Những quy luật của tư duy và logic hình thức nghiên cứu khơng phải là toàn bộ những quy luật mà tư duy trong quá trình nhận thức phải tuân theo mà chỉ là những quy luật của tư duy hình thức. Nhưng quy luật này phản ánh những mối liên hệ có bản, tất yếu, bản chất giữa các đơn vị cấu thành của tư tưởng mà nó phát sinh trong quá trình thực hiện các thao tác tư duy.
Đặc trưng chung nhất, cơ bản nhất và các quy luật của ta. Lưu ý hình thức là nó gắn với các quy luật hình thức của các thao tác tư duy khác nhau như : suy luận, định nghĩa, phân loại và đến lượt, các quy tắc logic lại là những điều kiện bảo đảm cho tính hiệu quả thực tiễn của những thao tác tư duy nói trên. Vì vậy những quy luật logic hình thức theo một nghĩa nào đó phục vụ tích cực cho q trình nhận thức. Tư duy theo quy luật sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình nhận thức. Tác động của quy luật logic biểu hiện rất khác nhau trong các kết cấu suy luận. Trong suy luận giá trị chân thực của kết luận không chỉ tất yếu được rút ra bởi giá trị chân thực của tiền đề mà còn lệ thuộc vào tính hợp logic của suy luận, tức là bản thân suy luận phải tuân thủ các quy tắc logic nhất định.
Quy luật tư duy hình thức suy cho cùng không phải là bản chất nội tại của tư duy mà nó xa rời các tính chất và quan hệ của thế giới hiện thực. Trái lại, những quy luật này phát sinh, hình thành trong quá trình ngày càng phản ánh đầy đủ, chính xác những quy luật của bản thân thế giới khách quan. Theo Lênin : “ quy luật logic chính là sự phản ánh cái khách quan trong nhận thức chủ quan của con người ” . Điều đó có nghĩa là những quy luật logic của bất cứ một thao tác tư duy nào suy cho cùng cũng bị quy định bởi những quy luật tất yếu khách quan của thế giới hiện thực. Như vậy , cơ sở khách quan của tính logic của tư duy là cây cầu nối liên kết những quy luật logic
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">với những quy luật của thế giới vật chất khách quan. Những quy luật của tư duy hình thức ( quy luật logic hình thức ) vì vậy mang đặc trưng khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người nhưng lại được hình thành trong ý thức của họ. Quy luật của tư duy hình thức vì vậy một mặt không đồng nhất tuyệt đối với quy luật vận động phát triển của thế giới, mặt khác lại nằm trong thể thống nhất biện chứng với chúng. Chính vì vậy, quy luật của tư duy hình thức cũng như mọi quy luật khách quan khác mặc dù được nhận thức trong một thể thống nhất giữa cái khách quan và cái chủ quan song nếu trừu tượng nhưng hình thức chủ quan của tư duy biểu đạt chủng thì những quy luật này suy cho cùng đều bị quy định bởi nội dung khách quan của thế giới hiện thực. Chúng khơng do ai tạo ra, mà nó là kết quả của q trình nhận thức thơng qua hoạt động thực tiễn của con người và được con người phát hiện, sử dụng nhằm đi sâu nhận thức, giải thích và cải tạo thế giới. Tính khách quan, tính khoa học của những quy luật tư duy hình thức còn thể hiện ở chỗ những quy luật này khơng lệ thuộc vào tính giai cấp, tính dân tộc và kết cấu tư duy của con người như nhau .
Khác với các quy luật biện chứng là những quy luật phản ánh tính tất yếu khách quan lặp đi lặp lại một cách bền vững của sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan ( tự nhiên , xã hội và tư duy ) thì quy luật của tư duy hình thức phản ánh quan hệ giữa các tư tưởng các đơn vị cấu thành của nó mà bản thân chúng phản ánh mặt ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng. Quy luật của tư duy hình thức vì vậy không hề mâu thuẫn với quy luật biện chứng. Con người không thể nhận thức được sự vật, hiện tượng nếu chỉ xem chúng trong quá trình vận động biến đổi không ngừng trong không gian và thời gian mà bỏ qua sự nhận thức mặt ổn định tương đối của chúng , có nghĩa là bỏ qua sự nhận thức sự vật, hiện tượng trong sự thống nhất giữa lượng và chất của chúng trong không gian, thời gian xác định mà nó cịn là nó, phân biệt được với sự vật, hiện tượng khác.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Cơ sơ khách quan, cái mà quy định tư duy muốn phản ánh đúng hiện thực phải tuân thủ theo những quy luật xác định là bản thân sự tồn tại, vận động, phát triển không ngừng của thế giới. Trong thế giới đó mọi sự vật, hiện tượng liên hệ với nhau, tác động qua lại với nhau theo những cách thức nhất định tạo nên một thế giới mn hình mn vẻ, ln vận động biến đổi nhưng tuân thủ theo những quy luật biện chứng khách quan. Con người trong hoạt động thực tiễn ln có nhu cầu nhận thức thế giới trong sự tồn tại ổn định cũng như trong khuynh hướng vận động phát triển của nó. Mỗi sự vật, mỗi hiện tượng trong khơng gian, thời gian xác định được phân biệt với sự vật, hiên tượng khác bởi tính ổn định tương đối của chính sự tồn tại của mình. Trên cơ sở đó, tư duy con người muốn phản ánh đúng mặt ổn định tương đối của các sự vật, hiện tượng phải tuân theo quy luật đồng nhất. Luật đồng nhất là sự phản ánh tính tương đối ổn định và xác định của sự vật, hiên tượng vào trong óc con người. Mỗi sự vật, hiện tượng trong không gian, thời gian xác định chỉ đồng nhất với chính nó, vì vậy, tư duy phản ánh về sự vật cũng chỉ đồng nhất với chính mình mà thơi. Ví dụ: Nguyễn Trãi là Nguyễn Trãi, không thể đồng nhất Nguyễn Trãi với bất cứ ai trên thế giới này ngoài chính bản thân ơng
Trên cơ sở xét mặt ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng cho thấy mọi sự vật, hiện tượng trong không gian, thời gian xác định chỉ đồng nhất với chính nó. Qui luật đồng nhất của tư duy được phát biểu như sau: Trong quá trình lập luận bất cứ tư tưởng nào cũng phải được diễn đạt chính xác, phải có nội dung xác định, muốn vậy, mọi tư tưởng phải đồng nhất với chính nó.
Quy luật đồng nhất được diễn đạt “A là A”, hay A ≡ A, A → A.
Tính đồng nhất của tư duy suy cho cùng bị chi phối bởi tính đồng nhất của chính sự vật, hiện tượng. Sự đồng nhất của tư duy được hiểu trên một số phương diện sau:
Thứ nhất, mỗi sự vật, hiện tượng cần phải được phân biệt với sự vật, hiện tượng khác. Vật nào phải là vật ấy, nếu khơng nhận thức được như vậy thì tư duy sẽ hỗn loạn. Trong trường hợp này yêu cầu đồng vẹn, độc lập ổn định tương đối trong một giới hạn nhất định của sự vận động phát triển.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Thứ hai, bản thân mỗi sự vật, hiện tượng ln nằm trong q trình vận động biến đổi không ngừng.Trong một giới hạn nhất định, bản thân sự vật, hiện tượng được phân biệt thành các hình thái, các giai đoạn khác nhau. Vì vậy, những tư tưởng phản ánh về một sự vật, hiện tượng ở những không gian, thời gian khác nhau không nhất thiết phải đồng nhất với nhau.
Ví dụ: A là một học sinh giỏi khi A còn là học sinh phổ thông. Nhưng A lại là sinh viên kém khi A học đại học. Khơng có lý do gì A đã học giỏi thời phổ thông lại buộc A phải giỏi thời đại học.
Thứ ba, trong một không gian, thời gian xác định, bản thân sự vật, hiện tượng bộc lộ rất nhiều thuộc tính, quan hệ khác nhau.Quy luật đồng nhất địi hỏi khi đã có một tư tưởng nào đó phản ánh một mặt, một phương diện nào đó của sự vật, hiện tượng thì trong suốt q trình suy luật tư tưởng đó phải ln đồng nhất với chính nó. Quy luật đồng nhất của tư duy bảo đảm cho tư duy được xác định và nhất quán. Quy luật này về bản chất không hề mâu thuẫn với quy luật biện chứng. Để phản ánh đúng hiện thực tư tưởng cần thiết phải không ngừng biến đổi cho phù hợp với sự biến đổi của đối tượng. Điều đó có nghĩa là trong một thời gian không gian khác nhau, tư tưởng phản ánh về đối tượng không phải bất biến. Yêu cầu của quy luật đồng nhất là trong một không gian thời gian xác định khi sự vật, hiện tượng khác thì trong q trình lập luận về nó khơng được tùy tiện thay đổi hay biến đổi tư tưởng, không được vơ căn cứ thay một tư tưởng, một phán đốn, một khái niệm này bằng một tư tưởng, phán đoán hay khái niệm khác.
Tư duy vi phạm yêu cầu của quy luật đồng nhất sẽ dẫn đến hậu quả “bất đồng ngôn ngữ”, tự mâu thuẫn hay ngụy biện. Trong tranh luận việc sử dụng các thuật ngữ tùy tiện thiếu thống nhất thường dẫn đến những cuộc đôi co bất phân thắng bại hay đảo lộn sự thật. Sự vơ tình thay đổi thuật ngữ sẽ làm tư duy thiếu mạch lạc, thiếu chính xác và làm mất khả năng thơng tin, do dó, làm giảm hiệu quả các hoạt động thực tiễn. Sự cố ý sử dụng các thuật ngữ mập mờ đa nghĩa tạo nên các khái niệm không xác định để dễ bề thay đổi chúng trong khi tranh luận là một trong những thủ thuật của các nhà ngụy biện. Trong logic học vi phạm quy luật đồng nhất bằng cách thay đổi tùy tiện khái niệm được gọi là lỗi đánh tráo khái niệm. Ví dụ: Có hai người nói chuyện với nhau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">A – Mây đẹp quá!
B – Mây đẹp thật, chỉ tội lắm gai.
A – Anh lên đó bao giờ chưa mà biết lắm gai? B – Cần gì phải lên, cứ nhìn là thấy.
A - Ồ, mắt anh quả là mắt thần. tơi thì chẳng thấy gì cả.
B – Không phải đâu, anh nên đi bác sĩ đi, mắt anh có vấn đề rồi.
Kỳ thực , hai anh chàng này đã dùng chung một từ đồng âm nhưng khác nghĩa . A nói đến “ mây ” là “ mây trời ” còn B lại đang bàn đến “ cây mây ” . Câu chuyện như vậy nếu cứ kéo dài không khéo lại dẫn đến một cuộc ẩu đả vô nghĩa.
Cũng trong tranh luận , các bên có thể vơ tình hay hữu ý vi phạm quy luật đồng nhất bằng cách đánh tráo luận đề. Chẳng hạn , không thiếu các cuộc họp bình xét cá nhân xuất sắc sau một hồi bàn luận dân chủ lại biến thành cuộc đấu tố , kỷ luật . Thực chất của lối đánh tráo luận đề là người ta đã thay đổi tùy tiện mục tiêu tranh luận hoặc tranh luận với một mục tiêu không xác định.
Bên cạnh lỗi đánh tráo khái niệm và đánh tráo luận đề, vi phạm quy luật đồng nhất còn biểu hiện qua lỗi logic đánh tráo đối tượng . Ví dụ : trong một cuộc hội thảo khoa học bàn về vấn đề nên chọn loại cây công nghiệp nào trong số ba loại cây : chè , cà phê , cao su trồng đại trà trên vùng đất đỏ cao nguyên . Lúc đầu , người ta bàn bạc , cân nhắc khả năng thích ứng và hiệu quả kinh tế của từng loại cây , cuộc tranh luận kéo dài dẫn đến bàn hình thức đầu tư nào vào vùng đất đỏ cao nguyên là thích hợp, rồi nên hợp tác đầu tư với ai . v.v ...
Nhận thức đúng đắn , đầy đủ quy luật đồng nhất góp phần làm tư duy thêm mạch lạc , rõ ràng , nhất quán , cũng như giúp người tranh luận phát hiện lỗi logic của mình và của đối phương nhằm đưa các cuộc tranh luận tới kết quả .
Có thể nói quy luật đồng nhất là quy luật cơ bản của tư duy hình thức. Từ quy luật đồng nhất sinh ra hai quy luật khác là quy luật cấm mâu thuẫn và quy luật bài trung. Quy luật mâu thuẫn là hình thức phủ định của quy luật đồng nhất. Nếu như mọi sự vật , hiện tượng trong thời gian , không gian xác định chỉ có thể đồng nhất hình thức với chính nó thì khơng thể có chuyện nó vừa là nó lại vừa là sự vật khác . Vì vậy, tư tưởng về một thuộc tính , quan hệ nào đó của sự vật cũng phải đồng nhất với chính
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">nó . Cũng cần phân biệt thuật ngữ đồng nhất hình thức với đồng nhất biện chứng . A là học sinh rồi A là sinh viên. Tốt nghiệp A là kỹ sư rồi trở thành nhà lãnh đạo . Trong mọi giai đoạn của cuộc đời, A vẫn là A, ở đây A đồng nhất biện chứng , đồng nhất trong sự vận động biến đổi , bao hàm cả khác biệt , mâu thuẫn . Trái lại , trên phương diện tư duy hình thức không thể đồng nhất A là học sinh với A là sinh viên, kỹ sư , nhà lãnh đạo . Từ yêu cầu của quy luật đồng nhất cho thấy khơng thể có hai tư tưởng , một khẳng định , một phủ định một cái gì đó về đối tượng ở cùng một quan hệ , trong cùng một thời gian , không gian xác định mà cùng chân thực . Điều đó có nghĩa là tư duy vốn phản ánh đúng hiện thực phải tuân thủ quy luật mâu thuẫn, phải liên tục và không mâu thuẫn.
Quy luật mâu thuẫn được phát biểu như sau : trong lập luận về một đối tượng nào đó trong thời gian, không gian và một mối quan hệ xác định không thể có hai phán đốn một khẳng định, một phủ định về cùng một thuộc tính hay quan hệ của đối tượng mà cả hai cùng chân thực. Nếu phán đốn này chân thực thì phán đốn kia phải giả dối.
Quy luật mâu thuẫn được biểu thị “khơng có chuyện A và không A”, trong logic ký hiệu quy luật mâu thuẫn được biểu diễn bằng công thức: <i>A ˄ A</i>
Quy luật cấm mâu thuẫn thể hiện trong quan hệ giữa các phán đoán như sau: các phán đoán nằm trong quan hệ hợp không thể cùng chân thực , một trong hai phán đốn đó là giả dối. Các cặp phán đoán sau đây chịu tác động của quy luật cấm mâu thuẫn:
-“S này là P” và “S này khơng là P” (hai phán đốn đơn nhất) - “Tất cả S là P” và “Tất cả S không là P” (quan hệ đối chọi trên).
- “Tất cả S là P” và “Một số S không phải là P” (các phán đốn mâu thuẫn) -“ Tất cả S khơng là P” và “Một số S là P” (các phán đoán mâu thuẫn).
Quan hệ giữa các phán đoán trong từng cặp trên đây thỏa mãn yêu cầu của quy luật cấm mâu thuẫn,chúng không cùng chân thực, một trong hai phán đốn là giả dối , thậm chí chúng có thể cùng giả dối ( cặp phán đoán A,E đối chọi trên). Như vậy, nếu biết một trong hai phán đoán trong các cặp phán đốn trên có giá trị chân thực thì có thể suy ra phán đốn cần là giả dối. Song quy luật cấm mâu thuẫn chưa chỉ ra phán đoán nào trong hai phán đoán thuộc mỗi cặp trên đây là chân thật.Tương tự như vậy,
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">nếu biết hai phán đoán trong quan hệ khơng hợp, một trong hai phán đốn là giả dối thì chưa đủ căn cứ kết luận phán đốn cịn lại là chân thực hay giả dối. Để xác định giá trị của phán đốn cịn lại cần xem xét cặp phán đốn đó nằm trong quan hệ cụ thể nào. Nếu chúng trong quan hệ đối chọi trên thì từ tiền đề trên đây không xác định được giá trị của phán đốn cịn lại . Trái lại , nếu cặp phán đốn đó trong quan hệ mâu thuẫn thì nếu một phán đốn giả dối thì phán đốn kia phải có giá trị chân thực .
Cũng cần lưu ý, tư duy không được vi phạm quy luật cấm mâu thuẫn là cấm mâu thuẫn hình thức, chứ khơng phải cấm mâu thuẫn biện chứng. Chính vì vậy, cần phân biệt một số trường hợp mà người ta dễ lầm tưởng là mâu thuẫn sau :
Hai phán đoán một khẳng định , một phủ định về hai thuộc tỉnh khác nhau của một đối tượng thì dù trong cùng một điều kiện thời gian , không gian vẫn không bị coi là vi phạm quy luật cấm mâu thuẫn . Ví dụ : “ A là học sinh giỏi văn ” và “ A là học sinh yếu kém về thể dục ” . Hai phán đốn trên có thể cùng chân thực , cùng giả dối hoặc có giá trị trái ngược nhau .
-Nếu hai phán đoán phản ánh một cách mâu thuẫn về cùng một thuộc tính của đối tượng nhưng ở điều kiện thời gian , khơng gian hay quan hệ khác nhau thì chúng không bị coi là vi phạm quy luật cấm mâu thuẫn . Ví dụ : “ A học giỏi thời phổ thông ” và “ A học kém thời sinh viên đại học ” .
-Hai phán đoán phản ánh một cách mâu thuẫn về cùng một nội dung thuộc về hai đối tượng khác nhau nhưng cũng có tên gọi không bị coi là vi phạm quy luật cấm mâu thuẫn . Ví dụ : Vải ngọt ” và “ Vải khơng ngọt ” . Phán đốn thứ nhất nói về “ vải ” là một loại quả , phán đốn thứ hai nói về “ vải ” là một chất liệu may mặc .
Quy luật cấm mâu thuẫn bảo đảm cho tư duy mạch lạc, xác định. Nếu vi phạm quy luật này tư duy trở nên không nhất quán do đó phản ánh chân thực về sự vật, hiện tượng. Nắm vững quy luật cấm mâu thuẫn cho phép rèn luyện tư duy mạch lạc logic, sắc bén, cho phép phát hiện và bác bỏ mâu thuẫn của đối phương trong tranh luận. Phương pháp bác bỏ này được gọi là “ quy về sự vô lý ”. Phương pháp bác bỏ bằng cách quy về sự vô lý được ứng dụng khá rộng rãi trong đời sống cũng như trong khoa học.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Quy luật bài trung là hình thức phân tích của quy luật đồng nhất. Nó làm rõ hơn u cầu của tính xác định, tính khơng mâu thuẫn, tính liên tục nhất quán của tư duy.
Quy luật bài trung được phát biểu như sau: các phán đoán hay tư tưởng mâu thuẫn với nhau không thể cùng giả dối, một trong hai phán đốn hay tư tưởng đó phải chân thực.
Trong thực tiễn, một sự vật, hiện tượng hoặc là có hoặc là khơng có một thuộc tính nào đó chứ khơng thể có khả năng thứ ba. Vì vậy, tư tưởng phản ánh chúng cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt quy luật khách quan đó.
Quy luật bài trung được biểu thị: “S là P hoặc S không là P”. Trong logic ký hiệu có cơng thức sau: A V <i>A</i> . Hai phán đoán trong quan hệ mâu thuẫn không cùng chân thực cũng không cùng giả dối do đó chúng tuân thủ yêu cầu của quy luật bài trung. Ngược lại, các phán đoán tuân thủ quy luật bài trung tức là các phán đốn khơng cùng giả dối thì chúng cũng khơng cùng chân thực chỉ có thể là các phán đốn trong quan hệ mâu thuẫn hay ở dạng phủ định của nhau.
Các cặp phán đoán mâu thuẫn thỏa mãn quy luật bài trung -“S này là P” và “S này không là P” (phán đoán đơn nhất).
-“Tất cả S là P” và “Một số S khơng là P” (các phán đốn mâu thuẫn). -“Mọi S không là P” và “Một số S là P” (phán đoán mâu thuẫn).
Cần lưu ý rằng: yêu cầu của quy luật cấm mâu thuẫn không cho phép các tư tưởng, phán đoán phản ánh một cách mâu thuẫn về cùng một thuộc tính của cùng một đối tượng trong cùng một điều kiện xác định. Các tư tưởng, phán đốn như vậy khơng thể cùng chân thực, song chúng vẫn có thể cùng giả dối. Trái lại, quy luật bài trung thể hiện yêu cầu nghiêm ngặt hơn. Nếu đã thỏa mãn quy luật bài trung thì các phán đốn mâu thuẫn khơng thể cùng giả dối và do đó cũng khơng thể cùng chân thực. Từ đó suy ra, các cặp phán đoán tuân thủ quy luật cấm mâu thuẫn có thể tuân thủ quy luật bài trung nhưng điều đó khơng nhất thiết. Trái lại, các cặp phán đoán nếu đã tuân thủ quy luật bài trung thì đương nhiên tuân thủ quy luật cấm mâu thuẫn. Tuy nhiên cũng như quy luật cấm mâu thuẫn, quy luật bài trung không cho phép xác định đâu là phán đoán chân thực, đâu là phán đoán giả dối. Muốn xác định chính xác giá trị của từng phán đốn phải thơng qua q trình kiểm nghiệm thực tiễn.
</div>