TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA VĂN HÓA DU LỊCH
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: Tiềm năng hiện trạng định hướng phát triển
khu du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Cát Bà – thành
phố Hải Phòng
Giang viên hướng dẫn: Ths: Trần Dũng Hải
Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Liên
Lớp : DL17A
Khoa : Văn hóa Du lịch
Hà Nội, ngày 9 tháng 5 năm 2012
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
A. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu
3.2 Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
B. NỘI DUNG
Chương 1. Một số khái niệm, cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
1. Một số khái niệm
1.1. Du lịch
1.2. Du lịch sinh thái
1.3. Khu bảo tồn tự nhiên
1.4. Vườn quốc gia
1.5. Khu dự trữ sinh quyển
2. Những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái
Chương 2. Thực trạng, tiềm năng khu du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia
Cát Bà
1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, lịch sủ văn hóa Cát Bà
1.1 Điều kiện tự nhiên
1.1.1 Vị trí địa lí Cát Bà
1.1.2 Địa hình
1.1.3 Khí hậu
1.2 Tên goi
1.3 Điều kiện kinh tế - xã hội
1.4 Lịch sử - văn hóa Cát Bà
1.5 Cơ sở vật chất kĩ thuật
1.6 Phương tiện giao thông
2. Những tiềm năng du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Cát Bà
2.1 Vị trí địa lí
2.2 Hệ động thực vật ở Vườn quốc gia
2.3 Cảnh quan thiên nhiên
2.4 Dịch vụ giải trí nghỉ dưỡng
2.5 Văn hóa lịch sử, lễ hội truyền thống
2.6 Âm thực
2.7 Các loại hình du lịch trên đảo
3. Thực trạng tổ chức hoạt động du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Cát Bà
3.1 Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Vườn quốc gia Cát Bà
3.2 Các phân khu chức năng của Vườn quốc gia Cát Bà
3.3 Thực trạng về du lịch sinh thái Vườn quốc gia Cát Bà
3.4 Những thuận lợi và khó khăn khu du lịch sinh thái Vườn quốc gia Cát Bà
3.5 Cơ hội và thách thức
3.6 Dự báo sức chịu tải của vườn quốc gia
Chương 3. Định hướng phát triển du lịch sinh thái Cát Bà
1. Đối với khu du lịch sinh thái Vườn quốc gia Cát Bà
2. Đối với chính quyền các cấp
3. Đối với cư dân địa phương
4. Tiến trình thực hiện
C. Kết luận
Một số hình ảnh
Tài liệu tham khảo
Lời mở đầu
Du lịch nói chung và du lịch sinh thái nói riêng ngày nay đã và đang phát
triển nhanh chóng như một trào lưu tại nhiều quốc gia trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng. Du lịch sinh thái ngày càng thu hút được sự
quan tâm rộng rãi của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đặc biệt trong bối
cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra nhanh chóng của Việt Nam kể từ
khi sau thời kỳ đổi mới năm 1986, khi mà các khu công nghiệp, chế xuất,
khu kinh tế được phát triển ồ ạt, dân số không ngừng gia tăng, đô thị hóa và
tập trung dân cư với mật độ dân cư cao, tình trạng ô nhiễm môi trường diễn
ra ngày càng nghiêm trọng thì việc tìm về với tự nhiên, thăm quan tại những
khu du lịch đã trở thành nhu cầu tất yếu của con người.
Du lịch sinh thái đang có chiều hướng phát triển và trở thành một bộ
phận có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất về tỷ trọng trong ngành du lịch của
Việt Nam. Thực tế là, những địa phương nào còn giữ nhiều khu thiên nhiên,
khu bảo tồn, ít bị xâm hại bởi quá trình phát triển các dự án công nghiệp và
còn có được sự cân bằng sinh thái thì nơi đó sẽ có tiềm năng phát triển tốt về
du lịch sinh thái và thu hút được nguồn du khách lớn, lâu dài và ổn định, từ
đó có thể mang lại những lợi ích kinh tế to lớn góp phần làm tăng thu nhập
quốc dân.
Tuy vậy, từ sự phát triển mạnh mẽ và nhu cầu tăng cao đối với du lịch
sinh thái ở Việt Nam trong những năm gần đây thì các khu du lịch sinh thái,
khu bảo tồn ở Việt Nam đang đối mặt với nhiều nguy cơ tiềm ẩn từ sự thiếu
ý thức tham gia của khách tham quan trong việc bảo tồn những giá trị vốn có
của nó và phát triển, và sự yếu kém trong công tác bảo tồn, bảo vệ tài
nguyên thiên… Chính sự phát triển ấy, du lịch sinh thái đang tiềm ẩn nhiều
nguy cơ và những thách thức về vấn đề môi trường – xã hội. Rõ ràng, việc
xây dựng và phát triển du lịch sinh thái ở nước ta hiện nay đang có nhiều tồn
tại và bất cập cần giải quyết để hướng tới sự phát triển bền vững ngành du
lịch của Việt Nam. Nếu trong những năm tới, ngành du lịch không có những
biện pháp hiệu quả trong công tác bảo tồn, xây dựng các khu du lịch thì
những giá trị của chúng có thể sẽ biến mất vĩnh viễn, gây thiệt hại lớn đối
với không chỉ riêng Việt Nam mà cả thể giới.
VQG Cát Bà là nơi có giàu tiềm năng về biển và rừng có thể phát triển
thành trung tâm du lịch của cả nước. Tuy nhiên, tiềm năng này chưa được
khai thác đúng mức, nguồn nhân lực và tài chính còn hạn chế, cơ sở vật chất
chưa đáp ứng được nhu cầu của khách tham quan. Đây chính là những
nguyên nhân chính khiến VQG Cát Bà chưa phát huy được tiềm năng vốn
có.
Để góp phần phát triển du lịch sinh thái của các Vườn quốc gia đem lại hiệu
quả cho kinh tế - xã hội địa phương và thực hiện tốt công tác tuyên truyền,
bảo tồn đa dạng sinh học tại khu vực, vấn đề: “Tiềm năng hiện trạng định
hướng phát triển khu du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Cát Bà – thành
phố Hải Phòng” đang trở thành vấn đề bức thiết mà xã hội đặt ra trong bối
cảnh hiện nay.
A. Những vấn đề chung
1. Lí do chọn đề tài
Trong cuộc sống đầy sôi động hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của
các ngành kinh tế, đời sống vật chất được nâng lên mạnh mẽ thì nhu cầu đi
du lich, đặc biệt là du lịch về với thiên nhiên lại càng cần thiết và người ta sẽ
đi tìm những điểm du lịch có thể làm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ.
Đảo Cát Bà-đảo lớn nhất nằm trong quần thể các đảo trong vịnh Hạ
Long, từ lâu được xác định là một trong những điểm du lịch quan trọng nhất
của vùng du lich Bắc Bộ. Cát Bà được tận hưởng sự ưu đãi của thiên nhiên
với nguồn tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng. Hải đảo Cát Bà bao
gồm một hòn đảo chính khá lớn và 366 hòn đảo lớn nhỏ khác nhau trải ra
trên một vùng biển khá rộng đề hình thành nhiều vịnh biển phẳng lặng như
Vịnh Cát Bà, Vịnh Lan Hạ, Vịnh Việt Hải và vô vàn những tùng, áng nhỏ
hơn. Đảo Cát Bà nằm giáp giới của vùng biển Vịnh Hạ Long, nổi tiếng ở
phía Bắc và Đông Bắc, ba phía Đông, Nam và Tây Nam đều hướng ra biển.
Đảo Cát Bà là hòn đảo lớn nhất của cả vùng hải đảo, nằm chếch theo hướng
Tây Bắc- Đông Nam, chiều dài khoảng 25km , chiều ngang trên dưới 10 km
với diện tích trên 200km
2
. Kể từ năm 1994 cho đến nay, hoạt động du lịch ở
đảo ngày càng nhộn nhịp lên cùng với sự phát triển của cơ sở hạ tầng và cơ
sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch. Ngành du lịch ở đây đang chứng tỏ là
một ngành kinh tế mũi nhọn. Tuy nhiên du lịch đảo Cát Bà vẫn chưa thực sự
đem lại hiệu quả kinh tế cao tương xứng với tiềm năng của nó. Hơn nữa sự
phát triển lộn xộn này đã bắt đầu cho thấy những nguy cơ có tác hại đến môi
trường tự nhiên và xã hội. Trước thực tế đó tôi đã chọn đề tài: “Tiềm năng
hiện trạng định hướng phát triển khu du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia
Cát Bà – thành phố Hải Phòng” làm đề tài tiểu luận cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu
* Mục tiêu tổng thể
Xây dựng những giải pháp thích hợp cho phát triển du lịch sinh thái,
nhằm phục vụ cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học, sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên và phát triển sinh kế bền vững cho cộng đồng địa
phương tại khu vực VQG Cát Bà.
* Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá tiềm năng phát triển du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Cát Bà.
- Tìm hiểu thực trạng hoạt động du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Cát
Bà.
- Xây dựng và đề xuất các kế hoạch, chương trình hành động, giải pháp
phát triển du lịch sinh thái bền vững ở Vườn quốc gia Cát Bà.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Tìm hiểu các tiềm năng thế mạnh cho phát triển du lịch sinh thái tại
Vườn quốc gia Cát Bà.
- Tìm hiểu thực trạng hoạt động du lịch sinh thái đang diễn ra tại khu vực
VQG Cát Bà những xu hướng tham gia du lịch sinh thái của khách du lịch
hiện nay.
- Tìm hiểu khả năng tham gia hoạt động du lịch sinh thái của người dân
địa phương: làm dịch vụ, cung cấp sản phẩm truyền thống, hướng dẫn du
lịch…
- Tìm các giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái tại Vườn quốc
gia Cát Bà.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được tiến hành tại Vườn quốc gia Cát Bà - Huyện
Cát Hải - Thành phố Hải Phòng.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Tham vấn chuyên gia: tham vấn những người có chuyên môn sâu và
hiểu biết rộng đã và đang làm trong lĩnh vực du lịch;
- Thu thập số liệu: Thu thập tài liệu thứ cấp, số liệu thống kê, các báo cáo
nghiên cứu và kết quả nghiên cứu của các dự án bảo tồn, phát triển kinh tế
xã hội, du lịch từ các viện nghiên cứu, trường đại học, VQG Cát Bà, Khu
dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà, UBND huyện Cát Hải về: điều kiện tự
nhiên và kinh tế xã hội của địa điểm nghiên cứu; Quản lý tài nguyên thiên
nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học; Các hoạt động liên quan đến du lịch trên
địa bàn nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu một số đối tượng quan trọng bao
gồm các cán bộ cấp xã, huyện; kết hợp với tham vấn các cán bộ của VQG
Cát Bà và những người dân địa phương làm du lịch và tham gia các hoạt
động du lịch sẽ là kênh thông tin hữu ích;
- Những số liệu, thông tin thu thập được phân tích, tổng hợp nhằm tìm
hiểu những đặc trưng cơ bản về giá trị đa dạng sinh học, cảnh quan thiên
nhiên, văn hoá, ẩm thực, giải trí và hiện trạng tổ chức, quản lý hoạt động du
lịch của Vườn quốc gia Cát Bà.
B. Nội dung
Chương 1. Một số khái niệm, cơ sở lí luận và cơ sỏ thực tiễn
1. Một số khái niệm
1.1 Du lịch
Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài
nơi cư trú thường xuyên nhằm đáp ứng các nhu cầu tham quan, tìm hiểu,
giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
1.2 Du lịch sinh thái
Hector Ceballos-Lascurain- một nhà nghiên cứu tiên phong về du lịch
sinh thái(DLST), định nghĩa DLST lần đầu tiên vào năm 1987 như sau: "Du
lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên ít bị ô nhiễm hoặc ít bị
xáo trộn với những mục tiêu đặc biệt: nghiên cứu, trân trọng và thưởng
ngoạn phong cảnh và giới động-thực vật hoang dã, cũng như những biểu thị
văn hoá (cả quá khứ và hiện tại) được khám phá trong những khu vực này".
Ở Việt Nam vào năm 1999 trong khuôn khổ hội thảo xây dựng chiến
lược quốc gia về phát triển du lịch sinh thái đã đưa ra định nghĩa như
sau: “Du lịch sinh thái là hình thức du lịch thiên nhiên có mức độ giáo dục
cao về sinh thái và môi trường có tác động tích cực đến việc bảo vệ môi
trường và văn hóa, đảm bảo mang lại các lợi ích về tài chính cho cộng đồng
địa phương và có đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn”.
Năm 2000, Lê Huy Bá cũng đưa ra khái niệm về du lịch sinh
thái “DLST là một loại hình du lịch lấy các hệ sinh thái đặc thù, tự nhiên
làm đối tượng để phục vụ cho những khách du lịch yêu thiên nhiên, du
ngoạn, thưởng thức những cảnh quan hay nghiên cứu về các hệ sinh thái. Đó
cũng là hình thức kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế du lịch với
giới thiệu về những cảnh đẹp của quốc gia cũng như giáo dục tuyên truyền
và bảo vệ, phát triền môi trường và tài nguyên thiên nhiên một cách bền
vững”.
1.3 Khu bảo tồn thiên nhiên
Khu bảo tồn thiên nhiên là vùng đất hay vùng biển đặc biệt được dành
để bảo vệ và duy trì tính đa dạng sinh học, các nguồn tài nguyên thiên nhiên,
kết hợp với việc bảo vệ các tài nguyên văn hoá và được quản lí bằng pháp
luật hoặc các phương thức hữu hiệu khác.
1.4 Vườn quốc gia
Vườn quốc gia là một khu vực đất hay biển được bảo tồn bằng các quy
định pháp luật của chính quyền sở tại
1.5 Khu dự trữ sinh quyển
Khu dự trữ sinh quyển thế giới là những khu vực hệ sinh thái bờ biển
hoặc trên cạn giúp thúc đẩy các giải pháp điều hòa việc bảo tồn sự đa dạng
sinh học với việc phát triển bền vững khu vực đó có giá trị nổi bật, được
quốc tế công nhận.
2. Những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái
+ Nâng cao hiểu biết cho du khách về môi trường tự nhiên; du khách
có các hoạt động góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường, bản sắc văn
hoá.
+ Khách DLST chấp nhận điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh tự nhiên với
những hạn chế của nó.
+ Tạo thêm việc làm và lợi ích cho cộng đồng địa phương
+ Lượng du khách luôn kiểm soát điều hoà
+ Phải đảm bảo lợi ích lâu dài, hài hòa cho tất cả các bên liên quan
+ Người hướng dẫn viên và các thành viên tham gia DLST phải có
nhận thức cao về môi trường sinh thái, am hiểu về điều kiện tự nhiên, văn
hóa, xã hội.
Chương 2. Thực trạng khu du lịch sinh thái vườn quốc gia Cát Bà
1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, lịch sử văn hóa Cát
Bà
1.1 Điều kiện tự nhiên
1.1.1 Vị trí địa lí Quần đảo Cát Bà
Quần đảo Cát Bà là quần thể gồm 367 đảo trong đó có đảo Cát Bà ở phía
Nam Vịnh Hạ Long, ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh,
cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 30km, cách thành phố Hạ Long
khoảng 25km.
Quần đảo có tọa độ 106
o
52’ – 107
o
07’ kinh độ đông, 20
o
42’ – 20
o
54’ vĩ
độ bắc. Diện tích gần 300km2. Dân số 8.400 người(1996) các đảo nhỏ khác:
hòn Các Ông, hòn Các Đuối, hòn Mái, hòn Quai Xanh, hòn Tai Kéo…Cát
Bà còn được gọi là đảo Ngọc là hòn đảo lớn nhất trên tổng số 1969 đảo trên
vịnh Hạ Long.
Phía Bắc giáp với Vịnh Hạ Long của tỉnh Quảng Ninh
Phía Tây giáp đảo Cát Hải của thành phố Hải Phòng
Phía Đông và phía Nam là biển Đông
Ở đây có vườn quốc gia Cát Bà được thành lập vào năm 1986 với tổng
diện tích đất tự nhiên của khu dự trữ sinh quyển đảo Cát Bà là 26240ha
trong đó diện tích mặt đất đảo là 17040 ha và 9200 ha diện tích mặt nước
biển.
1.1.2 Địa hình
Địa hình đảo Cát Bà là những dạng địa hình karst rất đặc trưng như địa hình
care, các dãy núi đá vôi bị chia cắt mạnh mẽ, các khối núi tiến ra biển, ở đây
xảy ra nhiều vụ đổ lở nên bãi biển có nhiều đá tảng lớn nằm đè nên nhau tạo
ra các bãi đá sát biển lớn.
Địa hình Cát Bà có hứơng chủ yếu là Tây Bắc – Đông Nam, cao nhất là
đỉnh Cao Vọng cao 301m thấp dần xuống phía Đông Nam là các đảo có độ
cao từ 20 – 30m.
Xen giữa các dãy núi cao là các thung lũng kiến tạo. Đây là địa hình chắn
gió đông nam nên ở đây có lượng mưa khá lớn 1800m m /năm.
Bề mặt thành tạo chủ yếu ở đây là đá vôi hệ tầng Phố Hàn, có lớp mỏng
lớp dày xen kẽ nhau ở giữa là các lớp Silic màu đen. Đá vôi hệ tầng Phố Hàn
khi bị hòa tan sẽ cho ra nhiều sản phẩm phụ, địa hình karst không điển hình.
Nhưng có một số nơi tìm thấy đá vôi thuộc hệ tầng Bắc Sơn là loại đá vôi
tinh khiết hơn vì vậy mà ở đó dạng địa hình karst rõ nét.
Do được thành tạo trên núi đá vôi nhiều tạp chất nên tầng thổ nhưỡng ở đây
dày nhưng có lẫn nhiều mảnh đá sắc cạnh, là các sản phẩm phụ không hòa
tan được của đá vôi. Đất ở đây vẫn chủ yếu là đất Feralit. Nhưng được phát
triển trên núi đá vôi nên đất màu mỡ hơn ở Đồ Sơn, đất ở đây có thành phần
cơ giới là đất thịt nặng. Ở những nơi có đá vôi thuộc hệ tầng Bắc Sơn thì
xuất hiện đất terarosa. Ở CB5 còn có cả đất phù sa aluvi do một con sông
nhỏ ở gần đó bồi tụ.
Ở bãi Cái Bèo một bờ biển hiện đại, ta có thể quan sát thấy khá nhiều vật
liệu hỗn tạp và các bậc thềm biển rất rõ ràng. Thành phần vật liệu có rất
nhiều loại khác nhau: các loại sỏi đá vôi, silic, các loại vỏ sò san hô. Bờ biển
này có nhiều vật liệu hỗn tạp như vậy là do nhiều yếu tố tạo nên. Sườn núi ở
sát bờ biển là sườn đổ lở nên khi mưa xuống sẽ cuốn các vật liệu vụn như
sỏi đá vôi và sỏi silic ra bờ biển. Bãi Cái Bèo là bãi biển đang bị xói lở nên
đã tạo ra những bern (bậc bãi). Sóng khi đánh vào những bern này lại vứt lên
những vật liệu thô như vỏ sò, xác san hô và lấy đi những vật liệu vun nhỏ
hơn. Điều đó giải thích tại sao bãi Cái Bèo có khá nhiều vật liệu thô hỗn tạp
như vậy.
Đất ở đảo do được phát triển trên núi đá vôi nên lượng ion ca được tích
lũy tạo nên loại đất có tính bazo hay trung tính tốt cho các thực vật phát triển
phong phú vì vậy thực vật trên đảo phát triển phong phú.
Trên đảo còn có vườn quốc gia Cát Bà vườn rộng 15200 ha bao gồm
9800 ha rừng núi và 5400 ha mặt nước biển chiếm trên 50% đảo cát bà.
Vùng bảo vệ nghiêm ngặt chiếm 800 ha bao gồm nhiều khu rừng nguyên
sinh, phần còn lại là 14400 ha là vùng phục hồi sinh thái. Trong vườn còn có
nhiều hang động đẹp, trong thời chiến là nơi ẩn náu lí tưởng. vùng ven biển
có nhiều vách đá dựng đứng với nhiều dải cát trắng rặng san hô và những
áng nước mặn hoặc nước lợ vùng biển trong gianh giới của vườn có độ sâu
trung bình 15 – 20 m.
Địa hình của vườn quốc gia Cát Bà đa dạng chủ yếu là núi đá vôi tiếp
giáp với biển có dộ cao trung bình 15m bị chia cắt bởi nhiều hang động.
Trong vườn có nhiều đảo nhỏ như: Đá Lat, Eo Bùa, Khuản Cao
1.1.3 Khí hậu
Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng của đại dương nên các
chỉ số trung bình về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, cũng tương đương như các
khu vực xung quanh. Tuy nhiên có đặc điểm là mùa đông thì ít lạnh hơn và
mùa hè thì ít nóng hơn đất liền.
Tổng số ngày nắng trong năm giao động từ 150 đến 160 ngày, tháng cao
nhất có 188 giờ nắng, tháng 5, tháng7.
Lượng mưa trung bình 1700 – 1800m m / năm, mùa mưa chủ yếu là rơi
vào tháng 7 và tháng 8. một năm có 2 mùa rõ rệt:
- Mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10): lượng mưa trong mùa này chiếm gần
80- 90 % tổng lượng mưa cả năm, tập trung vào các tháng 7,8,9.
- Mùa khô (từ tháng11-tháng 4 năm sau): đầu mùa khô thường hanh, cuối
mùa ẩm ướt và có mưa phùn (từ tháng 2 đến tháng 4).
Nhiệt độ trung bình là 25
o
c – 28
o
c dao động theo mùa, vào mùa hè có thê
lên trên 30
o
c, vào mùa đông có thể giảm xuống 15
o
c – 20
o
c. Nhưng có thời
điểm cớ thể giảm xuống 10
o
c khi có gió mùa đông bắc. Mùa nóng bắt đầu từ
tháng 5 đến tháng 10, mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Giữa hai
mùa chênh lệch từ 11-12
0
C.
Độ ẩm trung bình : 85% thấp nhất vào tháng1 là 73%, cao nhất tháng 4
đạt 91%. Lượng bốc hơi nước hàng năm khoảng 700mm, trong các tháng
khô hanh thường xảy ra khô hạn thiếu nước.
Sương mù thường xuất hiện vào mùa Đông và mùa xuân từ tháng 12 đến
tháng 4 năm sau. Thời gian này còn có mưa phùn (20 - 40 ngày/năm) đã làm
giảm đáng kể chế độ khô hạn trong vùng.
Dao động thủy triều 3,3 – 3,9m
Độ mặn nước biển từ 0,930% vào mùa mưa – 3,11% vào mùa khô
Gió bão trong vùng, có hai loại gió chính: về mùa khô là gió Đông- Đông
bắc, về mùa mưa là gió Đông, Đông Nam. Ngoài ra, bão thường xuất hiện từ
tháng 6 đến tháng 10, bình quân có 2,5 trận bão/năm. Bão thường kéo theo
mưa lớn gây lụt lội, nhất là trong cá thung, áng. Bão kèm theo mưa lớn gây
ảnh hưởng nặng đến các hệ thống đê, các khu vực canh tác nuôi trồng thuỷ
sản.
1.2 Tên gọi
Theo truyền thuyết địa phương thì tên gọi “cát bà” còn được gọi là “Các
Bà”. Vì có một thời các bà, các chị ở đây đứng ra lo liệu việc hậu cần cho
các ông đánh giặc Ân trên một hòn đảo lân cận – đảo Các Ông. Như vậy tên
gọi “Cát Bà” được đọc chệch từ tên “Các Bà”.
1.3 Điều kiện kinh tế xã hội
1.3.1 Dân cư
Huyện đảo Cát Hải hiện có 10 xã và 2 thị trấn. Ngoài cư dân bản địa, dân
Cát Hải là người cộng đồng muôn phương, thạo nghề sông nước như Thái
Binh, Nam Đinh, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hưng Yên,
Hà Tây, Quảng Ninh… Bên cạnh cư dân gốc Việt là cơ bản, trước đây còn
có khá đông người Hoa sinh sống. Họ từ mọi miền và các tỉnh ven biển của
Trung Quốc đến định cư tại Cát Bà. Sau “sự kiện người Hoa” năm 1978, hầu
hết người Hoa rời đảo ra đi. Để phân bố lại lực lượng trên địa bàn, đáp ứng
kịp thời nhu cầu sản xuất và bảo vệ đảo, một bộ phận cư dân Đồ Sơn, Tiên
Lãng, An Lão được bổ sung cho huyện đảo Cát Hải, nhân dân xã Cao Minh
bên Cát Hải được bố trí chuyển cư hẳn sang Cát Bà, do đặc điểm địa hình,
nên việc phân bố dân cư của huyện không đồng đều, có nơi dân sống tập
trung như thị trấn Cát Bà, thị trấn Cát Hải, xã Nghĩa Lộ; có nơi dân cư sống
thưa thớt, biệt lập như Gia Luận, Việt Hải.
Dân cư đông là nguồn nhân lực chính để phát triển du lịch, tuy nhiên nó
cũng kéo theo nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường.
1.3.2 Kinh tế
Theo báo cáo của UBND huyện Cát Hải, 10 tháng qua, tốc độ tăng
trưởng kinh tế đạt 16,5%; tổng thu ngân sách 39,882 tỷ đồng, vượt 58% so
với kế hoạch thành phố giao; số lượng khách du lịch đến Cát Bà đạt 1,056
triệu lượt người, trong đó khách nước ngoài 300 nghìn lượt người. Một số
nhà đầu tư lớn tuy được thành phố chấp thuận đầu tư hoặc giao đất để thực
hiện dự án tại đảo Cát Bà, nhưng tiến độ thực hiện của nhiều dự án rất chậm,
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, dịch vụ của ngành du lịch và phát
triển kinh tế - xã hội của huyện, cản trở nhu cầu đầu tư vào địa bàn. Về quy
hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản, huyện lập tổ công tác triển khai quy
hoạch, sắp xếp, phát triển nuôi trồng thủy, hải sản trên các vụng, vịnh; điều
tra khảo sát chi tiết thực trạng các ô lồng nuôi, nghề nuôi, số lao động đang
sử dụng; tổ chức vẽ sơ đồ 2 vị trí neo đậu bè nuôi trồng thủy sản để thí điểm
sắp xếp. Theo đó, từng bước giảm dần số ô lồng nuôi để đến năm 2012 giảm
50% số ô lồng so với năm 2010.
1.4 Lịch sử đảo Cát Bà
Tương truyền xưa kia tên đảo là Các Bà. Đây được coi là hậu phương
cho các ông theo Thánh Giong chống giặc Ân. ở thị trấn Cát Bà hiện nay
còn có đền Các Bà. Trên các bản đồ hành chính thời pháp thuộc vẫn còn ghi
tên là Các Bà
Cát Bà là huyện cũ của thành phó Hải Phòng nằm trên đảo Cát Bà thành
lập ngày 22/7/1957 gồm thị trấn cát bà và nhiều xã Gia Luân, Hiền Hào,
Trân Châu, Việt Hải, Xuân Đàm. Trước năm 1945 là tổng Hà Sen thuộc
huyện Cát Hải tỉnh Quảng Yên. Khi đó thị trấn Cát Bà từng là phố Cát Bà
rồi đại lí Cát Bà( thuộc tổng Hà Sen sau là thị xã thuộc tỉnh Quảng Yên. Sau
nữa thuộc khu Hồng Quảng đén 5/6/1956 sát nhập vào thành phố Hải Phòng
theo nghị định số 318 – TTg của thủ tướng chính phủ ngày 22/7/1957 thì thị
xã Cát Bà đổi thành thị trấn Cát Bà.
Ngày 11/3/1977 huyện cát bà nhập với huyện Cát Hải thành huyện Cát
Hải. Cát Bà là một hòn đảo đẹp và thơ mộng nằm ở độ cao trung bình 70m
so với mực nước biển, cư dân sống trên đảo chủ yếu là người Kinh. Nơi đây
đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.
1.5 Cơ sở vật chất kĩ thuật
Trên đảo đã xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật: hệ thống nhà
hàng, khách sạn, các khu vui chơi giải trí…phục vụ và đáp ứng tốt nhu cầu
du lịch của du khách.
1. 6 Phương tiện giao thông
Ngày nay, việc phát triển đa dạng các dịch vụ du lịch nên khách du
lịch có thể đến với Cát Bà bằng nhiều cách khác nhau. Thuận tiện cho du
khách ra thăm đảo, góp phần phát triển du lịch của huyện Đảo và thành phố.
Hiện du khách có thể lựa chọn cho mình 1 trong 3 cách : Cách thứ nhất đi
bằng đường bộ thông qua tuyến đường xuyên đảo Đình Vũ – Cát Hải – Cát
Bà qua 2 phà Đình Vũ, phà Gót.
Cách này quý khách có thể chủ động phương tiện của mình hoặc hành trình
với tuyến liên vận ôtô - tàu cao tốc – ôtô. ôtô đón khách tại bến Bính di
chuyển tới Đình vũ, đi tàu tới thẳng Cái Viềng rồi lại tiếp tục hành trình
bằng ôtô tới thị trấn Cát Bà.
Gần đây nhu cầu đi lại ngày càng cao của người dân cũng như để phục vụ
cho nhu cầu của du khách trong mùa du lịch, khách sạn Các Hoàng Tử đã
đầu tư và khai thác tuyến liên vận mới tàu cao tốc – ôtô, tàu cao tốc đưa quý
khách từ bến Bính đến thẳng Đình Vũ và về TT Cát Bà bằng ôtô . Hiện tại
nhiều cty vận tải du lịch đã và đang khai thác có hiệu quả trên tuyến đường
xuyên đảo này.
2. Những tiềm năng du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Cát Bà
2.1 Vị trí địa lí
VQG Cát Bà có vị trí vô cùng thuận lợi cho việc phát triển du lịch sinh
thái, có vị trí trung tâm, gần với các thành phố lớn như TP Hải Phòng, TP
Hà Nội…,cách thành phố Hải Phòng 30km, cách thủ đô Hà Nội 120 km và
nằm bên cạnh Vịnh Hạ long - Di sản thiên nhiên thế giới, gần với khu du
lịch Đồ Sơn.
Chính vì vậy, khách thăm quan du lịch từ nơi khác đến, đặc biệt là những
thành phố khu vực phía Bắc sẽ không tốn quá nhiều thời gian để có thể có
những chuyến du lịch thưởng ngoạn thiên nhiên tại VQG Cát Bà, đến VQG
Cát Bà với hai sự lựa chọn. Đi bằng đường thủy với tàu cao tốc từ Bến Bính
(Hải Phòng) mất khoảng 45 phút. Đi qua vịnh Hạ Long với cảnh quan thiên
nhiên hùng vĩ, tuyệt đẹp, đây di sản thiên nhiên thế giới được tổ chức
UNESCO công nhận, đến vịnh Lan Hạ tuy nhỏ hơn nhưng có nhiều đảo đá
vôi, xếp đan xen gần nhau trông rất hùng vĩ. Nếu đi bằng đường bộ, xe ô tô
từ Hải Phòng đến bến cảng Ðình Vũ, theo tầu cao tốc sang bến Cát Hải rồi
xuyên qua VQG Cát Bà bằng ô tô trên đường dài 31 km (đường nhựa).
2.2 Hệ thống sinh vật
Vườn quốc gia Cát Bà là nơi hội tụ nhiều hệ sinh thái (HST) khác nhau
gồm: HST rừng ngập mặn, HST rừng trên núi đá vôi, HST biển với các rặng
san hô,… Có một hệ động, thực vật đa dạng, gồm 2.320 loài, trong đó có
282 loài động vật sống trong rừng, 538 loài động vật sống ở đáy biển, 196
loài cá biển, 771 loài thực vật trên cạn, 23 loài thực vật ngập mặn, 75 loài
rong biển, 177 loài san hô
Hệ động vật có 20 loài thú, 69 loài chim, 20 loài bò sát và lưỡng cư. Đặc
biệt có loài thú mà không có nơi nào có được là voọc đầu trắng (Vọoc Cát
Bà) và một số loài khác được ghi trong Sách đỏ như: Khỉ lông vàng, sơn
dương và nhiều loài chim đẹp như cao cát, bói cá, hút mật, đầu rìu. Ở Cát Bà
cũng có chim yến và rùa biển được chăm sóc bảo tồn. Hệ thực vật có 1561
loài thuộc 495 chi, 149 họ, trong đó có 250 loài cây thuốc. Nhiều loài cây
quý hiếm cần bảo tồn như chò chỉ, trai lý, lát hoa, kim giao và cọ Bắc Sơn.
Đặc biệt là, đảo có hệ sinh thái rừng ngập nước, trên núi đá vôi có cả ao, hồ,
suối ngầm, nước ngọt cùng suối nước khoáng có cả khả năng chữa trị bệnh,
nhất là thấp khớp.
Với sự phong phú về hệ sinh thái, đa dạng về loài đã tạo cho VQG Cát Bà có
một tiềm năng thu hút cho việc phát triển DLST.
2.3 Cảnh quan thiên nhiên
Cát Bà là một VQG đặc biệt, với sự kết hợp của nhiều hệ sinh thái (HST)
khác nhau: HST rừng thường xanh trên núi đá vôi, HST rừng ngập nước trên
núi cao (Ao Ếch), HST rừng ngập mặn vùng duyên hải, HST vùng biển với
các rạn san hô gần bờ, hệ thống hang động với đặc trưng riêng biệt là nơi cư
trú của họ nhà Dơi và hệ canh tác nằm giữa các thung lũng như ở Khe Sâu
hoặc các khu dân cư.
Trong đó, lớn nhất là hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi (khoảng 9800 ha)
với thảm thực vật thuộc kiểu rừng nhiệt đới thường xanh và các loại rừng
như rừng núi thấp và ven thung lũng, rừng trên núi đá dốc, rừng trên đỉnh
núi cao, rừng ngập nước nội địa (Ao Ếch).
Ngoài đảo chính, quần đảo Cát Bà còn có 366 đảo nhỏ như đảo Đầu Bê,
đảo Cát Dứa, đảo Bù Lâu, hòn Ghềnh Hang, hòn Đá Lẻ, hòn Xả Lan, hòn
Guốc Tiên. Nhiều đảo có hình dạng kỳ dị, bờ dảo có nhiều mũi nhô, cung
lõm và nhiều bờ vách dốc đứng, chân có ngấn ăn mòn tạo cảm giác kỳ bí,
thích thú. Đa số các đảo có thềm san hô viền quanh và trên đảo có hồ nước
mặn, đây là một tiềm năng còn nhiều tiềm ẩn chưa được khám phá.
Cát Bà có nhiều bãi tắm đặc trưng là sự kín đáo, yên bình và nhiều hang
động. Mỗi hang đều có vẻ đẹp khác nhau, với những nhũ đá rực rỡ sắc màu
làm say lòng du khách, như lạc vào cõi bồng lai tiên cảnh. Hoàng hôn trên
quần đảo Cát Bà là một cảnh sắc muôn màu. Phía chân trời mầu vàng rực,
mặt biển có mầu xanh tím sẫm. Về phía cảng cá hàng nghìn con tàu neo đậu
đã lên đèn tạo một vùng sao đêm huyền ảo! Thật lý thú du khách sẽ được
mời vào các quán ăn bồng bềnh trên sóng nước, giăng đèn thâu đêm đón
khách.
VQG Cát Bà có hệ thống suối nổi tiếng như: Suối Thuồng Luồng (xã
Trân Châu), suối Trung Trang, suối Treo Cơm (khu Đồng Cỏ). Ngoài ra,
VQG Cát bà có nguồn nước ao ếch phong phú, các ao ếch là hồ nước thiên
nhiên trên núi đá vôi, diện tích khoảng trên 3,6 ha, nước có quanh năm, đạt
trên dưới 30cm, nằm giữa khu vực rừng nguyên sinh, Ngoài ra một số áng
cũng có nước quanh năm như áng Bèo, áng Bợ, áng Thẳm, áng Vẹm…
2.4. Dịch vụ giải trí nghỉ dưỡng
Ðến Cát Bà, du khách có thể thuê một chiếc xe gắn máy để đi đến bất cứ
nơi nào, chỗ nghỉ nay đã phát triển khá nhiều. Ðẹp nhất là các khách sạn dựa
lưng vào núi, mặt hướng ra biển. Cát Bà có hơn 60 khách sạn, nhà nghỉ với
khoảng 1.000 phòng tập trung ở phố biển ven mép vịnh. Trên hết, sự hấp
dẫn của VQG Cát Bà là biển cả. Sau một ngày leo núi hay thám hiểm các
hang động, du khách sẽ thấy vô cùng sảng khoái đắm mình trong làn nước
trong xanh, nằm phơi trên bãi cát trắng mịn. Cát Bà có nhiều bãi tắm, đặc
trưng là sự kín đáo, yên bình.
Ðêm đến không gian Cát Bà thật bao la, hùng vĩ, đẹp đến sững sờ. Ngủ
đêm ở đây là một thích thú tuyệt vời, không khí mát dịu, những làn gió nhẹ
mang hơi mặn của biển lùa vào rừng cây trên núi đá tạo một âm thanh rì rào,
như ru khách vào trong giấc ngủ êm đềm.
2.5 Văn hóa – lịch sử lễ hội truyền thống
Trước đây, vùng đảo núi đá (Cát Bà) từng là hậu cứ của các bà trồng tỉa,
hái lượm, cung cấp lương thực thực phẩm cho các ông ở phía trước chống
lại giặc giã, khi chúng tới đánh chiếm đảo. Cũng từ trận chiến đấu này đã
xuất hiện nhiều nữ tướng dũng cảm nên người đời xưa đã đặt tên cho đảo
này là đảo Các Bà rồi sau này gọi lệch đi là đảo Cát Bà. Trên mảnh đất của
làng Nghĩa Lộ ngày nay còn tồn tại một ngôi miếu thờ người phụ nữ đã sinh
ra người trai làng dũng cảm Hùng Sơn. Hùng Sơn là người đã có công tham
gia đánh giặc Ân đời vua Hùng thứ sáu. Truyền thuyết về người trai làng
dũng cảm Hùng Sơn như một nét nhạc hùng, âm vang tinh thần yêu nước
của một người dân trên mảnh đất này. Ngày nay người ta lấy tên của chàng
trai này đặt tên cho một thôn của Xã Trân Châu. Theo người dân kể lại thì
tại làng Gia Lộc nay thuộc thị trấn Cát Hải có lệ tế thần biển vào ngày 21
tháng giêng. Cùng với các trò chơi, với lễ rước nước về đình làng, người ta
đua thuyền dưới biển. Tế lễ như thế, Long Hải Đại Vương, ông thần của
những người đi biển sẽ phù hộ cho trời yên biển lặng, một năm bội thu tôm
cá. Ngày nay Hội được mở ngày 1/4 dương lịch, ngày mà năm 1959, Bác Hồ
về thăm làng cá Cát Bà.
Hàng năm, người dân tổ chức hội đua thuyền rồng trên biển, đó là một
chiếc thuyền thoi dài 11m, rộng 1,5m, đóng bằng thứ gỗ khô, nhẹ và bền
chắc. Lòng thuyền có chỗ ngồi cho các tay đua và phía mũi có cái đầu rồng
chạm bằng gỗ, sơn son thếp vàng rực rỡ. Mỗi thuyền có từ 22 đến 26 người.
Khách du lịch cũng có thể tham gia lễ hội này để thương thức cảm giác khác
lạ từ lễ hội này.
2.6 Âm thực
Ở Cát Bà có những món ăn đặc sản như: gỏi cá thác, canh chua cá hồng,
đặc biệt có tu hài nướng trên bếp than mùi thơm tỏa ngào ngạt. Trước đây ở
Việt Nam chỉ Cát Bà mới có Tu hài và thường xuất hiện vào tháng 12 là mùa
sinh sản của chúng. Ngày nay con Tu hài được viện nghiên cứu thuỷ sản Bắc
Bộ nhân giống rộng rãi cho ngư dân nuôi bán tự nhiên và có thể cung cấp
quanh năm cho các nhà hàng ở khắp Hải Phòng và Cát Bà.
Ngoài ra Cát Bà còn hấp dẫn bởi các món ăn từ biển với vô số các loài có
giá trị cao như Cá Song, Cá chim, Mực lá hoặc các loài vừa lạ, vừa dân dã
lại ngon như, Bàn Mai, Sam, Bề Bề (Hay còn gọi là Bọ ngừa biển) Các đặc
sản khác cũng khá thú vị như Cam Gia Luận, gà Liên Minh, khoai Mụt ốc
Việt Hải là những sản phẩm của địa phương nổi tiếng khiến cho nhiều du
khách khó quên khi đã được một lần thưởng thức. Dê núi cũng được đánh
giá cao, nhiều người nói dê ở Cát Bà ngon hơn các nơi khác.
2.7 Các loại hình du lịch
2.7.1 Du lịch leo núi
Thực tế, các tuyến leo núi tại Cát Bà đã xuất hiện từ hàng chục năm trước
bởi các khách du lịch nước ngoài ưa thám hiểm. Cách đây hơn 6 năm, một
đoàn du lịch thể thao mạo hiểm quốc tế có tên Raid Gouloises gồm 250 vận
động viên thuộc 17 nước trên thế giới trong đó có Pháp, Tây Ban Nha, Phần
Lan, Mỹ, Đan Mạch đã đến Cát Bà tổ chức các hoạt động leo núi, bơi
xuồng khá rầm rộ. Nhưng chỉ bắt đầu từ năm 2006, khi công ty du lịch mạo
hiểm Slo Pony Việt Nam mở trụ sở tại đây thì hoạt động này mới đi vào
chuyên nghiệp.
2.7.2 Du lịch lặn biển
2.7.3 Du lịch nghiên cứu
2.7.4 Du lịch sinh thái
2.7.5 Lướt ván
2.7.6 Khám phá hang động
2.7.7 Du lịch nghỉ dưỡng
2.7.8 Du lịch tắm biển
2.7.9 Du lịch cộng đồng
3. Thực trạng tổ chức hoạt động du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Cát
Bà
3.1 Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Vườn quốc gia Cát Bà
3.1.1. Chức năng nhiệm vụ:
Vườn quốc gia Cát Bà là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng. Vườn có chức năng bảo tồn đa
dạng sinh học, bảo tồn các nguồn gen động, thực vật rừng, biển quý hiếm.
Đồng thời kết hợp phát triển du lịch sinh thái, mở rộng các dịch vụ vui chơi,
giải trí, tuyên truyền, giáo dục môi trường.
3.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy:
Hình1: Mô hình bộ máy quản lý tại Vườn quốc gia Cát Bà
c. Nguồn nhân lực công tác phát triển du lịch
Lực lượng quản lý hiện có tổng cộng 81 cán bộ, công nhân viên đang làm
việc trên tổng diện tích là 15.200 ha, trong đó có 2 cán bộ trên đại học, 25
cán bộ đại học, 3 cán bộ cao đẳng, 42 cán bộ trung cấp và 9 cán bộ sơ cấp.
Ban Giám
đốc
Phòng
Khoa học kỹ
thuật
Phòng
Kế hoạch tài
chính
Phòng
Tổ chức hành
chính
Hạt kiểm lâm
Trung tâm
Dịch vụ du
lịch sinh thái
và Giáo dục
môi trường
Các Trạm
kiểm lâm
3.2. Các phân khu chức năng
Phân khu Phục hồi sinh thái có diện tích 11.094 ha là nơi chủ yếu để xây
dựng các tuyến du lịch khám phá thiên nhiên trong VQG. Phân khu hành
chính - dịch vụ được quy hoạch khá gọn trong thung lũng Trung Trang, có
mặt bằng tương đối thuận lợi cho việc xây dựng, phát triển du lịch sinh thái
cũng như các hoạt động giải trí khác. Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt được lựa
chọn những nơi ít bị ảnh hưởng bởi các hoạt động du lịch đối với môi trường
sống của các loài động, đặc biệt trong đó các loài có nguy cơ tuyệt chủng
cao, để xây dựng một số tuyến thăm quan cho khách tìm hiểu và các hoạt
động nghiên cứu của các nhà khoa học. Cụ thể như tuyến VQG – Ao ếch –
Việt Hải có chiều dài 13km.
Ngoài ra, vùng đệm của VQG Cát Bà có diện tích 15.259,8 ha nằm trên
địa bàn 06 xã, được chia thành hai khu vực.
+ Vùng đệm 1: gồm toàn bộ diện tích của xã Việt Hải (141,3 ha). Mục
tiêu, giải pháp phát triển kinh tế cho vùng đệm này là ưu tiên cho phát triển
du lịch sinh thái, 100% hộ dân trong xã đều tham gia với nhiều loại hình
khác nhau: Dịch vụ ăn uống, giải khát, nhà nghỉ và các dịch vụ khác.
+ Vùng đệm 2: nằm ngoài VQG với tổng diện tích 15.118,5 ha, gồm các
xã Phù Long, Hiền Hào, Gia Luận, Xuân Đám, Trân Châu và Thị trấn Cát
Bà. Người dân các xã này tham gia nhiều loại hình hoạt trong du lịch: Người
dân xã Gia Luận có truyền thống trồng cam có hương vị thơm ngon, phục vụ
cho người dân trên đảo và khách du lịch …
3.3. Thực trạng về du lịch sinh thái của Vườn quốc gia Cát Bà
3.3.1 Chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm
+ Chức năng:
Trung tâm Dịch vụ du lịch sinh thái và Giáo dục môi trường là đơn vị sự
nghiệp có thu trực thuộc Vườn quốc gia Cát Bà, hoạt động theo hình thức
hạch toán phụ thuộc, có con dấu, tài khoản riêng để hoạt động trong phạm vi
chức năng nhiệm vụ được giao. Tổ chức các hoạt động dịch vụ, du lịch sinh
thái và giáo dục môi trường, giáo dục hướng nghiệp nông, lâm, ngư nghiệp.
+ Nhiệm vụ:
* Tổ chức các hoạt động dịch vụ du lịch sinh thái:
* Tổ chức các hoạt động giáo dục môi trường và hướng nghiệp nông,
lâm, ngư nghiệp.
3.3.2. Các điểm du lịch trong Vườn
+ Trung tâm hướng dẫn thông tin, giáo dục môi trường: là nơi giới thiệu,
cung cấp thông tin cho du khách về cảnh quan thiên nhiên, địa mạo địa chất,
những nét đặc sắc về văn hoá, du lịch và tính đa dạng sinh học của VQG Cát
Bà nói riêng và Khu Dự trữ Sinh quyển Cát Bà nói chung.
+ Phòng đón tiếp: là nơi đón tiếp, giới thiệu thông tin chung cho du
khách về các điểm và tuyến tham quan tại Vườn và đảo Cát Bà cũng như
thông tin về lệ phí tham quan, hướng dẫn và phổ biến các nội quy, quy định
cho du khách.
+ Nhà trưng bày mẫu vật: là nơi trưng bày các mẫu vật của các loài
động, thực vật phân bố tại VQG Cát Bà.
+ Đảo Cát Dứa: là nơi tham quan các tài nguyên rừng, biển, leo núi,
quan sát một số loài khỉ sau khi được cứu hộ và bảo vệ tại đây.
+ Đảo Năm Cát: là bãi biển còn hoang sơ, lý tưởng cho nghỉ dưỡng, tắm
biển, chèo thuyền kayark, câu cá hoặc đi tàu để thưởng thức, khám phá cảnh
đẹp huyền bí về tài nguyên rừng và biển tại khu vực Năm Cát và Vịnh Lan
Hạ.
+ Vạn Bội: là nơi có nhiều hòn đảo lớn nhỏ, là nơi tắm biển, lặn xem các
rạn san hô, chèo kayark và tham quan các bè nuôi trồng các loài hải sản đặc
sản.
+ Đồng Ninh tiếp - Việt Hải: nơi tổ chức loại hình du lịch cộng đồng, du
lịch nghỉ dưỡng. Du khách được thưởng thức, trải nghiệm đời sống văn hóa,
sinh hoạt của cộng đồng dân cư sinh sống tại đây với những nét đặc sắc, độc
đáo của một làng-xã.
+ Hòn Ba Cát Bằng: nơi xây dựng loại hình du lịch sinh thái biển, nghỉ
dưỡng, xây dựng một số bungalâu (nhà chòi), cắm trại, tắm biển, câu cá,
xem san hô, chèo kayak khám phá các tài nguyên biển, đảo…
+ Khu vực Hang Chống Bỏi, Hòn Cặp Quan: Tổ chức du lịch theo loại
hình câu cá, chèo thuyền kayark, thưởng thức các món hải sản
+ Đảo Đồng Công: Vườn xây dựng khu nghĩ dưỡng tại đảo Đồng công.
Nơi đây du khách tham quan rừng ngập mặn, quan sát các loài động vật
hoang dã như Khỉ đuôi vàng, Voọc đầu vàng. Bên cạnh đó, quý khách có cơ
hội câu cá giải trí vào những ngày cuối tuần.
3.3.3 Các tuyến du lịch trong Vườn
+ Tuyến Rừng Kim giao – Chòi Quan sát - Động Trung Trang: Ngắm
rừng xanh bạt ngàn với những cây Kim giao cổ thụ quý hiếm và nguy cấp,
núi non trùng điệp như những kim tự tháp xanh.
+ Trung tâm Vườn – Ao Ếch - Việt Hải - Vịnh Lan Hạ: xuyên qua khu
rừng nguyên sinh với loài động thực vật quý hiếm, đến một khu rừng ngập
nước trong thung núi đá vôi trên một độ cao khá lớn so với mực nước biển.
+ Tuyến động Trung Trang: Đây là một trong những hang động lớn
nhất,tiêu biểu cho quần thể hang động trong khu dự trữ sinh quyển Cát Bà,
là một điểm du lịch rất hấp dẫn, với muôn vàn hình dạng kỳ thú khác nhau.
+ Tuyến Trung tâm Vườn – Mây Bầu – Động Quân Y: khám phá rừng
nguyên sinh chứa đựng những tài nguyên động thực vật phong phú kết hợp
với tham quan hệ sinh thái rừng trồng và Động Quân y- Bệnh viện trong
hang động, một minh chứng cho truyền thống bất khất của quân và dân trên
đảo chống lại chiến tranh phá hoại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của
dân tộc.
+ Tuyến du lịch sinh thái biển: Du khách lên tàu du lịch từ cảng cá, đi
vòng qua phía ngoài của các bãi tắm để về phía Bến Bèo – Áng Vẹm - Vịnh
Lan Hạ - Vạn Bội – Ba Trái Đào – Cát Dứa.
+ Tuyến Kim Giao - Mé Cồn – Tùng Di: tham quan vườn thực vật-nơi
lưu giữ hàng trăm loài cây quý hiếm có trên đảo Cát Bà, đến khu rừng
nguyên sinh ở áng Mé Cồn nơi có nhiều loài động thực vật quý hiếm, tiếp
tục phưu lưu khám phá theo lối mòn đưa du khách đế khu Tùng Di gần động
Trung Trang.
+ Tuyến Rừng ngập mặn Phù Long - Động Thiên Long: Ngắm khu rừng
ngập mặn còn sót lại trên đảo Cát Bà, gồm những loài cây gỗ, cây thân thảo
và cây bụi thuộc nhiều loại khác nhau với bộ rễ đặc thù với điều kiện thuỷ
triều - là môi trường sống độc đáo cho các loài động, thực vật cả dưới nước
lẫn trên cạn.
+ Tuyến xem thú ban đêm: Mây Bầu – Ao Ếch: là tuyến được bảo vệ
nghiêm ngặt nên có nhiều loài động vật hoang dã như: cầy, mèo rừng và các
loài sóc, bạc má, rắn …
+ Tuyến Động Trung Trang - Khu vực Treo Cơm: Quan sát các loài
động vật hoang dã từ trên xe hoặc trên tuyến du lịch như khỉ vàng, chồn,
sóc, chim. Ngoài ra dọc theo suối du khách có thể bắt gặp những hoạt động
đánh bắt tôm cá rất thủ công của người dân và các điểm câu cá rất cuốn hút
và lý thú.
+ Tuyến Vườn Thú - Vườn Thực vật - Hồ Hới: tham quan các loài động
vật đang được cứu hộ tại Vườn. Ngắm Vườn Phong lan, Vườn Bướm và
vườn cây thuốc.
+ Tuyến du lịch mạo hiểm: Tuyến Mé Gợ - De Bờ Đa – Trà Báu - Cảng
Cây Cau – Gia Luận: Tuyến mạo hiểm khám phá đời sống thiên nhiên hoang
dã để quan sát, tìm hiểu những loài động thực vật quý hiếm, các hệ sinh thái
và cảnh quan thiên nhiên đa dạng.
+ Tuyến đi tàu nhỏ từ Gia Luận – Áng Kê - Trà Báu: (quan sát Voọc Cát
bà, tắm biển, câu cá… có thể kết hợp cả đi bộ từ 1 – 2 ngày).
3.3.4 Hoạt động của Trung tâm:
Tổ chức các hoạt động du lịch sinh thái.
Tổ chức các hoạt động giáo dục môi trường và hướng nghiệp nông, lâm,
ngư nghiệp.
3.3.5 Khả năng tham gia các hoạt động du lịch của cộng đồng địa
phương
Cộng đồng có thể tham gia các hoạt động như; nhà hàng, khách sạn,
phương tiện đi lại, thuyền du lịch thăm vịnh, dịch vụ vui chơi giải trí, đồ lưu
niệm, nuôi cá lồng bè, dê núi, gà đồi, rau sạch, hoa quả Một số người có
trình độ tham gia làm hướng dẫn viên cho du khách tại các điểm du lịch, các
tour, các khách sạn
3.3.6 Các tác động của du lịch có hại cho tài nguyên, môi trường trong
tương lai
Hoạt động của DLST cũng gây ra nhiều vấn đề nguy hại đến môi trường:
Rác thải, tiếng ồn, các công trình xây dựng, khói bụi, ….
Săn bắn động vật hoang dã để chế biến thức ăn cho du khách đã làm
các loài này gần như suy kiệt., đây là nguyên nhân làm suy giảm hệ sinh thái
nghiêm trọng.
Khu nuôi cá lồng bè ảnh hưởng không nhỏ tới cảnh quan khu vực và ô
nhiễm môi trường nước
3.4. Những thuận lợi và khó khăn
* Thuận lợi
Cách thành phố Hải Phòng 30km theo đường chim bay, cách thủ đô Hà
Nội 120km và nằm bên cạnh Vịnh Hạ long - Di sản thiên nhiên thế giới, gần
với khu du lịch Đồ Sơn. Thành phố Hải Phòng là đô thị lớn thứ ba của cả
nước, được coi là một cực của tam giác động lực phát triển kinh tế: Hà Nội -
Hải Phòng - Quảng Ninh, VQG Cát Bà còn là vùng lõi của Khu dự trữ sinh
quyển thế giới quần đảo Cát Bà.
VQG Cát Bà còn giữ lại được diện tích lớn rừng kín thường xanh trên núi
đá vôi là môi trường sống của nhiều loài chim, thú quý hiếm, các hệ sinh
thái Tùng – Áng, các hệ sinh thái San hô, các bãi tắm lý tưởng và nhiều di
chỉ khảo cổ, di tích lịch sử, văn hóa được xếp hạng, lễ hội truyền thống, là
một sự kết hợp tuyệt vời giữa rừng, biển, đảo và là mẫu rừng nguyên sinh
độc đáo còn lại của rừng miền Bắc cũng như của Việt Nam.
* Khó khăn
- Diện tích đất nông nghiệp hạn hẹp, các hoạt động nuôi trồng thủy sản
chưa được phát triển mạnh mẽ.
- Dân cư sống rải rác rất khó quản lý, đặc biệt là các hoạt động như săn,
bắn thú rừng, thủy sản. Sức ép của hoạt động du lịch lên tài nguyên, đất,
rừng, biển là rất lớn,
- Khi hoạt động DLST phát triển sẽ kéo theo tệ nạn xã hội (Mại dâm, ma
tuý, trộm cướp ).
- Hoạt động bảo tồn rừng ngập mặn chưa được sự quan tâm đúng mức,
chưa rõ ràng về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước.
- Vấn đề rác thải, nước thải từ các nhà nghỉ, nhà hàng, du khách xả ra tuy
hiện nay chưa đến mức báo động, song trong tương lai đây sẽ là vấn đề rất
bức xúc.
3.5 Cơ hội và thách thức
3.5.1 Cơ hội
- VQG là một phần của khu dự trữ sinh quyển, đồng thời là nơi giáp ranh với
khu Di sản Thế giới vịnh Hạ Long nên lượng khách tham quan du lịch đến
với Cát Bà là rất lớn
- Được Trung ương có chủ trương phát triển VQG Cát Bà thành trọng điểm
du lịch quốc gia
- Có sự hỗ trợ đầu tư của các tổ chức trong và ngoài nuớc về tài chính, kỹ
thuật và cơ sở hạ tầng
- Sự liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong công tác hoạt
động du lịch.
3.5.2 Thách thức
Hoạt động về sản xuất nông nghịêp và nuôi trồng thuỷ sản còn rất hạn chế
nên vấn đề về lương thực để cung cấp cho hoạt động du lịch sẽ rất khó khăn,
sinh kế của cộng đồng địa phương chưa ổn định
- Người dân còn sống rãi rác và len lõi trong VQG nên việc quản lý rất khó
khăn, đặc biệt là trong vấn đề săn, bắn thú rừng, thuỷ sản,
- Sức ép lớn từ hoạt động phát triển du lịch lên tài nguyên thiên nhiên, rừng
và biển