Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.17 MB, 59 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Trong suốt thời gian học tập tại trường Đại Học Kinh Tế Nghệ An, Ban giám hiệu nhà trường, khoa Nông- Lâm- Ngư đã tạo điều kiện cho em học tập, cũng như toàn thể các thầy cơ giáo đã tận tình giảng dạy truyền đạt khối kiến thức và kinh nghiệm quý báu cho chúng em để làm hành trang vững chắc tự tin khi bước vào đời. Để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn tất cả các q thầy cơ.
Để hồn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp, em vô cùng cảm ơn cô giáo Châu Thị Tâm là người đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt em tiếp cận với thực tế tại địa bàn trong suốt thời gian vừa qua bằng tất cả tấm chân tình và tinh thần trách nhiệm của mình.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo của trại, các anh chị kỹ thuật đã tạo điều kiện thuận lợi cho em tiếp cận được với thực tế, vận dụng được kiến thức lý thuyết vào thực tế và phát huy hết khả năng của mình, đồng thời biết được những nhược điểm của mình để khắc phục, sửa đổi để hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Cuối cùng với lịng trân trọng và biết ơn sâu sắc một lần nữa em xin chân thành cảm ơn và kính chúc các q thầy cơ, ban giám hiệu nhà trường, ban lãnh đạo của trại, các anh chị trong tổ kỹ thuật được dồi dào sức khỏe, thành đạt và thăng tiến trong công việc.
<b> Sinh viên </b>
<b> Dương Thị Thủy </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề </b>
Từ ngày sơ khai, chăn nuôi đã trở thành nghành nghề không thể thiếu của loài người. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang từng bước hội nhập mạnh mẽ với nền kinh tế thế giới. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế trong nước, thu nhập của người dân cũng nâng lên. Vì vậy nhu cầu thịt trên thị trường cũng tăng lên đáng kể, đặc biệt là các loại thịt có chất lượng cao. Chính vì thế, chăn nuôi của ta không những tăng lên về số lượng mà chất lượng thịt cũng được nâng lên. Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi nước ta đã có những bước tiến nhất định. Đặc biệt, chăn ni lợn chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu ngành nơng nghiệp, bởi vì ngồi việc cung cấp thực phẩm giá trị dinh dưỡng cao cho con người thì nó cịn cung cấp ngun liệu cho cơng nghiệp chế biến, cũng cấp phân bón cho cây trồng (phân lợn là một trong những nguồn phân hữu cơ tốt, có thể cải tạo và nâng cao độ phì cho đất, đặc biệt là đất nơng nghiệp), góp phần giữ vững cân bằng sinh thái giữa cây trồng, vật nuôi và con người…
Nhu cầu thịt lợn của người tiêu dùng đang tăng lên cả về lượng và chất. Để đáp ứng nhu cầu thịt lợn tăng lên của người tiêu dùng, hộ chăn ni lợn đang có những thay đổi tiến bộ trong kỹ thuật chăn nuôi cũng như quy mô chăn nuôi. Nhiều chủ trang trại chăn nuôi lợn đã chuyển từ phương thức chăn nuôi truyền thống sang chăn nuôi theo hướng công nghiệp.
Với ý nghĩa quan trọng đó, Đảng và Chính phủ đã có nhiều khuyến khích ưu đãi cho nông dân phát triển ngành chăn nuôi. Hà Tĩnh là tỉnh có ngành chăn ni phát triển mạnh, tập trung được nhiều trang trại lớn và nhỏ không những giúp nâng cao vị thế mà còn góp phần làm tăng thu nhập của người dân.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất trong chăn nuôi, chất lượng con giống là tiền đề quan trọng, vì vậy chất lượng của đàn nái sinh sản có ảnh hưởng đến năng suất, quyết định đến số lượng con giống sản xuất. Muốn đảm bảo giống
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">tốt thì cần có đàn con sinh trưởng và phát triển tốt đạt khối lượng tiêu chuẩn và sức đề kháng cao.
Ở nước ta do nhiều yếu tố tác động như thời tiết, tập quán chăn ni, điều kiện dinh dưỡng, mơi trường sống, trình độ khoa học kỹ thuật nên hội
<i>chứng tiêu chảy rất cao.Trong hội chứng tiêu chảy ở heo con, E.coli và Salmonella là hai nguyên nhân gây bệnh quan trọng và rất phổ biến. Để giảm </i>
thiểu những thiệt hại do hội chứng tiêu chảy gây ra đối với cơ sở nuôi heo tập
<b>trung, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Khảo sát bệnh lợn con phân trắng </b>
<b>giai đoạn theo mẹ và đề xuất biện pháp phòng trị tại trại lợn Cẩm Lạc - huyện Cẩm Xuyên - tỉnh Hà tĩnh” </b>
<b>2. Mục đích của đề tài </b>
- Tìm hiểu quy trình chăn ni, vệ sinh phịng bệnh tại trại
- Xác định được tình hình tiêu chảy phân trắng ở lợn con giai đoạn theo mẹ - So sánh hiệu quả điều trị của các phác đồ khác nhau.
<b>3. Ý nghĩa của đề tài </b>
<i><b>3.1 Ý nghĩa khoa học </b></i>
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở đánh giá hội chứng tiêu chảy ở đàn
<b>heo con theo mẹ tại trại lợn Cẩm Lạc, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh </b>
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở phục vụ cho nghiên cứu và học tập của sinh viên các khóa tiếp theo.
<i><b>3.2. Ý nghĩa thực tiễn </b></i>
- Cung cấp, bổ sung thêm những thông tin và bằng chứng thực tiễn về tình hình bệnh ỉa phân trắng ở lơn con nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi và cũng là cơ sở cho việc xây dựng các phác đồ điều trị phù hợp và có hiệu quả đối với hội chứng tiêu chảy trên đàn heo con theo mẹ, làm giảm tỷ lệ chết, giảm tỷ lệ còi cọc, nâng cao hiệu quả chăn nuôi.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>PHẦN I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Một số đặc tính sinh lý của lợn con </b>
<i><b>1.1.1. Đặc điểm tiêu hóa của lợn con </b></i>
Lợn con mới sinh ra sống nhờ vào sữa mẹ, sau khi cai sữa cơ thể heo trải qua một q trình thay đổi khơng ngừng về hình thái, cấu tạo và sinh lý của ống tiêu hố để thích ứng với điều kiện mới.
Trong thời gian bú sữa trọng lượng bộ máy tiêu hóa heo con tăng lên từ 10 - 15 lần, chiều dài ruột non tăng lên gấp 5 lần, dung tích bộ máy tiêu hóa tăng lên 40 - 50 lần, chiều dài ruột già tăng lên 40 - 50 lần. Tuyến tụy ở 30 ngày tuổi tăng lên gấp 4 lần, trọng lượng của gan gấp 3 lần so với khi sơ sinh. Lúc đầu dạ dày chỉ nặng 6-8 gam và chứa được 35 - 50 gam sữa, nhưng chỉ sau 3 tuần đã tăng gấp 4 lần và 60 ngày tuổi đã nặng 150 gam và chứa được 700 - 1000 gam sữa.
Khả năng tiêu hóa của lợn con rất hạn chế. Theo A.V. Kavasnhixki thì dịch vị của heo con dưới một tháng tuổi hồn tồn khơng có HCl tự do, vì lượng axit tiết ra ít và nhanh chóng liên kết với các niêm dịch vị. Ngồi sự thiếu HCl tự do cịn có sự giảm axit trong dịch vị thức ăn liền với HCl làm cho hàm lượng HCl tự do rất ít hồn tồn khơng có trong dạ dày của heo con bú sữa. Vì thiếu HCl tự do trong dạ dày nên hệ vi sinh vật dễ lên men gây nên hiện tượng ỉa chảy ở lợn con.
<i><b>1.1.2. Hệ vi sinh vật đường ruột của heo con </b></i>
Ở gia súc trưởng thành, bên trong đường ruột có hệ vi sinh vật có lợi thường trực cộng sinh có khả năng khống chế sự xâm nhập và nhân lên của các loài vi sinh vật khác lạ từ mơi trường bên ngồi, đồng thời tham gia vào q trình tiêu hố hấp thu. Trong đường ruột của gia súc non, hệ vi sinh vật có lợi - vi sinh vật đối kháng với vi khuẩn gây bệnh chưa hình thành, chức năng tiêu hố chưa thành thục. Bên cạnh đó các yếu tố như môi trường sống, điều kiện ngoại cảnh, chăm sóc khơng tốt đều có ảnh hưởng xấu đối với gia súc non. Khi chuyển từ bào thai sang nuôi dưỡng bằng sữa mẹ và tập ăn, việc tiếp
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">xúc thường xun với mơi trường bên ngồi và nhất là điều kiện không vệ sinh, vi sinh vật gây bệnh dễ dàng xâm nhập và gây bệnh đường ruột cho gia súc non.
Theo Trần Thị Dân (2008), những vi khuẩn đường ruột giữ chức năng nhất định trong quá trình tiêu hóa và có vai trị sinh lý quan trọng đối với cơ thể. Ở trạng thái sinh lý bình thường giữa cơ thể và hệ vi sinh vật đường tiêu hố ln ở trạng thái cân bằng và sự cân bằng này là cần thiết cho cơ thể vật chủ.
Nguyễn Bá Hiên (2001) cho biết trong đường tiêu hoá của gia súc khoẻ mạnh và gia súc tiêu chảy thường xuyên có mặt 6 loại vi khuẩn hiếu khí là
<i>Salmonella, E. coli, Klebsiella, Staphylococcus sp., Streptococcus sp., Bacillus subtilis và các loài vi khuẩn yếm khí Clostridium perfringens, Bacteroides fragilis. </i>
<i><b>1.1.3. Đặc điểm thích ứng của lợn con </b></i>
Lợn con từ giai đoạn chuyển từ môi sống trong bụng mẹ ra mơi trường sống bên ngồi, từ chế độ nuôi dưỡng qua sữa mẹ đến chế độ tập ăn sớm, sự thích ứng của chúng là rất kém.
Sự chuyển hóa, cân bằng năng lượng từ giai đoạn bào thai sang giai đoạn sau khi sinh là rất chậm, chưa thích nghi ngay nên dễ bị tác động bởi mơi trường. Nhờ q trình oxy hóa mơ mỡ nên lợn con điều chỉnh được thân nhiệt. Khả năng điều chỉnh thân nhiệt khác nhau ở heo con là do mức độ phát triển khác nhau của mô mỡ ở từng cá thể, từng loại gia súc (Đào Trọng Đạt và Phan Thanh Phượng, (1996).
Lợn con có nhu cầu dinh dưỡng cao, axit amin là nguyên liệu chủ yếu cho sự sinh trưởng và phát triển của heo con. Tốc độ sinh trưởng của gia súc non rất nhanh, trong vòng 10 - 14 ngày, thể trọng tăng gấp 1,3 lần, sau 2 tháng tuổi khối lượng heo con có thể tăng 14 - 15 lần so với sơ sinh. Nếu sữa mẹ không đảm bảo đủ chất lượng, trong khẩu phần ăn thiếu đạm, sự sinh trưởng của cơ thể sẽ bị chậm lại hoặc ngừng lại, khả năng chống đỡ bệnh tật
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">rất kém nên cơ thể dễ bị nhiễm bệnh.
<i><b>1.1.4. Đặc điểm về khả năng miễn dịch của heo con </b></i>
Lợn con khi sinh ra trong máu hầu như khơng có kháng thể. Nhưng lượng kháng thể trong máu của heo con được tăng rất nhanh sau khi heo con bú sữa đầu, cho nên nói rằng ở heo con khả năng miễn dịch là hồn tồn thụ động. Nó hồn toàn phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp thu nhiều hay ít từ sữa mẹ [15].
Trong sữa đầu lợn mẹ có tỷ lệ protein rất cao, những giờ đầu sau khi đẻ xong sữa đầu có tới 18-19% protein. Trong đó lượng γ-globulin chiếm số lượng rất lớn (34 - 45%) cho nên nó có vai trị miễn dịch ở heo con [15].
Bên cạnh sự hấp thu kháng thể từ sữa mẹ thì bản thân heo con trong thời kỳ này cũng có q trình tổng hợp kháng thể. Trước đây người ta cho rằng mãi tới 2 tuần tuổi hoặc muộn hơn nữa mới có q trình tổng hợp kháng thể ở heo. Song một nghiên cứu tại Bruno (Tiệp Khắc) gần đây cho thấy chỉ ngay ngày thứ 2 sau khi đẻ một số cơ quan quan trọng của cơ thể lợn đã bắt đầu sản sinh kháng thể. Nhưng khả năng này còn rất hạn chế và nó chỉ được hoàn chỉnh tốt hơn khi lợn con được một tháng tuổi [15].
Như vậy quá trình hấp thu nguyên vẹn phân tử γ-globulin bị giảm đi rất nhanh theo thời gian. Sở dĩ heo con có khả năng hấp thu được nguyên vẹn phân tử γ-globulin là vì trong sữa đầu có kháng men antitripsin nó làm mất hoạt lực của tripsin ở tuyến tụy. Đồng thời khoảng cách giữa các tế bào vách ruột heo con mới sinh rất lớn, cho nên phân tử γ-globulin có thể được chuyển qua bằng con đường ẩm bào (kiểu hấp thu này giảm mạnh theo thời gian tức càng về sau càng giảm). Cho nên sau 24 giờ hàm lượng globulin trong máu heo con đã đạt tới 20,3 mg%. Tại thời điểm này các tiểu phần protein sữa tuần hoàn trong máu khơng nguy hiểm đối với heo vì trong thời gian này khơng hình thành kháng thể bản thân và protein đối với chúng không phải kháng nguyên.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Xuất phát từ đó chúng ta thấy việc cho heo con bú sữa đầu là rất quan trọng và việc cho bú càng sớm càng tốt.
<i><b>1.1.5. Đặc điểm cơ năng điều tiết nhiệt </b></i>
Cơ thể lợn con thường sinh ra nhiệt năng, nhiệt năng có thể thải ra mơi trường xung quanh, ngược lại sự thay đổi nhiệt độ của môi trường lại ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự sinh nhiệt và tỏa nhiệt của cơ thể, hiện tượng đó gọi là trao đổi nhiệt lượng giữa cơ thể lợn con với môi trường. Heo con lúc mới sinh ra có khả năng điều hịa thân nhiệt kém, khi nhiệt độ ngoại cảnh là 55 – 75<small>0</small>F thì thân nhiệt của lợn con có thể bị giảm từ 3 – 12<small>0</small>
F sau 1 giờ và sau 1 giờ nữa thân nhiệt của chúng mới trở lại bình thường. Nếu nhiệt độ mơi trường < 55<small>0</small>F thì sau 2 ngày nữa lợn con mới điều hòa thân nhiệt của chúng trở lại bình thường, nếu nhiệt độ môi trường < 25 – 30<small>0</small>
F thì sau 10 ngày.
Khả năng chịu đựng và sự thích nghi của heo con với mơi trường cịn thấp, làm cho khả năng sinh trưởng và phát triển của heo con bị hạn chế và có thể dễ nhiễm bệnh dẫn đến tỷ lệ nuôi sống thấp. Trong chăn nuôi, chúng ta thường sử dụng một số biện pháp kỹ thuật để hạn chế những tác động của các yếu tố gây ảnh hưởng đến heo con, nhằm nâng cao hiệu quả chăn nuôi như điều hịa nhiệt độ và độ ẩm ở tiểu khí hậu chuồng ni sao cho thích hợp với heo con.
<i><b>1.1.6. Đặc điểm về sinh trưởng và phát dục </b></i>
Trong giai đoạn này lợn con sinh trưởng rất nhanh tầm vóc và thể trọng tăng dần theo tuổi.
Từ lúc sơ sinh đến lúc cai sữa, trọng lượng của lợn con tăng từ 10 đến 12 lần. So với các gia súc khác thì tốc độ sinh trưởng của heo con tăng nhanh hơn rất nhiều lần. Các cơ quan trong cơ thể của lợn con cũng thay đổi và tăng lên nhanh chóng. Hàm lượng nước giảm dần theo tuổi, vật chất khô tăng dần các thành phần hóa học trong cơ thể của heo thay đổi nhanh chóng. Hàm lượng sắt trong cơ thể lợn con mới sinh ra là 187γ% nhưng đến ngày thứ 20
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">giảm xuống cịn 40,58γ% sau đó tăng dần lên đến 60 ngày bằng lúc mới đẻ ra. Một đặc điểm quan trọng nhất của heo con theo mẹ là: Sản lượng sữa mẹ tăng dần từ lúc mới đẻ ra tới ngày thứ 15. Tại thời điểm này sản lượng sữa cao nhất và ổn định cho tới ngày thứ 20 và sau đó giảm dần cho đến ngày thứ 60 là ở mức thấp nhất. Nhu cầu dinh dưỡng của heo con ngày càng tăng, trong khi đó sữa mẹ sau 3 tuần tuổi giảm đi rõ rệt, dẫn tới thiếu dinh dưỡng nếu như khơng có thức ăn bổ sung thêm.
<b>1.2. Hội chứng tiêu chảy </b>
<i><b>1.2.1. Khái niệm tiêu chảy </b></i>
Tiêu chảy là một phản ứng tự vệ của cơ thể, nhưng khi con vật có hiện tượng ỉa nhiều lần trong ngày (5 - 6 lần trở lên) và nước trong phân từ 75% trở lên thì gọi là bệnh tiêu chảy. Cho dù bất cứ nguyên nhân nào dẫn đến tiêu chảy thì hậu quả đầu tiên của tiêu chảy là mất nước, mất điện giải và kiệt sức. Nếu khỏi bệnh, lợn con thường còi cọc, thiếu máu, chậm lớn. Nếu không khỏi sẽ gây viêm nhiễm, tổn thương thực thể đường tiêu hóa và nhiễm trùng dẫn đến tỷ lệ chết cao, gây thiệt hại lớn về kinh tế (Phạm Ngọc Thạch, 2006).
<b>1.2.2. Nguyên nhân gây ra hội chứng tiêu chảy </b>
Hội chứng tiêu chảy lợn con đã và đang được nhiều tác giả (Nguyễn Thị Nội và cs, 1968; Nguyễn Như Thanh và cs, 2001; Trương Quang, 2005 quan tâm, nghiên cứu và đưa ra những nhận định khác nhau liên quan đến hàng loạt các yếu tố gây bệnh. Tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu tập trung vẫn theo 2 hướng chính sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng Hội chứng tiêu chảy lợn con không phải bệnh nhiễm trùng mà là chứng khó tiêu, hậu quả của các yếu tố ngoại cảnh như thời tiết khí hậu, chất lượng sữa mẹ vệ sinh chuồng trại, chăm sóc ni dưỡng lợn con, lợn mẹ kém gây nên.
Quan điểm thứ 2 cho là do bệnh nhiễm trùng đường tiêu hóa, chủ yếu do
<i>vi khuẩn E.coli gây ra ngồi ra có sự tham gia của Salmonella và vai trò thứ yếu là Proteus, Streptococcus. </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><i><b>Do vậy cần dựa vào đặc điểm thực tế tại cơ sở chăn nuôi để phân chia </b></i>
nguyên nhân nào là chính, ngun nhân nào là phụ, từ đó có biện pháp phịng
<i><b>trị hiệu quả. </b></i>
<i><b>1.2.2.1. Do vi sinh vật - Do vi khuẩn </b></i>
Khi nghiên cứu về nguyên nhân gây Hội chứng tiêu chảy ở lợn, nhiều tác giả đã kết luận rằng trong bất cứ trường hợp nào gây ra bệnh cũng có vai trò tác động của vi khuẩn.
Theo Nguyễn Như Thanh và cs (2001), thường xuyên phát hiện 5 loại vi
<i>khuẩn hiếu khí: E.coli, Salmonella, Klebssiella, Staphylococcus sp, Bacillus subtilis và 5 loại vi khuẩn yếm khí trong đó có E.coli là loại vi khuẩn chính </i>
<i><b>gây Hội chứng tiêu chảy lợn con và được nhiều tác giả nghiên cứu. </b></i>
Các vi khuẩn này thường cư trú trong đường tiêu hóa của lợn, ở điều kiện bình thường khi sức đề kháng của lợn tốt thì chúng khơng gây bệnh. Khi có những tác động làm biến đổi trạng thái sinh lý bình thường của lợn làm giảm sức đề kháng, vi khuẩn sinh sôi nảy nở, tăng lên về số lượng và độc lực
<b>gây bệnh cho lợn. </b>
<i>Do vi khuẩn E.coli: </i>
<i>E.coli là vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae, họ vi khuẩn thường trực đừng </i>
tiêu hóa, chiếm đến 80% các vi khuẩn hiếu khí, vừa là vi khuẩn cộng sinh đường tiêu hóa vừa là vi khuẩn gây nhiều bệnh ở đường ruột và các cơ quan khác.
<i>E.coli có sẵn trong đường ruột của động vật và gây bệnh khi sức đề kháng của </i>
con vật giảm sút do chăm sóc ni dưỡng kém, điều kiện thời tiết thay đổi đột ngột hay các bệnh kế phát.
<i>Bình thường vi khuẩn E.coli cư trú ở ruột già và phần cuối của ruột </i>
non, khi gặp điều kiện thuận lợi chúng sẽ nhân lên với số lượng lớn ở lớp sâu tế bào thành ruột, đi vào máu đến các cơ quan nội tạng. Khi vào máu do cấu trúc kháng nguyên O và khả năng dung huyết mà vi khuẩn chống lại các
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">yếu tố phòng vệ không đặc hiệu của cơ thể, khả năng thực bào. Ở các cơ quan nội tạng chúng tiếp tục phát triển và sự cư trú của chúng làm cho con vật rơi vào trạng thái bệnh lý.
<i>Các yếu tố gây bệnh của E.coli bao gồm: Yếu tố bám dính, yếu tố xâm </i>
nhập, yếu tố gây dung huyết và độc tố. Các chủng không gây bệnh khơng có kháng ngun bám dính.
<i>Theo Radostits và cộng sự (1994) cho rằng E.coli gây bệnh cho lợn là </i>
các chủng kháng nguyên pili và sản sinh độc tố đường ruột đóng vai trị quan
<i>trọng và phổ biến trong quá trình tiêu chảy ở lợn.E.coli gây bệnh cho ký chủ </i>
nhờ yếu tố bám dính và độc tố đường ruột. Nó bám dính vào niêm mạc ruột rồi sản sinh độc tố đường ruột, các chủng gây bệnh đều sản sinh ra một hay nhiều kháng nguyên bám dính, chúng nằm trên fibriae - một cấu trúc giống sợi lông, xuất phát từ một đĩa giống trong màng nguyên sinh chất của tế bào vi khuẩn. Chính các yếu tố bám dính và độc tố đường ruột gây ra quá trình
<i>sinh bệnh đặc trưng của E.coli </i>
Lê Văn Tạo và cộng sự (2007), đã phân lập từ mẫu phân lợn con mắc
<i>Hội chứng tiêu chảy được 75 chủng E.coli thuộc 13 serotyp kháng nguyên, </i>
cũng theo tác giả bệnh thường xảy ra ở lợn con đặc biệt là lợn con sơ sinh từ 1 - 21 ngày tuổi, tập trung chủ yếu là trong 10 ngày đầu, có con mắc bệnh rất sớm ngay sau khi sinh 2-3 giờ đã mắc và muộn hơn khi đã tròn 4 tuần, bệnh thường xảy ra khi thời tiết thay đổi, khí hậu rét, mưa nhiều độ ẩm cao.
<i>Do vi khuẩn Salmonella: </i>
<i>Salmonella là vi khuẩn có vai trị quan trọng trong q trình gây ra Hội </i>
chứng tiêu chảy ở lợn con. Đây là loại vi khuẩn sống hoại sinh ở đường tiêu hóa, chứa đựng các yếu tố gây bệnh và các yếu tố không gây bệnh không phải là độc tố.
Hiện nay các nhà khoa học đã ghi nhận có khoảng 2.200 serotype
<i>Salmonella và được chia ra 67 nhóm huyết thanh dựa vào cấu trúc kháng </i>
nguyên O (Radostits, 1994).
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><i>Tô Thị Phượng (2006), nghiên cứu sự biến động của Salmonella và E.coli ở lợn qua các lứa tuổi cho thấy, có 100% các mẫu phân có vi khuẩn E.coli dù lợn có bị mắc bệnh tiêu chảy hay không bị tiêu chảy. Lợn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi, tỷ lệ nhiễm Salmonella là 41,165%, sau đó theo độ tuổi tỷ lệ nhiễm tăng dần từ 58,33% đến 60%. Khi lợn bị tiêu chảy, tỷ lệ Salmonella </i>
tăng lên đáng kể, tỷ lệ nhiễm là 81,25% với lợn từ 1 đến 21 ngày tuổi, 85,71% với lợn từ 22 - 60 ngày tuổi và 75% với lợn trên 60 ngày tuổi. Số lượng vi
<i>khuẩn Salmonella cũng tăng dần từ 13,91 triệu con đến 41,48 triệu vi </i>
khuẩn/1 gram phân lợn từ 1 đến hơn 60 ngày tuổi.
<i>Salmonellosis là vi khuẩn gây bệnh viêm ruột chủ yếu do 2 chủng vi khuẩn Salmonella cholera suis chủng kunxendorf và Salmonella typhysuis </i>
chủng voldargsen gây bệnh thể mãn tính. Bệnh thường xảy ra ở lợn sau cai sữa đến 4 tháng tuổi.
Triệu chúng chủ yếu: con vật bỏ ăn, sốt cao 40,5°C - 41,6°C, ho khan khò khè. Lúc đầu đi táo sau khi nhiệt độ hạ xuống con vật ỉa chảy nặng, phân lỏng, sống, màu vàng như cám, da tụ huyết, gan hoại tử hoặc apse, lợn chết ở những ngày đầu lách sưng to tụ máu. Nếu lợn mắc ở thể mãn tính lách dai như cao su, niêm mac ruột già viêm loét. Do ỉa chảy nhiều con vật dễ dẫn đến lịi dom và liệt cơ vịng hậu mơn giai đoạn sau nên phân tự chảy ra.
<i>- Do vi khuẩn Clostridium perfringens: </i>
<i>Vi khuẩn yếm khí Clostridium perfringens là một trong những tác nhân </i>
quan trọng gây ra hội chứng tiêu chảy ở lợn con ở lứa tuổi 1 đến 120 ngày tuổi, ở lợn con theo mẹ, tỷ lệ mắc có thể lên tới 100% và tỷ lệ chết là 60% (Phan Thanh Phượng và cs, 1996).
<i>Ngồi ra cịn có sự tác động của các yếu tố gây bệnh như: Proteus, Streptococcus đóng vai trị phụ làm bệnh nặng thêm. Bênh xảy ra ở lợn trong </i>
vòng 1 tuần tuổi nhất là thời điểm 1-3 ngày sau khi sinh. Bệnh là do cảm nhiễm kế phát làm cho diễn biến ở mức độ trầm trọng khác nhau.
Triệu chứng chủ yếu là tiêu chảy ra máu, tỷ lệ chết cao, có bệnh tích ở
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">ruột non xuất huyết màu đỏ tươi.
<i><b>- Do virus </b></i>
Đã có nhiều nghiên cứu chứng tỏ rằng virus cũng là một nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn. Và kết luận một số virus có vai trị nhất định gây ra hội chứng tiêu chảy ở lợn như Rota-virus, Enterovirus, TGE, Parvovirus, Adenovirus. Sự xuất hiện của virus làm tổn thương các niêm mạc đường tiêu hóa, làm giảm sức đề kháng của cơ thể và dẫn đến gây ỉa chảy ở thể cấp tính.
Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (1997), thì virus TEG có một sự liên hệ đặc biệt với các tế bào màng ruột non. Đầu tiên khi virus xâm nhập vào tế bào nó nhân lên và phá hủy tế bào trong từ 4 đến 5 tiếng. Ở lợn bị nhiễm virus TEG sữa và các chất dinh dưỡng khơng tiêu hóa được, nước khơng hấp thu được, con vật dẫn đến tiêu chảy, mất dịch, mất chất điện giải và dẫn đến chết.
Các nghiên cứu về nguyên nhân gây hội chứng tiêu chảy ở lợn con trên
<i>thế giới đã chỉ ra 2 nhóm virus chủ yếu thuộc họ Corona viridae và Rota viridae gây bệnh tiêu chảy ở lợn, đặc biệt là lợn con. Trong nhóm Corona viridae có 2 đại diện chính gây bệnh tiêu chảy ở lợn là Transmissible Gastroenteritis virus- TGE và Poceine Epidemic Diarrhea virus- PEDV. </i>
Theo Bergenland (1992) [43], có rất nhiều loại virus là mầm bệnh gây tiêu chảy ở lợn trước và sau cai sữa như: 29% phân lợn bệnh tiêu chảy phân lập được virus Rotavirus, 11,2% có virus TEG, 2% có Enterovirus và 0,7% có Parvovirus.
<i><b>- Do ký sinh trùng </b></i>
Ký sinh trùng nói chung và ký sinh trùng đường tiêu hóa nói riêng là một trong những nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn cũng như một số gia súc khác. Tác hại do chúng gây ra không chỉ lấy chất dinh dưỡng của vật chủ mà còn tác động lên vật chủ thông qua nội, ngoại độc tố do chúng tiết ra, độc tố làm giảm sức đề kháng, gây trúng độc, tạo điều kiện cho những bệnh khác phát sinh. Ngoài ra ký sinh trùng cịn gây tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa, gây viêm ruột ỉa chảy.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><i>Có nhiều loại ký sinh trùng gây bệnh tiêu chảy ở lợn như: cầu trùng Eimeria, Isospora suis, Crytosporidium, Ascaris suum, Trichuris suis hoặc một số lồi giun trịn lớp Nematoda (Ascaris suum, Trichuris suis, Haemonchus, Mecistocirrus). </i>
Theo Phan Lục và Phạm Văn Khuê (1996), sán lá ruột lợn và giun đũa lợn ký sinh trong đường tiêu hóa, làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa gây viêm ruột tiêu chảy.
<i><b>1.2.2.3. Do bản thân con lợn con </b></i>
Do nguyên nhân di truyền như chất lượng tinh trùng hay chất lượng trứng, có thể do sự phát dục của bào thai kém, hay do sức khỏe của lợn mẹ lúc mang thai.
Do bộ máy tiêu hóa chưa hồn thiện, trong 21 ngày đầu dạ dày và ruột chưa có khả năng tự tiết dịch vị, thức ăn trực tiếp kích thích vào niêm mạc mà tiết dịch và trong dịch vị chưa có HCl nên tính kháng khuẩn chưa cao. Mặt khác hệ vi sinh vật có lợi trong đường tiêu hóa chưa hình thành nên chưa có sự cân bằng với vi sinh vật gây bệnh. Do hệ thống miễn dịch, hệ thống điều tiết nhiệt của gia súc chưa hồn thiện và ổn định nên sự thích nghi với sự thay đổi của ngoại cảnh còn kém.
Một trong các nguyên nhân quan trọng gây bệnh đường tiêu hóa là do thiếu sắt. Khi còn là bào thai lượng sắt cần thiết được mẹ cung cấp. Khi ra ngồi mơi trường sống, sữa mẹ chỉ cung cấp được 1/6 lượng sắt mà cơ thể non yêu cầu. Trong khi cơ thể sơ sinh cần tới 40- 50 mg sắt/ngày, nhưng lợn con chỉ nhận được 1mg/ngày thơng qua sữa mẹ. Vì vậy, cần bổ sung thêm ít nhất là 200- 250mg/con để lợn con tránh thiếu máu. Trong sữa mẹ không những chỉ thiếu sắt mà còn thiếu cả Coban, Vitamin B<small>12</small> tham gia vào q
<i>trình tạo máu, tổng hợp và hoạt hóa một số enzym. Do đó lợn con dễ sinh bần </i>
huyết, cơ thể suy yếu, sức đề kháng giảm, lợn con dễ mắc tiêu chảy.
<i><b>1.2.2.4. Do lợn mẹ </b></i>
Sữa mẹ là nguồn thức ăn chính và quan trọng nhất đối với lợn con theo mẹ. Vì sữa mẹ là nguồn thức ăn có đầy đủ các chất dinh dưỡng không loại
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">thức ăn nào có thể thay thế được. Tình trạng sức khoẻ của lợn mẹ, chế độ nuôi dưỡng của lợn mẹ là những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới sản lượng và chất lượng sữa.
Theo Cù Xuân Dần (1996), lượng sữa mẹ từ khi đẻ tăng đến ngày thứ 15 là cao nhất, đến ngày thứ 20 đột ngột giảm xuống thấp trong khi nhu cầu về sữa mẹ của lợn con tăng lên. Do đó nếu ở giai đoạn này lợn mẹ mà thiếu chất dinh dưỡng thì lợn con lại càng thiếu sữa, cơ thể lợn con trở nên suy nhược, giảm sức đề kháng, lợn dễ bị stress.
<i><b>1.2.2.4. Do nấm mốc </b></i>
Thức ăn khi chế biến hoặc bảo quản không đúng kỹ thuật dễ bị nấm mốc. Một số lồi như: Aspergillus, Penicillium, Fusarium... có khả năng sản sinh nhiều độc tố, nhưng quan trọng nhất là nhóm độc tố Aflatoxin (Aflatoxin B1, B2, G1, G2, M1, M2). Theo Đậu Ngọc Hào (2006), thì thức ăn cho lợn quá trình chế biến và bảo quản khơng tốt rất dễ nhiễm một số lồi nấm mốc như Aspergillus, Penicillin phân bố trong tự nhiên, chúng có khả năng xâm nhập và phát triển mạnh trong thức ăn và sản sinh nhiều độc tố gây hại cho lợn và là nguyên nhân của nhiều bệnh: gây ung thư gan, hủy hoại gan, độc cho thận, sinh dục và thần kinh. Lợn khi nhiễm độc tố nấm mốc thường bỏ ăn, thiếu máu, vàng da, ỉa chảy, ỉa chảy ra máu.
<i><b>1.2.2.5. Nguyên nhân khác - Do thời tiết khí hậu </b></i>
Ngoại cảnh là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sức đề kháng của cơ thể gia súc. Khi điều kiện thời tiết khí hậu thay đổi đột ngột, q nóng, q lạnh, mưa gió, ẩm độ, đều là các yếu tố stress có hại tác động đến tình trạng sức khỏe của lợn, đặc biệt là lợn con theo mẹ. Ở lợn con theo mẹ, do cấu tạo và chức năng sinh lý của các hệ cơ quan chưa ổn định, hệ thống tiêu hoá, miễn dịch, khả năng phòng vệ và hệ thống thần kinh đều chưa hồn thiện.
Vì vậy lợn con là đối tượng chịu tác động của điều kiện ngoại cảnh mạnh nhất, bởi các phản ứng thích nghi và bảo vệ của cơ thể còn rất yếu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Theo Đồn Thị Kim Dung (2004), các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay đổi bất thường và điều kiện chăm sóc ni dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích nghi của cơ thể cịn yếu.
<i><b>- Do kỹ thuật chăm sóc ni dưỡng </b></i>
Việc ni dưỡng lợn nái chửa kỳ cuối rất quan trọng, nó quyết định trọng lượng
sơ sinh của lợn con, một trong những chỉ tiêu để nâng cao năng suất của đàn nái sinh sản, đồng thời nói lên sức khoẻ của lợn con sơ sinh.
Các chất dinh dưỡng cung cấp cho lợn mẹ, ngoài việc đáp ứng nhu cầu năng lượng và protein còn cung cấp các vitamin, khoáng, đặc biệt là protein tạo kháng thể chống lại các vi khuẩn có hại.
Lợn con khi sinh không ngừng sử dụng protein để xây dựng các mô bào mới trong quá trình phát triển, đồng thời khơi phục và tu bổ lại tế bào cũ. Vì vậy, nếu khẩu phần ăn của lợn mẹ không đủ protein, thiếu khoáng đa lượng, vi lượng, dẫn đến thiếu dinh dưỡng, lượng sữa giảm, chất lượng sữa giảm, ảnh hưởng đến sức khoẻ của lợn con.
Thân nhiệt của lợn mới sinh ra là 38,9<sup>o</sup>C - 39,1<sup>o</sup>C, nhưng sau 30 phút giảm xuống còn 36,7 - 37,1<sup>o</sup>C. Trong vòng 1 giờ sau khi sinh, nếu lợn con được bú sữa đầu thì sau 8- 12 giờ thân nhiệt của lợn con sẽ được ổn định trở lại, nếu lợn con khơng được bú sữa đầu thì sự mất nhiệt sẽ là nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy lợn con.
Trong sữa đầu hàm lượng vitamin A, D, B<small>1</small>, C cao hơn rất nhiều so với sữa thường. Ngồi ra, trong sữa đầu cịn có MgSO<sub>4</sub> có tác dụng tẩy rửa các
<i>chất cặn bã trong đường tiêu hố. Đặc biệt cịn có hàm lượng kháng thể γ - globulin, do đó cho lợn con bú sữa đầu đầy đủ rất cần thiết nhằm cung cấp </i>
hàm lượng kháng thể đáng kể chống lại sự xâm nhập của các vi khuẩn gây bệnh, tăng sức đề kháng của cơ thể.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><i><b>- Do stress </b></i>
Sự thay đổi các yếu tố khí hậu thời tiết, mật độ chuồng nuôi, vận chuyển đi xa đều là các tác nhân stress quan trọng trong chăn nuôi dẫn đến hậu quả giảm sút sức khỏe vật nuôi và bệnh tật trong đó có tiêu chảy.
Theo Phạm Khắc Hiếu và cs (1998), hệ thống tiêu hoá của lợn mẫn cảm với stress. Hiện tượng stress thường gây nên hiện tượng chán ăn, nôn mửa, tăng nhu động ruột, đau bụng và có khi tiêu chảy. Sự thay đổi của các yếu tố khí hậu, thời tiết, mật độ chuồng ni, phương thức chăn nuôi, vận chuyển đi xa đều là những tác nhân stress quan trọng trong chăn nuôi, dẫn đến hậu quả làm giảm sút sức khoẻ vật nuôi, là nguy cơ xảy ra các bệnh trong đó có hội chứng tiêu chảy.
<b>1.2.3. Cơ chế sinh bệnh </b>
Theo Phạm Ngọc Thạch (2006), khi bị bệnh, đầu tiên dạ dày giảm tiết dịch vị, nồng độ HCl giảm, làm giảm khả năng diệt trùng và khả năng tiêu hóa protein. Khi độ kiềm trong đường tiêu hóa tăng cao tạo điều kiện cho các vi khuẩn trong đường ruột phát triển mạnh, làm thối rữa các chất chứa trong đường ruột và sản sinh nhiều chất độc. Những sản phẩm trên kích thích vào niêm mạc ruột làm tăng nhu động ruột, con vật sinh ra ỉa chảy. Khi bệnh kéo dài, con vật bị mất nước (do ỉa chảy) gây nên rối loạn trao đổi chất trong cơ thể như nhiễm độc toan hoặc mất cân bằng các chất điện giải, làm cho bệnh trở nên trầm trọng, gia súc có thể chết. Những con khỏi bệnh thường cịi cọc, chậm lớn, da khơ, lơng xù.
<i><b>1.2.4. Triệu chứng của bệnh </b></i>
Lợn con mắc bệnh đa số thân nhiệt tăng sau 2 đến 3 ngày thì hạ xuống do ỉa chảy mất nước nhiều. Trong 1 đến 2 ngày đầu mắc bệnh lợn vẫn bú sau đó gầy tọp nhanh, lơng xù, đi rũ, da nhăn nheo, nhợt nhạt, hai chân sau dúm lại và run rẩy, đi và khoeo dính đầy phân. Con vật mất nước, ủ rũ, da khô, lông xù, đi xiêu vẹo, niêm mạc mắt nhợt nhạt, mắt đôi khi bị sưng. Lợn lười vận động, một số trường hợp thường nằm trên bụng mẹ, nằm tụm lại một chỗ,
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">gầy dần, có biểu hiện rối loạn thần kinh vì hạ đường huyết.
Ngồi việc chẩn đốn dựa vào triệu chứng trên thì bệnh còn được xác định chủ yếu dựa vào trạng thái biến đổi của phân, về trạng thái phân có thể chia làm 3 giai đoạn.
Giai đoạn đầu kể từ 12-24 giờ trước khi bị bệnh (thời kỳ nung bệnh), lúc này thấy lợn đi ỉa khó khăn, phân táo đen và nhỏ như hạt đỗ đen.
Giai đoạn tiếp theo phân táo bón chuyến sang dạng sền sệt, màu vàng, 2 đến 3 ngày sau phân chuyển sang thành màu trắng như vôi hoặc trắng xám. Phân ngày một lỏng hơn, trong phân có lẫn những hạt sữa chưa tiêu hoá, lợn cợn như cám hoặc có nhiều bột. Có trường hợp mắc bệnh đến ngày thứ 3 phân đã loãng như nước, tháo tung toé. Lúc này lợn con mất nước nặng, nếu kiểm tra phân dưới kính hiển vi sẽ thấy trong phân có những hạt mỡ chưa tiêu hoá,
các tế bào niêm mạc ruột hoặc có thể lẫn một ít hồng cầu.
Giai đoạn hồi phục, phân từ màu trắng xám chuyến thành xám đen, phân đặc dần thành khuôn như phân lợn khoẻ.
Ngoài các triệu chứng chung của hội chứng tiêu chảy, tùy theo bệnh, tác nhân gây bệnh mà lợn có những triệu chứng riêng.
<b>Bảng 1.2. Phân biệt triệu chứng một số bệnh gây tiêu chảy ở lợn con </b>
Sốt cao 40,5 - 41,6 độ C, bỏ ăn, tiêu chảy. Tím da ở bụng, gốc đuôi, 4 chân và chỏm tai.
Do ỉa chảy nhiều, con vật dễ dẫn đến lòi dom và giai đoạn sau liệt cơ vịng hậu mơn cho nên phân tự chảy ra.
Biểu hiện viêm ruột xuất huyết.
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Tiêu chảy cấp tính phân lỏng màu vàng xám dẫn đến mất nước nên tai cụp, mắt trũng sâu, bụng hóp. Lợn
Gây dịch tiêu chảy cấp tính. Lợn bệnh nơn, bỏ ăn tạm thời. Lợn con <3 tuần tuổi dễ chết trong vịng 2-4 ngày, những con sống sót qua 6-8 ngày thì hồi phục nhưng cịi cọc. Lợn nái có biểu hiện lâm sàng như bị bệnh viêm ruột truyền nhiễm
<b>Bệnh dịch tả lợn </b>
Lúc tiêu chảy lúc táo như phân dê, bên ngoài bọc màng nhầy trắng. Tím da và xuất huyết điểm vùng bụng, gốc đuôi, mõm và gốc tai. Đi loạng choạng, liệt, co giật.
<i> (Nguồn: Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, 2012) </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><b>Hình 1: Triệu chứng lợn con bị phân trắng </b>
<b>Hình 2:Triệu chứng lợn con bị ỉa phân trắng </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><b>Hình 3: Hình ảnh sàn chuồng khi lợn bị bệnh phân trắng </b>
<b>Hình 4: Hình ảnh sàn chuồng khi lợn bị bệnh phân trắng 1.2.5. Bệnh tích của bệnh </b>
Xác chết gầy, đi và khoeo dính đầy phân, mắt trũng sâu, lơng da khơ mất tính đàn hồn. Một số trường hợp lợn con bị viêm phổi, xoang ngực, xoang bụng chứa dịch. Gan hơi sưng hoặc không sưng, màu nâu vàng nhạt, túi mật thường căng, cá biệt có con khơng căng, phổi thường ứ huyết, đơi khi có hiện tượng sưng phổi nhẹ. Dạ dày chứa đầy sữa đơng vón màu vàng trắng chưa tiêu. Ruột non căng phồng chứa đầy hơi, dịch màu vàng và có xuất huyết điểm ở thành ruột, niêm mạc ruột bị hoại tử từng đám. Màng treo ruột xuất huyết, hạch màng treo ruột sưng. Niêm mạc xung huyết hoặc xuất huyết. Ruột rỗng chứa nước hoặc hơi, niêm mạc sung huyết hay xuất huyết từng đám, hoặc viêm cata nhẹ và trong ruột già chứa phân màu vàng.
<b>1.2.6. Biện pháp phòng trị bệnh </b>
<i><b>1.2.6.1. Phòng bệnh </b></i>
Tiêu chảy là bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra, để phòng chống bệnh đường tiêu hoá cho lợn phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp, tác động đến nhiều khâu, nhiều yếu tố như tác động vào môi trường, thức ăn, nước uống…
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Nên cho lợn bú sữa đầu, nên chăm sóc lợn mẹ trước khi sinh, nên tập ăn sớm cho lợn con. Chống ẩm, chống bẩn và chống lạnh.
<i><b>Phịng bệnh bằng vệ sinh, chăm sóc, ni dưỡng </b></i>
Việc giữ chuồng trại sạch sẽ, thống khí, ấm áp vào mùa đông và đầu xuân là rất cần thiết. Chúng ta nên sử dụng các thiết bị sưởi bằng đèn điện, đèn hồng ngoại trong những ngày thời tiết lạnh và ẩm.
Theo Lê Vĩnh Phước (1992), cần chú ý cơng tác chăm sóc ni dưỡng lợn mẹ và lợn con trước và sau khi sinh, đòi hỏi người chăn ni có những hiểu biết nhất định về công tác chăn nuôi, đặc biệt là việc cung cấp dinh dưỡng cho lợn nái chửa một cách phù hợp, tăng thức ăn thô giảm thức ăn tinh vào giai đoạn cuối của kỳ chửa song vẫn đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng và các loại khống đa lượng, vitamin cho lợn mẹ, để phịng hiện tượng thiếu hụt dinh dưỡng cho đàn lợn con, bằng cách tập cho lợn con ăn sớm, chuồng nuôi lợn nái và lợn con phải giữ khô ráo, sạch sẽ thoáng mát hợp vệ sinh.
Theo Sử An Ninh (1993), ở giai đoạn lợn con theo mẹ cũng như cai sữa cần hạn chế dùng nước tắm rửa cho lợn, ẩm độ 70 - 85% là thích hợp cho lợn con.
Theo Phạm Khắc Hiếu và Cs (1998), lợn con sau khi đẻ ra cần được sưởi ấm ở nhiệt độ 34<small>0</small>
C trong tuần lễ đầu tiên, sau đó giảm dần xuống nhưng không được thấp hơn 30<sup>0</sup>C để tránh được stress lạnh ẩm cho lợn.
Trần Thị Hạnh và Cs (2004) cho biết để hạn chế sự tồn tại của tác nhân gây bệnh như C. perfrigen và vi khuẩn E. coli là vệ sinh, tiêu độc sát trùng chuồng trại định kỳ, tắm rửa nái trước khi sinh, cho lợn con bú sữa đầu và ủ ấm lợn con theo mẹ trong tuần đầu sau khi sinh là điều cần thiết để bảo vệ sức khỏe cho đàn lợn con tránh được bệnh tiêu chảy.
<i><b>Phòng bệnh bằng bổ sung sắt </b></i>
Lợn con thiếu sắt dẫn đến thiếu máu, làm giảm sức đề kháng cũng là một nguyên nhân quan trọng gây nên hội chứng tiêu chảy ở lợn con.
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Do đó cần phải bổ sung sắt phù hợp với từng giai đoạn phát triển của lợn con để nâng cao sức đề kháng của cơ thể.
<i><b>Phòng bệnh bằng vaccine </b></i>
Phòng bệnh bằng vaccine là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn ngừa bệnh đặc biệt là các bệnh có nguyên nhân là vi sinh vật.
Theo Trần Văn Hào (2012), khi bổ sung kháng thể E. coli trên lợn con theo mẹ có tác dụng trong việc làm giảm tỷ lệ tiêu chảy xuống còn 1,17% làm tăng 8,01% trọng lượng lợn con cai sữa, tăng tỷ lệ ni sống từ 93,44% lên đến 96,26%.
<i><b>Phịng bệnh bằng chế phẩm sinh học </b></i>
Chế phẩm sinh học là môi trường nuôi cấy một loại vi sinh vật có lợi nào đó khi đưa vào cơ thể có tác dụng bổ sung các vi sinh vật hửu ích, giúp duy trì và lập lại trạng thái cân bằng của hệ vi sinh vật trong đường tiêu hóa.
Một số chủng vi sinh vật hiện nay đã và đang được sử dụng để sản xuất chế phẩm Propiotic là: Lactobacillus acidophilus, Bacillus subtilis, Bacillus licheniformis, Bacillus polymysa, Saccharomyces, Streptococcus... Trong những năm gần đây các chủng vi khuẩn lactic được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, trong đó Lactobacillus acidophilus được chú ý nhiều nhất bởi nó có thể sống, phát triển tốt trong môi trường đường ruột đồng thời cịn có khả năng tổng hợp một số vitamin cần thiết cho cơ thể. Lactobacillus acidophilus cịn có khả năng đề kháng với hơn 40 loại kháng sinh do vậy có thể kết hợp với kháng sinh để điều trị tiêu chảy.
<i><b>Phịng bệnh bằng các loại thuốc, hóa dược </b></i>
Theo Bùi Trung Trực (2004), có thể phịng bệnh lợn con ỉa phân trắng bằng cách:
+ Cho mỗi lợn con sơ sinh uống 2 - 3 ml Spectinomycin 5% càng sớm ngay sau khi sinh càng tốt hoặc uống 3ml Trimethoprim 24%.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">+ Cũng có thể sử dụng Fe dextran - B12 10% tiêm cho lợn con vào ngày thứ 3 và ngày thứ 10 sau khi sinh với liều 2 ml/con, cũng cho hiệu quả phòng bệnh cao.
+ Tiêm Multivit - forte hay B. complex với liều 3 - 5 ml/con nhằm cung cấp khoáng và vitamin, tăng cường sức đề kháng cho lợn con giúp lợn con tăng cường sức chống chịu với bệnh tật nhất là bệnh lợn con ỉa phân trắng.
<i><b>1.2.6.2. Trị bệnh </b></i>
Hiện nay các vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học là hiệu quả điều trị bệnh. Nhiều nghiên cứu đã kết luận: cần điều trị sớm, kết hợp nhiều biện pháp tổng hợp nhằm khống chế, khắc phục rối loạn tiêu hoá và hấp thu, chống loạn khuẩn đường ruột, đồng thời phải kết hợp điều trị nguyên nhân với điều trị triệu chứng.
Theo Phạm Ngọc Thạch (2005), cho biết để điều trị hội chứng tiêu chảy ở gia súc nên tập trung vào 3 khâu là:
- Loại trừ những sai sót trong ni dưỡng như loại bỏ thức ăn kém phẩm chất, chăm sóc ni dưỡng tốt.
- Khắc phục rối loạn tiêu hoá và chống nhiễm khuẩn. - Điều trị hiện tượng mất nước và chất điện giải.
<i>Điều trị hội chứng tiêu chảy bằng kháng sinh </i>
Dùng thuốc kháng sinh chữa bệnh là một biện pháp hiệu quả khi lợn mắc
<i>tiêu chảy do nguyên nhân là các loại vi khuẩn như E.coli, Salmonella, Streptococcus, Cl.perfingens. Tuy nhiên chỉ nên dùng các loại kháng sinh </i>
mẫn cảm với các vi khuẩn để điều trị bệnh, tránh lạm dụng kháng sinh.
Theo Bùi Thị Tho (1996), kháng sinh dùng trong điều trị bệnh cho kết quả rất khác nhau ở các địa phương khác nhau. Tại một địa phương nếu một loại kháng sinh nào đó được dùng một thời gian dài thì hiệu lực điều trị sẽ
<i>giảm dần theo thời gian. </i>
Theo Nguyễn Ngọc Tuân và cộng sự (1999) khi nghên cứu về việc sử dụng kháng sinh Colistin, Oxytetracylin bổ sung với liều 50ppm và 100ppm
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">vào thức ăn cho lợn nái chửa 7 ngày trước đẻ và sau đẻ 14 ngày đã có kết quả làm giảm tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy ở lợn con khi sinh ra.
<i>Điều trị bổ sung </i>
Là phương pháp điều trị bổ sung những chất cơ thể thiếu. Lợn tiêu chảy thường dẫn đến tình trạng mất nước nặng nề và có biểu hiện rối loạn các chất điện giải. Do đó kết hợp với điều trị bằng thuốc kháng sinh rất cần bổ sung nước và các chất điện giải cho lợn con đồng thời trợ tim cho lợn con bằng Cafein 20%, tăng cường vitamin đặc biệt là nhóm B.
Các loại dịch truyền hay dùng trong thú y như: Dung dịch nước nuối sinh lý 0,9%, dung dịch đường glucose 10%, 20%.
Các loại thuốc bổ sung thêm như: Vitamin C, B-complex, Catosal, điện giải.
Các con đường bổ sung: Cho con vật uống, tiêm dưới da, tiêm bắp, tiêm truyền phúc mạc hoặc tĩnh mạch.
<i>Điều trị hội chứng tiêu chảy bằng chế phẩm sinh học: </i>
Việc sử dụng kháng sinh ngồi tác dụng chính, kháng sinh cịn có những mặt hạn chế do những tác dụng phụ ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của vật nuôi, đặc biệt đối với gia súc non, thường gây còi cọc, chậm lớn. Mặt khác một số kháng sinh còn gây tồn dư trong sản phẩm thịt ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Ngoài ra do việc quá lạm dụng kháng sinh trong điều trị đã dẫn đến hiện tượng kháng thuốc, nhờn thuốc của các vi khuẩn gây bệnh, gây khó khăn trong việc điều trị. Để khắc phục những hạn chế của kháng sinh, hiện nay các nhà khoa học đã và đang nghiên cứu bào chế ra các chế phẩm sinh học từ các vi sinh vật hữu ích.
Đồn Thị Kim Dung (2004), đã dùng chế phẩm sinh học Biosubtyl để điều trị lợn con tiêu chảy cho tỷ lệ khỏi bệnh là 68,4%.
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><b>1.4. Một số nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam 1.4.1. Một số nghiên cứu trên thế giới </b>
Bệnh lợn con ỉa phân trắng xảy ra quanh năm và khắp nơi trên thế giới gây thiệt hại lớn trong ngành chăn ni lợn. Vì vậy các nhà nghiên cứu trên thế giới đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về HCTC ở lợn con theo mẹ và có hiệu quả nhất định.
Radostits và cs (1994) cho rằng E.coli gây bệnh cho lợn là các chủng kháng nguyên Pili và sản sinh độc tố dường ruột đóng vai trị quan trọng và phổ biến trong quá trình tiêu chảy ở lợn. Cũng theo nghiên cứu này cho thấy Salmonella cũng là một nguyên nhân chính gây ra hội chứng tiêu chảy ở lợn con.
Hiện nay các nhà khoa học đã ghi nhận có khoảng 2.200 serotype samonella và được chia ra 67 nhóm huyết thanh dựa vào cấu trúc kháng nguyên O.
Niconxki V.V (1971) đã nhấn mạnh “ khi cơ thể gia súc non bị lạnh kéo dài sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm số lượng bạch cầu và tác dụng thực bào, giảm khả năng diệt trùng của máu, do đó gia súc dễ bị vi khuẩn tấn công”.
Năm 2013 tác giả Zhao J và Cs cho biết kể từ tháng 10 năm 2010, dịch lâm sàng của bệnh tiêu chảy ở lợn con bú sữa đã xuất hiện trở lại trong các khu vực chăn nuôi lợn sản xuất của Trung Quốc, gây ra sự gia tăng cấp tính trong tỷ lệ mắc và tử vong ở lợn con. Bốn virus là virus gây tiêu chảy thành dịch (PEDV), virus viêm dạ dày ruột truyền nhiễm (TGEV), nhóm virus Rotaviruses A (GAR), và virus Circovirus type 2 (PCV2), là những tác nhân gây bệnh chính của bệnh đường ruột ở lợn con.
<b>1.4.2. Một số nghiên cứu về bệnh ở Việt Nam </b>
Bệnh được chú ý theo dõi từ khoảng năm 1959 tại các cơ sở chăn nuôi tập chung.Bệnh đã được rất nhiều các tác giả trong nước nghiên cứu theo dõi và theo tác giả Nguyễn Văn Vượng (1963) thì lợn con thường bị phân trắng
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">vào 4-5 ngày tuổi, có con bị bệnh vào 8-10 ngày cá biệt có con quá 20 ngày hay trên một tháng còn mắc bệnh.
Theo Hùng Cao (1962) bệnh phân trắng ở lợn con gây thiệt hại nghiêm trọng cho các cơ sở chăn nuôi ở khu tự trị Việt Bắc.
Theo Đào Trọng Đạt (1986) bệnh thường gặp ở lợn mới sinh vào giai đoạn từ 1-20 ngày tuổi.
Theo Nguyễn Xuân Bình trong cuốn điều trị bệnh heo nái, heo con, heo thịt (1973) nêu rằng Detran Fe có tác dụng phịng chống bệnh tả phân trắng lợn con.
Theo tác giả Ngọc Anh và Phạm Hữu Hiếu (1977) trong bài hiệu quả sử dụng Chloramphenicol, Nitrofuranfein, Neomycin có tác dụng mạnh đối với E.coli và có tác dụng điều trị tốt. Các tác giả đề nghị nên dùng Frazolidon và dẫn chất của Nitrofuranfein vì có giá thành rẻ hơn.
Theo tác giả Phan Đình Thắm (1996) nhất thiết lợn con sơ sinh phải được bú sữa đầu để giúp cho chúng có sức đề kháng chống bệnh.trong sữa đầu có Albumin và Glubulincao hơn hẳn sữa thường, đây là chất chủ yếu giúp cho lợn con có sức đề kháng vì thế cần chú ý cho lợn con sơ sinh bú sữa mẹ. Trong ba ngày đầu đảm bảo được toàn bộ số con trong ổ được bú hết lượng sữa đầu của mẹ.
Theo tác giả Tạ Thị Vinh (1992) triệu chứng điển hình thường thấy ở lợn con : Sốt nhẹ hoặc không sốt, phân màu trắng vàng nhão nát lẫn cả bọt khí, lợn con khát nước, gầy sút nhanh, niêm mạc nhợt nhạt.
Theo Phạm Khắc Hiếu (1979) thấy bệnh phân trắng ở lợn con có liên quan đến trạng thái Stress như: thời tiết lạnh ẩm hoặc nóng ẩm đột ngột, thức ăn cho lợn mẹ thay đổi bất thường về lượng đạm và chất béo, chất khoáng vitamin.
Tác giả Lê Văn Phước (1997) trong bài" ảnh hưởng nhiệt độ và ẩm độ khơng khí đến tỉ lệ lợn con mắc bệnh phân trắng" tác giả nêu lên tỉ lệ nhiễm bệnh phân trắng lợn con thay đổi theo sự biến đổi của nhiệt độ, ẩm độ trung
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">bình thay đổi hàng tháng trong năm, có tương quan thuận với nhiệt độ và tương quan nghịch với độ ẩm không khí. Do đó để hạn chế tỉ lệ mắc bệnh phân trắng lợn con thì ngồi biện pháp về dinh dưỡng thú y còn phải bảo đảm chế độ khí hậu chuồng ni thích hợp.
Theo Lê Văn Tạo (1994) vaccine cũng được chế tạo từ các chủng E.coli gây bệnh phân lập từ các địa phương, dùng cho lợn con uống 3-4 lần sau khi đẻ vaccine có tác dụng phịng bệnh đạt tỷ lệ 70%. Theo Mai Lương (1966) Sunfat sắt (FeSO<small>4</small>) dùng trộn với thức ăn cho lợn mẹ ăn thêm trước khi đẻ 20-25 ngày và sau khi đẻ 20-30 ngày. Cơng thức này có kết quả phịng bệnh lợn con ỉa phân trắng.
Protoxalat hoặc oxalat dùng theo liều: Hồ thuốc theo cơng thức 1g với 200ml nước, cho lợn uống 4,5-7ml/ngày, dùng liên tục 7-10 ngày. Cơng thức này có tác dụng khỏi bệnh làm tăng trọng lượng lợn con.
Trong bài tìm hiểu thêm về nguyên nhân gây bệnh phân trắng lợn con và sơ bộ đánh giá tác dụng điều trị của loại thuốc vi sinh vật sống Subcolac của hai tác giả Vũ Văn Ngũ và Nguyễn Hữu Thọ (1977) bệnh phân trắng lợn con là do hiện tượng loạn khuẩn (Dysbacteriose) và chữa bệnh bằng cách cho uống vi sinh vật sống Subcolac có hiệu quả tốt vừa điều chỉnh hệ sinh vật đường ruột vừa cung cấp một số men tiêu hoá.Tác giả Từ Ngọc Quang (1964) theo dõi bệnh tại một số nông trường và trại chăn nuôi tập chung 1961-1963 đã nhận xét về điều kiện phát sinh bệnh phân trắng lợn con, thời gian nào bệnh phát triển nhiều, cho nền chuồng băng đất và sân chơi rộng rãi thì hạn chế rất nhiều sự phát triển của bệnh.
Tác giả Nguyễn Thị Nôị (1975) vi trùng E.coli trong bệnh phân trắng lợn con và hiệu lực của vaccin E.coli trong viêc phòng và trị bệnh phân trắng lợn con.
Trong bài ảnh hưởng của thuốc nam Bexxulin đối với bệnh phân trắng lợn con tác giả Trần Công Khanh (1983) nêu lên dùng thuốc nam chữa bệnh phân trắng lợn cơn. Qua thí nghiệm tác giả kết luận thuốc Bexxulin có tác
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">dụng tới tỉ lệ khỏi 80%, thuốc có tác dụng phòng bệnh nhưng ngắn phải cho uống thuốc nhiều lần khó áp dụng ở những cơ sở lớn
Theo tác giả Trịnh Thái Nguyên (1994) trong bài "So sánh hiệu quả dùng thuốc HD<small>3</small> và thuốc tân dược Chroramphenicol để phòng bệnh lợn con ỉa phân trắng” cho thấy HD<small>3</small> hơn hẳn thuốc Chloramphenicol về mọi mặt. Phòng và trị bệnh phân trắng lợn con điều trị để giá thành rẻ, tỉ lệ khỏi cao.
Tác giả Trương Lăng, nhà xuất bản Đà Nẵng (1997) trong cuốn
<i>"Hướngdẫn các bệnh điều trị thường gặp ở lợn" nếu thời gian nào độ ẩm cao </i>
bệnh phát triển nhiều và tỉ lệ mắc bệnh ngắn hơn so với đồng bằng và trung du, miền núi ít hơn và tác giả đề cập đến một số loại thuốc có tác dụng tốt trong việc điều trị bệnh phân trắng lợn con như Chloramphenicol, Tetracylin có thể dùng kháng sinh để tiêm phối hợp Sultamilmil để cho uống. Ngồi ra cịn dùng một số kháng sinh có nguồn gốc thảo dược cũng có thể điều trị bệnh phân trắng lợn con.
<i>Trong cuốn "Hướng dẫn phòng và trị bệnh lợn cao sản" của các tác giả </i>
Lê Văn Năm, Trần Văn Bình, Nguyễn Thị Hương (1999) có nêu khi điều trị bệnh lợn con ỉa phân trắng cần có sử dụng các chất đơn giản bù nước cho lợn con ỉa phân trắng cần có sử dụng các chất đơn giản bù nước cho lợn bệnh, kết quả điều trị sẽ cao nếu chúng ta biết kết hợp vừa tiêm vừa uống. Để giúp lợn chóng hồi phục hệ sinh vật có lợi trong ruột ta có thể cho lợn ốm uống thêm một thìa giấm thanh (giấm ăn đã pha lỗng) + 10ml nước sắc từ lá bàng 100g + búp ổi 100g + 100g cây phèn đen hoặc cây đinh lăng đổ vào 1 lít nước đun đến khi con 0,5lit là được, hoặc nước chiết tỏi (chứa Phytoncid, bỏ 100g củ tỏi vào 1 lít nước sôi ngâm sau 4-6 giờ thì dùng được). Mỗi lần cho uống 50ml nước tỏi + 10ml nước nguội ngày dùng 5-6 lần.Trường hợp nặng có thể cho nhịn bú 4-6 giờ/ ngày thay vào đó cho uống chất điện giải. Các tác giả cũng đề cập tới việc sử dụng vacxin Neocolipor do Pháp sản xuất và vacxin Vacoli do Cu Ba sản xuất để tiêm phòng cho cả lợn mẹ và lợn con.
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><i>Theo tác giả Trương Lăng trong cuốn"Cai sữa sớm lợn con" (2000) cho </i>
biết kháng thể của lợn con sơ sinh giảm dần thấp nhất vào lúc 21 ngày tuổi (thường từ 8 -12 ngày). Do đó lợn con hay bị đi ỉa lỏng lúc 6-10 ngày tuổi. Nếu lợn con nhiễm các virus, vi khuẩn, ký sinh trùng độc tố Aflatocin do nấm mốc sinh ra, dễ cảm thụ với E.coli hơn.
<i>Còn trong "Phịng trị bệnh" sử dụng sữa chua có Lactobacillus để phòng </i>
bệnh. Dùng men Saccharomyces bonlordi sản xuất chế phẩm Ultralurne và dùng canh trùng Subtilit chữa bệnh phân trắng, kết quả Ultralurne làm chậm thời gian mắc bệnh , bệnh không kéo dài, tỷ lệ nuôi sống cao.
Cũng theo tác giả Trương Lăng trong cuốn "Hướng dẫn điều trị các bệnh thường gặp ở lợn" (1998) nếu thời gian và độ ẩm cao bệnh phát triển nhiều và tỷ lệ mắc bệnh ở các nước cơ sở chăn nuôi miền trung du, miền núi ít hơn, thời gian mắc bệnh ngắn hơn so với đồng bằng và tác giả cũng đề cập tới một số loại thuốc có tác dụng tốt trong việc điều trị bệnh lơn con ỉa phân trắng như Chloramphenicol (50mg/kg P),Tetracylin (50mg/kg P). Có thể dùng kháng sinh tiêm phối hợp với Sulfanilamid để cho uống.Ngồi ra cịn dùng một số kháng sinh có nguồn gốc thảo dược, cũng có thể điều trị được bệnh phân trắng lợn con.
</div>