Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Nỗi Đau Hậu Chiến Trong Tác Phẩm “Lời Nguyện Cầu Cho Những Linh Hồn Phiêu Dạt” Của Tác Giả Đoàn Tuấn.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.5 KB, 25 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN</b>

<b>NHÓM 9LIT 412F - 2024S</b>

<b>NỖI ĐAU HẬU CHIẾN TRONG TÁC PHẨM “LỜINGUYỆN CẦU CHO NHỮNG LINH HỒN PHIÊU DẠT”</b>

<b>CỦA TÁC GIẢ ĐỒN TUẤN</b>

<b>Chun ngành: Truyền thơng Đa phương tiện</b>

<b>Nghiên cứu khoa học môn Văn học Việt Nam từ 1945 đến nay</b>

<b>Người hướng dẫn khoa học: ThS. Bùi Thị Kim Phượng </b>

Đà Nẵng-2024

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI CẢM ƠN</b>

Đề tài này được truyền trao ý tưởng và cảm hứng ban đầu từ ThS. Bùi Thị Kim Phượng. Nhờ có sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô đã giúp chúng em thực hiện nghiên cứu này.

Xin chân thành cám ơn cô đã dành nhiệt huyết và sự tận tâm chỉ dạy để dìu dắt chúng em.

Người thực hiện.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>Dẫn nhập</b>

<b>1. Lý do chọn đề tài</b>

Chiến tranh là một vấn đề lớn mang tính tồn cầu, nó có đầy đủ những xung đột mà nhân loại đã trải qua. Tàn bạo và nhân ái, dân tộc và quốc tế, diệt chủng và hồi sinh. Kể cả cho đến ngày nay vẫn còn rất nhiều vụ tranh chấp ở biên giới các nước như Iraq, Afghanistan, Cộng hịa Trung Phi,... Khơng thể đong đếm được sự mất mát và thiệt hại của những cuộc chiến khốc liệt đó. Cho dù chiến tranh có qua đi, song dường như hậu quả của nó vẫn chưa có hồi kết thúc. Nó vẫn mãi là nỗi ám ảnh dai dẳng, bám riết với những người đã trải qua, đặc biệt là những người là thân nhân của những người đã hy sinh trong trận chiến.

Chính vì vậy, nỗi đau hậu chiến đã trở thành một đề tài văn học đáng giá để khai phá sâu sắc, dễ thu hút thế hệ trẻ, dễ khơi dậy cảm xúc cho những người đi sau, giúp cho người trẻ có thể kết nối cảm xúc với thế hệ trước dù cho họ không sống trong chiến tranh và không tận mắt chứng kiến những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ.

Trên thực tế, hiện nay có rất nhiều nhà văn đã và đang cống hiến sức mình trong mảng đề tài viết về nỗi niềm hậu chiến. Nhưng để chọn lựa và tiến hành phân tích sâu, nhóm nghiên cứu quyết định đi với tác giả Đồn Tuấn. Có thể nói, Đồn Tuấn nổi tiếng với những câu thơ, những trang văn thấm đẫm tình yêu Tổ quốc, tình u và món nợ nghĩa tình với đồng đội, với những người lính khơng trở về sau chiến tranh. Ơng có khả năng viết nên những câu thơ về những người lính hi sinh ngồi biên giới một cách đầy xúc động. Nhiều hơn cả, nhà văn có quan điểm về văn chương rất đáng trân trọng, ông cho rằng thơ văn về những hiện thực dữ dội thì phong cách thể hiện phải là những trang viết đẹp, hình ảnh đẹp, mà sự thật thì tự thân nó đã tạo ra vẻ đẹp.

Giữa nhiều tác phẩm của tác giả Đồn Tuấn, nhóm nghiên cứu lựa chọn tác phẩm “Lời cầu nguyện cho những linh hồn phiêu dạt” vì đây là tác phẩm mới nhất, nó vừa thể hiện cái nhìn về chiến tranh nhưng cũng đồng thời nêu bật được cái nhìn của niềm đau hậu chiến. Những câu chuyện được kể lên trong tác phẩm hoàn toàn là những sự kiện đau buồn đã diễn ra và để lại nhân chứng. Niềm đau hậu chiến đều xuất phát từ những ám ảnh sau chiến tranh đọng lại trong cuộc đời của những người vợ, người mẹ có thân nhân nằm lại bên kia biên giới, những ám ảnh đó thời gian khơng thể xóa được. Phải nói rằng tác phẩm “Lời cầu nguyện cho những linh hồn phiêu dạt” của Đoàn Tuấn là một cuốn sách rất phù hợp để thực hiện nghiên cứu đề tài nỗi đau chiến tranh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>

Đối tượng nghiên cứu: nỗi đau hậu chiến.

Phạm vi nghiên cứu: tác phẩm “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt” của Đồn Tuấn.

<b>3. Mục đích nghiên cứu</b>

Mục đích của bài nghiên cứu này đầu tiên là để khái quát về chủ đề nỗi đau hậu chiến trong văn học Việt Nam cùng với những biểu hiện của nó trong tác phẩm "Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt". Những đặc điểm này sẽ giúp nhận thức đúng hơn về hiện thực cuộc sống của người Việt Nam hậu chiến tranh. Tiếp theo, nghiên cứu đi sâu vào những ảnh hưởng của nỗi đau hậu chiến đến con người, từ đó đưa ra đánh ra và nhận định. Thêm nữa, thông qua từng chương truyện đã được nhà văn Đoàn Tuấn tạo nên, nghiên cứu sẽ tìm hiểu nghệ thuật biểu hiện nỗi đau hậu chiến trong tác phẩm, cũng như những ẩn dụ và văn phong của tác giả để làm nổi bật một tài năng sáng tác. Về ý nghĩa thực tiễn, nghiên cứu tìm hiểu thêm về chủ đề về chiến tranh biên giới Tây Nam, về chiến tranh biên giới Tây Nam trong văn học Việt Nam để nêu lên khởi nguồn sáng tác của nhà văn. Sau cùng, nghiên cứu sẽ để lại bài học nhận thức cho thế hệ ngày nay.

<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>

Trong tác phẩm “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt”, tác giả Đoàn Tuấn trải dài những nỗi đau qua từng chương truyện, vì vậy thực hiện đề tài này người nghiên cứu vận dụng phối hợp các phương pháp sau:

Phương pháp miêu tả là dùng cách thức miêu tả, kể chuyện để tái hiện lại những sự kiện, tình tiết mang tính đau thương trong tác phẩm. Ngồi ra, nghiên cứu cịn sử dụng phương pháp loại hình nhằm xác lập đặc trưng loại hình tư duy nghệ thuật và phong cách tự sự của nhà văn từ đó có thể tìm ra những đóng góp thuộc về cá nhân nhà văn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

4. Phương pháp nghiên cứu 5. Bố cục đề tài

<b>Chương 1. Những vấn đề chung về nỗi đau hậu chiến và tác giả Đoàn Tuấn</b>

1.1 Những vấn đề chung về nỗi đau hậu chiến 1.1.1 Nỗi đau hậu chiến trong văn học Việt Nam 1.1.2 Chiến tranh biên giới Tây Nam

1.1.3 Chiến tranh biên giới Tây Nam trong văn học Việt Nam sau 1975 1.2 Tác giả Đoàn Tuấn

1.2.1 Thân phận và cuộc đời

1.2.2 Hành trình sáng tác nên tác phẩm “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt”

<b>Chương 2. Những biểu hiện của nỗi đau hậu chiến trong tác phẩm “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt”</b>

2.1 Ám ảnh và trăn trở 2.2 Tuyệt vọng và xót thương 2.3 Lời nguyện cầu

<b>Chương 3. Nghệ thuật biểu hiện nỗi đau hậu chiến trong tác phẩm “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt”</b>

3.1 Nghệ thuật tự sự theo dịng kí ức

3.2 Nghệ thuật không gian tâm tưởng và thời gian tâm tưởng 3.2.1 Nghệ thuật không gian tâm tưởng

3.2.2 Nghệ thuật thời gian tâm tưởng 3.3 Ngôn ngữ kể chuyện

<b>Kết luận</b>

<b>Tài liệu tham khảo</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>Chương 1. Những vấn đề chung về nỗi đau hậu chiến và tác giả Đoàn Tuấn</b>

1.1 Những vấn đề chung về nỗi đau hậu chiến 1.1.1 Nỗi đau hậu chiến trong văn học Việt Nam

Nỗi đau hậu chiến là một chủ đề quan trọng trong nền văn học Việt Nam, đặc biệt là trong văn học sau Chiến tranh Việt Nam. Những năm đầu hậu chiến, văn học chưa dứt hẳn khỏi mơ hình phản ánh nhưng cái nhìn về hiện thực đã dần thay đổi, đi từ mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực, nhìn thẳng vào sự thật đến tái nhận thức lịch sử và “nghiền ngẫm hiện thực”. Với một độ lùi thời gian nhất định đủ để chiêm nghiệm, đánh giá, cái nhìn về chiến tranh khơng cịn đơn giản một chiều như trước, sự diễn giải q khứ cũng khơng cịn quá cứng nhắc, nhờ đó các nhà văn đã rọi chiếu những sự thật về chiến trường và trong tâm hồn người lính.

Văn học viết về nỗi đau hậu chiến là thành quả của ý thức đổi mới về nội dung và hình thức sao cho phù hợp với nhu cầu của cuộc sống. Trong giai đoạn chiến tranh còn đang dang dở, người ta hạn chế đề cập đến những nỗi đau thương bởi sự ý thức rằng điều quan trọng nhất lúc bấy giờ là tập trung vào kháng chiến. Vậy nên khi chiến tranh kết thúc, cái đòi hỏi cấp thiết là viết về những gì chân thực và sâu thẳm, đó là một cách để các nhà văn bày tỏ bản thân cũng như để kết nối cảm xúc với độc giả.

Trong những tiểu thuyết văn học giai đoạn hậu chiến, hiện thực lịch sử được nhìn đa chiều và từ bên trong sâu thẳm tâm hồn người. Cảm hứng bi kịch trở nên đậm nét trong tiểu thuyết, con người được nhìn nhận ở khía cạnh là nạn nhân của chiến tranh. Những người chiến thắng trở về không được miêu tả như những anh hùng trận mạc mà hiện lên là những số phận tan nát sau khi đã trải qua các cuộc chiến. Rơi vào bi kịch hậu chiến khi trở về với những chấn thương khủng khiếp trong tâm hồn, khơng sao hịa nhập được với thực tại. Chưa bao giờ tác phẩm văn học viết về đề tài chiến tranh lại mang âm hưởng trầm buồn da diết, bi thương, ám ảnh đến vậy. Nhờ đó, nền văn học của chúng ta đã có những tác phẩm mang giá trị nhân văn sâu sắc, vươn tới “tầm cao của văn học chiến tranh”.

Những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu trong văn học Việt Nam chú trọng thể hiện nỗi đau hậu chiến thì phải kể đến như “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng, " Nỗi buồn chiến tranh " của Bảo Ninh, và " Xứ đạm bạc " của Dương Thu Hương. Những tác phẩm này đều mô tả một cách chân thực và sâu sắc về nỗi đau của chiến tranh và hậu quả tâm lý của nó đối với con người. Bên cạnh đó, có khơng ít tác phẩm thơ dân tộc thiểu số cũng hướng đến khắc họa những mối quan hệ phức

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

tạp, những mặt trái, góc khuất trong đời sống. Từ “Người Pác Bó về thăm Nhạn Tháp” của Triệu Lam Châu, “Bà mẹ” của Triều Ân đến “Hành trình tìm kiếm” của Y Phương, nỗi đau của những thân nhân người lính thốt ra khỏi trang giấy khiến người đọc không khỏi day dứt.

Theo Cathy Caruth “những suy nghĩ về chấn thương sẽ giúp chúng ta đối diện với lịch sử và định vị lại nó.” Chiến tranh chỉ như một lát cắt dọc, một tuyến truyện trong các tuyến truyện xuôi ngược, đan xen thực ảo của cuốn tiểu thuyết, những nỗi ám ảnh, chết chóc, bạo lực và những chấn thương tinh thần như một mạch ngầm bao trùm và xuyên suốt câu chuyện. Viết về những nỗi đau sau chiến tranh, các nhà văn Việt dường như có sự gặp gỡ với các nhà văn Mĩ, đặc biệt là các cựu binh khi viết về chiến tranh Việt Nam. Nhờ vào việc thể hiện một cách chân thực và xúc động, những tác phẩm văn học về chủ đề nỗi đau hậu chiến đã giúp cho độc giả cảm nhận được sâu sắc hơn về nỗi đau mất mát và hậu quả của chiến tranh, từ đó khuyến khích họ suy tư và cảm thơng với những người vượt qua nỗi đau đó.

1.1.2 Chiến tranh biên giới Tây Nam

Từ năm 1977 đến năm 1989 có một cuộc xung đột quân sự diễn ra giữa Việt Nam và Campuchia được nhắc đến bằng cái tên Chiến tranh biên giới Tây Nam . Nó bắt nguồn từ mối quan hệ căng thẳng và xung đột lịch sử giữa hai quốc gia sau sự chấm dứt của Chiến tranh Việt Nam vào năm 1975. Cuộc chiến này có sự tham gia của Lào và các phe Khmer đối lập. Điều này là một phần của bối cảnh phức tạp trong khu vực Đông Nam Á vào thập kỷ 1970 và 1980.

Thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Campuchia ngày 17/4/1975 cũng là thắng lợi của tình đồn kết chiến đấu giữa ba nước Đông Dương. Tuy nhiên, ngay sau khi lên cầm quyền vào tháng 4 năm 1975, tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary đã lợi dụng thành quả cách mạng và phản bội nhân dân Campuchia. Ở Campuchia, chúng lập nên “nhà nước Campuchia dân chủ”, thi hành chế độ diệt chủng, thanh trừng nội bộ, giết hại hàng triệu người dân vô tội, phá hủy hàng trăm nghìn trường học, bệnh viện, chùa chiền...

Pol Pot đã từng tuyên bố một cách man rợ: “Dù phải diệt thêm một triệu người nữa cũng kiên quyết làm, giết nhầm một kẻ vơ tội cịn hơn để sót một kẻ chống đối; trong gia đình, nếu một người ra rừng theo chống đối thì sẽ bị giết 3 đời”. Khơng chỉ mất nhân tính khi thực hiện cuộc diệt chủng lên chính đồng loại mình, tập đồn Pol Pot-Ieng Sary cịn xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ Việt Nam, gây ra nhiều tội ác theo lối diệt chủng đối với nhân dân Việt Nam. Vào đêm 30/4/1977, lợi dụng lúc quân và dân ta kỷ niệm hai năm Ngày giải phóng hoàn

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tập đồn Pol Pot mở cuộc tiến cơng trên toàn tuyến biên giới thuộc địa phận tỉnh An Giang, chính thức bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam Việt Nam.

Việt Nam lúc bấy giờ chưa kịp khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh thực dân mới, lại phải chịu thiệt hại rất lớn từ thảm họa diệt chủng và chính sách gây chiến của tập đồn Pol Pot – Ieng Sary. Quân và dân Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình, chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng, đồng thời đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận đoàn kết cứu nước Campuchia và nhân dân Campuchia.

Sau cùng, Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc: Giữ vững biên cương và chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, bảo vệ vững chắc đất đai và cuộc sống hịa bình cho nhân dân vùng biên giới Tây Nam, lập lại sự ổn định và trật tự vùng biên giới; đồng thời cũng cứu thoát nhân dân Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng.

Phải nhận định rằng, Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam là 1 trong 23 cuộc chiến lớn trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, do vậy ảnh hưởng của nó đến những người lính Việt Nam tham gia chiến trận là khơng hề nhỏ.

1.1.3 Chiến tranh biên giới Tây Nam trong văn học Việt Nam sau 1975 Chiến tranh biên giới Tây Nam tuy không kéo dài đằng đẵng nhưng cũng để lại nhiều ám ảnh như mọi cuộc chiến tranh khác, và những kí ức thời chiến chính là nguồn để các nhà văn tái hiện lại từng câu chuyện. Từ những tác phẩm đầu tiên ra đời trong khói lửa chiến trường Campuchia, dịng văn học về chiến tranh biên giới Tây Nam sau hơn bốn mươi năm vẫn góp nước để dịng chảy lớn của văn học chiến tranh nói chung chưa bao giờ thơi cuồn cuộn trên đất nước ta. Sau khi sức nóng của chiến trường lắng xuống, các nhà văn dần chuyển sang nghiền ngẫm về chiến tranh và thử thách kĩ năng viết ở các thể loại văn xuôi hư cấu, thể kí tạm thời ít thấy hơn. Thế nhưng khoảng từ giữa thập niên thứ hai của thế kỉ 21, hàng loạt tác phẩm kí về chiến tranh biên giới Tây Nam nở rộ. Phần lớn trong số đó là hồi kí của cựu chiến binh như “Từ biên giới Tây Nam đến đất chùa tháp” (2016, 2017, 2018) của Trần Ngọc Phú, “Lính Hà” (2017) của Nguyễn Ngọc Tiến, “Mùa chinh chiến ấy” (2017) của Đồn Tuấn, “Chuyện lính Tây Nam” (2019) của Trung Sỹ, “Rừng khộp mùa thay lá” (2019) của Nguyễn Vũ Điền, “Đất K” (2020) của Bùi Quang Lâm... Ngồi ra cịn có bút kí “Mùa linh cảm” (2019) của Đồn Tuấn và kí sự “Về từ hành tinh kí ức” (2018) của Võ Diệu Thanh - một cây bút trưởng thành trong hịa bình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Người lính thời hậu chiến vẫn thường lựa chọn việc viết như một sự trả nợ quá khứ, chữa lành chấn thương, giữ bản thân cân bằng và hòa nhập với cuộc sống thời bình. “Người lính Tây Nam” cũng không ngoại lệ. Những tác phẩm rộ lên trong thị trường xuất bản những năm gần đây đều là sản phẩm nhiều năm viết của những cựu chiến binh. Có những tác phẩm cung cấp dồi dào tư liệu lịch sử như bộ hồi kí ba tập “Từ biên giới Tây Nam đến đất chùa tháp”. Cũng có những tác phẩm thiên về chia sẻ kí ức cá nhân như “Lính Hà”. Hay “Chuyện lính Tây Nam” kể chuyện về những anh công tử Hà thành mang theo tâm hồn mơ mộng, si tình, phóng khống đến với cuộc chiến. Cịn “Mùa chinh chiến ấy” là hồi ức về thời thanh niên sôi nổi lên đường của người lính…

1.2 Tác giả Đồn Tuấn 1.2.1 Thân phận và cuộc đời

Đoàn Tuấn (sinh năm 1960) là một nhà văn và nhà biên kịch, ông tham gia vào cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam khi vừa tròn 18. Vào thời điểm bấy giờ, Đoàn Tuấn vừa mới tốt nghiệp trung học phổ thông và nhận được giấy báo trúng tuyển Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp. Tuy nhiên ông lại đưa ra quyết định mang tính bước ngoặt trong cuộc đời ơng, đó là quyết định trở thành một người lính.

Đi thẳng vào biên giới Tây Nam, ông được phân về trung đội thông tin, tiểu đoàn 8, trung đoàn 29, sư đoàn 307, sau đó ơng lại được cử đi phối thuộc. Rịng rã suốt 3 năm đi phối thuộc chiến đấu hết đơn vị này đến đơn vị khác, đến khi Tiểu đoàn 8 chuyển lên Anlong Veng (Campuchia), Đoàn Tuấn lại chuyển về ban tác chiến tiểu đoàn. Ở đây, ông làm nhiệm vụ quản lý quân số cùng một số trang thiết bị của đơn vị, đến giai đoạn gần kết thúc của cuộc chiến, ông được chuyển sang làm cơng tác chăm sóc thương binh, tử sĩ. Với công việc này, ông tự tay cuốc đất đào huyệt, viết, đọc điếu văn và lo chu toàn việc tang lễ cho hàng chục đồng đội. Năm đó Đồn Tuấn mới chỉ có 21 tuổi.

Đối diện với cái chết khơng ít lần trong thời gian 5 năm tại chiến trường đã cho ông trải nghiệm quý báu về số phận con người. Sau này Đoàn Tuấn chia sẻ lại: “Với tinh thần hăng hái nhập ngũ nhưng khi vào biên giới, tiếp xúc với chiến tranh bằng mắt, bằng tay, bằng cả cảm xúc buồn thương khi chứng kiến những mất mát, mới thấy chiến tranh khốc liệt đến mức nào. Đau xót nhất là khi đích thân mình phải đem tin báo tử cho gia đình đồng đội”. Có lẽ ký ức ấy đã thôi thúc và trở thành động lực khiến Đoàn Tuấn cầm bút.

Sau khi kết thúc 5 năm ở chiến trường Campuchia, Đoàn Tuấn trở về nhà và tiếp tục cuộc sống với gia đình. Sứ mệnh của một người lính được hồn thành, ông

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

cảm thấy mình cần tiếp tục theo đuổi sứ mệnh viết văn. Ông tâm sự: “Tôi muốn khi viết, cũng là đang kể câu chuyện của thế hệ mình, về con người của thế hệ mình, làm sao ai cũng thấy có mình trong đó. Điều kiện mà tơi đặt ra đầu tiên đó là lịng tin. Lịng tin của độc giả vào nhân vật, vào câu chuyện. Và trong những câu chuyện này phải ánh lên vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp nhân văn. Có như thế thì tơi mới viết”.

1.2.2 Hành trình sáng tác nên tác phẩm “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt”

Sau một loạt tác phẩm viết về chiến trường K gồm: “Đất bên ngoài Tổ quốc” (1995), “Mùa linh cảm” (2006), “Một trăm ngày trước tuổi hai mươi” (2018) và “Mùa chinh chiến ấy” (2019) thì đến ngày 9/4/2022, buổi giao lưu, ra mắt cuốn sách “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt” của tác giả Đoàn Tuấn đã được tổ chức tại sân khấu chính Đường sách TP Hồ Chí Minh. Đây là tác phẩm mới nhất của ông được Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành vào đầu tháng 4 năm 2022.

Trong tác phẩm này, nhà văn Đồn Tuấn thơng qua nhân vật Ánh-một cựu chiến binh trên chiến trường Campuchia xưa, đã hiện thực hóa ước nguyện của những người đã khuất vì chiến tranh. Ánh là nhân vật đại diện cho những người lính sống sót trở về nhưng khơng thể hịa nhập vào cuộc sống đời thường một cách trọn vẹn mà ln bị dày vị bởi những kí ức trong quá khứ. Và chính điều đó đã thơi thúc anh trở lại Campuchia và thay đổi danh phận. Ở đây, Ánh xuất gia và lấy tên theo tiếng Khmer là Phteah Saniphap rồi đi cùng những nhà sư của đất nước Chùa Tháp cất lên tiếng kinh, nguyện cầu cho linh hồn những người lính, những người đồng đội và cả những người dân Campuchia, xác thân đã nằm lại lòng đất trong cuộc chiến. Trong tiếng kinh, lời cầu nguyện của các nhà sư mang ý nghĩa nhân văn rằng, dù là ai thì ở thế giới bên kia, linh hồn cũng cần được siêu thoát.

Ở buổi ra mắt tác phẩm mới, khi được hỏi về chất liệu hình thành nên cuốn sách, nhà văn Đồn Tuấn đã chân thành chia sẻ: “Tôi vẫn cứ hàng ngày, hàng tháng, hàng năm gặp đồng đội, nghe câu chuyện của họ. Tôi cũng đọc thêm những quyển sách viết về Campuchia và cuộc chiến này để có cái nhìn rộng và sâu hơn về chiến tranh. Tôi nghĩ cuộc chiến này không phải chỉ kéo dài mười năm, mà nó để lại những di chứng rất lớn, những bài học lịch sử rất quan trọng cho tương lai. Tôi muốn để thế hệ sau ứng xử với láng giềng làm sao tránh chiến tranh, để mọi người sống trong cuộc sống hịa bình và khoan dung”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Có thể thấy dù ở tuổi xế chiều, Đồn Tuấn vẫn khơng ngừng nghĩ về những chuyện đã xảy ra khi ơng cịn ở độ tuổi hai mươi. Bởi những ký ức đó quá khó qn, chúng thơi thúc ơng gặp gỡ lại đồng đội của mình theo định kỳ để có thể cùng nhau chiêm nghiệm và hồi tưởng lại một thời đã qua. Và với thái độ khiêm tốn cũng như đầy tôn trọng của một nhà văn, ông miệt mài tìm hiểu về nước bạn và cuộc chiến qua nhiều cuốn sách khác để có thể mở mang tầm nhìn, từ đó giúp ích cho cơng cuộc sáng tác của ơng.

Đồn Tuấn cũng khơng ngần ngại bày tỏ: "Khi viết, tơi đã khóc rất nhiều, và đọc lại, tơi vẫn khóc. Chúng ta có những vẻ đẹp, vẻ đẹp của sự thật, vẻ đẹp của con người mà chúng ta phải tin vào đó để sống. Những vẻ đẹp này trong sự vận động của cuộc sống đã rơi mất. Chúng tôi là những người đi nhặt nhạnh lại để trả lại cho cuộc sống, cho con người. Những vẻ đẹp được sinh ra từ trong đau thương, mất mát nhưng giàu chất người, chất nhân văn".

Có những người nếu nhìn vào đau thương sẽ chỉ thấy sự tối tăm, nếu trải qua mất mát sẽ khơng muốn nhìn lại. Nhưng Đồn Tuấn lại khác, bởi ông không chỉ mang tâm hồn của một người lính mà cịn là tâm hồn của một nhà văn. Đoàn Tuấn sống bằng một trái tim mang nhiều cảm xúc, ông coi những nỗi đau bắt nguồn từ chiến tranh là “vẻ đẹp của sự thật” và ông ôm lấy chúng đến tận ngày nay. Và bằng cách đưa chúng vào trong những trang sách, ông truyền tải “vẻ đẹp” này đến thế hệ sau, để những người con đất Việt dù sinh sau đẻ muộn, dù chưa từng phải trải qua ngày nào trong chiến tranh cũng có thể thấm được những giá trị đầy tính nhân văn của cuộc sống.

<b>Chương 2. Những biểu hiện của nỗi đau hậu chiến trong tác phẩm “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt”</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

2.1 Ám ảnh và trăn trở

Khi viết về đề tài chiến tranh, mỗi nhà văn sẽ có cách tiếp cận riêng về hiện thực cuộc chiến hoặc nỗi niềm hậu chiến. Ở tác phẩm “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt”, nhà văn Đồn Tuấn đã đặt điểm nhìn của mình trong cái nhìn chân thật về cuộc chiến tranh biên giới mà chúng ta đã trải qua, hé mở những góc khuất, những nét mờ nhịe mà trước đây thường ít được đề cập đến. Là một người lính từng kinh qua trận mạc, với những trải nghiệm sâu sắc của mình, Đồn Tuấn đã thấu hiểu và phản ảnh hiện thực khốc liệt của chiến tranh ở nhiều chiều, nhiều phương diện. Chiến tranh không chỉ tàn phá con người về mặt thể chất mà cịn tạo ra những bi kịch, hình thành nên những nỗi ám ảnh từ đó dẫn đến chấn thương tinh thần ở con người sau cuộc chiến.

Trong “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt”, mỗi chuyến đi của hiện tại lại mở ra trang kí ức đã phủ bụi thời gian về những tháng năm mà tác giả cùng những người đồng đội đã sát cánh bên nhau. Nhiều người trong số họ đã bị dày vò bởi những ám ảnh khôn nguôi, bởi phải chứng kiến nhiều điều trong những năm tháng ở chiến trường K. Sau mùa chinh chiến ấy có những người may mắn sống sót trở về. Nhưng, dù sống giữa thời bình trong suốt chục năm, trong lịng những người lính ấy “ vẫn có điều gì quẫy cựa”. Nhân vật Ánh chính là một đại diện tiêu biểu cho những người lính ấy. Nhiều năm sau khi trở về quê nhà, thâm tâm của người lính ấy khơng cảm nhận được sự bình n, thay vào đó là những suy tư được nói thành lời : “Tơi ra bờ sơng, muốn gió thổi bớt những tâm tư, nhưng lúc về, lại càng trĩu nặng. Muốn nhờ dòng nước mang những chuyện buồn trôi về biển. Nhưng những gương mặt ấy, lại như trăng, càng ngày càng vằng vặc. Sáng trưng. Cả ta lẫn địch mới sợ chứ”. Rồi là những cơn ác mộng ùa về hằng đêm như những mũi dao xuyên thẳng vào tim: “Nó nhức nhối. Nó dằn vặt. Nhiều lúc nó khiến mình phát điên”. Thậm chí là cả những suy tư về những đồng đội đã hy sinh nơi đất khách quê người, giữa rừng hoang núi lạ: “liệu có biết đường, biết giờ, biết phút để về cùng”. Những người được trở về với thời bình, có bao lúc “muốn an ủi đồng đội một câu mà khơng tìm ra chỗ. Cúi đầu nói với cỏ? Hay ngẩng mặt nhìn trời xanh?”. Và những người như Ánh cảm thấy rằng: "Chúng tơi cịn sống trở về, chắc có biết bao người đã chết thay. Chúng tơi khơng thể bình n được. Phải đi về nơi đó. Băng bó cho những linh hồn cịn đau đớn giữa rừng hoang”. Chính những suy nghĩ ấy đã thôi thúc ông lên đường, đưa nhân vật Ánh quay trở lại nơi mà tiểu đồn ơng năm xưa từng chiến đấu để thực hiện một mục đích cao cả: để cầu siêu cho linh hồn người đã khuất mà khơng tìm hài cốt, những linh hồn còn mặc kẹt ở trần gian mà chưa về được với đất Mẹ, còn lang thang, phiêu dạt nơi rừng sâu, núi thẳm chưa được siêu thoát.

</div>

×