Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Bài Tập Thực Tế Môn Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam Đề Tài Nghiên Cứu Phong Tục Ma Chay Của Dân Tộc Mường.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.14 MB, 30 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐHQGHN

<b>BỘ MƠN NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i><b>Hà Nội, Tháng 11 năm- 2022</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>TTNHIỆM VỤPHÂN CƠNGTHỜI GIAN</b>

<small>Họp nhóm lần đầu để quyết định nội dung</small>

<small>nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu</small> <sub>Cả nhóm</sub> 3/11

<small>Bầu nhóm trưởng và thư kí</small>

2 <sup>Khái qt về dân tộc Mường</sup> <sup>Tô Khánh Linh</sup> <sub>4-6/11</sub>

<small>Sơ lược về phong tục tang ma Mường Vũ Diệu Hoa</small>

3 <sup>Phần lễ nghi trong nghi thức tang ma Mường </sup> <sub>Phạm Đoan Trang</sub> 7-9/11

<small>Nghi lễ Mo</small>

<small>Lễ chia của cải người chết Nguyên Thị Huyền Trang</small>

<small>Một số nghi lễ sau khi chôn cất người chết Nguyễn Hoàng Hiệp</small>

5 <small>Tổng hợp nội dung vào google docs, nhận xét, </small>

<small>Đối tượng và phạm vi nghiên cứuPhương pháp nghiên cứu</small>

<small>Đóng góp của đề tài</small>

7 <sup>Tài liệu tham khảo</sup> <sup>Nguyễn Phương Thùy</sup><small>Linh</small> 21-22/11

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>Nhận xét :Các thành viên đều rất chăm chỉ, năng nổ trong việc đưa ra ý </b>

kiến cá nhân và thực hiện dự án. Các bạn đều hoàn thành deadlines đúng hạn và làm tốt nhiệm vụ mình được giao. Tuy mỗi thành viên đều có lịch trình riêng nhưng mọi người đều rất cố gắng sắp xếp thời gian của mình để hồn thành dự án nhanh nhất và tốt nhất có thể. Mỗi người mang một sắc màu khác nhau nên việc đưa ra nhiều ý kiến rất hay và bổ ích từ đó phát triển dự án ra rộng hơn và đa dạng hơn. Khả năng sử tìm kiếm sử dụng thơng tin trên các nền tảng Internet tốt nên dự án rất phong phú và đa dạng. Các thành viên đều rất đoàn kết nên bài tập được thực hiện rất sn sẻ, tuy nhiên vẫn cịn một số điều sau cần được cải thiện.

<b>Nguyễn Ngọc Thảo Vy: Vy là người rất hoạt bát, chăm chỉ ln chu tồn</b>

trong cơng việc mà mình được giao và rất quan tâm những thành viên trong nhóm

<b>Nguyễn Thị Huyền Trang: Trang ln hồn thành deadlines đúng hạn và</b>

hay đưa ra nhiều ý kiến hay cho nhóm về đề tài nhóm thực hiện nhưng vẫn hơi trầm tính

<b>Phạm Đoan Trang: Năng động, nhiệt tình, tính cách hịa đồng nhưng hơi ít</b>

<b>Triệu Mai Thùy Linh: Hoạt bát, nhanh nhạy luôn năng động , vui tính, khả</b>

năng tiếp thu nhanh và sử dụng các cơng cụ trực tuyến

<b>Tơ Khánh Linh: năng động, chu tồn trong công việc, khả năng tổng hợp</b>

thông tin và sử dụng camera tốt đóng góp nhiều trong việc lên ý tưởng cho nhóm

<b>Tạ Khánh Linh: chăm chỉ, thấu đáo hồn thành tốt nhiệm vụ được giao, có</b>

khả năng thiết kế và lên kế hoạch

<b>Nguyễn Phương Thùy Linh: vui tính, nhiệt tình, hịa đồng với bạn bè ln</b>

hồn thành nhiệm vụ được giao đúng hạn và luôn giúp đỡ các thành viên khác khi gặp khó khăn

<b>Nguyễn Phương Linh: Hay giúp đỡ, thân thiện và tự tin hay góp ý tưởng rất</b>

mới mẻ cho nhóm

<b>Vũ Diệu Hoa: Nhiệt huyết, vui tính, thân thiện với bạn bè, có ý thức trách</b>

nhiệm cao, ln đúng giờ nhưng vẫn hơi ít nói

<b>Nguyễn Hồng Hiệp: hài hước, cởi mở, thân thiện với bạn bè, cẩn thận</b>

nhưng chưa có nhiều đóng góp do vào nhóm muộn

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>Nguyễn Quỳnh Chi: thân thiện, cởi mở, khả năng tìm kiếm thơng tin tốt và</b>

1.2.1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...3

1.2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...3

1.3. Những đóng góp của đề tài...3

<b>II. Cơ sở lý luận và thực tiễn...4</b>

2.1. Cơ sở lý luận...4

2.1.1. Tang ma...4

2.2. Khái quát về dân tộc Mường...4

2.2.1. Người Mường ở Việt Nam...4

2.2.2. Sơ lược về phong tục tang ma người Mường...5

<b>III. Phong tục tang ma của dân tộc Mường...6</b>

3.1. Phần lễ nghi trong nghi thức tang ma...6

3.1.1. Chuẩn bị trước tang lễ...6

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>I. Phần mở đầu</b>

1.1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam là một quốc gia với 54 dân tộc anh em. Mỗi một dân tộc có một bản sắc văn hố riêng. Trải qua q trình phát triển, 54 bản sắc dân tộc, ngày càng hồ quyện, đan xen vào nhau, q trình giao thoa đó đã làm cho nền văn hố của các dân tộc hồ nhập nhưng khơng hồ tan, góp phần làm cho nền văn hoá vật chất, tinh thần Việt Nam phong phú, đa dạng và độc đáo. Dân tộc và bản sắc văn hố dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi một dân tộc có nhưng bản sắc văn hoá dân tộc riêng, trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay việc giữ gìn nhưng nét văn hố dân tộc mang một ý nghĩa quan trọng, những đề tài tìm hiểu về văn hóa của các dân tộc là vô cùng cần thiết hiện nay, không những để mang những đặc sắc văn hóa này đến với bạn bè quốc tế, mà còn là để củng cố lại những kiến thức về bản sắc văn hóa đang có dấu hiệu mai một của một số người Việt.

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mường được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam. Dân tộc Mường cư trú thường ở các khu vực Sông Đà, và khu vực trung lưu của Sông Mã, Sông Bưởi, tập trung đơng nhất ở tỉnh Hịa Bình rồi đến các tỉnh lân cận là Thanh Hóa, Phú Thọ, Ninh Bình, Hà Nội và rải rác ở các khu vực khác. “Người Mường có quan hệ rất gần với người Kinh, có cùng nguồn gốc với người Kinh. Các nhà dân tộc học đưa ra thuyết cho rằng người Mường và người Kinh có chung nguồn gốc là người Việt-Mường cổ”(trích Wikipedia) Người Mường có một đời sống tinh thần đa dạng và phong phú về phong tục tập quán, tơn giáo tín ngưỡng và chữ viết, tiếng nói, văn hoá nghệ thuật.

Theo trang báo điện tử “Biên phòng” ngày 23/02/2022: “Một số dân tộc chỉ còn dưới 10 người biết sử dụng nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình. Có những dân tộc chỉ cịn 13% người dân biết múa điệu múa truyền thống. Có dân tộc chỉ có hơn 30% dân số biết nói tiếng dân tộc mình. Kết quả điều tra 53 dân tộc thiểu số (DTTS) cho thấy, nhiều di sản văn hóa đang bị mai một. Điều này đang đặt ra yêu cầu bức

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

thiết và những thách thức đối với cơng tác bảo tồn truyền thống văn hóa của các DTTS”.

Từ thực tiễn đó, ta có thể thấy rõ ràng việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số là điều vô cùng cần thiết. Những năm qua Đảng ta đã có những chính sách nhằm bảo tồn bản sắc văn học dân tộc thiểu số. Trích từ nội dung Thông tư số 12/2014/TT-BVHTTDL ngày 10/10/2014 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa bao gồm: Hỗ trợ bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc thiểu số Việt Nam; hỗ trợ việc giữ gìn tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số; ưu tiên xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa phục vụ đồng bào các dân tộc thiểu số; bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số; hỗ trợ xây dựng, tổ chức phong trào văn hóa, văn nghệ; tổ chức hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số; ưu tiên đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ văn hóa là người dân tộc thiểu số.

Để góp phần nhỏ bé của mình vào q trình tìm hiểu văn hố các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, chúng tôi quyết định chọn: “Nghiên cứu phong tục ma chay của dân tộc Mường” làm đề tài dự án.Với mục đích bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc trong văn hoá truyền thống của người Mường hồ chung vào nền văn hố Việt Nam “Tiến tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc” là mục đích mà chúng tơi muốn đạt được.

Là sinh viên đang học tại trường Đại Học Ngoại Ngữ-Đại học quốc Gia Hà Nội, đang theo học môn CSVH Việt Nam, tìm hiểu về văn vóa dân tộc. Đó cũng là một lý do khiến chúng tôi lựa chọn đề tài này nhằm góp phần mang đến nhiều kiến thức bổ ích hơn về bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số, mở rộng, bồi đắp cho mọi người lịng tự hào, tình u đối với dân tộc, q hương, đất nước.

1.2. Tình hình nghiên cứu

Dân tộc Mường được biết đến qua rất nhiều các cơng trình nghiên cứu, các bài báo, các tạp chí. Các trang thơng tin điện tử hiện nay có giới thiệu tổng quan về văn hóa và đời sống của dân tộc Mường, trong đó đề cập đến phong tục ma chay của dân tộc Mường. Đến với đề tài này chúng tôi sẽ đi vòa sâu hơn về tang ma của

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

người Mường, những đặc sắc, ý nghĩa, tâm quan tọng của phong tục này đối với người dân của dân tộc Mường. Phong tục ma chay của người Mường vô cùng độc đáo mà không một nơi nào giống, có nhiều quy trình, nghi thức cần phải thực hiện, nhìn qua thì vơ cùng rắc rối phức tạp nhưng mỗi một nghi thức trong đó đều hàm chứa ý nghĩa riêng.

1.2.1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

<i><b>a, Mục đích:</b></i>

Tìm hiểu phong tục ma chay của người Mường để thấy được những giá trị và bản sắc văn hóa riêng của cộng đồng người Mường thông qua phong tục ma chay.

<i><b>b, Nhiệm vụ: </b></i>

Khái quát về nguồn gốc và lịch sử dân tộc Mường, sơ lược về phong tục tang ma của người Mường và phân tích đặc điểm, ý nghĩa của các nghi thức, thủ tục quan trọng, và quá trình tang ma của dân tộc Mường.

1.2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

<i><b>a, Đối tượng nghiên cứu </b></i>

Phong tục ma chay dân tộc Mường

<i><b>b, Phạm vi nghiên cứu</b></i>

Phong tục ma chay của dân tộc Mường tại Việt Nam 1.3. Những đóng góp của đề tài

Thơng qua tìm hiểu về phong tục ma chay của người Mường góp phần nâng cao nhận thức của người dân, tình thần bảo tồn, gìn giữ và phát huy những nét đẹp đặc sắc văn hóa, truyền thống các dân tộc Việt Nam của đồng bào dân tộc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>II. Cơ sở lý luận và thực tiễn</b>

2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Tang ma 

<b>Đám tang hay đám ma là một nghi lễ kết nối với công đoạn xử lý cuối cùng của </b>

một xác chết, chẳng hạn như chơn cất hoặc hỏa táng, có những người thân hữu đến tham dự và đưa tiễn. Phong tục tang lễ bao gồm sự phức tạp của tín ngưỡng và tập quán được sử dụng bởi một nền văn hóa để tưởng nhớ và tơn trọng người chết, từ sự can thiệp, đến các di tích, lời cầu nguyện và nghi lễ khác nhau được thực hiện để vinh danh họ. Phong tục khác nhau giữa các nền văn hóa và các nhóm tơn giáo. Động lực thế tục phổ biến cho tang lễ bao gồm để tang người quá cố, kỷ niệm cuộc sống của họ, và cung cấp hỗ trợ và cảm thông cho người mất; Ngồi ra, đám tang có thể có các khía cạnh tơn giáo nhằm giúp linh hồn của người quá cố đến thế giới bên kia, phục sinh hoặc tái sinh.

Tang lễ thường bao gồm một nghi thức mà qua đó xác chết nhận được một sự sắp xếp cuối cùng. Tùy thuộc vào văn hóa và tơn giáo, những điều này có thể liên quan đến việc tiêu huỷ thân thể (ví dụ, bằng cách hỏa táng hoặc thiên táng) hoặc bảo quản (ví dụ, bằng cách ướp xác hoặc chôn cất). Niềm tin khác nhau về sự sạch sẽ và mối quan hệ giữa cơ thể và tâm hồn được phản ánh trong các thực hành tang lễ. Một dịch vụ tưởng niệm hoặc lễ kỷ niệm của cuộc sống là một nghi lễ tang lễ được thực hiện mà khơng có hài cốt của người quá cố.

2.2. Khái quát về dân tộc Mường  2.2.1. Người Mường ở Việt Nam 

Dân tộc Mường là một trong những tộc người dân tộc thiểu số ở Việt Nam, rất gần gũi với người Kinh về văn hóa, ngơn ngữ, dân tộc học, nhân chủng học. Người Mường có tên tự gọi là Mol (hoặc Mon, Moan, Mual, Mwanl). Không phải ngay từ buổi đầu lịch sử, dân tộc Mường đã có tộc danh như ngày nay. Theo các nhà nghiên cứu dân tộc học, Mường là từ dùng để chỉ một vùng cư trú của đồng bào bao gồm nhiều làng. Mỗi vùng được đặt dưới sự cai quản của một nhà Lang. Qua sự tiếp xúc

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

giao lưu giữa người Kinh và người Mường, người Kinh đã sử dụng từ Mường để gọi dân tộc này. Cho đến tận bây giờ, người Mường vẫn gọi mình là Mol, Moăn như ở Hịa Bình; Mon, Mwanl như ở Thanh Hóa. Cịn từ Mường vốn là từ “mương” đồng bào dùng để chỉ nơi cư trú chứ khơng liên quan gì đến tộc danh ngày nay của mình. Mặc dù vậy, cùng sự biến động của lịch sử cũng như quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa với các dân tộc anh em khác cho đến nay “Mường” đã được đồng bào chấp nhận và coi đó là tộc danh của mình, và hiển nhiên, họ tự nhận mình là người Mường như ngày nay. Do đó, Mường trở thành tên gọi chính thức và duy nhất của tộc người này để phân biệt với các dân tộc khác. Tộc danh Mường đã được các tổ chức, thể chế, các nhà nghiên cứu và nhân dân dùng khi tìm hiểu, nghiên cứu gọi dân tộc này: Người Mường.

2.2.2. Sơ lược về phong tục tang ma người Mường  

Phong tục tang ma của người Mường giữ một vị trí quan trọng, khơng chỉ thể hiện trách nhiệm của người sống với người chết theo tư duy “chết không phải là hết” mà là sự chuyển đổi từ thế giới này sang thế giới khác. Vì vậy, tập tục tang lễ của họ chứa đựng nhiều giá trị di sản văn hóa dân gian thơng qua quan niệm về thế giới quan, vũ trụ quan cũng như quy trình thực hành các nghi lễ từ sau khi tắt thở đến lễ bỏ tang. Đồng thời, trong nghi lễ này còn chứa đựng cả những yếu tố văn hóa - xã hội mang tính bản sắc văn hóa tộc người qua hai dạng thức: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Để cuộc hành trình trở về thế giới bên kia được thuận lợi và may mắn cho hồn người chết thì vai trị của ông Mo và cộng đồng rất quan trọng. Người Mường quan niệm, cuộc sống ở âm phủ cũng giống như cuộc sống ở trần gian nên người sống phải đáp ứng đầy đủ về vật chất, tinh thần cho người chết để hồn của họ vui vẻ trở về với tổ tiên. Nếu hồn của người quá cố “không được đáp ứng” đủ mọi yêu cầu thì sẽ về gây hại cho người sống bằng nhiều hình thức khác nhau: ốm đau, làm ăn không thuận, chăn nuôi gia súc, gia cầm bị dịch bệnh; thậm chí cịn bắt cả người thân chết theo. Xuất phát từ quan niệm nêu trên, người Mường rất cẩn trọng trong nghi thức tang lễ nên đã mời thầy Mo đến tiến hành hàng loạt các nghi lễ với một ước nguyện “mồ yên mả đẹp”. Nghi lễ này hết sức phức tạp để đưa linh hồn người chết về cõi vĩnh hằng. Cõi vĩnh hằng ở đây chính là nơi linh hồn của họ sẽ

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

tồn tại vĩnh viễn sau khi chết. Theo ông Vương Anh, các nghi thức tang ma của người Mường được quy định rất nghiêm ngặt. Từ trang phục của người chết, con

cháu, anh em, họ hàng... cho đến việc xem ngày, giờ nhập quan, cách bày trí các đồ cúng lễ áo quan, các nghi lễ, nghi thức: Đưa ma, tùy táng. Trong suốt các nghi thức tang ma, ậu mo làm nhiệm vụ thuyết phục và hướng dẫn. Trách nhiệm của ậu mo là làm cho người chết hiểu được quy luật tự nhiên của sự sống và cái chết, mà người đã chết thì phải tách khỏi thế giới của người sống. Để sau đó hồn mới có thể sẵn sàng đi tiếp hành trình, chuyến đi cuối

cùng đến với thế giới dành riêng cho họ. 

<b>III. Phong tục tang ma của dân tộc Mường </b>

3.1. Phần lễ nghi trong nghi thức tang ma

Tang lễ của người Mường được diễn ra trong 3 bước: chuẩn bị trước tang lễ, chính thức vào tang lễ và tú tem (hết tang)

3.1.1. Chuẩn bị trước tang lễ. 

Theo tục lệ cứ có người ốm yếu, ngồi việc chữa chạy về thuốc men, con cháu họ hàng và những người thân  thiết hoặc có quan hệ tốt với nhau cùng góp gà, gạo, rượu với gia đình cúng vía, gọi là vải vách cộ (vía sửa quan tài). Trong cuộc cúng vía này họ nhờ những người giỏi nghề mộc để khoét đẽo, làm mộng quan tài, mặt khác cũng báo cho con cháu nội ngoại biết, chuẩn bị góp khâm liệm và cúng lễ cho vong linh. Các mế, các bà đến may vá đồ khâm liệm từ chiếc gối đầu đến các gối nhỏ kê chân tay, quần, áo, mũ.

<i><b>Hình 1: Đám ma dân tộc Mường</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

 Khi tắt thở, con cháu giữ hai tay người quá cố buông thẳng, vuốt mặt rồi lấy miếng vải trắng che lại. Họ luộc một quả trứng, nấu ít gạo nếp, một banh rượu làm cố thắt nghỉ (tắt thở). Lúc đó họ cầm dao lên cửa voóng gõ sống dao xuống ngưỡng cửa ba cái và nói to “khổ lắm nhà mình đằng này bố (hay mẹ) ơi “. Tiếp theo gia đình phải cho họ chiếc khăn trắng để thắt lên đầu, cầm chiêng đánh báo động có người chết để mọi người chạy về, lúc đó mới được khóc. Nếu người chết tuổi chó, lợn mà chết vào giờ dần hoặc giờ thần trùng thì phải tống khử, yểm đảo cho người chết. Cuộc cúng tiếp theo là thấy cũng mời thầy thuốc Mường Trời (Cun Kẹ) xuống tra thuốc, gọi là Kẹ, cho người chết khỏi bệnh tật ốm đau. Kết hợp với kẹ là Khồng cho mát mẻ. Sau đó là nấu nồi lá bưởi tắm rửa, mặc quần áo, quấn khăn, loại đồ bang khà đã chuẩn bị sẵn, đặt nằm lên chiếu, trăn trên kép, đắp chăn, căng màn chờ giờ vào áo quan. Lễ nhập quan, ông Mo cịn hát khấn kể tích quan tài rồi đánh thức  săng (dẩyl khăng) và đạp khăng để:

“Ma tinh chạy về gốc Ma mộc chạy về cành

Cho lành thây ma, yên người sống”

Ông Mo dùng đuốc hơ hoặc dùng cành lá quét bên trong quan tài gọi là xông khăng hoặc quét khăng sau đó hà hơi, yểm đảo trừ khử các loại yêu tinh ở cây chờ đến giờ tốt nhập quan tài. Họ lót chiếu chăn vào quan tài mà khiêng bằng chiếc chăn đặt thi hài nằm vào trong quan tài trong tiếng trống, chiêng, kèn giục giã. Sau đó các phần vải, cùng chăn, màn, quần áo khi cịn sống người đó dùng gọi là phùn đội của tất cả con cháu họ hàng đều được đắp cho người già qua đời. Tuy thế cũng chỉ ấn chặt trong quan tài là đủ, còn lại khi chôn cất xong con cháu chia nhau giữ để ngày tết còn đặt cũng lễ.

Quan tài của người Mường là hình trụ trịn, nửa dưới khoảng 2/3 thân cây gỗ để gờ quanh miệng ở phía bên trong áo quan, bên ngoài đẽo khấc xuống, ở nửa quan tài bên trên để gờ bên ngồi, khi đậy nắp úp khít lấy nhau rất kín, chặt. Ở hai đầu của hai nắp đã đục sẵn lỗ vuông gọi là lỗ chạo đa, vót tám que khít chặt tám lỗ ấy, đặt dây vải se sẵn vào lỗ đóng chặt vào ở nắp áo quan bên trên trước rồi ấn chặt nắp

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

xuống kéo căng dây đóng vào lỗ chạo đa ở nắp dưới. Ở giữa và hai đầu quan tài buộc đai bằng lạt tre như đại trống, thắt lại cho chắc mà đóng nêm cho thật chặt. Bên ngoài quan tài quấn các lớp vải trắng, đỏ gọi là bọc. Bọc áo quan cũng phải chọn giờ tốt nhưng thường là chung giờ với giờ vào áo quan. Bọc đỏ ngoài cùng là của con cả, tuần tự các lượt bên trong là con thứ 2,3.. đến lượt cuối là vải trắng.

Quan tài được đặt trên chiếc giường, phản hay sập ở giữa nhà thẳng với quá giang, sát cửa cái phía cột vng, bên trên là bàn thờ.

Khi sắm sửa lễ mo đám ma, trước hết họ mạc phải phân công người đi thông báo cho các đầu thông gia, anh em bạn bè đến phúng viếng, phân công tiếp các đầu, các bữa cúng lễ cho hồn, đi mượn ông Mo, kèn, trống.

Bước vào đám phải có đủ các bộ phận thầy Mo, Chí Chuốc, bộ phận âm nhạc gồm ba nhóm: nhóm trống con, kèn hơi, chũm chọe, thanh la, mõ, bộc: nhóm trống cái, trống đồng, lệng và nhóm chiêng.

Bộ phận trang trí phải làm cây vải, cây vóc, làm cột có ngáng đặt các cuộn vải tự dệt: cây thóc lúa cũng làm thành cột để buộc đựng các bó lúa cho hồn làm của cải giống mạ, làm cờ con trai vải đỏ, con gái vải trắng để khi đưa linh cữu đưa ra huyệt mỗi con một cờ dài chừng 1,20m, rộng 2cm treo trên ngọn cây sật còn cả lá.

Làm cây bông, cây hoa để hồn mang đi chợ Mường Trời bán lấy tiền trả nợ khi ở trọ nhà Keo Reng, vật dụng đan lát (cang la) để hồn đựng đồ đạc, sào quần áo vắt lên trên thẳng chỗ đặt quan tài. Cạnh hai bên quan tài con cháu túc trực. Bên trên quan tài con cháu đặt các cỗ xôi, thịt, bánh trái để thờ hồn. Cây bánh làm thành khung hay đan thành nửa chiếc lồng mắt cáo, đặt khít chiếc bánh dày vào hết các mắt cáo ấy. Đặt quả còn cho hồn đi chơi ném còn.

Vấn đề ăn uống do họ phối hợp với làng xóm nấu nướng. Thức ăn chủ yếu là xơi, thịt, canh lng (là cây chuối, bóc lớp ngồi thái khoanh mỏng nấu nước luộc thịt cho thêm lá lốt vào làm hương vị).

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

3.1.2. Chính thức vào tang lễ 

Cứ theo công việc của đám hiếu, ông mo lần lượt làm các thủ tục của mo như khấn nổ, cng xống áo, đẻ khót....đến làm thủ tục cho hồn như đi nhìn, để nhận họ hàng bên mường ma, lên trời để đối kiện, chuộc số, xin đuông, đi chợ sắm các thứ để về bên ma dùng, đến mo Cliêu kể chuyện, cuối cùng là Mo Lìa và đưa linh cứu ra đồng.

3.1.3. Tú ten (Hết tang)

Sau khi chơn cất được bốn mươi đêm thì làm lễ nộp kéo, lược. Lễ này riêng con cháu trong chi làm để cúng hồn và các ông bà tổ tiên về cho ăn uống mà thu lấy kéo, lược để từ hơm đó trở đi con cháu được cắt tóc. Sau lễ cúng tổ tiên thì cúng vía để con cháu đồn tụ với thân thể cho ln khỏe mạnh.

Trong thời gian để tang, con cháu giữ lễ độ báo hiếu: không hát thường đang, không đi xắc bùa, không vùng vẫy dưới sông nước, không huýt sáo, không dựng vợ, gả chồng. Thường xuyên kiêng không tắm nước lá bưởi, ngày chôn cất không dựng nhà, làm chuồng gà, lợn, cấy, trồng.

Lễ mãn tang, trước đây tổ chức khi hết ba năm, nay thường tổ chức luôn vào cuộc chàm xám, lễ một trăm ngày. Lễ này nhà chủ phải nấu nồi lá moc hay lá, vỏ mít đê nhuộm cho tất cả. Đây là cuộc làm với nghĩa đã làm trịn cơng đức báo hiếu để cha mẹ giúp đỡ cho con cháu lâu dài.

Những năm gần đây cùng với sự chuyển giao giữa các dân tộc khác nhau thì những giá trị văn hóa của người Mường đã có nhiều thay đổi, cả theo hướng tích cực và mai một. Tuy nhiên, nghi lễ tang ma của người Mường vẫn được coi là một trong những nghi thức tôn giáo mang đậm màu sắc tâm linh huyền bí. Có những giá trị khơng thể thay thế trong đó có vai trị của thầy Mo trong nghi lễ tang ma. Đây là nhân vật quan trọng và là người đặt nền móng văn hóa cho các nghi lễ tâm linh của dân tộc Mường. Những tín ngưỡng tâm linh và dân gian mà thầy Mo còn lưu giữ được sẽ là kho tàng văn hóa phong phú và đáng quý để chúng ta lưu tâm gìn giữ và khai thác.

</div>

×