Tải bản đầy đủ (.pdf) (222 trang)

Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới - Trường Đại học Luật Hà Nội. Chủ biên: Phạm Điềm, Vũ Thị Nga, Phạm Việt Hà, Phạm Thị Quý (Phần 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.26 MB, 222 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

GIÁO TRÌNHLICH SUNHA NƯỚCVA PHÁP LUẬT THE GIỚI

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

14-2014/CXB/46-443/CAND

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

LỜI GIỚI THIỆU

Nhà nước và pháp luật là hiện tượng xã hội vơ cùng

phúc tạp, ln biến động và có những thay đổi to lớn trong những năm gân đây. Nhận thức về nhà nước và

pháp luật đóng vai trị rất quan trọng trong nhận thức

của cán bộ và nhân dân về xã hội, chính trị, văn hóa.

Nhận thức đó giúp cho việc tiếp cận và giải quyết một

cách đúng đắn các vấn đề thực tiễn về nhà nước và

pháp luật.

Một trong những nội dung quan trọng của khoa học về nhà nước và pháp luật là Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới. Mơn học này trình bày những vấn đề cơ bản về lịch sử nhà nước và pháp luật qua các thời kì: Chiém hữu nơ lệ, phong kiến, tu sản và xã hội chủ

Để đáp ứng nhu cầu đào tạo, học tập và tìm hiểu về nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà

Nội xuất bản cuốn Giáo trình lịch sử nhà nước và

pháp luật thế giới. Cuốn sách sẽ là tài liệu bổ ích

đối với các sinh viên luật được đào tạo dưới những

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

PHẦN THỨNHẤT

SU TAN RA CUA CÔNG XÃ NGUYEN THUY

-QUA TRINH HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC VÀ PHAP

L TỔ CHỨC CUA CÔNG XÃ NGUYEN THUY

Việc nghiên cứu tổ chức của cơng xã ngun thuỷ góp

phần lí giải nguồn gốc của nhà nước và pháp luật, đồng

thời để hiểu rõ những tàn dư của nó trong xã hội có nhà

Trải qua hàng triệu năm sống thành bầy, về sau con

người bước vào xã hội có tổ chức cao hơn, đó là cơng xã

ngun thuỷ (cách ngày nay khoảng 40.000 nam).

Từ quan hệ tạp hôn, con cái chỉ biết mẹ, dan dan trong

quan hệ hôn nhân diễn ra sự biến đổi quan trọng: những

người cùng dịng máu mẹ khơng được kết hôn với nhau. Những người này hợp thành một cộng đồng gọi là thi téc. Như vậy, thị tộc được hợp thành do quan hệ huyết thống.

Về kinh tế, thị tộc hình thành do quá trình phát triển của

lực lượng sản xuất. Thi tộc là hình thái xã hội cơ ban của cơng xã ngun thuỷ, vi từ nó mà hợp thành các hình thái

tổ chức khác (bào tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc). Thị tộc phát triển qua hai giai đoạn: Thị tộc mẫu hệ (chế độ mẫu

quyền) thị tộc phụ hệ. Trong thị tộc phụ hệ, chế độ hôn

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

nhân một vợ một chồng được xác lập, mọi người trong thị

tộc đều theo dịng họ cha, và đó là chế độ phụ quyền. Thị

tộc có ruộng đất, rừng rú, có tên gọi riêng (theo tên cây

cỏ, chim thú), có khu vực cư trú riêng. Việc quản lí điều

hành hoạt động của thi tộc do ta trưởng và thu lĩnh quân sự đảm đương. Những người này do các thành viên của thị tộc bầu ra.

Một số thị tộc có quan hệ hơn nhân với nhau hợp

thành một bào tộc. Bào tộc có vai trị quan trọng, như thực

hiện các lễ nghi tơn giáo và hội hè, tổ chức lực lượng vũ

trang bảo vệ bộ lạc...

Một số bào tộc hợp thành một bộ lạc. Bộ lạc có tên gọi, nơi ở, tiếng nói, phong tục tập quán, ruộng đất... riêng. Đứng đầu bộ lạc là tù trưởng bộ lạc do hội nghị bộ lạc bầu ra. Tù trưởng bộ lạc có quyền giải quyết những cơng việc cần kíp, khơng quan trọng giữa hai kì hội nghị bộ lạc và có quyền triệu tập hội nghị. Hội đồng bộ lạc bao gồm: tù trưởng bộ lạc, các tù trưởng và thủ lĩnh quân sự của thị tộc. Đến thời kì thị tộc phụ hệ, quản lí cơng việc

của thị tộc là một trưởng lão có tơng tộc cổ nhất trong thị

tộc. Nên hội đồng bộ lạc còn được gọi là: hội đồng trưởng lão. Hội đồng bộ lạc có quyền thảo luận, quyết định những vấn đề quan trọng của bộ lạc như tuyên chiến, đình chiến, cử sứ giả của bộ lạc mình hoặc tiếp sứ giả của bộ

lạc khác, chia chiến lợi phẩm v.v..

Dan dần, một số bộ lạc liên kết với nhau, tạo thành liên minh bộ lạc. Hội đồng liên minh bộ lạc gồm những tù trưởng của các bộ lạc và các thị tộc. Hội đồng thảo luận và quyết nghị những công việc của liên minh theo phương thức dân chủ. Mọi quyết nghị phải được sự nhất trí hồn

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

tồn của các thành viên. Các quyết nghị đó khi đưa về các

bộ lạc cũng phải được hội đồng bộ lạc tán thành thì mới có hiệu lực. Liên minh bộ lạc có hai thủ lĩnh tối cao, không ai hơn ai về quyền hạn và chức trách.

Như vậy, trong chế độ công xã nguyên thuỷ, thị tộc,

bào tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc là những hình thức tổ

chức xã hội vừa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa có

vai trị và tổ chức quản lí khác nhau.

Trong phạm vi từng cộng đồng, mọi thành viên đều có

nghĩa vụ và quyền lợi như nhau (kể cả các thủ lĩnh). Cái bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi thường bằng sự tự nguyện hoặc bằng áp lực của dư luận cộng đồng.

Quyền hạn của các thủ lĩnh, do cộng đồng trao cho, mang tính xã hội, chưa phải là quyền lực chính trị.

II. TỔ CHỨC CƠNG XÃ NGUYEN THUY TAN RA VÀ SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC. ĐẶC ĐIỂM CON

ĐƯỜNG HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC Ở PHƯƠNG ĐƠNG

1. Tổ chức cơng xã nguyên thuỷ tan rã và sự hình

thành nhà nước

Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo ra những chuyển biến vô cùng lớn lao về kinh tế-xã hội. Cơng xã

ngun thuỷ lâm vào vịng suy sụp và tan rã, nhường bước cho sự ra đời của nhà nước.

Kim loại được dùng để chế tạo công cụ sản xuất đã mở

ra thời đại kim khí. Từ đây năng suất lao động có bước

phát triển nhảy vọt. Những dấu vết của việc chế tạo công

cụ đồng sớm nhất hiện nay chúng ta biết được là thuộc

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

thiên niên kỉ thứ IV TCN, cư dân Lưỡng Hà, Ai Cập dùng nhiều công cụ đồng trong sản xuất và đời sống. Khoảng

nửa cuối thiên niên kỉ thứ II TCN, vùng Tây Nam Á và Ai

Cập xuất hiện nghề luyện sắt và công cụ sắt được sử dụng. Những công cụ bằng kim loại (nhất là công cụ sắt) cùng

với kinh nghiệm sản xuất của con người tích luỹ được, đã

tạo nên bước phát triển nhảy vọt trong trồng trọt và nghề

thủ công. Nhiều vùng ở Bắc Phi và Châu Á, cư dân cịn

biết làm những cơng trình thuỷ lợi để tưới tiêu nước. Trồng trọt phát triển đã thúc đẩy nghề chăn nuôi cũng phát triển. Do vậy dẫn đến sự phân công lao động xã hội

lần thứ nhất: nghề trồng trọt và nghề chăn nuôi tách rời nhau, có những bộ lạc chuyên về chăn nuôi và những bộ

lạc chuyên nghề trồng trọt. Các nghề thủ cơng phát triển

mạnh, dẫn đến sự hình thành những nhóm người chun làm nghề thủ cơng. Từ đó nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp. Đây là sự phân công lao động xã hội lần thứ hai. Sự chuyên mơn hố của các ngành sản xuất làm xuất hiện

và phát triển việc trao đổi sản phẩm giữa các bộ lạc, giữa

các vùng từ Bắc Phi sang Châu Á, từ phương Đông sang

phương Tây. Ngay trong một công xã, người nông dân và

người thợ thủ công cũng trao đổi sản phẩm với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và nền kinh tế

nguyên thuỷ đã dẫn đến những hệ quả rất quan trọng. 1. Sự xuất hiện tài sản tư hữu. Năng suất lao động được

nâng cao, làm cho sản phẩm xã hội tăng nhanh. Ngoài

phần tiêu dùng hàng ngày, con người đã có của cải dư

thừa để dành. Q trình phân hố tài sản bắt đầu diễn ra và phát triển theo những con đường sau:

- Trong các cộng đồng, những người có địa vị đã

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

chiếm được nhiều của cải dư thừa của tập thể.

- Do sự phát triển của sức sản xuất, đại gia đình phụ quyền được phân thành nhiều gia đình nhỏ, bao gồm vợ chồng và con cái, mỗi gia đình nhỏ ấy là một đơn vị kinh

tế, có tài sản riêng như cơng cụ sản xuất, tư liệu lao động và những thứ đó được truyền lại cho con cái từ đời này qua đời khác, củng cố thêm chế độ tư hữu.

- Của cải và tù binh trong chiến tranh cũng là một nguồn tài sản quan trọng bị những người có địa vị trong

bộ lạc thắng trận chiếm đoạt thành của riêng mình

2. Cơng xã nông thôn xuất hiện thay thế công xã thị tộc phụ hệ đang dần dần tan rã. Sự phân hoá tài sản và địa vị giầu nghèo trong xã hội đã dẫn đến tình trạng những người giàu có muốn từ bỏ bà con thân thuộc túng thiếu, vì

nghĩa vụ giúp đỡ những người anh em họ hàng theo phong

tục cổ truyền đã gây trở ngại cho việc tích luỹ của cải của

gia đình họ. Cịn nhiều người vì nghèo khó phải đi tới

những vùng khác để sinh sống. Mối quan hệ dịng máu kết dính các thành viên trong thị tộc bộ lạc bị cắt đứt. Ranh

giới của thị tộc bộ lạc bị xáo trộn và phá vỡ. Thay vào đó

là một hình thức tổ chức cộng đồng mới. Cộng đồng công

xã láng giéng bao gồm những người ở chung một vùng đất, có cùng một số lợi ích chung về kinh tế xã hội, có mối quan hệ láng giéng (chứ hầu như khơng có quan hệ dong máu). Công xã láng giéng bao gồm công xã nông

thôn (hình thức phổ biến nhất) trong cư dân nơng nghiệp

và công xã du mục trong cư dân chăn nuôi. Thay thế cơng

xã thị tộc, cơng xã nơng thơn là hình thái tổ chức xã hội

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

cuối cùng của công xã nguyên thuỷ Theo C. Mác”: công

xã nông thơn mang tính hai mặt; trong cơng xã, vừa có

chế độ tư hữu tài sản (công cụ sản xuất, súc vật, nhà ở), vừa có chế độ sở hữu chung của công xã (phần lớn ruộng đất, sông bãi, rừng rú). Ruộng đất của công xã được chia cho các gia đình cầy cấy theo kì hạn nhất định và gia đình được chiếm hữu thành quả lao động của mình. Điều đó

đẩy mạnh sự phát triển của tài sản tư hữu. Quá trình phát triển của chế độ tư hữu tất yếu dẫn đến việc hình thành

các tập đồn người trong xã hội có địa vị kinh tế khác hẳn

Tập đồn thứ nhất là những người giầu có bao gồm: - Trước hết là các quý tộc thị tộc trong công xã, bộ lạc,

liên minh bộ lạc.

- Những thương nhân tích luỹ được nhiều của cải và

bắt người sản xuất phải phụ thuộc họ về kinh tế.

- Nhiều tăng lữ nắm cả vận mệnh tinh thần và vật chất

của cư dân. Họ trở nên giàu có.

- Một số ít người vốn là nơng dân, bình dân hoặc một số ít thợ thủ công do tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sản xuất,... dần dần giầu lên.

Tập đoàn thứ hai chiếm đông đảo trong xã hội là nông dân, thợ thủ cơng. Họ có chút ít tài sản.

Tập đồn thứ ba là những tù binh chiến tranh bị biến thành nô lệ. Những nông dân thợ thủ công bị phá sản,

cũng bị thành nơ lệ.

Những tập đồn trên chính là các giai cấp: chủ nô,

<small>(1).Xem: C. Mác, Engen, V. I. Lênin, Bàn về các xã hội tién tu bản, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

bình dân, nô lệ. Mâu thuẫn giai cấp đối kháng nảy sinh,

dần dần phát triển tới mức độ không thể điều hồ được. Các hình thức tổ chức trong xã hội ngun thuỷ khơng thể giải quyết được thực trạng đó và nó khơng cịn phù hợp để tồn tại. Giai cấp giầu có cần phải có một tổ chức mới để củng cố và tăng cường địa vị của mình. So với tổ chức của công xã nguyên thuỷ, tổ chức mới này khơng những có sự phát triển vượt bậc về lượng mà cái quan trọng hơn, là sự

thay đổi han về chất. Đó là bộ máy bạo lực, gồm bộ máy

quan chức hành chính, tồ án, nhà tù, quân đội, cảnh sát,...

để đàn áp những người lao động. Tổ chức mới này là nhà

Quá trình hình thành nhà nước có thể được tóm tắt bằng giản đồ sau:

Sự phát triển của lực lượng sản xuất > kinh tế phát triển và có sự phân cơng lao động xã hội — sự xuất hiện của cải dư thừa để dành và chế độ tư hữu —> sự hình thành các giai cấp — và mâu thuẫn giai cấp đối kháng khơng thé

điều hồ được nhà nước ra đời.

2. Đặc điểm con đường hình thành nhà nước ở

phương Đơng

Trên đây là quy luật hình thành nhà nước nói chung,

đặc biệt đó là thực tế ở phương Tây. Vấn đề này đã được

F. Engen đúc kết trong tác phẩm nổi tiếng "Nguồn gốc

của gia đình, của chế độ tu hữu và của Nhà nước". Ngày

nay, khi mà tài liệu về lịch sử phương Đơng cổ đại khơng

cịn hiếm, nhiều học giả nhìn nhận lại và thấy rằng con đường hình thành Nhà nước đầu tiên ở phương Đơng có

một số đặc điểm riêng của nó. Ở phương Đơng, các nhà

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

nước thường được hình thành ở lưu vực các con sông lớn. Điều kiện thiên nhiên đã chứa dung san trong đó hai mặt đối lập: ưu đãi và thử thách. Nên bất cứ một cộng đồng dân cư nào ở đây cũng phải tiến hành công cuộc trị thủy và thủy lợi. Do tính cấp bách thường xuyên, quy mô to lớn của công cuộc trị thuỷ, thủy lợi nên công xã nông thôn với chế độ sở hữu chung về ruộng đất được bảo tồn rất bền vững. Chế độ tư hữu về ruộng đất lúc đầu hầu như khơng

có va sau đó hình thành va phát triển rất chậm chap. C.

Mác viết: "Trong hình thức Á châu (ít ra cũng trong hình

thức chiếm ưu thế), khơng có sở hữu mà chỉ có việc chiếm dung của cá nhân riêng lẻ, kẻ sở hữu thực tế, thực sự là cơng xã, do đó sở hữu chỉ tôn tại với tu cách là sở hữu

chung về ruộng đất mà thoi" Trong thư trao đổi giữa C.Mác và F.Engen, hai ơng cho rằng: "Việc khơng có chế độ tu hữu ruộng đất quả thật là chìa khố để hiểu tồn bộ phương Dong". Chiếc chìa khố đó giúp chúng ta lí giải

một thực tế lịch sử ở phương Dong: su phân hoá xã hội thành kẻ giầu người nghèo diễn ra rất chậm chạp, chưa

thật sâu sắc và mức độ phân hoá chưa cao lắm so với lịch

sử quá trình hình thành nhà nước ở phương Tây. Bởi vậy ở

phương Đơng, q trình hình thành, định tính và định hình

của các giai cấp cũng diễn ra chậm chạp và không sắc nét, mâu thuẫn giai cấp đối kháng phát triển chưa tới mức độ gay gắt và quyết liệt. Nhưng dù trong môi trường kinh tế

-xã hội mới như vậy, nhà nước đã phải ra đời. Chính cơng cuộc trị thủy - thủy lợi khơng chỉ là yếu tố duy trì chế độ

cơng hữu về ruộng đất, mà còn là một yếu tố thúc đẩy nhà

<small>(1), (2).Xem: C. Mác, F. Engen, V.I. Lênin, Bàn về các xã hội tién tu bản,sđd, tr. 88, 49.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

nước phải ra đời sớm. Trước đó tổ chức của công xã thị tộc, với quy mô tổ chức và hiệu lực của nó, khơng cịn đủ khả năng tổ chức công cuộc chống lũ lụt và tưới tiêu.

Đồng thời, nhu cầu tự vệ cũng là một yếu tố quan trọng

thúc đẩy sự ra đời sớm của nhà nước. Như vậy, nhân tố trị thủy - thủy lợi và tự vệ tuy bản thân chúng không thể sản sinh ra nhà nước, nhưng có thể thúc đẩy q trình hình

thành nhà nước trên cơ sở phân hố xã hội đã ở một mức

độ nào đó. Nhà nước ra đời sớm, sớm cả về mặt thời gian

và về mặt không gian, do điều kiện môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội đặc biệt của phương Đơng. Đó là đặc thù thứ nhất của con đường hình thành nhà nước ở phương

Trong hồn cảnh chế độ cơng hữu về ruộng đất, sự phân hoá giầu nghèo và mức độ mâu thuẫn giai cấp như

vậy, thì quyển lực nhà nước và tổ chức nhà nước được

hình thành như thế nào? Trước hết và chủ yếu là ở vai trò

của tầng lớp quý tộc thị tộc. Trong tác phẩm Chống

Duyrinh của F.Engen có một đoạn lí giải về vấn đề này:

"Ngay từ đầu trong mơi cơng xã đó, có một số lợi ích

chung nào đó mà việc gìn giữ thì phải trao cho những cá

nhân, tuy là có sự kiểm sốt của toàn thể: xét xử những vụ

tranh chấp, trừng phạt những kẻ lạm quyển, trơng nom các nguồn nưóc nhất là ở các xứ nóng, và sau cùng là những chức năng tơn giáo do tính chất ngun thuỷ và dã man của hoàn cảnh... Dĩ nhiên là những cá nhân đó có

một sự tồn quyền nào đó, và tiêu biểu cho những mâm

mong của quyền lực nhà nước. Dan dan lực lượng san xuất tăng thêm, dân số đông đúc hơn tạo ra ở đây là lợi ích chung, ở kia là sự xung đột về lợi ích giữa các cộng

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

đồng với nhau, và sự tập hợp những cộng đồng thành

những tập thể quan trọng hơn lại gây ra một sự phân công mới và việc thành lập những cơ quan mới để bảo vệ lợi ích

chung và chống lại những lợi ích đối kháng - Những cơ

quan đó, lúc bấy giờ với tu cách là đại biểu cho những lợi ích chung của tồn nhóm đã có đối với mỗi cộng đồng

riêng biệt một địa vị đặc biệt, đôi khi đối lập ngay với

cộng đồng ấy, rồi chẳng bao lâu sau đó có ngay một tính

chất độc lập cịn nhiều hơn nữa do việc kế thừa nhiệm vụ là việc tự nó thành một tục lệ trong cái thế giới mà mọi việc đều xảy ra theo tự nhiên, hoặc là do việc ngày càng

không thể nào bỏ được những cơ quan như thế khi mà

những xung đột với các nhóm khác ngày càng tăng thêm.

Như thế nào mà từ cái việc chuyển sang có địa vị độc lập đối với xã hội, thì với thời gian chức năng xã hội đã có thể

dân dân vươn lên thành sự thống trị đối với xã hội, như

thế nào mà hé ở đâu gặp thời cơ thuận lợi người đây tớ

ban đầu lại biến thành người chủ, như thế nào mà tùy theo hoàn cảnh, người chủ đó lại biến thành tên vua chuyên chế hay tên chúa tỉnh ở phương Đơng... trong chừng mực nào đó, cuối cùng cũng dùng đến cả bạo lực, như thế nào mà rồi sau cùng những cá nhân thống trị hợp lại thành một giai cấp thống tri... ở đây, điều quan trọng chi là

nhận thấy rằng, bất kì ở đâu, một chức năng xã hội cũng

là cơ sở của sự thống trị chính trị, và sự thống trị chính trị

cũng chỉ có thể ton tại được lâu chừng nào mà nó lam trịn chức năng xã hội đã giao phó cho nó".

<small>(1).Xem: F. Engen, Chống Duyrinh, Nxb. Su thật, Hà Nội, 1971, tr. 304 -305.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Như vậy, trong tất cả phạm vi các cộng đồng (thị tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc) tầng lớp quý tộc thị tộc lúc ban đầu vốn thực hiện "chức năng xã hội" đảm bảo lợi ích

chung của cả cộng đồng, rồi chuyển sang "dia vị độc lập

đối với xã hội" và cuối cùng "vươn lên thành sự thống trị đối với xã hội". Đó là con đường hình thành nhà nước của nhiều nước phương Đông. Đây là đặc thù thứ hai của con đường hình thành nhà nước ở phương Đông.

II. SURA ĐỜI CUA PHÁP LUẬT

Pháp luật ra đời khi nhà nước xuất hiện. Xét về phương

diện khách quan, nhà nước và pháp luật phát sinh cùng

một nguồn gốc, khi mà chế độ tư hữu được xác lập, xã hội phân hoá thành các giai cấp đối kháng và mâu thuẫn giai

cấp đối kháng khơng thể điều hồ được. Xét về phương

diện chủ quan, pháp luật do nhà nước đề ra và trở thành

một phương tiện của nhà nước để bảo vệ lợi ích của giai

cấp thống tri.

Pháp luật ra đời là một tất yếu khách quan. Trong các

tổ chức cộng đồng của công xã nguyên thủy, quan hệ giữa các thành viên được điều chỉnh bằng phong tục tập quán

và được mọi người tự nguyện chấp hành, khơng có sự

cưỡng chế bằng bộ máy bạo lực. Nhưng khi nhà nước xuất

hiện, phong tục tập quán, với bản chất của nó là theo

ngun tắc bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội đã

không phù hợp với việc bảo vệ địa vị, quyền lợi riêng của nhà nước, của giai cấp thống trị. Khi nhà nước được hình thành và quốc gia được thiết lập, các quan hệ xã hội phát

triển vượt bậc cả về bể rộng và bé sâu, cả về lượng và về chất, thì phong tục tập qn khơng cịn có thể điều chỉnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

được tất cả các quan hệ xã hội. Để đáp ứng nhu cầu khách

quan đó, một loại quy phạm xã hội hoàn toàn mới, khác

hẳn với phong tục tập quán đã ra đời, đó là pháp luật.

Vậy thực tế pháp luật được hình thành như thế nào?

pháp luật được hình thành bằng nhiều cách với những hình

thức khác nhau.

Trước tiên và phổ biến nhất trong buổi ban đầu là

nhiều phong tục tập quán được "nha nước hoá”, "luật pháp hoá" trở thành tập quán pháp. San những phong tục tập qn đã có từ ngàn xưa, chính quyền nhà nước sử dụng những phong tục, tập quán có lợi cho giai cấp thống

trị để điều hành xã hội và bằng biện pháp cưỡng chế. Có

những tập quán pháp tuy nhà nước khơng chính thức cơng nhận, nhưng được nhà nước mặc nhiên thừa nhận. Có những tập quán pháp được nhà nước đưa vào nội dung các

bộ luật. Điều đó được thể hiện trong bộ luật Manu của Ấn

Độ cổ đại, bộ luật Ham mu ra bi của Lưỡng Hà cổ đại, bộ

luật La Mã. Như vậy có tập quán pháp không thành văn và

tập quán thành văn. Đặc biệt ở phương Đơng, cơng xã nơng thơn có tính tự trị rất cao và tồn tại bền vững, nên ở đây, tập quán pháp là lệ của công xã và giữ vai trò rất

quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, điển

hình như ở Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam.

Sự ra đời của pháp luật thành văn là sự tất yếu trong

quá trình hình thành và phát triển của pháp luật. Pháp

luật thành văn xuất hiện từ khi con người có chữ viết.

Theo tài liệu khảo cổ, chữ viết ra đời ở Ai Cập cách ngày

nay 7.000 năm. Chữ viết cũng ra đời rất sớm ở Trung Quốc (đời Hạ - Thương chữ viết đã xuất hiện). Pháp luật thành văn lúc đầu là những văn bản đơn hành, sau đó dần

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

dần từng bước được pháp điển hoá lại thành bộ luật. Pháp

luật thành văn ra đời ở những nơi kinh tế tự cung tự cấp

là chính, muộn và chậm phát triển vì ở những nơi này tập quán pháp có thể phát huy vai trị điều chỉnh quan hệ xã

hội. Ngược lại, ở những nước có sự xuất hiện và phát

triển của kinh tế hàng hoá, pháp luật thành văn thường được hình thành sớm và phát triển mạnh (đương nhiên một điều kiện không thể thiếu được là phải có chữ viết). Bởi vì tập qn pháp khơng thể đảm đương nổi việc điều

chỉnh các quan hệ xã hội rất phong phú, sâu rộng và chặt chẽ mới nảy sinh trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Đó là những nước ở vùng Lưỡng Hà, Hy Lạp, La Mã. Khi xuất hiện ban đầu, luật pháp thành văn thường được ghi trên mai rùa, xương thú, thẻ tre, tấm đá, bảng đồng. Điều

này gây ra khơng ít khó khăn trong việc ghi chép, xây

dựng văn bản pháp luật. Cộng vào đó trong xã hội có rất ít người biết chữ, người biết chữ thường chỉ là những người trong đội ngũ quan chức. Sự ra đời của pháp luật thành

văn đánh dấu bước phát triển vô cùng quan trọng của luật pháp. Tuy nhiên lúc đầu sự hình thành và phát triển của

luật pháp thành văn gặp một số trở ngại không nhỏ như vậy. Và tập qn pháp vẫn có vai trị to lớn trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội.

Nhìn chung lại, từ cuối thiên niên kỉ thứ IV đến trước công nguyên, cư dân trên thế giới đã không giống nhau về

phương diện phát triển xã hội. Một mặt, có nhiều bộ lạc

quá độ bước vào thời đại kim khí và một bộ phận trong đó

bắt đầu phát sinh giai cấp, nhà nước và pháp luật. Mặt khác trên nhiều vùng của địa cầu đặc biệt là vùng rừng núi

phương Bắc cùng tồn bộ lục địa Châu Mĩ và Châu Úc,

thời kì ấy và mãi về sau này nữa vẫn còn là thời kì đồ đá

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

và chế độ công xã nguyên thủy chưa hề bị suy vong.

Sự ra đời của nhà nước và pháp luật là bước nhảy vọt

đầu tiên trong tiến trình phát triển của xã hội loài người,

đánh dấu bước khởi đầu của lịch sử nhà nước và pháp luật. Nhà nước và pháp luật đầu tiên trong lịch sử nhân loại là nhà nước và pháp luật chiếm hữu nơ lệ.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ƠN TẬP,

ĐỊNH HƯỚNG THẢO LUẬN

1. Trình bày các hình thức tổ chức của chế độ cơng xã

4. Trình bày q trình ra đời của pháp luật.

5. Phân tích những di tồn của thời kì cơng xã ngun

thủy đối với q trình phát triển của nhà nước và pháp luật

trên thế giới.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

PHẦN THỨHAI

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI KÌ CỔ ĐẠI

CHUONG I

NHÀ NƯỚC VA PHAP LUẬT

PHƯƠNG ĐƠNG CỔ ĐẠI

A. NHÀ NƯỚC AI CẬP CỔ ĐẠI

L QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC

Ai Cập nằm dọc theo lưu vực sông Nin ở vùng Đơng Bắc châu Phi. Song Nin có giá trị rất lớn đối với đời sống

kinh tế-xã hội Ai Cập. Từ xưa, người Hy Lạp đã khẳng

định “Ai cập là tặng phẩm của sông Nin”. Ở Ai Cập hình

<small>thành hai vùng rõ rệt là Thuong Ai Cập và Hạ Ai Cap.</small>

Cuối thiên niên kỉ IV trước công nguyên, nhà nước cổ

đại AI Cập đã ra đời. AI Cập là trung tâm văn minh sớm

nhất thế giới cổ đại.

Thời cổ, cư dân Ai Cập đã sớm khai thác vùng đồng bằng Sông Nin để trồng trọt. Người Ai Cập biết xây dựng những cơng trình thủy lợi từ rất sớm để tưới tiêu nước. Nghề thủ cơng, trong đó có nghề đúc đồng sớm phát triển

đã tạo ra khả năng lớn sản xuất những công cụ lao động

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

sắc bén phục vụ kinh tế nông nghiệp. Nghề chăn ni cũng đóng vai trị quan trọng trong kinh tế Ai Cập cổ. Các sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp đã được trao đổi giữa

các vùng ở Ai Cập và ngoài Ai Cập.

Từ thiên niên kỉ IV TCN, xã hội Ai Cập bắt đầu có sự

phân hố giàu - nghèo. Sự phân hoá này diễn ra chậm chạp. Ba giai cấp đã được hình thành trong xã hội gồm có: chủ nơ, nơ lệ và nơng dân công xã. Tầng lớp đông đảo nhất trong giai cấp chủ nô là tầng lớp quý tộc thị tộc. Sau đó là tầng lớp tăng lữ và những người giàu có khác.

No lệ ở Ai Cập vốn xuất thân từ những tù binh chiến tranh hoặc là những bình dân bị phá sản vì nợ. Nơ lệ khơng

được coi là người. Trong ngôn ngữ Ai Cập, từ nô lệ là Giét

(Jets) có nghĩa là đồ vật. Quan hệ nơ lệ mang nặng tính chất gia trưởng. Nơ lệ chủ yếu làm cơng việc hầu hạ trong gia đình chủ nơ, xây dựng đền đài và lăng mộ. Thân phận nô lệ hồn tồn thuộc quyền sở hữu của chủ nơ. Chủ nơ có

quyền bán, chuyển nhượng, trao tặng nơ lệ của mình.

Nơng dân cơng xã là những người lao động chủ yếu của xã hội. Thành phần của họ khác phức tạp. Có những người khá giả, có ruộng đất, súc vật, tư liệu sản xuất. Nhưng phần

lớn, họ là những người nghèo, có ít hoặc khơng có ruộng

đất, phải thuê ruộng đất của nhà nước để cày cấy. Nhà nước bóc lột họ bằng nhiều hình thức. Họ phải nộp thuế

ruộng đất theo diện tích canh tác và thuế súc vật. Cùng với

nô lệ, họ phải lao động khổ sai cho giai cấp chủ nô để xây

dựng các công trình của nhà nước và của vua. Ngồi ra, Ở Ai Cập cịn có tầng lớp thợ thủ cơng, số lượng khá đông,

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

họ xuất hiện do nhu cầu của sự phát triển kinh tế và yêu

cầu của những ngành xây dựng phục vụ giai cấp chủ nô.

Như vậy, trong xã hội Ai Cập cổ đại, kết cấu giai cấp

đã hồn chỉnh. Giai cấp bóc lột bao gồm chủ nô như vua, quan lại quý tộc, tăng lữ, người giàu có. Giai cấp bị bóc lột bao gồm nô lệ, nông dân công xã, thợ thủ công. Sự đối kháng giai cấp trong xã hội AI Cập ngày càng quyết liệt

giữa kẻ giàu và người nghèo. Trong hồn cảnh đó, tổ chức

thị tộc đã phải nhường chỗ cho sự ra đời của công xã nông thôn. Nhiều công xã nông thôn hợp thành một khu vực, người Ai Cập còn gọi là Xê Pa, còn các sử gia Hy Lạp gọi

là Nơm. Thời cổ, Ai Cập có hàng chục khu vực như thế.

Các Nôm hầu như biệt lập với nhau. Mỗi Nơm có thủ phủ,

ngơn ngữ địa phương, thờ thần và tổ chức quân đội riêng.

Đứng dau Nom là một thủ lĩnh. Một trong những nhiệm vụ

quan trọng của Nơm là quản lí nguồn nước và tổ chức, xây

dựng cơng trình thủy lợi. Như vậy, sự thành lập các Nơm là

một bước quan trọng trong q trình hình thành nhà nước.

Nơm, có thể gọi là tổ chức manh nha của Nhà nước Ai Cập cổ đại.

Cuối thiên niên kỉ IV TCN, trên cơ sở sự phát triển của

các giai cấp, của mâu thuẫn giai cấp, của nhu cầu trị thủy -thủy lợi, các Nôm dan dần hợp lại với nhau thành hai vương quốc riêng biệt, đó là nhà nước Thượng Ai Cập và nhà nước Hạ Ai Cập. Sự xuất hiện hai nhà nước này là mốc đánh dấu sự hình thành nhà nước ở Ai Cập.

II. TỔ CHỨC BỘ MAY NHÀ NƯỚC

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Quá trình tồn tai hai vương quốc Thượng Ai Cập và Hạ

Ai Cập, cũng chính là q trình đấu tranh dai dang, quyết

liệt giữa tập trung và chia cắt. Đến thời kì Tảo vương quốc

(nửa đầu thiên niên kỉ II TCN) xu hướng thống nhất đã

thắng thế. Hai vương quốc đó được hợp nhất thành một

Nhà nước Ai Cáp thống nhất.

Khi mới thống nhất, bộ máy nhà nước Ai Cập còn đơn giản. Đứng đầu bộ máy nhà nước là vua (cịn gọi là Pha ra ơng) Pha ra ông là người có nhiều tài sản nhất, có quyền lực cao nhất và được thần thánh hoá. Bên cạnh vua là hàng ngũ quan lại cao cấp ở triều đình giúp vua điều hành các

[nh vực hành chính, tài chính, tư pháp, quân sự v.v..

Cả nước chia thành nhiều Châu, đứng đầu Châu là Châu

trưởng. Ở cơ sở, tổ chức quản lí của cơng xã nơng thơn trở

thành bộ máy chính quyền ở cơng xã

Như vậy, ngay từ khi Ai Cập được thống nhất, Nhà

nước đã là chính thể quân chủ chuyên chế.

Ở thời cổ vương quốc, bộ máy nhà nước được kiện

toàn về cơ bản. Các thời kì sau chỉ cịn việc củng cố thêm

bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế mà thôi.

Pha ra ông nắm mọi quyền lực nhà nước, vua là chủ sở

hữu ruộng đất của cả nước và trực tiếp lập ra nhiều điền trang ở Ai Cập. Hầu như khơng có sự phân biệt giữa tài sản của vua và tài sản của nhà nước. Quyền lực tuyệt đối cao nhất về kinh tế là cơ sở cho quyền lực tuyệt đối về chính trị của nhà vua. Hệ thống quan lại ở trung ương và địa phương

<small>(1). Tảo vương quốc và Cổ vương quốc - 2 giai đoạn đầu của lịch sử Ai Cập)</small>

<small>thuộc nửa đầu thiên niên kỉ III trước công nguyên.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

do Pha ra ông nắm giữ. Vua có quyền bổ nhiệm, bãi miễn,

trừng phạt bất cứ ai và có quyền quyết định mọi cơng việc quan trọng của đất nước. Vua được thần thành hoá là “vi

thân vĩ dai”, “Vi than cao quý”. Sau khi vua chết, việc thần thánh hố vua cịn thể hiện bằng sự uy nghi, hùng vĩ của

kim tự tháp (nơi lưu giữ xác ướp của vua) và còn Xpanh

bằng đá lớn mình sư tử, mặt người tượng trưng cho uy

quyền của vua.

Người trực tiếp giúp vua cai quản bộ máy quan lại là một viên quan cao nhất gọi là Vi Di A. Quyền hạn của Vi

Di A rất lớn, nắm hầu hết các chức năng quan trọng của

nhà nước như tư pháp, thuế, thủy lợi, hành chính... Vidia

thường là con vua.

Nhưng đôi khi, Vi Di A cũng không nắm hết quyền han

đó, bởi vi trong các ngành hành chính, tư pháp, tài chính của triều đình đều có khá nhiều quan lại khác, thường là những người trong hoàng tộc đảm nhiệm.

Trong hàng ngũ quan lại, châu trưởng đóng vai trò quan

trọng, đứng đầu các châu ở địa phương. Nhằm ngăn chặn tệ cát cứ, các châu trưởng do Pharaông bổ nhiệm và họ

thường bị điều điều động từ châu này sang châu khác.

Tổ chức toà án và tố tụng ngay từ đầu đã khá hoàn chỉnh để đáp ứng yêu cầu củng cố chính quyền của giai

cấp chủ nô. Vua là người xét xử cao nhất. Cơ quan chuyên môn xét xử gồm 6 viện, đứng đầu là một viên chưởng lí. Một số người trong tang lớp tăng lữ làm quan tư pháp. Những thủ tục xử án rất phức tạp nên tồ án có rất nhiều nhân viên lập hồ sơ bản án. Những người phạm pháp phải chịu nhiều hình phạt, thường là tịch thu tài sản và bị đánh

đòn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Quân đội là công cụ thống trị quan trọng nhất của nhà

nước. Viên Tổng chi huy quân đội là người họ hàng của

nhà vua. Các sĩ quan cao cấp và những cơ quan đầu não của quân đội đều trực thuộc vua và độc lập với cơ quan dân

sự. Viên quan cao cấp nhất của triều đình khơng được nắm

quyền chỉ huy bộ binh vì vua khơng muốn viên quan này

có quyền lực quá lớn. Vũ khí, quân lương của quân đội đều

do một số quan lại quản lí, đứng đầu là một viên quan cao cấp.

Tôn giáo là công cụ thống tri tinh than ở Ai Cập. Cũng

như các nhà nước phương Đông cổ đại khác, tầng lớp tăng

lữ ở AI Cập đóng vai trị quan trọng trong bộ máy nhà nước. Các chức vụ tăng lữ cao cấp đều do các viên đại thần

nắm giữ, thường họ là bà con thân thích của vua. Tăng lữ

có nhiệm vụ thần thánh hố nhà vua, củng cố, đề cao uy tín của giai cấp chủ nô đối với quần chúng bị áp bức bóc lột.

Như vậy, giai cấp thống trị chủ nơ Ai Cập đã kết hợp

chặt chẽ giữa vương quyền với thần quyền để đàn áp bóc

lột giai cấp bi tri.

Ở Ai Cập cổ đại, luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa

xu hướng tập trung và xu hướng cát cứ. Tức là giữa nhà

nước trung ương tập quyền, đại diện là Pha ra ơng với chính quyền địa phương của các châu trưởng. Nhìn chung,

xu hướng trung ương tập quyền thắng thế và được bảo tồn.

Thời kì Tân vương quốc (thế ki XVI đến thế ki XII

TCN) Ai cập trở thành một trong số ít quốc gia phát triển rực rỡ nhất của thế giới cổ đại. Cũng từ đây, các Pha ra ông đã đẩy mạnh các cuộc chiến tranh xâm lược nhiều nơi như

Xi ri, Palétxitin, Li Bi v.v..

Sau thời kì Tân vương quốc, Ai Cap bị suy yếu dần, sau

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

đó lần lượt bị đế quốc Babilon, đế quốc Ba Tư, Hy Lạp thống tri. Năm 31 TCN, Ai Cập bi sáp nhập vào đế quốc La

Về pháp luật, cho đến nay, các sử gia Ai Cập và nước

ngoài vẫn chưa phát hiện được một bộ luật nào của nhà

Lưỡng Hà, đúng như tên gọi của nó, nằm ở lưu vực hai con sơng Tigơrơ và Ophrat. Vị trí đó gồm chủ yếu lãnh thổ cua Iran và lrắc hiện nay. Nếu như Ai Cập cổ đại, gần như bị cô lập giữa biển và sa mạc, chỉ có mỗi con đường Đơng

Bắc thơng với châu Á thì trái lại, Lưỡng Hà là nơi gặp nhau

của nhiều con đường Đông - Tây, Nam - Bắc. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Lưỡng Hà phát triển về mọi mặt:

kinh tế, chính trị, văn hoá và trở thành một trong những

trung tâm văn minh của thế giới cổ đại.

Cũng giống như Ai Cập cổ đại, ở vùng Lưỡng Hà các quốc gia cổ đại được hình thành từ rất sớm, gần như đồng thời với nhà nước Ai Cập cổ đại.

Cuối thiên niên kỉ IV TCN, nghề nông ở Lưỡng Hà đã

rất phát triển nhờ vào hệ thống các cơng trình thủy lợi. Đầu

thiên niên ki thứ II] TCN, trong kinh tế nông nghiệp, cư

dan đã biết sử dụng công cụ sản xuất bằng đồng. Giữa thiên niên kỉ HI TCN, đồ sắt đã xuất hiện. Đặc biệt ở Lưỡng Hà, sự trao đổi hàng hố đã có từ rất sớm và kinh tế

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

hang hoá phát triển mạnh mẽ.

Trên cơ sở nên kinh tế phát triển, xã hội xuất hiện sự phân hố sâu sắc. Nhiều gia đình giàu, có thế lực (như quý

tộc thị tộc, tăng lữ) hợp thành tập đồn người có sức mạnh

chi phối các cơ quan của bộ lạc như hội nghị nhân dân, hội

nghị nguyên lão, đại hội thân binh theo hướng có lợi cho mình.

Chiến tranh là nguồn cung cấp nơ lệ chủ yếu, quan hệ nô lệ ở Lưỡng Hà cũng mang tính chất gia trưởng. Nơng dân cơng xã là tang lớp đông đảo nhất trong xã hội. Giai

cấp thống trị thơng qua các cơ quan quản lí cơng xã để bóc

lột các thành viên cơng xã.

Cùng với tiến trình phát triển của sự phân hoá giai cấp,

từ đầu thiên niên kỉ II] TCN ở Lưỡng Hà đã xuất hiện nhiều quốc gia nhỏ ở Miền Nam như: Eridu, Ua, Umma, Lagát, Urúc... Đứng đầu mỗi quốc gia nhỏ gọi là Vua (còn gọi là Patéxi). Giúp việc cho nhà vua có viên quan cao cấp nhất, quản lí cơng việc thủy lợi, đất đai, kho tàng. Ngồi ra cịn có một số quan lại trơng coi các việc bn bán, thuế khố, qn sự. Cơng xã nơng thơn tuy vẫn tồn tại, nhưng đã bị biến thành bộ máy thống tri cấp cơ sở.

Sự ra đời và tồn tại nhiều quốc gia - nhà nước riêng biệt chứng tỏ nhà nưóc đã được định hình ở Lưỡng Hà.

Để hợp nhất các quốc gia riêng lẻ thành một quốc gia,

một nhà nước tập quyền chuyên chế duy nhất, ở Lưỡng Hà đã diễn ra cuộc đấu tranh thơn tính lẫn nhau giữa các quốc

gia. Cuối thiên niên kỉ II TCN, Ác cát (Nhà nước của

người Xê mít) đã trở lên một quốc gia hùng mạnh, từng bước thống nhất được cả Lưỡng Hà.

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Từ năm 2132 - năm 2024, quyền thống trị Lưỡng Hà

chuyển vào tay vương triều thứ III của vương quốc Ua. Sự thống nhất Lưỡng Hà được củng cố. Trên thực tế, quyền

lực của các Patêxi bị thủ tiêu, họ trở thành các quan lại ở

địa phương, chịu sử bổ nhiệm của vua, con cháu Patêxi

khơng cịn được quyền thế tập cha.

Vào những năm cuối cùng của thiên niên ki III TCN, Lưỡng Hà lại bị phân hố thành những quốc gia nhỏ. Cuối cùng người Amợrít của vương quốc Babilon đã thống nhất

lại được Lưỡng Hà một cách vững chắc nhất. Sau khi vương quốc cổ Babilon bị diệt vong, Lưỡng Hà liên tiếp bị

các tộc người bên ngồi thống trị gần 1000 năm. Cuối cùng, nhà nước Tân Babilon khơi phục được quyền thống trị cả LuGng Hà trong gần một thé kỉ (626 - 538 TCN).

Năm 538 TCN Lưỡng Hà bị đế quốc Ba Tư thơn tính.

II. QUOC GIA CỔ BABILON VA TỔ CHỨC BO

MAY NHA NUGC

Cổ Babilon vốn là một quốc gia nhỏ, phát triển muộn, nằm ở vùng Bắc Lưỡng Hà. Nhưng do vị trí địa lí thuận lợi

của mình, là nơi gặp gỡ của nhiều đường giao thơng thủy

bộ vùng Tiểu A. (Trên bờ sơng Ophrat), Ba bi lon đã xây

dựng và phát triển mạnh mẽ lực lượng, nhanh chĩng trở

thành trung tâm thống nhất và củng cố nền thống nhất ở

<small>Lưỡng Hà.</small>

Vương cổ quốc Babilon tồn tại trong vịng 300 năm (1894 - 1595 TCN). Đây cịn là thời kì phát triển rực rỡ

nhất của Lưỡng Hà. Triều đại vua Hammurabi là thời kì

hưng thịnh nhất quốc gia Babilon. Vua Hămmurabi đã

thiết lập bộ máy chính quyên của một nhà nưĩc trung ương

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

tập quyền chuyên chế. Tổ chức nhà nước Babilon đồ sô, quy củ nhất trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại.

Mọi quyền lực nhà nước tập trung vào tay vua. Nhà vua là người có quyền sở hữu ruộng đất tối cao nhất. Mọi hoạt động của vua đều được thần thánh hoá, vua thay mặt thần thống trị nhân dân. Hammurabi đã tuyên bố: “Ta, Hammurabi, một mục su duoc thần Enlin lựa chọn, kẻ nối

dối các đế vương do thân Xin tao ra. Mác đúc” gọi ta lên

cai trị nhân dân và mang đến cho đất nước cuộc đời hạnh

Hammurabi chia Lưỡng Hà thành hai khu vực chính.

Ác cát và Bắc Xume là một khu vực, lãnh thổ còn lại và

vùng Nam Xume là một khu vực. Đứng đầu mỗi khu vực là

một viên Tổng đốc do vua trực tiếp bổ nhiệm. Ở các địa

phương, tuy vẫn cịn hội đồng trưởng lão, nhưng hoạt động

của nó bị đặt dưới quyền kiểm soát của tổng đốc. Quan lại ở các địa phương có nhiệm vụ thu thuế của công xã, bắt dân đi xây dựng đền đài, cung điện cho vua, đào đắp kênh

mương và đi lính. Ở vùng Nam Xume, quan lại ngồi

nhiệm vụ hành chính và tài chính như trên, cịn có nhiệm

vụ kiểm soát những viên chức làm việc trong các điển

trang của nhà vua.

Hội đồng công xã tuy vẫn tồn tại, nhưng nhà nước đã cử quan lại về cai trị tận các công xã. Mặc dù lúc này, công xã nông thôn đã bị chế độ tư hữu tài sản làm cho rạn nứt, nhưng nó vẫn được coi là đơn vị kinh tế - xã hội mà nhà

nước quân chủ chuyên chế dựa vào đó để thống trị nhân

<small>(1). Mác đúc: Vi thần cao nhất Lưỡng Hà.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Nhà nước lập ra các cơ quan tư pháp chuyên trách. Hội

đồng xét xử gồm các bơ lão có uy tín trong vùng. Các

phiên tồ tối cao của triều đình do vua điều khiển.

Nhà nước rất chú ý đến việc phát triển quân đội vì quân

đội hùng mạnh đã giúp Hammurabi chính phục tồn Lưỡng

Hà và giữ vững chính quyền của mình. Binh lính được ban cấp ruộng đất và có khi cả súc vật, nhưng họ chỉ được sử

dụng, khơng được bán hoặc chuyển nhượng các tài sản đó.

Những người trốn lính bị trừng phạt rất nặng, hoặc binh lính trốn khơng ra trận hay nhờ người khác đi hộ, sẽ bị tội chết.

Nhà nước Babilon không những thể hiện rõ chức năng

cướp bóc nhân dân dân trong và ngồi nước, mà cịn rất chú ý tới chức nang trị thủy - thủy lợi. Hammurabi rất quan

tâm đến việc xây dựng, tu bổ, quản lí hệ thống thủy nơng.

Sau khi lên cầm quyền được 9 năm, ông đã đào một con

kênh lớn mang tên: “Hammurabi - sự giàu cớ” Hammurabi

rất tự hào về những cơng trình thủy lợi của mình khơng

kém gi những chiến cơng qn sự trên chiến trường.

Việc trông coi nguồn nước và phân phối nước không chỉ là cơng việc của Nhà nước mà cịn là trách nhiệm của các công xã. Nhà nước quy định cho các địa phương phải tìm mọi cách đưa nước tưới cho đồng ruộng, nhất là ruộng của nhà vua cho nơng dân lĩnh canh. Nhờ có hệ thống tưới

tiêu tốt, nghề trồng trọt ở Lưỡng Hà rất phát triển.

II. PHÁP LUẬT - BỘ LUẬT HĂMMURABI

Theo quy luật chung, ở Lưỡng Hà cùng với sự xuất hiện

<small>của nhà nước, pháp luật đã ra đời và trở thành công cụ bảo vệ</small>

lợi ích cho giai cấp thống trị. Sự xuất hiện của chữ viết, nhu

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

cầu trao đối trong xã hội và sự phát triển nền kinh tế hang hố vượt trội so với các nước phương Đơng cô đại đã tạo điều kiện thuận lợi để Lưỡng Hà trở thành một trong những quốc gia cô đại ở phương Đơng có pháp luật thành văn xuất hiện sớm, khoảng thế kỉ XXI TCN. Trong số các bộ luật tìm được ở Lưỡng Hà, bộ luật nổi tiếng và có giá trị nhất là bộ luật Hammurabi (ra đời vào nửa đầu thé ki XVIII TCN). Bộ

luật này được gọi theo tên cua nhà vua Hammurabi thuộc

vương triều thứ bảy của vương quốc Babylon cô. Bộ luật đã được các nhà khảo cơ học người Pháp tìm thấy ở phía Đơng thành Babilon cỗ vào năm 1901.

Bộ luật Hammurabi được khắc trên một tam đá bazan cao 2 mét. Phần trên cùng tắm đá có khắc hình vua Hămmurabi đứng trước thần Samát (Thần Mặt trời và cũng là vị thần công Ii). Bộ luật này gồm ba phan: phần mở dau, phan nội dung và phần kết luận. Phần mở đầu nhà vua Hămmurabi khăng định quyền lực và công đức của nhà vua; Phần nội dung là phần chứa đựng các điều khoản của bộ luật điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong xã hội; gồm 282 điều, hiện còn nguyên vẹn 247 điều; Phần kết luận, nhà vua

Hămmurabi khang định lại mục dich ban hành Bộ luật va

tuyên bố sẽ trừng phạt bất cứ ai vi phạm các điều khoản

<small>trong Bộ luật.</small>

Bộ luật Hammurabi được xây dựng trên co sở kế thừa những luật lệ của các vương quốc trước như bộ luật của vương quốc Nippua (trước Babylon cổ khoảng 200 năm) và

<small>bộ luật của thành Esơnume (TK XX TCN); phong tục tap</small>

quán của người Xume; những phán quyết của vuaHămmurabi và những quyết định của Toà án nhà vua.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<small>Các nhà làm luật mặc dù chưa có ý niệm phân chia thành</small>

các ngành luật như luật hiện đại: luật dân sự, luật hình sự...

nhưng đã đã thé hiện kĩ thuật lập pháp tương đối tiến bộ trong việc sắp xếp các điều khoản điều chỉnh một loại quan hệ trong xã hội liền kề nhau. Nội dung của bộ luật được thể

<small>hiện trên những lĩnh vực sau:</small>

1. Những quy định trong lĩnh vực hợp đồng

Việc trao đôi, mua bán, vay mượn, th mướn hàng hố, nhân cơng cũng như tài sản ở Lưỡng Hà phát triển mạnh đã

<small>làm nảy sinh những quan hệ có tính phức tạp. Do đó, bộ luật</small>

Hămmurabi đã có những điều khoản điều chỉnh mối quan hệ này băng khế ước hay hợp đồng. Thông qua các điều khoản, bộ luật đề cập tới một số loại hợp đồng sau:

a. Hop đồng mua bán

Theo quy định tại các điều 7, 8, 9, 10, một hợp đồng mua bán chỉ có hiệu lực khi có đầy đủ ba yếu tố sau:

- Người bán phải là người chủ thực sự của tài sản (Điều

Như vậy, những điều kiện của hợp đồng là cơ sở dé giải quyết các tranh chấp phát sinh sau này. Khi có tranh chấp xảy ra mà khơng có hợp đồng, người làm chứng thì người mua sẽ bị coi như kẻ trộm và bị xử tử hình (Điều 7, 11).

Ngồi những hàng hố thơng thường được đem ra trao

đổi mua bán, ở Lưỡng Hà, nô lệ được coi là một loại hàng

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

hoá đặc biệt được đem ra trao đơi, mua bán. Sự đặc biệt của hàng hố này thể hiện ở giá tri cua nó (sức lao động) do đó, các nhà làm luật hướng tới bảo vệ quyền lợi của người mua, tức là chủ hơn là người bán và người nô lệ (Điều 278, 279).

b. Hợp đồng vay mượn

Là loại hợp đồng thông dụng trong xã hội Lưỡng Hà, các nhà làm luật đều chú ý đến quyền và nghĩa vụ của hai bên.

Đối với chủ nợ: pháp luật bảo vệ quyền lợi của chủ nợ. Dé đảm bảo khoản vay chủ nợ thường buộc con nợ phải cam cô ruộng đất (Điều 49, 50). Nếu con nợ khơng trả được nợ thì chủ nợ sẽ có các biện pháp xiết nợ bằng cách là bắt nô lệ, vợ hoặc con của con nợ làm con tin (Điều 117). Tuy nhiên, thông qua điều khoản 116,117 ta thấy chủ nợ cũng phải có những nghĩa vụ nhất định như: trả tự do cho những kẻ bi gan nợ (vợ, con) sau 3 năm phục dịch ở nhà y (trừ trường hợp quy định tại điều 118: Chủ nợ có quyền chun nhượng hoặc bán nơ lệ của con nợ cho người khác), đồng thời phải khơng được đánh đập, dé đói. Nếu chủ nợ đối xử tệ bạc với những kẻ bị gán nợ gây thiệt hại thì sẽ phải bồi thường. Điều 116 quy định: nếu làm chết con của con nợ thì con của chủ nợ phải chết, nếu nơ lệ chết thì đền 1/3 mine” bạc cho chủ của hắn. Mặt khác, nếu con tin bi chết vì lí do “tự nhiên” thì chủ nợ khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường (Điều 115).

Đối với con nợ: Tương ứng với quyền của chủ nợ thì con nợ có nghĩa vụ trả nợ. Các nhà lập pháp cũng dự liệu nếu như

<small>(1). 1 mine = 0,7g bac.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

người đi vay khơng có tiền dé trả thì có quyền lấy thóc dé trả nợ (Điều 51). Tuy nhiên, các nhà làm luật Lưỡng Hà đã có quy định để đảm bảo quyền lọi cho người đi vay trong trường hợp: khi có sự kiện bất khả kháng. Điều 48 quy định: “nếu người đi vay nợ một người khác, mà năm đó ruộng nhà y bi mat mùa hoặc lũ lụt hoặc hạn hán thì y sẽ khơng phải hồn lại nợ sốc va nợ lãi trong năm”.

c. Hợp đồng thuê mướn ruộng đất

Việc thuê mướn ruộng dat dé canh tác ở Lưỡng Hà khá pho biến. Bộ luật dành khá nhiều điều khoản dé điều chỉnh mối quan hệ này. Tuỳ theo sự thoả thuận giữa chủ ruộng và người di thuê ruộng, việc cho thuê ruộng đất là có thời hạn (thường là 3 năm) hoặc vô thời hạn. Giá thuê ruộng được ấn định bằng tiền hoặc một phan hoa lợi (1/2 hay 1/3 tổng số thóc thu được (Điều 45, 46)). Luật pháp trừng trị rất nặng các trường hợp người thuê vi phạm hợp động như lười biếng, bỏ hoang mảnh đất (Điều 42, 43, 44), trừ trường hợp hoàn cảnh khách quan gây ra (Điều 45, 46). Ngoài ra bộ luật cũng quy định người đi thuê ruộng được quyền thuê hoặc nhờ người khác cày cấy trên mảnh đất đó thay mình (Điều 47).

Về hình thức của tất cả các loại hợp đồng trên, thường là

văn bản (khê ước). Tuy nhiên, bộ luật không quy định cụ thê hình thức cũng như nội dung cụ thê của các loại hợp đông này. Như vậy, với việc đưa ra các điêu kiện trên cũng như việc quy định quyên và nghĩa vụ các bên chứng tỏ tư tưởng tiên bộ của các nhà lập pháp Lưỡng Hà. Những quy định này tạo điêu kiện thuận lợi cho các bên tham gia vào quan hệ

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

giao dịch dân sự và là cơ sở để giải quyết các tranh chấp phát

<small>sinh sau này.</small>

Ngoài ba loại hợp đồng chủ yếu, bộ luật còn quy định các loại hợp đồng khác như: Hợp đồng gửi giữ; Hợp đồng thuê mướn nhân công và cho thuê các loại tài sản khác; Hợp đồng cầm có ruộng đất...

Qua các loại hợp đồng trên, bộ luật Hammurabi đã có

những quy định chung như sau:

+ Các bên đều thể hiện ý chí tự nguyện trong việc giao kết hợp đồng.

+ Các hợp đồng trên đều được làm thành văn bản và phải có người làm chứng, nếu khơng hợp dong sẽ bị vô hiệu.

+ Các loại hợp đồng đều quy định quyền và nghĩa vụ của

<small>các bên tham gia.</small>

2. Những quy định trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình

Các nhà làm luật Lưỡng Hà đã dành khá nhiều điều khoản đề cập đến mối quan hệ hôn nhân và gia đình trong xã

a. Quan hệ hơn nhân

* Kết hơn:

Kết hơn là sự kiện pháp lí xác lập quan hệ vợ chồng giữa

<small>người đàn ông và người đàn bà.</small>

- Điều kiện kết hôn:

Theo tinh thần của bộ luật, việc kết hôn được thực hiệntrên cơ sở sự thoả thuận của hai bên gia đình cha mẹ (Điều155, 156...). Tuy nhiên, bộ luật khơng có điều khoản nàoquy định về độ tuổi kết hơn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

- Hình thức và thủ tục kết hôn:

Theo tinh thần của các điều 155, 156, 159, 160, 161, 128... kết hơn có các giai đoạn sau:

+ Hứa hôn: Thông qua các điều khoản 159,160,161, ta thay, dé lay một người phụ nữ, người con trai có thé trực tiếp đến nhà gái xin cơ gái về làm vợ hoặc bố của anh ta sẽ đi hỏi vợ cho con. Người đàn ông phải mất hai khoản tiền: Tiền ăn hỏi (như là một sự đền bù của nhà trai đối với nhà gái về cơng ni dưỡng cơ gái đó và bố cơ gái có tồn quyền hưởng dụng) và tiền phục vụ cho cưới xin. Nếu người con trai phá bỏ hôn ước, anh ta mắt toàn bộ tài sản. Nếu nhà gái vi phạm hơn ước thì phải chịu trách nhiệm hồn tồn về số tài sản đó.

+ Kết hơn: Việc kết hôn bắt buộc phải được ghi trên giấy tờ. Điều 128 quy định: “Kẻ nào lấy một người đàn bà mà khơng làm giấy tờ gì thì người đàn bà đó khơng phải là vợ y”. Tuy nhiên, luật khơng quy định trên giấy tờ đó ghi nội dung gi, cách thức lập như thé nao.

* Cham dứt hôn nhân:

Hôn nhân cham dứt khi xảy ra một trong hai trường hợp sau: ly hôn, một bên vợ hoặc chồng chết trước hoặc bị mất

- Hôn nhân chấm dứt khi vợ hoặc chồng chết trước hoặc bị mắt tích.

Bộ luật tuy khơng có điều khoản nào quy định một cáchtrực tiếp và cụ thê nhưng đã có điều khoản gián tiếp quy địnhvề trường hợp này. Điều 134, 135 quy định, nêu người chongbị bắt làm tù binh và nếu như nhà của anh ta khơng cịn duytrì được cuộc sống thì người vợ có quyền đi lay chồng khác.Theo tinh thần điều 167,172 người đàn ông lay vợ và người

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

vợ này sinh cho anh ta những đứa con, sau khi người vợ chết anh ta lẫy người vợ khác và nếu người chồng chết người vợ có quyền lấy bất cứ ai mà chị ta muốn.

<small>- Ly hơn:</small>

Nếu như kết hơn là sự kiện pháp lí làm phát sinh quan hệ hôn nhân giữa người vợ và người chồng thì ly hơn là sự kiện

<small>pháp lí thủ tiêu quan hệ đó.</small>

+ Người chồng bỏ vợ theo ý muốn của mình với lí do người vợ: khơng có con (Điều 138), có thái độ vơ lễ (Điều 143), coi thường chồng (Điều 142), đi ngoại tình (Điều 132) hoặc tiêu tán hoang phí tài sản gia đình (Điều 141, 143).

Tuy nhiên pháp luật cũng hạn chế quyên u cầu ly hơn của người chồng, đó là trường hợp vợ đang bệnh nặng, nhưng pháp luật cho phép người chồng được phép lấy vợ mới. Điều 148 quy định: “trong hợp người đàn ông lấy một người vợ và người vợ này mắc bệnh hii. Nếu người đàn ơng muốn lấy vợ lẽ thì anh ta có thể lấy vợ lẽ. Người vợ cả được quyên sống ở nhà anh ta, người đàn ơng có nghĩa vụ chăm sóc người vợ cả cho đến lúc cơ ta chết”.

+ Người vợ chỉ có quyền ly hơn chồng trong những trường hợp: bị chồng vu cáo vợ ngoại tình (Điều 131), chồng bỏ lửng vợ và khơng có tài sản để chi trả cuộc sống (Điều

134, 135, 136), bị chồng đối xử tệ bạc (Điều 142).

<small>* Hậu quả của việc ly hôn</small>

- Chia tài sản: Phần tài sản được tạo bởi trong hôn nhânthuộc về người chồng và phần tài sản của ai thì thuộc vềngười đó. Của hồi mơn của người vợ do người chồng quản línhưng khơng có quyền định đoạt. Khi ly hôn của hôi mônđược trả lại hoặc không trả lại cho người vợ căn cứ vào lỗi

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

của một trong hai người (Điều 138, 141).

- Quyền nuôi con: Luật quy định một trường hợp duy nhất, nếu lỗi và yêu cầu ly hơn từ phía người chồng thì pháp luật vẫn trao quyên nuôi con cho người vợ (Điều 137).

<small>* Tai hôn</small>

Bộ luật đều cho phép người đàn ông và người đàn bà trong trường hợp một người chết hoặc mắt tích được phép tái hôn. Tuy nhiên, quyền tái hôn của người phụ nữ có sự hạn chế nhất định, họ chỉ được tái hôn khi được sự cho phép của Tồ án (Điều 177).

b. Quan hệ gia đình

<small>Nói tới gia đình có nghĩa là nói tới các quan hệ giữa các</small>

thành viên trong gia đình, trong đó bao gồm quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Mỗi mối quan hệ đều có các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Quan hệ tài sản bao gồm quyền định đoạt tài sản trong gia đình và quyền thừa kế. Gia đình trong xã hội Lưỡng Hà là gia đình gia trưởng, người chồng, người cha giữ quyền làm chủ quyết định mọi việc trong gia đình, quyền định đoạt tài sản trong gia đình. Tuy nhiên, các nhà

<small>làm luật Lưỡng Hà cịn cho phép người phụ nữ trong gia</small>

đình có quyên lợi này trong một số trường hợp nhất định. * Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng

Pháp luật chỉ điều chỉnh quan hệ giữa vợ và chồng khi có hành vi vi phạm, đồng thời áp dụng những chế tài đối với cả

<small>hai bên.</small>

- Nghĩa vụ chung sống và phải có trách nhiệm với nhau.Điều 133,134 quy định nếu người chồng tham gia quân độibị bắt làm tù binh phải dé lại tài sản cho vợ, nêu người chong

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

không để lại tài sản gì để duy trì cuộc sống thì người vợ có quyền lấy người khác. Theo tinh thần của điều luật này ta thấy, trách nhiệm của người chồng đó là phải tạo dựng khối tài sản chung và là chỗ dựa chính cho gia đình. Theo Điều 142, nếu chồng đối xử tệ bạc và hay bỏ nhà ra đi thì người vợ có quyền bỏ chồng hay theo điều 148, nếu người vợ mắc bệnh hui, anh ta có thé lay vợ khác nhưng phải có nghĩa vụ chăm sóc vợ cũ đến lúc chết. Đối với người vợ, theo tỉnh thần điều 143 nếu người vợ phá tán tài sản của chồng và khơng có trách nhiệm với chồng con thì sẽ bị quang xuống

<small>- Nghĩa vụ chung thuỷ:</small>

Trong quan hệ gia đình, chế độ đa thê và gia đình gia

trưởng được thừa nhận nên nghĩa vụ chung thuỷ được đặt ra

trước hết là đối với người vợ. Bộ luật khơng có điều khoản nào quy định người chồng cũng phải có nghĩa vụ chung thuỷ với vợ. Người vợ phải tuyệt đối chung thành với chồng, nếu vi phạm thì sẽ bị chồng ly hơn hoặc chịu hình phạt nghiêm khắc (Điều 129, 133, 153...).

<small>* Quan hệ nhân thân giữa cha mẹ và con cái</small>

- Cha mẹ có nghĩa vụ và bổn phận chăm lo cho con cái: Điều 29 quy định: “Nếu con của người chiến sĩ bị bắt trong chiến tranh, ruộng vườn sẽ được giao lại cho con trai anh ta, nếu con trai cịn nhỏ thì người mẹ đưa bé sẽ quản lí và có

<small>trách nhiệm ni dưỡng đứa bé”.</small>

<small>- Con cái phải có nghĩa vụ vâng lời và phụng dưỡng ơng</small>

bà, cha mẹ. Điều 195 quy định nếu con đánh cha đẻ thì sẽ bị

<small>chặt tay.</small>

</div>

×