Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.26 MB, 222 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
14-2014/CXB/46-443/CAND
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Nhà nước và pháp luật là hiện tượng xã hội vơ cùng
phúc tạp, ln biến động và có những thay đổi to lớn trong những năm gân đây. Nhận thức về nhà nước và
pháp luật đóng vai trị rất quan trọng trong nhận thức
của cán bộ và nhân dân về xã hội, chính trị, văn hóa.
Nhận thức đó giúp cho việc tiếp cận và giải quyết một
cách đúng đắn các vấn đề thực tiễn về nhà nước và
pháp luật.
Một trong những nội dung quan trọng của khoa học về nhà nước và pháp luật là Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới. Mơn học này trình bày những vấn đề cơ bản về lịch sử nhà nước và pháp luật qua các thời kì: Chiém hữu nơ lệ, phong kiến, tu sản và xã hội chủ
Để đáp ứng nhu cầu đào tạo, học tập và tìm hiểu về nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà
Nội xuất bản cuốn Giáo trình lịch sử nhà nước và
pháp luật thế giới. Cuốn sách sẽ là tài liệu bổ ích
đối với các sinh viên luật được đào tạo dưới những
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Việc nghiên cứu tổ chức của cơng xã ngun thuỷ góp
phần lí giải nguồn gốc của nhà nước và pháp luật, đồng
thời để hiểu rõ những tàn dư của nó trong xã hội có nhà
Trải qua hàng triệu năm sống thành bầy, về sau con
người bước vào xã hội có tổ chức cao hơn, đó là cơng xã
ngun thuỷ (cách ngày nay khoảng 40.000 nam).
Từ quan hệ tạp hôn, con cái chỉ biết mẹ, dan dan trong
quan hệ hôn nhân diễn ra sự biến đổi quan trọng: những
người cùng dịng máu mẹ khơng được kết hôn với nhau. Những người này hợp thành một cộng đồng gọi là thi téc. Như vậy, thị tộc được hợp thành do quan hệ huyết thống.
Về kinh tế, thị tộc hình thành do quá trình phát triển của
lực lượng sản xuất. Thi tộc là hình thái xã hội cơ ban của cơng xã ngun thuỷ, vi từ nó mà hợp thành các hình thái
tổ chức khác (bào tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc). Thị tộc phát triển qua hai giai đoạn: Thị tộc mẫu hệ (chế độ mẫu
quyền) thị tộc phụ hệ. Trong thị tộc phụ hệ, chế độ hôn
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">nhân một vợ một chồng được xác lập, mọi người trong thị
tộc đều theo dịng họ cha, và đó là chế độ phụ quyền. Thị
tộc có ruộng đất, rừng rú, có tên gọi riêng (theo tên cây
cỏ, chim thú), có khu vực cư trú riêng. Việc quản lí điều
hành hoạt động của thi tộc do ta trưởng và thu lĩnh quân sự đảm đương. Những người này do các thành viên của thị tộc bầu ra.
Một số thị tộc có quan hệ hơn nhân với nhau hợp
thành một bào tộc. Bào tộc có vai trị quan trọng, như thực
hiện các lễ nghi tơn giáo và hội hè, tổ chức lực lượng vũ
trang bảo vệ bộ lạc...
Một số bào tộc hợp thành một bộ lạc. Bộ lạc có tên gọi, nơi ở, tiếng nói, phong tục tập quán, ruộng đất... riêng. Đứng đầu bộ lạc là tù trưởng bộ lạc do hội nghị bộ lạc bầu ra. Tù trưởng bộ lạc có quyền giải quyết những cơng việc cần kíp, khơng quan trọng giữa hai kì hội nghị bộ lạc và có quyền triệu tập hội nghị. Hội đồng bộ lạc bao gồm: tù trưởng bộ lạc, các tù trưởng và thủ lĩnh quân sự của thị tộc. Đến thời kì thị tộc phụ hệ, quản lí cơng việc
của thị tộc là một trưởng lão có tơng tộc cổ nhất trong thị
tộc. Nên hội đồng bộ lạc còn được gọi là: hội đồng trưởng lão. Hội đồng bộ lạc có quyền thảo luận, quyết định những vấn đề quan trọng của bộ lạc như tuyên chiến, đình chiến, cử sứ giả của bộ lạc mình hoặc tiếp sứ giả của bộ
lạc khác, chia chiến lợi phẩm v.v..
Dan dần, một số bộ lạc liên kết với nhau, tạo thành liên minh bộ lạc. Hội đồng liên minh bộ lạc gồm những tù trưởng của các bộ lạc và các thị tộc. Hội đồng thảo luận và quyết nghị những công việc của liên minh theo phương thức dân chủ. Mọi quyết nghị phải được sự nhất trí hồn
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">tồn của các thành viên. Các quyết nghị đó khi đưa về các
bộ lạc cũng phải được hội đồng bộ lạc tán thành thì mới có hiệu lực. Liên minh bộ lạc có hai thủ lĩnh tối cao, không ai hơn ai về quyền hạn và chức trách.
Như vậy, trong chế độ công xã nguyên thuỷ, thị tộc,
bào tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc là những hình thức tổ
chức xã hội vừa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa có
vai trị và tổ chức quản lí khác nhau.
Trong phạm vi từng cộng đồng, mọi thành viên đều có
nghĩa vụ và quyền lợi như nhau (kể cả các thủ lĩnh). Cái bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi thường bằng sự tự nguyện hoặc bằng áp lực của dư luận cộng đồng.
Quyền hạn của các thủ lĩnh, do cộng đồng trao cho, mang tính xã hội, chưa phải là quyền lực chính trị.
thành nhà nước
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo ra những chuyển biến vô cùng lớn lao về kinh tế-xã hội. Cơng xã
ngun thuỷ lâm vào vịng suy sụp và tan rã, nhường bước cho sự ra đời của nhà nước.
Kim loại được dùng để chế tạo công cụ sản xuất đã mở
ra thời đại kim khí. Từ đây năng suất lao động có bước
phát triển nhảy vọt. Những dấu vết của việc chế tạo công
cụ đồng sớm nhất hiện nay chúng ta biết được là thuộc
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">thiên niên kỉ thứ IV TCN, cư dân Lưỡng Hà, Ai Cập dùng nhiều công cụ đồng trong sản xuất và đời sống. Khoảng
với kinh nghiệm sản xuất của con người tích luỹ được, đã
tạo nên bước phát triển nhảy vọt trong trồng trọt và nghề
lần thứ nhất: nghề trồng trọt và nghề chăn nuôi tách rời nhau, có những bộ lạc chuyên về chăn nuôi và những bộ
lạc chuyên nghề trồng trọt. Các nghề thủ cơng phát triển
mạnh, dẫn đến sự hình thành những nhóm người chun làm nghề thủ cơng. Từ đó nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp. Đây là sự phân công lao động xã hội lần thứ hai. Sự chuyên mơn hố của các ngành sản xuất làm xuất hiện
và phát triển việc trao đổi sản phẩm giữa các bộ lạc, giữa
phương Tây. Ngay trong một công xã, người nông dân và
người thợ thủ công cũng trao đổi sản phẩm với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và nền kinh tế
nguyên thuỷ đã dẫn đến những hệ quả rất quan trọng. 1. Sự xuất hiện tài sản tư hữu. Năng suất lao động được
nâng cao, làm cho sản phẩm xã hội tăng nhanh. Ngoài
phần tiêu dùng hàng ngày, con người đã có của cải dư
thừa để dành. Q trình phân hố tài sản bắt đầu diễn ra và phát triển theo những con đường sau:
- Trong các cộng đồng, những người có địa vị đã
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">chiếm được nhiều của cải dư thừa của tập thể.
- Do sự phát triển của sức sản xuất, đại gia đình phụ quyền được phân thành nhiều gia đình nhỏ, bao gồm vợ chồng và con cái, mỗi gia đình nhỏ ấy là một đơn vị kinh
tế, có tài sản riêng như cơng cụ sản xuất, tư liệu lao động và những thứ đó được truyền lại cho con cái từ đời này qua đời khác, củng cố thêm chế độ tư hữu.
- Của cải và tù binh trong chiến tranh cũng là một nguồn tài sản quan trọng bị những người có địa vị trong
bộ lạc thắng trận chiếm đoạt thành của riêng mình
2. Cơng xã nông thôn xuất hiện thay thế công xã thị tộc phụ hệ đang dần dần tan rã. Sự phân hoá tài sản và địa vị giầu nghèo trong xã hội đã dẫn đến tình trạng những người giàu có muốn từ bỏ bà con thân thuộc túng thiếu, vì
nghĩa vụ giúp đỡ những người anh em họ hàng theo phong
tục cổ truyền đã gây trở ngại cho việc tích luỹ của cải của
gia đình họ. Cịn nhiều người vì nghèo khó phải đi tới
những vùng khác để sinh sống. Mối quan hệ dịng máu kết dính các thành viên trong thị tộc bộ lạc bị cắt đứt. Ranh
giới của thị tộc bộ lạc bị xáo trộn và phá vỡ. Thay vào đó
là một hình thức tổ chức cộng đồng mới. Cộng đồng công
xã láng giéng bao gồm những người ở chung một vùng đất, có cùng một số lợi ích chung về kinh tế xã hội, có mối quan hệ láng giéng (chứ hầu như khơng có quan hệ dong máu). Công xã láng giéng bao gồm công xã nông
thôn (hình thức phổ biến nhất) trong cư dân nơng nghiệp
và công xã du mục trong cư dân chăn nuôi. Thay thế cơng
xã thị tộc, cơng xã nơng thơn là hình thái tổ chức xã hội
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">xã nông thơn mang tính hai mặt; trong cơng xã, vừa có
chế độ tư hữu tài sản (công cụ sản xuất, súc vật, nhà ở), vừa có chế độ sở hữu chung của công xã (phần lớn ruộng đất, sông bãi, rừng rú). Ruộng đất của công xã được chia cho các gia đình cầy cấy theo kì hạn nhất định và gia đình được chiếm hữu thành quả lao động của mình. Điều đó
đẩy mạnh sự phát triển của tài sản tư hữu. Quá trình phát triển của chế độ tư hữu tất yếu dẫn đến việc hình thành
Tập đồn thứ nhất là những người giầu có bao gồm: - Trước hết là các quý tộc thị tộc trong công xã, bộ lạc,
liên minh bộ lạc.
- Những thương nhân tích luỹ được nhiều của cải và
bắt người sản xuất phải phụ thuộc họ về kinh tế.
- Nhiều tăng lữ nắm cả vận mệnh tinh thần và vật chất
của cư dân. Họ trở nên giàu có.
- Một số ít người vốn là nơng dân, bình dân hoặc một số ít thợ thủ công do tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sản xuất,... dần dần giầu lên.
Tập đoàn thứ hai chiếm đông đảo trong xã hội là nông dân, thợ thủ cơng. Họ có chút ít tài sản.
Tập đồn thứ ba là những tù binh chiến tranh bị biến thành nô lệ. Những nông dân thợ thủ công bị phá sản,
cũng bị thành nơ lệ.
Những tập đồn trên chính là các giai cấp: chủ nô,
<small>(1).Xem: C. Mác, Engen, V. I. Lênin, Bàn về các xã hội tién tu bản, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">bình dân, nô lệ. Mâu thuẫn giai cấp đối kháng nảy sinh,
dần dần phát triển tới mức độ không thể điều hồ được. Các hình thức tổ chức trong xã hội ngun thuỷ khơng thể giải quyết được thực trạng đó và nó khơng cịn phù hợp để tồn tại. Giai cấp giầu có cần phải có một tổ chức mới để củng cố và tăng cường địa vị của mình. So với tổ chức của công xã nguyên thuỷ, tổ chức mới này khơng những có sự phát triển vượt bậc về lượng mà cái quan trọng hơn, là sự
quan chức hành chính, tồ án, nhà tù, quân đội, cảnh sát,...
để đàn áp những người lao động. Tổ chức mới này là nhà
Quá trình hình thành nhà nước có thể được tóm tắt bằng giản đồ sau:
Sự phát triển của lực lượng sản xuất > kinh tế phát triển và có sự phân cơng lao động xã hội — sự xuất hiện của cải dư thừa để dành và chế độ tư hữu —> sự hình thành các giai cấp — và mâu thuẫn giai cấp đối kháng khơng thé
điều hồ được nhà nước ra đời.
phương Đơng
Trên đây là quy luật hình thành nhà nước nói chung,
đặc biệt đó là thực tế ở phương Tây. Vấn đề này đã được
F. Engen đúc kết trong tác phẩm nổi tiếng "Nguồn gốc
của gia đình, của chế độ tu hữu và của Nhà nước". Ngày
nay, khi mà tài liệu về lịch sử phương Đơng cổ đại khơng
cịn hiếm, nhiều học giả nhìn nhận lại và thấy rằng con đường hình thành Nhà nước đầu tiên ở phương Đơng có
nước thường được hình thành ở lưu vực các con sông lớn. Điều kiện thiên nhiên đã chứa dung san trong đó hai mặt đối lập: ưu đãi và thử thách. Nên bất cứ một cộng đồng dân cư nào ở đây cũng phải tiến hành công cuộc trị thủy và thủy lợi. Do tính cấp bách thường xuyên, quy mô to lớn của công cuộc trị thuỷ, thủy lợi nên công xã nông thôn với chế độ sở hữu chung về ruộng đất được bảo tồn rất bền vững. Chế độ tư hữu về ruộng đất lúc đầu hầu như khơng
có va sau đó hình thành va phát triển rất chậm chap. C.
thức chiếm ưu thế), khơng có sở hữu mà chỉ có việc chiếm dung của cá nhân riêng lẻ, kẻ sở hữu thực tế, thực sự là cơng xã, do đó sở hữu chỉ tôn tại với tu cách là sở hữu
chung về ruộng đất mà thoi" Trong thư trao đổi giữa C.Mác và F.Engen, hai ơng cho rằng: "Việc khơng có chế độ tu hữu ruộng đất quả thật là chìa khố để hiểu tồn bộ phương Dong". Chiếc chìa khố đó giúp chúng ta lí giải
một thực tế lịch sử ở phương Dong: su phân hoá xã hội thành kẻ giầu người nghèo diễn ra rất chậm chạp, chưa
thật sâu sắc và mức độ phân hoá chưa cao lắm so với lịch
sử quá trình hình thành nhà nước ở phương Tây. Bởi vậy ở
phương Đơng, q trình hình thành, định tính và định hình
của các giai cấp cũng diễn ra chậm chạp và không sắc nét, mâu thuẫn giai cấp đối kháng phát triển chưa tới mức độ gay gắt và quyết liệt. Nhưng dù trong môi trường kinh tế
-xã hội mới như vậy, nhà nước đã phải ra đời. Chính cơng cuộc trị thủy - thủy lợi khơng chỉ là yếu tố duy trì chế độ
cơng hữu về ruộng đất, mà còn là một yếu tố thúc đẩy nhà
<small>(1), (2).Xem: C. Mác, F. Engen, V.I. Lênin, Bàn về các xã hội tién tu bản,sđd, tr. 88, 49.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">nước phải ra đời sớm. Trước đó tổ chức của công xã thị tộc, với quy mô tổ chức và hiệu lực của nó, khơng cịn đủ khả năng tổ chức công cuộc chống lũ lụt và tưới tiêu.
Đồng thời, nhu cầu tự vệ cũng là một yếu tố quan trọng
thúc đẩy sự ra đời sớm của nhà nước. Như vậy, nhân tố trị thủy - thủy lợi và tự vệ tuy bản thân chúng không thể sản sinh ra nhà nước, nhưng có thể thúc đẩy q trình hình
thành nhà nước trên cơ sở phân hố xã hội đã ở một mức
độ nào đó. Nhà nước ra đời sớm, sớm cả về mặt thời gian
và về mặt không gian, do điều kiện môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội đặc biệt của phương Đơng. Đó là đặc thù thứ nhất của con đường hình thành nhà nước ở phương
Trong hồn cảnh chế độ cơng hữu về ruộng đất, sự phân hoá giầu nghèo và mức độ mâu thuẫn giai cấp như
vậy, thì quyển lực nhà nước và tổ chức nhà nước được
hình thành như thế nào? Trước hết và chủ yếu là ở vai trò
của tầng lớp quý tộc thị tộc. Trong tác phẩm Chống
Duyrinh của F.Engen có một đoạn lí giải về vấn đề này:
"Ngay từ đầu trong mơi cơng xã đó, có một số lợi ích
chung nào đó mà việc gìn giữ thì phải trao cho những cá
nhân, tuy là có sự kiểm sốt của toàn thể: xét xử những vụ
tranh chấp, trừng phạt những kẻ lạm quyển, trơng nom các nguồn nưóc nhất là ở các xứ nóng, và sau cùng là những chức năng tơn giáo do tính chất ngun thuỷ và dã man của hoàn cảnh... Dĩ nhiên là những cá nhân đó có
một sự tồn quyền nào đó, và tiêu biểu cho những mâm
mong của quyền lực nhà nước. Dan dan lực lượng san xuất tăng thêm, dân số đông đúc hơn tạo ra ở đây là lợi ích chung, ở kia là sự xung đột về lợi ích giữa các cộng
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">đồng với nhau, và sự tập hợp những cộng đồng thành
những tập thể quan trọng hơn lại gây ra một sự phân công mới và việc thành lập những cơ quan mới để bảo vệ lợi ích
chung và chống lại những lợi ích đối kháng - Những cơ
quan đó, lúc bấy giờ với tu cách là đại biểu cho những lợi ích chung của tồn nhóm đã có đối với mỗi cộng đồng
riêng biệt một địa vị đặc biệt, đôi khi đối lập ngay với
chất độc lập cịn nhiều hơn nữa do việc kế thừa nhiệm vụ là việc tự nó thành một tục lệ trong cái thế giới mà mọi việc đều xảy ra theo tự nhiên, hoặc là do việc ngày càng
không thể nào bỏ được những cơ quan như thế khi mà
những xung đột với các nhóm khác ngày càng tăng thêm.
Như thế nào mà từ cái việc chuyển sang có địa vị độc lập đối với xã hội, thì với thời gian chức năng xã hội đã có thể
dân dân vươn lên thành sự thống trị đối với xã hội, như
thế nào mà hé ở đâu gặp thời cơ thuận lợi người đây tớ
ban đầu lại biến thành người chủ, như thế nào mà tùy theo hoàn cảnh, người chủ đó lại biến thành tên vua chuyên chế hay tên chúa tỉnh ở phương Đơng... trong chừng mực nào đó, cuối cùng cũng dùng đến cả bạo lực, như thế nào mà rồi sau cùng những cá nhân thống trị hợp lại thành một giai cấp thống tri... ở đây, điều quan trọng chi là
nhận thấy rằng, bất kì ở đâu, một chức năng xã hội cũng
là cơ sở của sự thống trị chính trị, và sự thống trị chính trị
cũng chỉ có thể ton tại được lâu chừng nào mà nó lam trịn chức năng xã hội đã giao phó cho nó".
<small>(1).Xem: F. Engen, Chống Duyrinh, Nxb. Su thật, Hà Nội, 1971, tr. 304 -305.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Như vậy, trong tất cả phạm vi các cộng đồng (thị tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc) tầng lớp quý tộc thị tộc lúc ban đầu vốn thực hiện "chức năng xã hội" đảm bảo lợi ích
chung của cả cộng đồng, rồi chuyển sang "dia vị độc lập
đối với xã hội" và cuối cùng "vươn lên thành sự thống trị đối với xã hội". Đó là con đường hình thành nhà nước của nhiều nước phương Đông. Đây là đặc thù thứ hai của con đường hình thành nhà nước ở phương Đông.
Pháp luật ra đời khi nhà nước xuất hiện. Xét về phương
diện khách quan, nhà nước và pháp luật phát sinh cùng
một nguồn gốc, khi mà chế độ tư hữu được xác lập, xã hội phân hoá thành các giai cấp đối kháng và mâu thuẫn giai
cấp đối kháng khơng thể điều hồ được. Xét về phương
diện chủ quan, pháp luật do nhà nước đề ra và trở thành
một phương tiện của nhà nước để bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống tri.
Pháp luật ra đời là một tất yếu khách quan. Trong các
tổ chức cộng đồng của công xã nguyên thủy, quan hệ giữa các thành viên được điều chỉnh bằng phong tục tập quán
và được mọi người tự nguyện chấp hành, khơng có sự
cưỡng chế bằng bộ máy bạo lực. Nhưng khi nhà nước xuất
hiện, phong tục tập quán, với bản chất của nó là theo
không phù hợp với việc bảo vệ địa vị, quyền lợi riêng của nhà nước, của giai cấp thống trị. Khi nhà nước được hình thành và quốc gia được thiết lập, các quan hệ xã hội phát
triển vượt bậc cả về bể rộng và bé sâu, cả về lượng và về chất, thì phong tục tập qn khơng cịn có thể điều chỉnh
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">được tất cả các quan hệ xã hội. Để đáp ứng nhu cầu khách
quan đó, một loại quy phạm xã hội hoàn toàn mới, khác
Vậy thực tế pháp luật được hình thành như thế nào?
pháp luật được hình thành bằng nhiều cách với những hình
thức khác nhau.
Trước tiên và phổ biến nhất trong buổi ban đầu là
nhiều phong tục tập quán được "nha nước hoá”, "luật pháp hoá" trở thành tập quán pháp. San những phong tục tập qn đã có từ ngàn xưa, chính quyền nhà nước sử dụng những phong tục, tập quán có lợi cho giai cấp thống
trị để điều hành xã hội và bằng biện pháp cưỡng chế. Có
những tập quán pháp tuy nhà nước khơng chính thức cơng nhận, nhưng được nhà nước mặc nhiên thừa nhận. Có những tập quán pháp được nhà nước đưa vào nội dung các
Độ cổ đại, bộ luật Ham mu ra bi của Lưỡng Hà cổ đại, bộ
luật La Mã. Như vậy có tập quán pháp không thành văn và
tập quán thành văn. Đặc biệt ở phương Đơng, cơng xã nơng thơn có tính tự trị rất cao và tồn tại bền vững, nên ở đây, tập quán pháp là lệ của công xã và giữ vai trò rất
quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, điển
Sự ra đời của pháp luật thành văn là sự tất yếu trong
quá trình hình thành và phát triển của pháp luật. Pháp
luật thành văn xuất hiện từ khi con người có chữ viết.
Theo tài liệu khảo cổ, chữ viết ra đời ở Ai Cập cách ngày
nay 7.000 năm. Chữ viết cũng ra đời rất sớm ở Trung Quốc (đời Hạ - Thương chữ viết đã xuất hiện). Pháp luật thành văn lúc đầu là những văn bản đơn hành, sau đó dần
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">dần từng bước được pháp điển hoá lại thành bộ luật. Pháp
luật thành văn ra đời ở những nơi kinh tế tự cung tự cấp
là chính, muộn và chậm phát triển vì ở những nơi này tập quán pháp có thể phát huy vai trị điều chỉnh quan hệ xã
hội. Ngược lại, ở những nước có sự xuất hiện và phát
triển của kinh tế hàng hoá, pháp luật thành văn thường được hình thành sớm và phát triển mạnh (đương nhiên một điều kiện không thể thiếu được là phải có chữ viết). Bởi vì tập qn pháp khơng thể đảm đương nổi việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội rất phong phú, sâu rộng và chặt chẽ mới nảy sinh trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Đó là những nước ở vùng Lưỡng Hà, Hy Lạp, La Mã. Khi xuất hiện ban đầu, luật pháp thành văn thường được ghi trên mai rùa, xương thú, thẻ tre, tấm đá, bảng đồng. Điều
này gây ra khơng ít khó khăn trong việc ghi chép, xây
dựng văn bản pháp luật. Cộng vào đó trong xã hội có rất ít người biết chữ, người biết chữ thường chỉ là những người trong đội ngũ quan chức. Sự ra đời của pháp luật thành
văn đánh dấu bước phát triển vô cùng quan trọng của luật pháp. Tuy nhiên lúc đầu sự hình thành và phát triển của
luật pháp thành văn gặp một số trở ngại không nhỏ như vậy. Và tập qn pháp vẫn có vai trị to lớn trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội.
Nhìn chung lại, từ cuối thiên niên kỉ thứ IV đến trước công nguyên, cư dân trên thế giới đã không giống nhau về
phương diện phát triển xã hội. Một mặt, có nhiều bộ lạc
quá độ bước vào thời đại kim khí và một bộ phận trong đó
bắt đầu phát sinh giai cấp, nhà nước và pháp luật. Mặt khác trên nhiều vùng của địa cầu đặc biệt là vùng rừng núi
thời kì ấy và mãi về sau này nữa vẫn còn là thời kì đồ đá
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">và chế độ công xã nguyên thủy chưa hề bị suy vong.
Sự ra đời của nhà nước và pháp luật là bước nhảy vọt
đầu tiên trong tiến trình phát triển của xã hội loài người,
đánh dấu bước khởi đầu của lịch sử nhà nước và pháp luật. Nhà nước và pháp luật đầu tiên trong lịch sử nhân loại là nhà nước và pháp luật chiếm hữu nơ lệ.
1. Trình bày các hình thức tổ chức của chế độ cơng xã
4. Trình bày q trình ra đời của pháp luật.
5. Phân tích những di tồn của thời kì cơng xã ngun
thủy đối với q trình phát triển của nhà nước và pháp luật
trên thế giới.
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">CHUONG I
Ai Cập nằm dọc theo lưu vực sông Nin ở vùng Đơng Bắc châu Phi. Song Nin có giá trị rất lớn đối với đời sống
<small>thành hai vùng rõ rệt là Thuong Ai Cập và Hạ Ai Cap.</small>
Cuối thiên niên kỉ IV trước công nguyên, nhà nước cổ
đại AI Cập đã ra đời. AI Cập là trung tâm văn minh sớm
nhất thế giới cổ đại.
Thời cổ, cư dân Ai Cập đã sớm khai thác vùng đồng bằng Sông Nin để trồng trọt. Người Ai Cập biết xây dựng những cơng trình thủy lợi từ rất sớm để tưới tiêu nước. Nghề thủ cơng, trong đó có nghề đúc đồng sớm phát triển
đã tạo ra khả năng lớn sản xuất những công cụ lao động
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">sắc bén phục vụ kinh tế nông nghiệp. Nghề chăn ni cũng đóng vai trị quan trọng trong kinh tế Ai Cập cổ. Các sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp đã được trao đổi giữa
các vùng ở Ai Cập và ngoài Ai Cập.
Từ thiên niên kỉ IV TCN, xã hội Ai Cập bắt đầu có sự
phân hố giàu - nghèo. Sự phân hoá này diễn ra chậm chạp. Ba giai cấp đã được hình thành trong xã hội gồm có: chủ nơ, nơ lệ và nơng dân công xã. Tầng lớp đông đảo nhất trong giai cấp chủ nô là tầng lớp quý tộc thị tộc. Sau đó là tầng lớp tăng lữ và những người giàu có khác.
No lệ ở Ai Cập vốn xuất thân từ những tù binh chiến tranh hoặc là những bình dân bị phá sản vì nợ. Nơ lệ khơng
được coi là người. Trong ngôn ngữ Ai Cập, từ nô lệ là Giét
(Jets) có nghĩa là đồ vật. Quan hệ nơ lệ mang nặng tính chất gia trưởng. Nơ lệ chủ yếu làm cơng việc hầu hạ trong gia đình chủ nơ, xây dựng đền đài và lăng mộ. Thân phận nô lệ hồn tồn thuộc quyền sở hữu của chủ nơ. Chủ nơ có
quyền bán, chuyển nhượng, trao tặng nơ lệ của mình.
Nơng dân cơng xã là những người lao động chủ yếu của xã hội. Thành phần của họ khác phức tạp. Có những người khá giả, có ruộng đất, súc vật, tư liệu sản xuất. Nhưng phần
lớn, họ là những người nghèo, có ít hoặc khơng có ruộng
đất, phải thuê ruộng đất của nhà nước để cày cấy. Nhà nước bóc lột họ bằng nhiều hình thức. Họ phải nộp thuế
ruộng đất theo diện tích canh tác và thuế súc vật. Cùng với
nô lệ, họ phải lao động khổ sai cho giai cấp chủ nô để xây
dựng các công trình của nhà nước và của vua. Ngồi ra, Ở Ai Cập cịn có tầng lớp thợ thủ cơng, số lượng khá đông,
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">họ xuất hiện do nhu cầu của sự phát triển kinh tế và yêu
cầu của những ngành xây dựng phục vụ giai cấp chủ nô.
Như vậy, trong xã hội Ai Cập cổ đại, kết cấu giai cấp
đã hồn chỉnh. Giai cấp bóc lột bao gồm chủ nô như vua, quan lại quý tộc, tăng lữ, người giàu có. Giai cấp bị bóc lột bao gồm nô lệ, nông dân công xã, thợ thủ công. Sự đối kháng giai cấp trong xã hội AI Cập ngày càng quyết liệt
giữa kẻ giàu và người nghèo. Trong hồn cảnh đó, tổ chức
thị tộc đã phải nhường chỗ cho sự ra đời của công xã nông thôn. Nhiều công xã nông thôn hợp thành một khu vực, người Ai Cập còn gọi là Xê Pa, còn các sử gia Hy Lạp gọi
là Nơm. Thời cổ, Ai Cập có hàng chục khu vực như thế.
Các Nôm hầu như biệt lập với nhau. Mỗi Nơm có thủ phủ,
ngơn ngữ địa phương, thờ thần và tổ chức quân đội riêng.
Đứng dau Nom là một thủ lĩnh. Một trong những nhiệm vụ
quan trọng của Nơm là quản lí nguồn nước và tổ chức, xây
dựng cơng trình thủy lợi. Như vậy, sự thành lập các Nơm là
một bước quan trọng trong q trình hình thành nhà nước.
Nơm, có thể gọi là tổ chức manh nha của Nhà nước Ai Cập cổ đại.
Cuối thiên niên kỉ IV TCN, trên cơ sở sự phát triển của
các giai cấp, của mâu thuẫn giai cấp, của nhu cầu trị thủy -thủy lợi, các Nôm dan dần hợp lại với nhau thành hai vương quốc riêng biệt, đó là nhà nước Thượng Ai Cập và nhà nước Hạ Ai Cập. Sự xuất hiện hai nhà nước này là mốc đánh dấu sự hình thành nhà nước ở Ai Cập.
Quá trình tồn tai hai vương quốc Thượng Ai Cập và Hạ
liệt giữa tập trung và chia cắt. Đến thời kì Tảo vương quốc
(nửa đầu thiên niên kỉ II TCN) xu hướng thống nhất đã
thắng thế. Hai vương quốc đó được hợp nhất thành một
Nhà nước Ai Cáp thống nhất.
Khi mới thống nhất, bộ máy nhà nước Ai Cập còn đơn giản. Đứng đầu bộ máy nhà nước là vua (cịn gọi là Pha ra ơng) Pha ra ông là người có nhiều tài sản nhất, có quyền lực cao nhất và được thần thánh hoá. Bên cạnh vua là hàng ngũ quan lại cao cấp ở triều đình giúp vua điều hành các
[nh vực hành chính, tài chính, tư pháp, quân sự v.v..
Cả nước chia thành nhiều Châu, đứng đầu Châu là Châu
thành bộ máy chính quyền ở cơng xã
Như vậy, ngay từ khi Ai Cập được thống nhất, Nhà
nước đã là chính thể quân chủ chuyên chế.
bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế mà thôi.
Pha ra ông nắm mọi quyền lực nhà nước, vua là chủ sở
hữu ruộng đất của cả nước và trực tiếp lập ra nhiều điền trang ở Ai Cập. Hầu như khơng có sự phân biệt giữa tài sản của vua và tài sản của nhà nước. Quyền lực tuyệt đối cao nhất về kinh tế là cơ sở cho quyền lực tuyệt đối về chính trị của nhà vua. Hệ thống quan lại ở trung ương và địa phương
<small>(1). Tảo vương quốc và Cổ vương quốc - 2 giai đoạn đầu của lịch sử Ai Cập)</small>
<small>thuộc nửa đầu thiên niên kỉ III trước công nguyên.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">do Pha ra ông nắm giữ. Vua có quyền bổ nhiệm, bãi miễn,
trừng phạt bất cứ ai và có quyền quyết định mọi cơng việc quan trọng của đất nước. Vua được thần thành hoá là “vi
thân vĩ dai”, “Vi than cao quý”. Sau khi vua chết, việc thần thánh hố vua cịn thể hiện bằng sự uy nghi, hùng vĩ của
kim tự tháp (nơi lưu giữ xác ướp của vua) và còn Xpanh
bằng đá lớn mình sư tử, mặt người tượng trưng cho uy
quyền của vua.
Người trực tiếp giúp vua cai quản bộ máy quan lại là một viên quan cao nhất gọi là Vi Di A. Quyền hạn của Vi
Di A rất lớn, nắm hầu hết các chức năng quan trọng của
nhà nước như tư pháp, thuế, thủy lợi, hành chính... Vidia
thường là con vua.
Nhưng đôi khi, Vi Di A cũng không nắm hết quyền han
đó, bởi vi trong các ngành hành chính, tư pháp, tài chính của triều đình đều có khá nhiều quan lại khác, thường là những người trong hoàng tộc đảm nhiệm.
Trong hàng ngũ quan lại, châu trưởng đóng vai trò quan
trọng, đứng đầu các châu ở địa phương. Nhằm ngăn chặn tệ cát cứ, các châu trưởng do Pharaông bổ nhiệm và họ
thường bị điều điều động từ châu này sang châu khác.
Tổ chức toà án và tố tụng ngay từ đầu đã khá hoàn chỉnh để đáp ứng yêu cầu củng cố chính quyền của giai
cấp chủ nô. Vua là người xét xử cao nhất. Cơ quan chuyên môn xét xử gồm 6 viện, đứng đầu là một viên chưởng lí. Một số người trong tang lớp tăng lữ làm quan tư pháp. Những thủ tục xử án rất phức tạp nên tồ án có rất nhiều nhân viên lập hồ sơ bản án. Những người phạm pháp phải chịu nhiều hình phạt, thường là tịch thu tài sản và bị đánh
đòn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Quân đội là công cụ thống trị quan trọng nhất của nhà
nước. Viên Tổng chi huy quân đội là người họ hàng của
nhà vua. Các sĩ quan cao cấp và những cơ quan đầu não của quân đội đều trực thuộc vua và độc lập với cơ quan dân
sự. Viên quan cao cấp nhất của triều đình khơng được nắm
quyền chỉ huy bộ binh vì vua khơng muốn viên quan này
có quyền lực quá lớn. Vũ khí, quân lương của quân đội đều
do một số quan lại quản lí, đứng đầu là một viên quan cao cấp.
Tôn giáo là công cụ thống tri tinh than ở Ai Cập. Cũng
như các nhà nước phương Đông cổ đại khác, tầng lớp tăng
lữ ở AI Cập đóng vai trị quan trọng trong bộ máy nhà nước. Các chức vụ tăng lữ cao cấp đều do các viên đại thần
nắm giữ, thường họ là bà con thân thích của vua. Tăng lữ
có nhiệm vụ thần thánh hố nhà vua, củng cố, đề cao uy tín của giai cấp chủ nô đối với quần chúng bị áp bức bóc lột.
Như vậy, giai cấp thống trị chủ nơ Ai Cập đã kết hợp
chặt chẽ giữa vương quyền với thần quyền để đàn áp bóc
lột giai cấp bi tri.
xu hướng tập trung và xu hướng cát cứ. Tức là giữa nhà
nước trung ương tập quyền, đại diện là Pha ra ơng với chính quyền địa phương của các châu trưởng. Nhìn chung,
xu hướng trung ương tập quyền thắng thế và được bảo tồn.
Thời kì Tân vương quốc (thế ki XVI đến thế ki XII
TCN) Ai cập trở thành một trong số ít quốc gia phát triển rực rỡ nhất của thế giới cổ đại. Cũng từ đây, các Pha ra ông đã đẩy mạnh các cuộc chiến tranh xâm lược nhiều nơi như
Xi ri, Palétxitin, Li Bi v.v..
Sau thời kì Tân vương quốc, Ai Cap bị suy yếu dần, sau
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">đó lần lượt bị đế quốc Babilon, đế quốc Ba Tư, Hy Lạp thống tri. Năm 31 TCN, Ai Cập bi sáp nhập vào đế quốc La
Về pháp luật, cho đến nay, các sử gia Ai Cập và nước
ngoài vẫn chưa phát hiện được một bộ luật nào của nhà
Lưỡng Hà, đúng như tên gọi của nó, nằm ở lưu vực hai con sơng Tigơrơ và Ophrat. Vị trí đó gồm chủ yếu lãnh thổ cua Iran và lrắc hiện nay. Nếu như Ai Cập cổ đại, gần như bị cô lập giữa biển và sa mạc, chỉ có mỗi con đường Đơng
kinh tế, chính trị, văn hoá và trở thành một trong những
trung tâm văn minh của thế giới cổ đại.
Cũng giống như Ai Cập cổ đại, ở vùng Lưỡng Hà các quốc gia cổ đại được hình thành từ rất sớm, gần như đồng thời với nhà nước Ai Cập cổ đại.
Cuối thiên niên kỉ IV TCN, nghề nông ở Lưỡng Hà đã
rất phát triển nhờ vào hệ thống các cơng trình thủy lợi. Đầu
thiên niên ki thứ II] TCN, trong kinh tế nông nghiệp, cư
dan đã biết sử dụng công cụ sản xuất bằng đồng. Giữa thiên niên kỉ HI TCN, đồ sắt đã xuất hiện. Đặc biệt ở Lưỡng Hà, sự trao đổi hàng hố đã có từ rất sớm và kinh tế
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">hang hoá phát triển mạnh mẽ.
Trên cơ sở nên kinh tế phát triển, xã hội xuất hiện sự phân hố sâu sắc. Nhiều gia đình giàu, có thế lực (như quý
tộc thị tộc, tăng lữ) hợp thành tập đồn người có sức mạnh
chi phối các cơ quan của bộ lạc như hội nghị nhân dân, hội
nghị nguyên lão, đại hội thân binh theo hướng có lợi cho mình.
Chiến tranh là nguồn cung cấp nơ lệ chủ yếu, quan hệ nô lệ ở Lưỡng Hà cũng mang tính chất gia trưởng. Nơng dân cơng xã là tang lớp đông đảo nhất trong xã hội. Giai
cấp thống trị thơng qua các cơ quan quản lí cơng xã để bóc
lột các thành viên cơng xã.
Cùng với tiến trình phát triển của sự phân hoá giai cấp,
từ đầu thiên niên kỉ II] TCN ở Lưỡng Hà đã xuất hiện nhiều quốc gia nhỏ ở Miền Nam như: Eridu, Ua, Umma, Lagát, Urúc... Đứng đầu mỗi quốc gia nhỏ gọi là Vua (còn gọi là Patéxi). Giúp việc cho nhà vua có viên quan cao cấp nhất, quản lí cơng việc thủy lợi, đất đai, kho tàng. Ngồi ra cịn có một số quan lại trơng coi các việc bn bán, thuế khố, qn sự. Cơng xã nơng thơn tuy vẫn tồn tại, nhưng đã bị biến thành bộ máy thống tri cấp cơ sở.
Sự ra đời và tồn tại nhiều quốc gia - nhà nước riêng biệt chứng tỏ nhà nưóc đã được định hình ở Lưỡng Hà.
Để hợp nhất các quốc gia riêng lẻ thành một quốc gia,
một nhà nước tập quyền chuyên chế duy nhất, ở Lưỡng Hà đã diễn ra cuộc đấu tranh thơn tính lẫn nhau giữa các quốc
người Xê mít) đã trở lên một quốc gia hùng mạnh, từng bước thống nhất được cả Lưỡng Hà.
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Từ năm 2132 - năm 2024, quyền thống trị Lưỡng Hà
chuyển vào tay vương triều thứ III của vương quốc Ua. Sự thống nhất Lưỡng Hà được củng cố. Trên thực tế, quyền
lực của các Patêxi bị thủ tiêu, họ trở thành các quan lại ở
địa phương, chịu sử bổ nhiệm của vua, con cháu Patêxi
khơng cịn được quyền thế tập cha.
Vào những năm cuối cùng của thiên niên ki III TCN, Lưỡng Hà lại bị phân hố thành những quốc gia nhỏ. Cuối cùng người Amợrít của vương quốc Babilon đã thống nhất
lại được Lưỡng Hà một cách vững chắc nhất. Sau khi vương quốc cổ Babilon bị diệt vong, Lưỡng Hà liên tiếp bị
các tộc người bên ngồi thống trị gần 1000 năm. Cuối cùng, nhà nước Tân Babilon khơi phục được quyền thống trị cả LuGng Hà trong gần một thé kỉ (626 - 538 TCN).
Năm 538 TCN Lưỡng Hà bị đế quốc Ba Tư thơn tính.
Cổ Babilon vốn là một quốc gia nhỏ, phát triển muộn, nằm ở vùng Bắc Lưỡng Hà. Nhưng do vị trí địa lí thuận lợi
của mình, là nơi gặp gỡ của nhiều đường giao thơng thủy
thành trung tâm thống nhất và củng cố nền thống nhất ở
<small>Lưỡng Hà.</small>
Vương cổ quốc Babilon tồn tại trong vịng 300 năm (1894 - 1595 TCN). Đây cịn là thời kì phát triển rực rỡ
nhất của Lưỡng Hà. Triều đại vua Hammurabi là thời kì
hưng thịnh nhất quốc gia Babilon. Vua Hămmurabi đã
thiết lập bộ máy chính quyên của một nhà nưĩc trung ương
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">tập quyền chuyên chế. Tổ chức nhà nước Babilon đồ sô, quy củ nhất trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại.
Mọi quyền lực nhà nước tập trung vào tay vua. Nhà vua là người có quyền sở hữu ruộng đất tối cao nhất. Mọi hoạt động của vua đều được thần thánh hoá, vua thay mặt thần thống trị nhân dân. Hammurabi đã tuyên bố: “Ta, Hammurabi, một mục su duoc thần Enlin lựa chọn, kẻ nối
dối các đế vương do thân Xin tao ra. Mác đúc” gọi ta lên
cai trị nhân dân và mang đến cho đất nước cuộc đời hạnh
Hammurabi chia Lưỡng Hà thành hai khu vực chính.
phương, tuy vẫn cịn hội đồng trưởng lão, nhưng hoạt động
của nó bị đặt dưới quyền kiểm soát của tổng đốc. Quan lại ở các địa phương có nhiệm vụ thu thuế của công xã, bắt dân đi xây dựng đền đài, cung điện cho vua, đào đắp kênh
nhiệm vụ hành chính và tài chính như trên, cịn có nhiệm
vụ kiểm soát những viên chức làm việc trong các điển
trang của nhà vua.
Hội đồng công xã tuy vẫn tồn tại, nhưng nhà nước đã cử quan lại về cai trị tận các công xã. Mặc dù lúc này, công xã nông thôn đã bị chế độ tư hữu tài sản làm cho rạn nứt, nhưng nó vẫn được coi là đơn vị kinh tế - xã hội mà nhà
nước quân chủ chuyên chế dựa vào đó để thống trị nhân
<small>(1). Mác đúc: Vi thần cao nhất Lưỡng Hà.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Nhà nước lập ra các cơ quan tư pháp chuyên trách. Hội
đồng xét xử gồm các bơ lão có uy tín trong vùng. Các
phiên tồ tối cao của triều đình do vua điều khiển.
Nhà nước rất chú ý đến việc phát triển quân đội vì quân
đội hùng mạnh đã giúp Hammurabi chính phục tồn Lưỡng
Hà và giữ vững chính quyền của mình. Binh lính được ban cấp ruộng đất và có khi cả súc vật, nhưng họ chỉ được sử
dụng, khơng được bán hoặc chuyển nhượng các tài sản đó.
Những người trốn lính bị trừng phạt rất nặng, hoặc binh lính trốn khơng ra trận hay nhờ người khác đi hộ, sẽ bị tội chết.
Nhà nước Babilon không những thể hiện rõ chức năng
cướp bóc nhân dân dân trong và ngồi nước, mà cịn rất chú ý tới chức nang trị thủy - thủy lợi. Hammurabi rất quan
tâm đến việc xây dựng, tu bổ, quản lí hệ thống thủy nơng.
Sau khi lên cầm quyền được 9 năm, ông đã đào một con
kênh lớn mang tên: “Hammurabi - sự giàu cớ” Hammurabi
rất tự hào về những cơng trình thủy lợi của mình khơng
kém gi những chiến cơng qn sự trên chiến trường.
Việc trông coi nguồn nước và phân phối nước không chỉ là cơng việc của Nhà nước mà cịn là trách nhiệm của các công xã. Nhà nước quy định cho các địa phương phải tìm mọi cách đưa nước tưới cho đồng ruộng, nhất là ruộng của nhà vua cho nơng dân lĩnh canh. Nhờ có hệ thống tưới
tiêu tốt, nghề trồng trọt ở Lưỡng Hà rất phát triển.
<small>của nhà nước, pháp luật đã ra đời và trở thành công cụ bảo vệ</small>
luật này được gọi theo tên cua nhà vua Hammurabi thuộc
<small>trong Bộ luật.</small>
<small>bộ luật của thành Esơnume (TK XX TCN); phong tục tap</small>
<small>Các nhà làm luật mặc dù chưa có ý niệm phân chia thành</small>
các ngành luật như luật hiện đại: luật dân sự, luật hình sự...
<small>hiện trên những lĩnh vực sau:</small>
<small>làm nảy sinh những quan hệ có tính phức tạp. Do đó, bộ luật</small>
Ngồi những hàng hố thơng thường được đem ra trao
<small>(1). 1 mine = 0,7g bac.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">văn bản (khê ước). Tuy nhiên, bộ luật không quy định cụ thê hình thức cũng như nội dung cụ thê của các loại hợp đông này. Như vậy, với việc đưa ra các điêu kiện trên cũng như việc quy định quyên và nghĩa vụ các bên chứng tỏ tư tưởng tiên bộ của các nhà lập pháp Lưỡng Hà. Những quy định này tạo điêu kiện thuận lợi cho các bên tham gia vào quan hệ
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>sinh sau này.</small>
những quy định chung như sau:
<small>các bên tham gia.</small>
2. Những quy định trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình
a. Quan hệ hơn nhân
<small>người đàn ông và người đàn bà.</small>
<small>- Ly hơn:</small>
<small>pháp lí thủ tiêu quan hệ đó.</small>
<small>* Hậu quả của việc ly hôn</small>
<small>* Tai hôn</small>
b. Quan hệ gia đình
<small>Nói tới gia đình có nghĩa là nói tới các quan hệ giữa các</small>
<small>làm luật Lưỡng Hà cịn cho phép người phụ nữ trong gia</small>
<small>hai bên.</small>
<small>- Nghĩa vụ chung thuỷ:</small>
trưởng được thừa nhận nên nghĩa vụ chung thuỷ được đặt ra
<small>* Quan hệ nhân thân giữa cha mẹ và con cái</small>
<small>trách nhiệm ni dưỡng đứa bé”.</small>
<small>- Con cái phải có nghĩa vụ vâng lời và phụng dưỡng ơng</small>
<small>chặt tay.</small>
</div>