Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Thẩm Quyền Trong Tths.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.48 MB, 18 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>THẨM QUYỀN TRONG TTHS2. Căn cứ xác định thẩm quyền trong TTHS</b>

<i>* Căn cứ vào quy định của BLHS: xác định thẩm quyền phải trên cơ sở quyđịnh của BLHS về phân loại tội phạm.</i>

- Có nhiều cách phân loại tội phạm:

+ Theo tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, loại hình phạt và mức hình phạt 4 loại tội.

+ Theo loại khách thể: 14 loại (14 chương)

 <i>Căn cứ xác định thẩm quyền trong TTHS thì căn cứ vào các quy định củaBLTTHS về thẩm quyền:</i>

- Thẩm quyền tiếp nhận nguồn tin. - Thẩm quyền giải quyết nguồn tin.

- Thẩm quyền xem xét lại Quyết định của HĐ TPTANDTC (Điều 411) - Thẩm quyền đưa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành.  <i>Căn cứ vào dấu hiệu của vụ án cụ thể:</i>

- Dấu hiệu thể hiện tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi: + Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại;

+ Tính chất của hành vi khách quan như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn,…

+ Mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội bị xâm hại;

+ Tính chất mức độ lỗi.

+ Động cơ, mục đích của người thực hiện hành vi + Hồn cảnh chính trị xã hội lúc và nơi xảy ra hành vi; + Nhân thân của người thực hiện hành vi;

+ Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ khác,…

- Dấu hiệu thể hiện tính chất phức tạp của vụ việc, vụ án phức tạp khi: + Có nhiều NBBT, nhiều đương sự, lý lịch căn cước không rõ ràng. + Phạm nhiều tội, đồng phạm, có người phạm tội khác có liên quan.

+ Có NBBT hoặc đương sự là người nước ngoài đang ở nước ngoài, tài liệu chứng cứ ở nước ngoài cần tương trợ tư pháp.

- Dấu hiệu thể hiện địa điểm:

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

+ Nơi xảy ra tội phạm: thuộc đơn vị hành chính nào, khu vực quân sự, khu vực thiết quân luật, trên tàu bay, tàu biển khi đã rời sân bay, bến cảng, phạm tội ở nước ngoài,…

+ Nơi bị bắt

+ Nơi phát hiện tội phạm

+ Nơi cư trú: khi phạm tội trong nước, khi phạm tội ở nước ngoài. + Địa điểm khác.

- Dấu hiệu liên quan đến người phạm tội:

+ Quân nhân và những người thuộc quản lý của quân đội. + Người dưới 18 tuổi.

+ Người thuộc cơ quan tư pháp

+ Cán bộ chủ chốt ở cấp hiện, người có chức sắc cao trong tơn giáo, trong dân tộc ít người.

+ Người nước ngồi

+ Người khơng xác định được nơi cư trú.  <i>Ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền:</i>

- Là căn cứ pháp lý để các cơ quan THTT thực hiện chức năng nhiệm vụ. - Tránh tình trạng chồng lặp về thẩm quyền.

- Tránh tình trạng đùn đẩy công việc giữa các cơ quan. - Là căn cứ để giải quyết tranh chấp về thẩm quyền - Là căn cứ để xác định tình trạng lạm quyền

- Là căn cứ để cá nhân, cơ quan, tổ chức khiếu nại, tố cáo nếu hành vi, quyết định tố tụng sai thẩm quyền.

- Là căn cứ để xem xét việc hủy án để điều tra, xét xử lại,..

- Đảm bảo cho việc tiến hành tố tụng của chủ thể nhanh chóng, kịp thời, có hiệu quả. Đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ của TTHS.

- Hạn chế việc phải chuyển vụ án, hủy án do sai về thẩm quyền, kéo dài thời gian và tốn phí vật chất.

- Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho những người tham gia tố tụng. - Góp phần đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền và thực hiện chính

sách của Đảng, nhà nước.

- Góp phần đảm bảo ổn định xã hội, đáp ứng yêu cầu của XH đối với hoạt động tư pháp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>THẨM QUYỀN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA, TRUY TỐ1. Thẩm quyền khởi tố vụ án Hình sự:</b>

<i>- Thẩm quyền nội dung:</i>

+ Thẩm quyền của chủ thể được định đoạt, quyết định đối với vấn đề, vụ việc pháp lý mà mình được giải quyết.

<i>- Thẩm quyền về hình thức:</i>

+ Là quyền của chủ thể được xác định, xem xét giải quyết vấn đề, vụ việc pháp lý nhất định trong phạm vị và giới hạn nhất định.

- Các căn cứ quy định thẩm quyền khởi tố: + Mơ hình TT (thiên về mơ hình thẩm vấn)

+ Căn cứ chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của từng ngành, từng lực lượng.

+ Căn cứ vào tình hình tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. + Căn cứ vào năng lực tổ chức và khả năng tiến hành TT của người tiến hành

+ Căn cứ vào yêu cầu bảo đảm quyền con người trong TTHS. 1.1.Quy định của PLHS Việt Nam về thẩm quyền khởi tố vụ án Hình sự:

 Thẩm quyền khởi tố vụ án của CQĐT, CQ khác có thẩm quyền điều tra (Đ153)

- Cơ quan điều tra khởi tố vụ án

+ Tất cả các vụ việc có dấu hiệu TP trừ những vụ việc đang được thụ lý, giải quyết bởi cơ quan khác.

- Thẩm quyền khởi tố vụ án HS của VKS (Đ153)

+ Khi hủy quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT và các cơ quan khác có quyền điều tra.

+ Khi VKS trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc HĐXX yêu cầu khởi tố vụ án.

+ VKS trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố. - Thầm quyền khởi tố vụ án HS của HĐXX (K4-DD153): + Các chức năng không phù hợp

+ Thời gian tại phiên tịa ngắn khơng phù hợp + Giao lại cho VKS điều tra

1.2.Thẩm quyền về nội dung:

- Tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, phục hồi giải quyết (Điều 148, 149)

- Ra quyết định khởi tố vụ án (Điều 154)

- Thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án (Điều 156)

+ Thay đổi: khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng hành vi phạm tội đã xảy ra.

+ Bổ sung: khi có căn cứ xác định còn tội phạm khác chưa bị khởi tố. - Căn cứ không khởi tố vụ án (Điều 157)

+ Từ K1 -> K2 vẫn xét xử -> tuyên vô tội

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

+ Từ K3 -> K8 là đình chỉ giải quyết vụ án tại giai đoạn trước khi xét xử vụ án.

<b>2.Thẩm quyền điều tra:</b>

Các căn cứ xác định thẩm quyền điều tra - Căn cứ vào quy định của BLTTHS - Căn cứ vào dấu hiệu của từng vụ án cụ thể

- Căn cứ vào thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân các cấp. 2.1. Thẩm quyền về hình thức:

- Thẩm quyền điều tra theo ngành (Điều 163):

+ CQĐT trong CAND: Tất cả các tội phạm trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền của CQĐT trong Quân đội ND và CQĐT của VKSNDTC.

+ CQĐT trong QĐND: TP thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự + CQĐT của VKSND TC: Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, TP về

tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của BLHS xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc CQĐT, VKS, VKS, cơ quan thi hành án.

- Thẩm quyền điều tra theo lãnh thổ (Khoản 4-Điều 163) - Thẩm quyền điều tra theo cấp (khoản 5 – Điều 163)

- Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 164)

- Các trường hợp chuyển vụ án (Điều 169) 2.2. Thẩm quyền về nội dung:

- Tạm đình chỉ điều tra (Điều 229) + ……

+ Lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh nhưng đã hết thời hạn điều tra. - Kết thúc điều tra (Điều 232)

+ Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra. . Đề nghị truy tố (Đ233)

Khi có chứng cứ chứng minh bị can thực hiện hành vi phạm tội.

Bản KLĐT trình bày hành vi, nêu ra chứng cứ, ý kiến, đề xuất, lý do và căn cứ truy tố.

. Đình chỉ điều tra (Điều 230)

Căn cứ: Điều 157, k2 Điều 155 BLTTHS; Điều 16, 29, K2 Điều 91 BLHS; hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can thực hiện hành vi phạm tội.

Ghi rõ lý do, căn cứ đình chỉ điều tra.

+ QĐ phục hồi ĐT nếu có lý do để hủy QĐ TĐC hoặc ĐCĐT. Trong 2 ngày gửi cho VKS, BC, NBC, thông báo cho bị hại, đương sự, người BVQLĐS

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

- Quyết định truy tố (Điều 243) 3.2. Thẩm quyền về nội dung:

- Nguyên tắc tùy nghi truy tố:

+ Tạm đình chỉ vụ án để áp dụng thủ tục hòa giải + Tạm đình chỉ việc truy tố có điều kiện, đình chỉ vụ án

+ Đình chỉ vụ án hoặc khởi tố theo yêu cầu bị hại do bị can đã hợp tác + Áp dụng biện pháp mặc cả thú tội

+ Ra cáo trạng truy tố bị can trước tòa. - Nguyên tắc truy tố bắt buộc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

- Theo hướng có lợi cho bị cáo

+ Miễn TNHS hoặc hình phạt, khơng áp dụng hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp.

+ Áp dụng điều khoản nhẹ hơn. + Giảm hình phạt, giảm mức BTTH + Chuyển loại hình phạt nhẹ hơn. + Cho hưởng án treo

Điều kiện: khi có kháng cáo, kháng nghị/có thể ngồi kháng cáo/kháng nghị

- Theo hướng bất lợi cho bị cáo

+ Về hình sự: Áp dụng điều khoản nặng hơn, áp dụng hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp; tăng hình phạt, chuyển hình phạt nặng hơn, khơng cho hưởng án treo. Điều kiện về hình sự: VKS kháng nghị, người bị hại kháng cáo yêu cầu tăng.

+ Về Dân sự: Tăng mức BTTH. Điều kiện: VKS kháng nghị, người bị hại và nguyên đơn dân sự kháng cáo yêu cầu tăng.

(K2- Điều 357 chưa thống nhất với Điều 331 về người có quyền kháng cáo, cụ thể khơng có K5-Điều 331)

<b> Hủy Bản án ST để điều tra lại hoặc xét xử lại Điều 358:</b>

- Hủy để điều tra lại.

+ Căn cứ: Bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để xử theo tội danh nặng hơn. Việc điều tra không đầy đủ mà không bổ sung được. Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố.

+ Thủ tục: Ra quyết định, ghi rõ lý do hủy trong 15 ngày từ ngày hủy phải chuyển hồ sơ cho VKS cùng cấp ST.

- Hủy để xét xử lại:

+ Căn cứ: Thành phần HĐXX không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong xét xử. Người được tuyên vô tội nhưng có căn cứ cho rằng họ có tội (cho bị cáo có quyền kháng cáo một lần -> đảm bảo quyền của bị cáo đối với bản án kết tội mình vì Bản án phúc thẩm có hiệu lực ngay). Miễn TNHS, HP, áp dụng biện pháp tư pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

khơng có căn cứ. Sai lầm nghiêm trọng trong xét xử nhưng không thuộc trường hợp sửa.

+ Thủ tục: Ra quyết định ghi rõ lý do hủy. Trong thời hạn 15 ngày từ ngày hủy phải chuyển hồ sơ cho tòa án cấp sơ thẩm.

<b> Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án (Điều 359)</b>

- Nếu có căn cứ quy định tại điểm 1,2 – Điều 157 thì hủy bản án sơ thẩm, tun bị cáo vơ tội, đình chỉ vụ án.

<i>Điều 298 BLTTHS 2015 quy định: “1. Tòa án xét xử những bị cáo và nhữnghành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụán ra xét xử.</i>

<i>2. Tịa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đãtruy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội màViện kiểm sát đã truy tố.</i>

<i>3. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Việnkiểm sát truy tố thì Tịa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõlý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Việnkiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tịa án có quyền xét xử bị cáo về tộidanh nặng hơn đó.”</i>

Khoản 1 Điều 298 đã quy định giới hạn xét xử sơ thẩm của Tòa án về đối tượng và về hành vi được đưa ra xét xử. Chỉ những bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố bằng bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố mới bị Tịa án đưa ra xét xử. Trong q trình nghiên cứu hồ sơ vụ án hoặc tại phiên tòa, nếu Tịa án nhận thấy có dấu hiệu bỏ bỏ lọt tội phạm thì Tịa án cũng khơng được đưa người đó ra xét xử mà chỉ có thể trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung với căn cứ quy

<i>định tại điểm c Điều 280 BLTTHS “Có căn cứ cho rằng cịn có đồng phạmkhác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tộiphạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can”.</i>

Đối với hành vi được đưa ra xét xử và xét xử tại phiên tịa thì cũng phải đảm bảo giới hạn theo truy tố của VKS để phù hợp với nguyên tắc một hành được đưa ra xét xử khi hành hành vi đó đã được khởi tố, điều tra, truy tố theo đúng thẩm quyền. Như vậy, một hành vi chưa điều tra, truy tố thì cũng khơng thể bị Tịa án kết án mặc dù các tài liệu, chứng cứ có trong vụ án cũng như kết quả thẩm vấn tại phiên tòa cho thấy hành vi đó đã thỏa mãn với tội danh đó.

Quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 298 là quy định mới, được xem là điểm sáng của BLTTHS 2015 khi đã trao thẩm quyền cho Tịa án có thể chủ động hơn trong việc xét xử khi xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tịa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tịa án có quyền xét xử bị cáo về

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

tội danh nặng hơn đó. Khi quy định này mới được thơng qua cũng có quan điểm cho rằng quy định này vi phạm nguyên tắc về đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo cũng như nguyên tắc về một hành vi chỉ được xét xử khi đã được khởi tố, điều tra và truy tố.

Theo tác giả, quy định này là hoàn toàn phù hợp, trao quyền chủ động và cũng gắn với trách nhiêm thực hiện quyền “tư pháp” của Tòa án bởi lẽ, như khoản 1

<i>đã nêu “Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Việnkiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.” Tức là những</i>

hành vi này và những bị cáo này đã được khởi tố, điều tra, truy tố. Vấn đề ở đây là quan điểm định tội danh đối với những hành vi này mà những bị cáo đã thực hiện. Cũng là hành vi đó với những những bị cáo đó nhưng cách nhìn nhận và đánh giá chứng cứ khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và quyền quyết định cuối cùng thuộc về Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Hồn tồn khơng vi phạm vấn đề giới hạn xét xử theo đối tượng và theo hành vi.

Tuy nhiên, việc Tòa án cấp sơ thẩm được phép xét xử bị cáo nặng hơn về tội danh mà VKS đã truy tố có thể dẫn đến vượt quá thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm. Đó là trường hợp Tịa án nhân cấp huyện hoặc Tòa án quân sự cấp quân khu đang là Tòa án xét xử sơ thẩm đối với bị cáo bị cáo bị VKS truy tố về tội ít nghiêm trọng; nghiêm trọng; rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo thuộc vào khoản nặng hơn hoặc tội nặng hơn mà VKS đã truy tố và tội nặng đó lại thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ khơng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện và Tòa án quân sự cấp khu vực theo quy định tại Điều 268 BLTTHS 2015. Hơn nữa việc xét xử loại tội đặc biệt nghiêm trọng cũng dẫn đến sự thay đổi rất nhiều về thủ tục tố tụng như sự thay đổi về thành phần Hội đồng xét xử (Điều 254 BLTTHS 2015) và việc chỉ định người bào chữa. Trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển vụ án theo quy định tại Điều 274 BLTTHS 2015.

Kiến nghị đối với giới hạn xét xử ST:

Điều 298 quy định về giới hạn xét xử chưa quy định cách giải quyết cụ thể đối với vấn đề này. Theo tác giả, nên bổ sung khoản 3 Điều 298 theo hướng như

<i>sau: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Việnkiểm sát truy tố thì Tịa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõlý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Việnkiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tịa án có quyền xét xử bị cáo về tộidanh nặng hơn đó; trường hợp Tịa án cấp sơ thẩm xét thấy tội danh cần xét</i>

xử vượt quá thẩm quyền xét xử thì chuyển vụ án”

<b>2.Sự ảnh hưởng của giới hạn xét xử sơ thẩm đến thẩm quyền của Tòa áncấp phúc thẩm</b>

Trên cơ sở giới hạn xét xử sơ thẩm, thì việc thực hiện thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm (HĐXXPT) cũng bị ảnh hưởng bởi vì bản chất của xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị. Hiện nay, khơng có điều luật nào quy định về sự phụ thuộc của giới hạn xét xử phúc thẩm

<i>theo giới hạn xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 330 thì: “Xét xửphúc thẩm là việc Tịa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lựcpháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Theo đó, đối tượng của xét xử phúc</i>

thẩm chính là vụ án đã được xét xử sơ thẩm mà bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật lại phát sinh kháng cáo, kháng nghị.

Trên cơ sở giới hạn xét xử theo chủ thể, Toà án cấp phúc thẩm chỉ được xét xử đối với những bị cáo mà VKS truy tố và Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đưa ra xét xử. Trên cơ sở giới hạn xét xử theo sự việc, Toà án cấp phúc thẩm chỉ được xét xử đối với những hành vi mà viện kiểm sát truy tố và Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đưa ra xét xử. Nếu Tồ án cấp phúc thẩm căn cứ vào tình tiết mới, sửa bản án sơ thẩm đối với chủ thể và hành vi mà viện kiểm sát không truy tố và Toà án cấp sơ thẩm chưa đưa ra xét xử thì khơng bảo đảm ngun tắc hai cấp xét xử. Cấp xét xử bị tước bỏ chính là cấp sơ thẩm vì bản án phúc thẩm là chung thẩm; bị cáo, bị hại và đương sự khơng có quyền kháng cáo bản án phúc thẩm. Việc Toà án cấp phúc thẩm áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn chỉ được coi là phù hợp giới hạn xét xử sơ thẩm nếu tội danh nặng hơn đó đã được viện kiểm sát viện dẫn để truy tố mà tồ án cấp sơ thẩm khơng áp dụng để xét xử.

Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành không quy định trực tiếp, cụ thể phạm vi thẩm quyền của toà án cấp phúc thẩm trong giới hạn xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, căn cứ vào nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm và tính chất của xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 27 và Điều 330 BLTTHS năm 2015, Toà án cấp phúc thẩm “xét xử lại vụ án” chứ không xét xử vụ án lần thứ hai, vì vậy khơng được chấp nhận tình tiết mới ngoài giới hạn xét xử sơ thẩm để sửa bản án sơ thẩm. Ví dụ: Viện kiểm sát chỉ truy tố bị can về hành vi 1 lần mua bán trái phép chất ma tuý; Toà án cấp sơ thẩm kết án bị cáo theo khoản 1 Điều 251 BLHS năm 2015; nếu có tình tiết mới cho thấy bị cáo thực hiện hành vi nhiều lần mua bán trái phép chất ma t thì Tồ án cấp phúc thẩm cũng không được sửa bản án sơ thẩm, áp dụng tình tiết định khung tăng nặng phạm tội 2 lần trở lên đối với bị cáo theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015. Trường hợp này, Toà án cấp phúc thẩm phải hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 358 BLTTHS (có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm).

Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự chưa quy định cụ thể vấn đề giới hạn xét xử về vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Khơng giống như các cơ quan tiến hành tố tụng khác, thẩm quyền của Tòa án chỉ phát sinh trên cơ sở “đơn hàng” của các chủ thể khác. Đối với vụ án hình sự là “cáo trạng” của VKS cịn đối với quan hệ dân sự là “đơn khởi kiện” của nguyên đơn. Chỉ khi có các sự kiện pháp lý đó thì Tịa án mới có cơ sở thực hiện các quyền của mình theo quy định. Đối với việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề hình sự sẽ được giới hạn bởi những đối tượng

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

và hành vi mà Viện kiểm sát truy tố. Tuy nhiên, vấn đề dân sự cũng sẽ được Tịa án giải quyết trong vụ án hình sự trên cơ sở yêu cầu của các đương sự và chịu án phí theo quy định. Trong trường hợp vấn đề dân sự được giải quyết cùng với việc giải quyết vụ án hình sự theo quy định tại Điều 30 BLTTHS thì vấn đề đặt ra giới hạn trong phạm vi yêu cầu của các đương sự để giải quyết vấn đề dân sự là cần thiết. Nếu như Tòa án xét xử vượt quá yêu cầu này là vi phạm nguyên tắc tự định đoạt của đương sự.

Mặt khác, cơ sở phát sinh thẩm quyền của HĐXXPT đối với bản án hình sự sơ thẩm là kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, thẩm quyền cịn được mở rộng ra những phần khác của bản án sơ thẩm khơng có kháng cáo, kháng nghị, thậm chí mở rộng xem xét toàn bộ nội dung nếu Hội đồng xét xử thấy đó là cần thiết và khơng vi phạm ngun tắc <i>“khơng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo”</i>. Ngoại lệ được ghi nhận trong trường hợp HĐXXPT được xem xét lại những quyết định của cấp sơ thẩm là

<i>quy định tại khoản 3 Điều 357 BLTTHS: “Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xétxử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều này chonhững bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.” Tức là</i>

HĐXXPT chỉ được xem xét những vấn đề ngoài phạm vi kháng cáo, kháng nghị khi vấn đề đó có lợi cho bị cáo (khoản 1 Điều 357). Như vậy, có thể thấy thẩm quyền của HĐXXPT bị giới hạn bởi phạm vi của kháng cáo, kháng nghị. Giả sử trường hợp, bị cáo Nguyễn Văn A bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội trộm cắp tài sản của nhà anh Trần C vào ngày 2/3/2019. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, bị hại kháng cáo đề nghị áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần” vì trước đó A đã có hai lần trộm cắp tài sản của C. Trường hợp này mặc dù có căn cứ để sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng nặng hình phạt đối với C vì có kháng cáo theo hướng tăng nặng. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, những lần phạm tội trước đó chưa được điều tra, truy tố nên nếu HĐXXPT chấp nhận kháng cáo sẽ vượt quá giới hạn xét xử sơ thẩm.Trường hợp này, nếu có căn cứ thì chỉ có thể kiến nghị với chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Như vậy, dù kháng cáo, kháng nghị hợp lệ, không vi phạm quy định của pháp luật nhưng nếu vượt quá thẩm quyền xét xử sơ thẩm thì cũng khơng được chấp nhận.

Từ những phân tích, tác giả kiến nghị sửa đổi quy định của pháp luật về giới hạn xét xử phúc thẩm như sau:

<i>Thứ nhất, bổ sung quy định về giới hạn xét xử ván đề dân sự trong vụ án hình sự</i>

theo hướng như sau: “Trong vụ án hình sự Tịa án chỉ xem xét, vấn đề dân sự chỉ được Tòa án xem xét, giải quyết đối với sự việc và chủ thể theo được các bên yêu cầu”

</div>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×