Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

bài kiểm tra điều kiện học phần pháp luật về chính quyền địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 11 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ NỘI VỤ</b>

<b>HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIAKHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT</b>

<b>BÀI KIỂM TRA ĐIỀU KIỆN</b>

Họ tên: Phạm Ngọc Long

Mã sinh viên: 1905QTNC034 ( song bằng Luật) Học phần: Pháp luật về chính quyền địa phương Giảng viên: Nguyễn Thị Nhàn

Hà Nội,ngày 16/9/2023

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>PHẦN NỘI DUNG</b>

<b>I.PHÂN TÍCH VAI TRỊ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG GIAIĐOẠN HIỆN NAY</b>

Vai trị của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay được thể hiện như sau: Chính quyền địa phương góp phần gánh vác cơng việc của chính quyền trung ương, giúp giảm tải cơng việc của chính quyền trung ương. Nhà nước hiện đại có xu hướng can thiệp vào mọi mặt của đời sống xã hội. Với định hướng xây dựng XHCN, Nhà nước Việt Nam cũng có xu hướng như vậy. Có thể thấy sự can thiệp của nhà nước vào các lĩnh vực từ kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục, lao động, mơi trường, báo chí... thậm chí cả các lĩnh vực mang tính xã hội hóa cao như văn hóa, văn nghệ, thể thao. Nếu các cơ quan nhà nước ở trung ương quyết định mọi vấn đề trong mọi lĩnh vực thì sẽ trở nên quá tải và khơng hiệu quả. Khi chính quyền địa phương thực hiện chức năng tự quản có nghĩa là một số vấn đề trong một số lĩnh vực có phạm vi tác động ở địa phương sẽ được phân quyền cho chính quyền địa phương quyết định và tổ chức thực hiện theo cơ chế tự chịu trách nhiệm. Nhờ vậy, các cơ quan nhà nước ở trung ương giảm tải được công việc để tập trung nguồn lực vào các vấn đề chính sách ở tầm quốc gia.

Chính quyền địa phương là thiết chế bảo đảm tính hiện thực và thực thi có hiệu quả chủ trương, chính sách, pháp luật của trung ương trong thực tiễn. Như trên đã đề cập, khi thực hiện chức năng chấp hành, chính quyền địa phương các cấp tạo thành mạng lưới cơ quan chấp hành chính của các cơ quan nhà nước ở trung ương, đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương. Ví dụ, khi Chính phủ đã trình Quốc hội thơng qua Luật đầu tư chứa đựng nhiều chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư về quyền sử dụng đất, về thủ tục hành chính v.v. thì nhà đầu tư chỉ có thể thực sự hưởng những ưu đãi đó khi chính quyền địa phương cấp tỉnh tương ứng thực sự thực thi luật. Nói cách khác, chính sách, pháp luật của trung ương song vấn đề thi hành lại nằm ở địa phương. Nếu khơng có hành động hiệu quả của chính quyền địa phương thì pháp luật và các chính sách chủ yếu của trung ương dù hay đến mấy cũng chỉ nằm trên giấy. Bộ máy hành chính nhà nước có hiệu quả hay khơng cũng phần lớn do hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương. Câu nói “trên trải thảm, dưới trải đinh”

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

mặc dù mang hàm ý chỉ trích song phần nào thể hiện được tầm quan trọng của chính quyền địa phương trong việc thực thi pháp luật, chính sách của cấp trên.

Khi quyết định và tổ chức thi hành quyết định về các vấn đề của địa phương, chính quyền địa phương bảo đảm sự can thiệp của Nhà nước đáp ứng tốt nhất và phù hợp nhất với điều kiện, hoàn cảnh của địa phương. Điều này dễ hiểu bởi lẽ chính quyền địa phương là do nhân dân địa phương thành lập nên với những đại diện của chính người dân địa phương, do đó, các quan chức làm việc trong chính quyền địa phương là những người am hiểu nhất điều kiện, hoàn cảnh của địa phương. Các quyết định của chính quyền địa phương đưa ra sẽ có khả năng phù hợp cao hơn với điều kiện của địa phương và do đó có hiệu quả tốt hơn, tránh được tình trạng quan liêu trong điều hành cơng việc nhà nước ở địa phương.

Chính quyền địa phương đóng vai trị quyết định cho sự phát triển đa dạng của địa phương, qua đó đóng góp vào sự thịnh vượng bền vững chung của đất nước. Neu phát huy tốt chức năng tự quản của mình, mỗi chính quyền địa phương sẽ là một thiết chế nhà nước có trách nhiệm với sự phát triển của địa phương. Quan chức trong chính quyền địa phương sẽ phải tìm mọi cách phát huy lợi thế cạnh tranh của địa phương mình. Mỗi địa phương sẽ phát triển theo cách riêng với thế mạnh riêng. Kết quả là sự thịnh vượng của quốc gia sẽ mang tính ổn định và bền vững cao do có nền tảng đa dạng và vững chắc từ sự phát triển của các địa phương.

Chính quyền địa phương là cơ chế hữu hiệu để người dân địa phương tham gia vào công việc nhà nước ở địa phương, qua đó vừa bảo đảm vừa nâng cao dân chủ ở địa phương. Một học giả đã nói “Chính quyền địa phương là việc tổ chức quản lí các cơng việc của người dân địa phương bởi chính người dân địa phương”. Khi tham gia vào chính quyền địa phương, người dân vừa làm quen với cơng việc chính trị ở địa phương vừa rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm để có thể sau này gánh vác trách nhiệm chính trị ở cấp cao hơn.

Cuối cùng,vừa là thiết chế chính trị của nhân dân địa phương song đối với người dân ở địa phương chính quyền địa phương cũng là hình ảnh trực tiếp nhất của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chính quyền địa phương, đặc biệt là chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính cấp cơ sở - cấp xã, là cơ quan nhà nước tiếp xúc với người dân nhiều

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

nhất trong cuộc sống hàng ngày. Có thể nói nhiều người dân khơng có những cơ hội tiếp xúc với các cơ quan nhà nước ở trung ương như các Bộ hay thậm chí các cục, vụ của Bộ. Tuy nhiên, họ lại ln có thể tiếp xúc với các cán bộ cơ sở, từ chủ tịch xã, phường tới cán bộ tư pháp xã, phường, công an xã, phường trong cuộc sống hàng ngày. Đối với người dân, chính quyền địa phương chính là sự hiện diện của Nhà nước. Ấn tượng tốt hay xấu về chính quyền địa phương, thơng qua các cán bộ, cơng chức của chính quyền địa phương, là yếu tố chủ yếu quyết định hình ảnh của Nhà nước trong suy nghĩ của mỗi người dân.

<b>II.NHẬN XÉT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG THEOQUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH</b>

Theo Hiến pháp năm 2013, chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính, cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định. Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.

Điều 111 Hiến pháp năm 2013 quy định “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; “Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”. Căn cứ quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã có những quy định mới về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp. Theo đó, chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính là cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND), trừ trường hợp Quốc hội quy định không phải là cấp chính quyền địa phương đối với quận, phường, đơn vị hanh chính cấp xã thuộc cấp huyện ở hải đảo và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền địa phương được quy định theo từng loại đơn vị hành chính.

Về hoạt động của chính quyền địa phương theo quy định pháp luật hiện hành,hoạt động của Hội đồng nhân dân (HĐND) được quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) như sau:

Kỳ họp HĐND (Điều 78,81) Tổ chức BM (Điều 83, 84)

Ban hành NQ, đề án, báo cáo (Điều 85) Giám sát; tiếp xúc cử tri, tiếp dân,.. (Điều 87, 95)

Hoạt động lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm, chấn vấn...( Điều 88, 89) Hoạt động của Thường trực HĐND

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Hoạt động của các Ban của HĐND Hoạt động của Đại biểu HĐND Hoạt động của Tổ đại biểu HĐND

Hoạt động của Uỷ ban nhân dân (UBND) được quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) như sau:

Phiên họp của Uỷ ban nhân dân (Điều 113) Hoạt động của Chủ tịch UBND (Điều 114,115, 121) Hoạt động của Phó Chủ tịch UBND (Điều 122) Hoạt động của các Ủy viên (Điểu 123) Hoạt động của các CQCM (TV của UBND) Đối thoại của Uỷ ban nhân dân xã (Điều 125)

Thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), trong nhiệm kỳ 2016-2021 vừa qua và nhiệm kỳ 2021-2026 hiện nay, chính quyền địa phương các cấp ngày càng hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu quản lý và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; bộ máy chính quyền các cấp ở đơ thị, nơng thơn, hải đảo từng bước được đổi mới trên cơ sở quy định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay còn bộc lộ những hạn chế, bất cập do nhiều nguyên nhân về tổ chức đơn vị hành hành chính, về trình độ phát triển kinh tế - xã hội và các yếu tố đặc thù của từng loại đơn vị hành chính.Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để đổi mới tổ chức và hoạt động của đơn vị hành chính là nhiệm vụ quan trọng, nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn quản lý nhà nước ở địa phương.

Thực trạng về hoạt động của chính quyền địa phương theo quy định của pháp luật hiện hành:

*Về thành tựu đạt được

Thứ nhất, về tổ chức đơn vị hành chính

Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị và căn cứ quy định của pháp luật về sắp xếp, thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính, trong giai đoạn 2019-2021, cả nước đã giảm được 08 đơn vị hành chính cấp huyện và 561 đơn vị hành chính cấp xã, nhiều đơ thị được hình thành, đầu tư phát triển mở rộng cả về quy mơ và chất lượng. Tính đến tháng 12/2021, nước ta có 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh (gồm 05 thành phố trực thuộc Trung ương và 58 tỉnh), 705 đơn vị hành chính cấp huyện (gồm 01 thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, 80 thành phố thuộc tỉnh, 50 thị xã, 46 quận và 528 huyện) và 10.599 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 1.723 phường, 612 thị trấn và 8.264 xã).

Thứ hai, về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Trong nhiệm kỳ 2016-2021, chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính (được tổ chức có HĐND và UBND) là cấp chính quyền địa phương, làm việc và hoạt động theo chế độ tập thể. Từ đầu nhiệm kỳ 2021-2026, thực hiện Luật Tổ chức chính quyền địa phương và 03 Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức mơ hình chính quyền đơ thị tại thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh thì phường thuộc thành phố Hà Nội và quận, phường thuộc Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng khơng tổ chức HĐND; chính quyền địa phương ở nơi khơng tổ chức HĐND là UBND, làm việc và hoạt động theo chế độ cơng vụ của cơng chức. Theo đó, bước đầu đã có những đổi mới về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng phân biệt đô thị và nông thôn.

Thứ ba, về phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương

Luâ {t Tổ chức chính quyền địa phương đã quy định 06 nguyên tắc phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Trong đó, xác định rõ việc phân quyền cho mỗi cấp chính quyền địa phương phải được quy định bằng luâ {t, đồng thời các luật chuyên ngành phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể mà chính quyền địa phương khơng được phân cấp, ủy quyền cho cơ quan nhà nước cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác; việc phân cấp phải bằng văn bản quy phạm pháp luật và việc ủy quyền phải thể hiện bằng văn bản. Từ những nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp, phân quyền, chính quyền địa phương các cấp có căn cứ pháp lý để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội ở địa phương. Phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể UBND và Chủ tịch UBND theo hướng tăng thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch UBND trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của UBND chủ tịch UBND và trong việc đình chỉ chức vụ đối với UBND cấp dưới trực tiếp.

Thứ tư, về cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân

Đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 được bầu theo đúng quy định, giảm về số lượng, đặc biệt giảm đại biểu công tác trong các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương để tăng đại biểu hoạt động chuyên trách; chất lượng và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đại biểu HĐND được nâng cao so với nhiệm kỳ trước.

Cơ cấu tổ chức của UBND gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên (ở cả 3 cấp đều có Ủy viên phụ trách quân sự và Ủy viên phụ trách công an; ở cấp tỉnh, cấp huyện bao gồm những người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuô {c UBND cùng cấp), bảo đảm nguyên tắc làm việc tập thể của UBND, tạo điều kiện thực hiện việc giám sát của HĐND và lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên UBND, (tại những nơi không tổ chức HĐND theo Nghị quyết của Quốc hội thì UBND đã được kiện toàn cơ cấu tổ chức theo quy định và hoạt động từ ngày 01/7/2021). Thứ năm, về thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Việc ban hành các nghị quyết của HĐND bảo đảm quy trình, thủ tục luật định, đã chú trọng hơn việc lấy ý kiến nhân dân địa phương và các chuyên gia. Chất lượng kỳ họp và nghị quyết được tăng lên cả về chất lượng và số lượng, đã mang lại hiê {u quả tích cực trong việc giải

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

quyết những vấn đề quan trọng của địa phương. Hoạt động tiếp xúc cử tri và tiếp nhận đơn tố cáo, kiến nghị của công dân trước các kỳ họp HĐND được thực hiện ngày càng tốt hơn.

UBND các cấp đã thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng là cơ quan chấp hành của HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (nơi khơng tổ chức HĐND thì UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương), khắc phục các khó khăn, thách thức, tận dụng tốt các thời cơ để tập trung công tác chỉ đạo, điều hành; có sự phân định trách nhiệm của cá nhân và tập thể UBND, trong đó đề cao vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch UBND.

*Về một số hạn chế,bất cập

Một là, về tổ chức và số lượng đơn vị hành chính

Đánh giá theo quy định của Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH thì tính đến tháng 12/2021 chỉ có 14/63 đơn vị hành chính cấp tỉnh (chiếm 22,22%), 124/705 đơn vị hành chính cấp huyện (chiếm 17,59%) và 1.963/10.599 đơn vị hành chính cấp xã (chiếm 18,52%) đạt đủ cả 02 tiêu chuẩn về quy mơ dân số và diện tích tự nhiên. Số đơn vị hành chính có quy mơ diện tích nhỏ, dân số ít cịn nhiều, dẫn đến đầu tư dàn trải và khó khăn trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế ở các cấp chính quyền địa phương.

Hai là, về mơ hình tổ chức chính quyền địa phương

Ngồi việc thực hiện tổ chức mơ hình chính quyền đơ thị ở 03 thành phố (Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh) thì chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính cịn lại đều là cấp chính quyền địa phương (có HĐND và UBND) là chưa có sự phân biệt với đặc điểm nơng thơn, đơ thị, hải đảo. Mơ hình chính quyền đô thị tại 03 thành phố mới triển khai thực hiện chưa đủ thời gian để tổng kết đánh giá và trong quá trình thực hiện đã phát sinh một số hạn chế, bất cập so với yêu cầu của thực tiễn.

Ba là, về phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương

Phân quyền, phân cấp vẫn chủ yếu “từ trên xuống” theo cấp chính quyền; chưa phù hợp với vị trí, vai trị của từng cấp chính quyền và đặc thù của từng loại chính quyền nơng thơn, đơ thị, hải đảo; chưa gắn với cải cách thủ tục hành chính, vẫn cịn cơ chế kiểm sốt của cấp trên qua các hình thức như báo cáo, xin ý kiến đối với các vấn đề đã phân quyền, phân cấp; cơ chế kiểm soát quyền lực chưa được hoàn thiện đồng bộ với yêu cầu đẩy mạnh phân quyền, phân cấp.

Bốn là, về vị trí, vai trị và hoạt động của chính quyền địa phương

Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã quy định vị trí, vai trị và hoạt động của chính quyền địa phương phải bảo đảm tính thơng suốt của nền hành chính trong thể chế của nhà nước đơn nhất. Tuy nhiên, trong cơ chế cấp ủy địa phương cùng cấp lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

bàn thì cần phải tiếp tục làm rõ vị trí, vai trị, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoạt động của HĐND và UBND.

Vị trí, vai trị, trách nhiệm và hoạt động của các ủy viên với tư cách là thành viên UBND chưa rõ ràng; chế độ làm việc tập thể của UBND kết hợp với trách nhiệm của Chủ tịch UBND nếu thực hiện không tốt dẫn đến tình trạng phải họp nhiều, gây lãng phí thời gian, khơng rõ trách nhiệm của từng thành viên UBND và không kịp thời giải quyết những việc có tính cấp bách, cần thiết.

Năm là, về phát huy dân chủ và giám sát của người dân

Trong việc thực hiện bỏ phiếu cịn có việc người dân chưa thực sự quan tâm tìm hiểu về thơng tin của các đại biểu; một số yêu cầu, kiến nghị của cử tri gửi đến các cơ quan có thẩm quyền chưa được giải quyết dứt điểm; tình trạng để vụ việc tồn đọng vẫn cịn kéo dài; việc đơn đốc, theo dõi kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cử tri ở một số địa phương còn chưa kịp thời.

*Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập

Những hạn chế, bất cập nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó, có những nguyên nhân chủ yếu sau:

Quá trình hình thành và phát triển của các đơn vị hành chính ở nước ta trải qua nhiều thời kỳ, mang nhiều yếu tố đặc thù về lịch sử, phong tục, tập quán, điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội;

Việc chậm xây dựng quy hoạch tổng thể về đơn vị hành chính các cấp cũng gây khó khăn cho công tác tổ chức phân định đơn vị hành chính các cấp làm cơ sở để tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính cho phù hợp;

Nhiều địa phương vẫn khó khăn phải phụ thuộc vào ngân sách Trung ương để phát triển kinh tế - xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức, hoạt động và phân quyền, phân cấp của chính quyền địa phương trên địa bàn;

Đội ngũ cán bộ, công chức và đại biểu HĐND các cấp đã từng bước được nâng cao về chất lượng, tuy nhiên năng lực thực tiễn và trình độ cịn chưa đồng đều, chưa thực sự ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và quản trị chính quyền địa phương hiện đại, văn minh và hội nhập quốc tế.

*Đề xuất giải pháp

Thứ nhất,đổi mới hoạt động của chính quyền địa phương

Đối với đơn vị hành chính tổ chức cấp chính quyền địa phương (có HĐND và UBND), cần hồn thiện nguyên tắc hoạt động theo chế độ tập thể UBND theo hướng làm rõ trách nhiệm của người đứng đầu và của từng thành viên UBND, trong đó ủy viên UBND là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND được quyết định các công việc thuộc thẩm quyền của UBND với tư cách là thành viên UBND để khắc phục tính hình thức trong hoạt động của chức danh ủy

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

viên UBND hiện nay. Ở đơn vị hành chính khơng tổ chức HĐND thì các thành viên UBND do Chủ tịch UBND cấp trên bổ nhiệm, hoạt động theo chế độ công vụ của công chức.

Quy định cụ thể, rõ ràng các nhiệm vụ, quyền hạn và quy trình giám sát của HĐND và các cơ quan của HĐND, đại biểu HĐND, đặc biệt là chế tài xử lý kết quả thực hiện các kiến nghị của các chủ thể giám sát đối với các cá nhân, tổ chức và cơ quan chịu sự giám sát; thực hiện công khai, minh bạch các hoạt động giám sát; phát huy dân chủ và giám sát của người dân; tăng cường sự tham gia của người dân, phát huy quyền làm chủ trực tiếp của người dân và vai trò tự quản của cộng đồng dân cư trên địa bàn. Xác định rõ nội dung và phạm vi trách nhiệm các lĩnh vực cơng việc do chính quyền cơ sở quản lý và tổ chức thực hiện; những cơng việc chính quyền cơ sở giao cho thơn, tổ dân phố để triển khai thực hiện; đồng thời xây dựng và nhân rộng các mơ hình tổ chức tự quản theo các lĩnh vực ở thôn, tổ dân phố cho phù hợp.

Thứ hai,đề cao vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương

Tiếp tục hoàn thiện thể chế về phân quyền, phân cấp giữa các cấp chính quyền từ Trung ương đến từng cấp chính quyền địa phương theo hướng đề cao vai trị tự chủ, tự chịu trách nhiệm, phát huy chủ động, sáng tạo, hiệu quả trong hoạt động quản lý của từng cấp chính quyền địa phương; đa dạng về mơ hình tổ chức và tinh gọn về bộ máy của các cấp chính quyền địa phương, làm rõ từng vị trí việc làm ở từng cấp chính quyền địa phương để phân công lao động hợp lý và tinh giản biên chế.

Thứ ba,xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số và đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chuyển đổi số

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng công nghệ thông minh, kết nối và vận hành thông suốt các phần mềm quản lý tác nghiệp để từng bước mở rộng việc cung ứng các loại hình dịch vụ cơng tại địa phương. Theo đó, trách nhiệm của chính quyền cấp tỉnh phải ban hành kịp thời các quy định và hỗ trợ việc xây dựng, phát triển chính quyền số các cấp trên địa bàn.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế về tuyển dụng công chức ở địa phương theo hướng đề cao trách nhiệm của người sử dụng, thực hiện nguyên tắc cạnh tranh và sử dụng công nghệ thông tin trong tuyển dụng; đồng thời ban hành chính sách thu hút, trọng dụng người có tài năng làm việc tại địa phương.

Hồn thiện việc xây dựng vị trí việc làm, bản mô tả công việc và khung năng lực của từng vị trí việc làm để làm cơ sở cho việc tuyển chọn, bố trí, sắp xếp và đánh giá cán bộ, công chức công khai, minh bạch, công bằng, tạo động lực phấn đấu trong việc thực thi nhiệm vụ.

Phân biệt rõ giữa việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đối với “cán bộ” (người được bầu) và công chức chuyên môn, nghiệp vụ; nghiên cứu quy định cụ thể về tiêu chuẩn đối với cán bộ mỗi cấp, có chính sách nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức ở địa phương, nhất là cấp cơ sở để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

</div>

×