Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

tên đề tài mô hình chính quyền đô thị quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 29 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

<b>KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH </b>

<b>TÊN ĐỀ TÀI : MƠ HÌNH CHÍNH QUYỀN ĐƠ THỊ: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀTHỰC TIỄN ÁP DỤNG</b>

<b>BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN </b>

<b>Học phần: Pháp luật về chính quyền địa phươngMã phách:……….</b>

<b>Hà Nội – 2022</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

1. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền đơ thị……….11

2. Thực trạng pháp luật về chính quyền đơ thị………12

3. Một số bất cập trong quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền đơ thị……….13

4. Tổ chức chính quyền đơ thị qua các thời kỳ hiến pháp………...15

<b>CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN CHÍNH QUYỀN ĐƠ THỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY………20</b>

1. Những kết quả tích cực đã đạt được………20

2. Một số hạn chế khi triển khai, thực hiện mơ hình chính quyền đơ thị hiện nay…….21

3.Một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện đối với mơ hình chính quyền đơ thị ở Việt Nam………22

4. Kiến nghị một số giải pháp để chính quyền đơ thị hoạt động hiệu quả……...23

<b>KẾT LUẬN………26</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tài</b>

Q trình đơ thị hóa ở nước ta đang diễn ra với quy mô lớn và tốc độ nhanh, nên việc xây dựng chính quyền đơ thị là địi hỏi tất yếu. Xây dựng chính quyền đơ thị là một yêu cầu khách quan, nhằm làm tinh gọn, minh bạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả của chính quyền ở địa phương, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phân cấp, ủy quyền trên nhiều lĩnh vực nhằm phát huy mọi năng lực, tiềm năng của đô thị để phục vụ người dân, doanh nghiệp tốt hơn; để phù hợp với các đặc điểm của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và các điều kiện tự nhiên của đô thị, nhằm quản lý đô thị hiệu quả cao và mang đầy đủ đặc điểm cơ bản của chính quyền địa phương.

Xây dựng chính quyền đơ thị là nội dung quan trọng và khó trong quá trình cải cách hành chính ở Việt Nam. Hiện tại, mơ hình tổ chức chính quyền địa phương (bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân) ở các đơ thị cịn có nhiều ý kiến khác nhau, vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu về tổ chức chính quyền đơ thị phù hợp để phục vụ nhu cầu phát triển và đáp ứng quyền lợi của người dân tại đô thị hiện nay là hết sức cần thiết. Do đó, tơi xin lựa chọn đề tài: “Mơ hình chính quyền đơ thị: Quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng” với mong muốn góp phần làm rõ hơn quy định pháp luật về mơ hình chính quyền đơ thị và thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

<b>2. Nhiệm vụ nghiên cứu</b>

<b> Tìm hiểu và khái quát quy định pháp luật về mơ hình chính quyền đơ thị.</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Đánh giá thực trạng tổ chức chính quyền đơ thị ở Việt Nam, phân tích ưu điểm và hạn chế.

Đề xuất phương hướng đổi mới hiệu quả chính quyền đô thị ở nước ta hiện nay.

<b>3. Mục tiêu nghiên cứu</b>

Thơng qua phân tích cơ sở lí luận- thực tiễn và xác định yêu cầu xây dựng và hồn thiện mơ hình tổ chức chính quyền đơ thị hiện nay ở Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp phù hợp để đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền đơ thị nhằm góp phần xây dựng và hồn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>

Trên cở sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bài luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, so sánh… kết hợp lịch sử, xã hội học.

<b>5. Bố cục đề tài</b>

Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài luận gồm có 3 chương

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>CHƯƠNG 1: ĐƠ THỊ VÀ MƠ HÌNH CHÍNH QUYỀN ĐƠ THỊ1. Đơ thị</b>

1.1. Khái niệm và đặc điểm của đô thị

Theo quy định tại Điều 3, Luật Quy hoạch đô thị 2009, “Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ rất cao, lực lượng sản xuất tập trung cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chun ngành, có vai trị thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội cả quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố: nội thị, ngoại thị của thị xã, thị trấn”.

Đô thị có những đặc điểm cơ bản sau đây:

- Về vị trí, vai trị: Các đơ thị trung tâm chính trị, trung tâm kinh tế hoặc trung tâm văn hóa, giáo dục, khoa học – kỹ thuật, đầu mối giao thông quan trọng…của cả nước, khu vực, một tỉnh, một huyện; là động lực cho sự phát triển đối với địa phương, vùng, miền đó hoặc cả nước.

- Về dân cư: Đô thị là nơi tập trung dân cư với mật độ cao, được hình thành từ nhiều nguồn với những yếu tố văn hóa, xã hội, tâm lý, tập quán rất khác nhau, không có sự gắn kết chặt chẽ như các vùng nơng thơn, khơng có sự phân biệt cụ thể giữa quận này với quận khác, phường này với phường khác.

- Về cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng ở đô thị (đường giao thông, hệ thống điện, cấp thốt nước, thơng tin liên lạc, giao thơng cơng cộng, cây xanh…) có tính thống nhất, liên thơng và phức tạp tạo thành những mạng lưới, hệ thống đồng bộ, xuyên suốt địa bàn thành phố, không phụ thuộc vào địa giới hành chính, đặc biệt là ở các quận, phường trung tâm, địi hỏi có sự quản lý tập trung, thống nhất trên toàn địa bàn.

- Về kinh tế - xã hội: Ở khu vực nội thành, nội thị, kinh tế chủ yếu là phi nơng nghiệp, đa ngành, đa lĩnh vực, có tốc độ phát triển cao; các hoạt động kinh doanh phát triển mạnh. Các hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại dịch vụ không bị ràng buộc bởi những ranh giới hành chính trong nội bộ (đơ thị, quận, phường) mà có sự đan xen, gắn kết chặt chẽ với nhau trong phạm vi tồn đơ thị.

- Về địa giới hành chính: Cơ sở hạ tầng ở đô thị là một chỉnh thể thống nhất nên việc phân chia địa giới hành chính trong khu vực nội thành, nội thị chỉ ý nghĩa là khu vực hành chính, mang tính chất quản lý hành chính là chủ yếu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

- Về văn hóa – xã hội: Các hoạt động văn hóa – xã hội ở đô thị không bị giới hạn theo từng địa bàn quận, phường thường khơng có những tập quán, truyền thống, lễ nghi riêng biệt, mà nếu có thì chỉ có những nét đặc thù của từng đô thị. Cuộc sống của dân cư đô thị và khu vực nơng thơn đang đơ thị hóa hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường; những nhu yếu phẩm cần cho cuộc sống hàng ngày chủ yếu do thị trường cung cấp.

- Về quản lý: Các vấn đề an ninh và trật tự an toàn xã hội thường đa dạng, phức tạp có thể diễn ra trên quy mơ cả đơ thị hoặc có thể ở một số địa điểm, khu vực dân cư nào đó nhưng khơng phải theo ranh giới các đơn vị hành chính quận, phường riêng rẽ như ở các huyện, xã vùng nông thôn. Các vấn đề về nhà ở, xây dựng, cấp – thốt nước, giao thơng, bảo vệ môi trường, an ninh công cộng thường là những vấn đề bức xúc hàng ngày trong quản lý nhà nước ở đô thị.

Đô thị vẫn là một khu vực cần được quản lý theo cộng đồng và cộng đồng tự quản. Tự quản cần hiểu là trao quyền cho cộng đồng đô thị và họ tự trao lại quyền lực cho người đại diện trực tiếp nhưng có cơ chế chế ước và giám sát quyền lực. Tất nhiên, đơ thị có những đặc thù nhưng nó vẫn là một tổ chức xã hội đã thích ứng với khu vực đặc thù đó.

Đơ thị Việt Nam có đặc điểm trong đơ thị vừa có đơn vị hành chính nơng thơn, vừa có đơn vị hành chính đơ thị và ngược lại, có các đơ thị trực thuộc đơn vị hành chính nơng thơn.

1.2. Quy định pháp luật về đô thị

<b> Theo Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05.10.2001 của Chính phủ về việc phân</b>

loại đơ thị và cấp quản lí đơ thị thì đơ thị là các điểm dân cư có các yếu tố cơ bản: 1) Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chun ngành, có vai trị thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định;

2) Quy mô dân số ít nhất là 4.000 người;

3) Tỉ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động tối thiểu là 65%; 4) Cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn quy định đối với từng loại đô thị;

5) Mật độ dân cư phù hợp với quy mơ, tính chất và đặc điểm của từng loại đơ thị. Hiện nay, theo Nghị định của Chính phủ số 42/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 về việc phân loại đơ thị thì các tiêu chuẩn cơ bản để phân loại đô thị được xem xét,

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

đánh giá trên cơ sở hiện trạng phát triển đô thị tại năm trước liền kề năm lập đề án phân loại đô thị hoặc tại thời điểm lập đề án phân loại đô thị, bao gồm:

+ Chức năng đô thị là trung tâm tổng họp hoặc trung tâm chuyên ngành, cấp quốc gia, cấp vùng liên tỉnh, cấp tỉnh, cấp huyện hoặc là một trung tâm của vùng trong tỉnh; có vai trị thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định.

+ Quy mơ dân số tồn đơ thị tối thiểu phải đạt 4 nghìn người trở lên.

+ Mật độ dân số phù họp với quy mơ, tính chất và đặc điểm của từng loại đơ thị và được tính trong phạm vi nội thành, nội thị và khu phố xây dựng tập trung của thị trấn.

+ Tỉ lệ lao động phi nơng nghiệp được tính trong phạm vi ranh giới nội thành, nội thị, khu vực xây dựng tập trung phải đạt tối thiểu 65% so với tổng số lao động. + Hệ thống cơng trình hạ tầng đơ thị gồm hệ thống cơng trình hạ tầng xã hội và hệ thống cơng trình hạ tầng kĩ thuật

+ Đối với khu vực nội thành phải được đầu tư xây dựng đồng bộ và có mức độ hồn chỉnh theo từng loại đô thị

+ Hạn chế tối đa việc phát triển các dự án gây ô nhiễm môi trường; mạng lưới cơng trình hạ tầng tại các điểm dân cư nông thôn phải được đầu tư xây dựng đồng bộ; phải bảo vệ những khu vực đất đai thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, vùng xanh phục vụ đô thị và các vùng cảnh quan sinh thái.

+ Kiến trúc, cảnh quan đô thị: thực hiện xây dựng phát triển đô thị theo quy chế quản lí kiến trúc đơ thị. Các khu đô thị mới phải đạt tiêu chuẩn đô thị kiểu mẫu và trên 60% các trục phố chính đơ thị phải đạt tiêu chuẩn tuyến phố văn minh đô thị, có các khơng gian cơng cộng, phục vụ đời sống tinh thần nhân dân, có các tổ hợp kiến trúc hoặc cơng trình kiến trúc tiêu biểu mang ý nghĩa quốc tế và quốc gia. 1.3. Ảnh hưởng của đô thị đối với sự phát triển kinh tế- xã hội

a) Tích cực :

- Tác động mạnh mẽ tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta. - Các đơ thị có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, các vùng trong nước (năm 2005 đơ thị đóng góp 70,4% GDP cả nước, chiếm 84% tổng GDP của công nghiệp – xây dựng, chiếm 87% GDP ngành dịch vụ và đóng góp 80% ngân sách nhà nước).

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

- Tạo thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn và đa dạng.

- Sử dụng đơng đảo lực lượng lao động có chun mơn kĩ thuật.

- Là nơi có cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng đồng bộ hiện đại, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, tạo động lực cho phát triển kinh tế.

- Tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. b) Tiêu cực :

- Ơ nhiễm mơi trường (ơ nhiễm nguồn nước, đất do rác thải sinh hoạt, ơ nhiễm khơng khí, tiếng ồn…).

- Cạn kiệt tài nguyên.

- Nảy sinh nhiều vấn đề an ninh trật tự xã hội (tai nạn giao thơng, trộm cắp, tắc nghẽn giao thơng…).

<b>2. Chính quyền đơ thị</b>

Điều 4 Luật Tổ chức chính quyền địa phương (được sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã quy định: Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.

Chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính là cấp chính quyền dịa phương bao gồm HĐND và UBND, được tổ chức ở ba cấp đơn vị hành chính là: Cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; trừ trường hợp chính quyền địa phương ở quận, phường được Quốc hội quy định không phải là cấp chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương khơng bao gồm các cơ quan kiểm sát và xét xử, là những cơ quan thực hiện quyền tư pháp độc lập đặt tại địa phương.

Như vậy, chính quyền đơ thị là một dạng cụ thể của chính quyền địa phương, được tổ chức phù hợp với các đặc điểm của đời sống chính trị, kinh tế , văn hóa, xã hội và các điều kiện tự nhiên của đô thị nhằm quản lý đô thị và mang đầy đủ đặc điểm cơ bản của chính quyền địa phương. Chính quyền đơ thị vừa thể hiện các vấn đề chung của chính quyền địa phương về bản chất, vị trí, vai trị, chức năng đại diện của nhân dân và các mối quan hệ giữa chính quyền các cấp theo quy định của pháp luật, vừa thể hiện các yêu cầu đặc thù riêng của phương thức tổ chức, quản lý và phát triển đơ thị.

<b>3. Mơ hình chính quyền đơ thị ở các thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Các thành phố trực thuộc Trung ương là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước, nơi dân cư tập trung đông, các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra sơi động, phong phú nên địi hỏi cần có phương thức quản lý, triển khai một cách nhanh chóng, thông suốt tạo điều kiện đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của đơ thị nói riêng, từ đó tạo động lực phát triển của vùng và cả nước. Do vậy, các thành phố này cần tổ chức bộ máy chính quyền tinh gọn, ít tầng nấc, hoạt động hiệu lực, hiệu quả nhằm đảm bảo chỉ đạo tập trung, nhưng điều hành, vận hành thông suốt, kịp thời giải quyết các công việc phát sinh của đơ thị. Hiện nay có hai mơ hình về tổ chức chính quyền đơ thị, bao gồm:

- Mơ hình chính quyền đơ thị một cấp: được tổ chức trong phạm vi nội thành của thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, chỉ có một cơ quan đại diện là Hội đồng nhân dân (HĐND) thành phố và không tổ chức HĐND ở quận và phường và Ủy ban nhân dân (UBND) ở cả ba cấp hành chính (UBND thành phố, UBND quận, UBND phường). Mơ hình này hiện đang được triển khai tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng.

- Mơ hình chính quyền đơ thị hai cấp: được tổ chức ở khu vực nội thành của thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, có hai cơ quan đại diện là HĐND thành phố và HĐND quận, không tổ chức HĐND ở phường, có đủ ba cấp hành chính là UBND thành phố, UBND quận và UBND phường. Mơ hình này hiện đang được áp dụng ở Thành phố Hà Nội.

3.1. Đặc điểm của mơ hình chính quyền đô thị một cấp Tổ chức, hoạt động của HĐND, UBND thành phố

HĐND thành phố ngồi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn như của chính quyền thành phố khác thì cịn được bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn do không tổ chức HĐND quận, phường trong việc quyết toán ngân sách, phân bổ ngân sách; giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật và việc thực hiện nghị quyết của HĐND thành phố trên địa bàn quận, phường; giám sát hoạt động của UBND quận, UBND phường thuộc quận, Tòa án nhân dân quận, Viện kiểm sát nhân dân quận… UBND thành phố được bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn như trong thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm của thành phố, quyết định giao nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội cho UBND quận; phê duyệt kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm của UBND quận… Chủ tịch UBND thành phố có thẩm quyền như: bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, đình chỉ cơng tác Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND quận; đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của UBND quận.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Tổ chức, hoạt động của UBND quận

UBND quận trong mơ hình này giống như một cơ quan hành chính, trong đó UBND quận gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch; Trưởng Cơng an, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận; các cơ quan hành chính khác và các đơn vị sự nghiệp cơng lập thuộc UBND quận. Cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận do UBND thành phố quy định cụ thể tên gọi, số lượng nhưng không vượt quá số lượng, thay đổi về chức năng, nhiệm vụ so với quy định hiện nay đối với cấp huyện. Văn phòng HĐND và UBND được gọi là Văn phòng UBND vì khơng tổ chức HĐND quận và HĐND phường.

UBND quận hoạt động theo chế độ thủ trưởng, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong đó, Chủ tịch quận là người đứng đầu và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của UBND thành phố, do Chủ tịch UBND thành phố trực tiếp bổ nhiệm và quản lý; có trách nhiệm lãnh đạo, quản lý và điều hành UBND quận. Để đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, đối với một số vấn đề quan trọng phải được thảo luận tập thể. Khi cần thiết có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch và người đứng đầu cơ quan chuyên môn giải quyết một hoặc một số nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của UBND quận. Để phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân, đồng thời tăng cường trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, kịp thời giải quyết những vấn đề cịn tồn tại ở đơ thị, Chủ tịch UBND quận có trách nhiệm tổ chức hội nghị đối thoại với người dân trong quận trước kỳ họp HĐND thành phố. Khi thực hiện mô hình chính quyền đơ thị một cấp, UBND quận là đơn vị dự toán cấp 1 được UBND thành phố giao dự toán thu chi, hàng năm.

Tổ chức, hoạt động của UBND phường

UBND phường thuộc quận được tổ chức như một cơ quan hành chính ở phường gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch phường; Trưởng Công an phường, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự phường và các công chức của UBND phường. Biên chế công chức UBND phường thuộc biên chế công chức UBND quận và do UBND quận quản lý và sử dụng khơng có sự phân biệt giữa công chức cấp xã (phường) và công chức cấp huyện.

UBND phường hoạt động theo cơ chế thủ trưởng và theo quy chế hoạt động của UBND phường, trong đó Chủ tịch UBND phường là người đứng đầu, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của UBND quận, do Chủ tịch UBND quận trực tiếp bổ nhiệm và quản lý. Để giảm khối lượng công việc, nâng cao trách nhiệm của công chức và phục vụ người dân được nhanh chóng, Chủ tịch UBND phường được ủy quyền cho công chức tư pháp – hộ tịch thực hiện ký chứng thực và đóng dấu đối với một số giấy tờ, văn bản theo quy định. Chủ tịch UBND phường có trách nhiệm tổ chức hội nghị

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

đối thoại với người dân ở phường về tình hình hoạt động của phường, những vấn đề liên quan đến quyền lợi và nguyện vọng của công dân ở địa phương. Khi thực hiện mơ hình một cấp, UBND phường lập dự tốn thu chi ngân sách được giao gửi Phòng Tài chính – Kế hoạch quận xem xét tổng hợp cùng với dự tốn của quận và trình UBND quận, đồng thời là cơ quan hành chính tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, trật tự an tồn xã hội, đấu tranh phịng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật.

3.2. Đặc điểm mơ hình chính quyền đơ thị hai cấp

UBND, HĐND thành phố trong mơ hình chính quyền đô thị hai cấp được tổ chức và hoạt động như các thành phố khác. HĐND quận được bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn trong việc quyết định, phân bổ, điều chỉnh dự toán thu, chi ngân sách; phê chuẩn quyết toán thu, chi ngân sách quận, trong đó bao gồm ngân sách của các phường trực thuộc, theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước; quyết định chủ trương đầu tư một số dự án sử dụng vốn đầu tư công tại các phường trực thuộc theo quy định của Luật Đầu tư công; giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật và thực hiện nghị quyết của HĐND cấp mình ở phường; giám sát hoạt động của UBND phường, Chủ tịch UBND phường.

UBND quận được bổ sung nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quốc phịng, an ninh, biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác trên địa bàn các phường mà trong mơ hình chính quyền đơ thị một cấp là nhiệm vụ của UBND phường. UBND phường có cơ cấu tổ chức và hoạt động giống UBND phường trong mơ hình chính quyền đơ thị một cấp.

<b>CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀMƠ HÌNH CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ</b>

<b>1. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền đơ thị</b>

Ở nước ta hiện nay, q trình đơ thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Hệ thống đô thị quốc gia phát triển nhanh. Các đô thị ngày càng được mở rộng, đóng vai trị là

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

trung tâm phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở các cấp độ khác nhau. Quá trình này đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động quản lý nhà nước trên địa bàn đô thị cũng như đặt ra u cầu cần phải xây dựng mơ hình tổ chức và hoạt động của chính quyền đơ thị (CQĐT) khác với nơng thơn. Tổ chức CQĐT phải có tính tập trung cao, ít khâu trung gian, bảo đảm tính thông suốt. Hoạt động của CQĐT phải hiệu lực, hiệu quả, nhanh chóng, kịp thời xử lý các tình huống phát sinh đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của người dân.

Bối cảnh trên đây đòi hỏi phải đổi mới sự điều chỉnh của pháp luật đối với tổ chức và hoạt động của CQĐT. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐT phải bảo đảm nguyên tắc tập trung, thống nhất, vận hành thông suốt và hiệu lực, hiệu quả; đồng thời, phải bảo đảm phân công, phân cấp rõ ràng, rành mạch giữa trung ương với địa phương; kiến tạo môi trường thuận lợi để chính quyền đơ thị có thể chủ đơ Šng, tích cực thực hiện các biê Šn pháp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hơ Ši nhằm nâng cao đời sống của nhân dân.

Có thể khẳng định, pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐT là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, được thể hiện bằng hệ thống các văn bản quy phạm phạm luật, có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động của chính quyền ở đơ thị. Cách tiếp cận trên cho thấy, pháp luật về CQĐT điều chỉnh những vấn đề liên quan đến tổ chức đơn vị hành chính ở đơ thị; cơ cấu, tổ chức của CQĐT; chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; phân cơng, phân cấp, ủy quyền giữa chính quyền trung ương và CQĐT; mối quan hệ giữa các cấp chính quyền ở đô thị và hoạt động kiểm tra, giám sát của chính quyền trung ương đối với tổ chức và hoạt động của CQĐT… Về hình thức, pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐT được biểu hiện dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định với các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau như Hiến pháp, luật, các văn bản dưới luật như pháp lệnh đến các văn bản pháp quy.

Pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐT góp phần thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐP nói chung và CQĐP ở đơ thị nói riêng. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐT góp phần bảo đảm nguyên tắc phân cấp, phân quyền mạnh giữa trung ương với địa phương (đô thị) nhằm tạo môi trường thuận lợi để chính quyền địa phương ở đơ thị có thể chủ đơ Šng, tích cực thực hiê Šn biê Šn pháp để phát triển kinh tế, xã hơ Ši, văn hóa nâng cao đời sống của nhân dân. Đồng thời, pháp luật xác định thẩm quyền cho CQĐT tự chủ động thực hiện các biện pháp nhằm khai thác tối đa các nguồn lực, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của người dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội.

<b>2. Thực trạng pháp luật về chính quyền đơ thị</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực, nhiều đạo luật được ban hành đã cụ thể hóa các quy định về Chính quyền địa phương (CQĐP) như: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015, Luât Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức CQĐP năm 2019… Các văn bản pháp luật đó đã tạo cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của CQĐP trong đó có CQĐT.

So với Hiến pháp năm 1992, điểm mới của Hiến pháp năm 2013 khi quy định về CQĐP xác định “đơn vị hành chính tương đương” là đơn vị thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Đặc biệt, cấp CQĐP gồm có Hội đồng nhân dân và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định (khoản 2 Điều 111). Trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 đã xác định rõ “đơn vị hành chính tương đương” là “thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương”. Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 quy định CQĐP ở đô thị gồm CQĐP ở thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phường, thị trấn. Luật này cũng dành cả Chương 3 với 35 Điều (từ Điều 37 đến Điều 71) quy định về tổ chức CQĐP ở đô thị với nhiều nội dung mới về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền. Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 bổ sung Ban đô thị đối với Hội đồng nhân dân (HĐND) thành phố trực thuộc trung ương nhằm đáp ứng nhu cầu về quản lý nhà nước đối với q trình đơ thị hóa.

Có thể nói, những quy định trên đây là “bước chuyển mình” của pháp luật trong lĩnh vực này. Theo đó, trước đây, pháp luật chỉ quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của CQĐP chung cho cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 đã mở ra khung khổ pháp lý để CQĐP được tổ chức linh hoạt, đáp ứng yêu cầu quản lý, phù hợp với đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội ở các đơn vị hành chính. Từ đó, pháp luật kiến tạo mơ hình tổ chức CQĐP phù hợp hơn, có sự phân định rõ ràng giữa CQĐT và chính quyền ở nông thôn, cũng như phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, đặc trưng của các đơn vị hành chính này.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức CQĐP năm 2019 (sửa đổi, bổ sung Điều 4 của Luật Tổ chức CQĐP năm 2015) khẳng định: “CQĐP được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 2 của Luật này phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt” (khoản 1 Điều 2); Luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 44: “CQĐP ở quận là cấp CQĐP, trừ trường hợp cụ thể Quốc hội quy định không phải là cấp CQĐP” (khoản 14 Điều 2); sửa đổi, bổ sung Điều 58: “CQĐP ở phường là cấp CQĐP, trừ trường hợp cụ thể Quốc hội quy định không phải là cấp CQĐP” (khoản 17 Điều 2). Những sửa đổi, bổ sung trên đây nhằm tạo cơ sở để Quốc hội quyết định một số đề án về thí điểm CQĐT ở một số địa phương phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý của từng đô thị.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Điều 9 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 quy định: Chính phủ quy định cụ thể tổ chức và hoạt động của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, cấp huyện. Trước đó, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ngoài một số sở đặc thù như Sở Ngoại vụ, Ban Dân tộc, Sở Quy hoạch – Kiến trúc, có thể tổ chức cơ quan chuyên môn đặc thù khác khi thật cần thiết, phù hợp với đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương. Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện. Ngồi 10 cơ quan chun mơn được tổ chức thống nhất ở tất cả các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quy định tại Điều 7 của Nghị định này, tổ chức một số cơ quan chuyên môn để phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính cấp huyện trong đó ở quận, thành phố thuộc tỉnh có phịng quản lý đơ thị.

<b>3. Một số bất cập trong quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt độngcủa chính quyền đơ thị</b>

- Quy định liên quan đến xác định vị trí, vai trị của đơn vị hành chính

Pháp luật hiện hành quy định các đơn vị hành chính ở nước ta gồm ba cấp: cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Như vậy, tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ khơng có sự phân biệt giữa đô thị và nông thôn, miền núi, miền xuôi và hải đảo. Hiến pháp năm 2013 quy định “cấp chính quyền” bao gồm hai thiết chế HĐND và UBND. Tuy nhiên, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 lại đồng nhất cấp chính quyền với cấp hành chính (tại các Điều 30, Điều 44, Điều 58). Do vậy, CQĐP cả ba cấp trong đó cả các đơ thị (đơ thị cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) cũng có đủ hai thiết chế HĐND và UBND. Điều này cản trở việc xây dựng và thực thi CQĐT.

- Quy định về cơ cấu, tổ chức bộ máy của CQĐT

Pháp luật hiện hành chưa tạo ra những thay đổi lớn trong tổ chức CQĐP ở mỗi cấp. Cơ cấu, tổ chức chính quyền cấp dưới vẫn giống cơ cấu, tổ chức chính quyền cấp trên. Pháp luật cũng chưa xây dựng được hệ thống các tiêu chí để làm căn cứ phân định cũng như đánh giá hoạt động của CQĐT cũng như chính quyền địa phương ở nông thôn. Quy định của pháp luật về mơ hình tổ chức bộ máy của CQĐT chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới, chưa đáp ứng điều kiện ứng dụng những thành tựu công nghệ hiện đại của cuộc cách mạng lần thứ tư vào quản lý nền hành chính nhà nước. Vì vậy, tổ chức bộ máy CQĐT “đã qua nhiều lần sắp xếp nhưng chưa thực sự tinh gọn, chưa tương ứng với nhiệm vụ, thẩm quyền được giao; chưa phân biệt rõ mơ hình tổ chức bộ máy của CQĐT với chính quyền nơng thơn… bộ máy CQĐT của hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (đơ thị loại đặc biệt) song về cơ bản tổ chức bộ máy khơng có nhiều điểm khác biệt so với các thành phố trực thuộc trung ương và các tỉnh”. Pháp luật hiện hành chưa có nhiều quy định phân biệt sự khác nhau trong cơ cấu tổ chức của UBND, các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cấp huyện và các chức danh cán bộ chuyên trách ở cấp xã của đơn vị hành chính đơ thị với đơn

</div>

×