Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.01 MB, 18 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>Từ nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù “khả năng vàhiện thực”, hãy vận dụng và giải quyết một vấn đề của thực tiễn</b>
<b> LỚP: N17.TL4 NHÓM: 02</b>
<b>BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢ THAM GIA LÀMBÀI TẬP NHÓM HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN</b>
Tên bài tập: Từ nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù “khả năng và hiện thực”, hãy vận dụng để nhận thức và giải quyết một vấn đề của thực tiễn.
<small>1</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong việc thực hiện
Kết quả bài viết: + Giáo viên chấm thứ nhất :
+ Giáo viên chấm thứ hai : - Kết quả điểm thuyết trình : - Giáo viên cho thuyết trình :
<b> Điểm kết luận cuối cùng : Giáo viên đánh giá cuối cùng :</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b><small>2.1.Phân loại khả năng...8</small></b>
<b><small>2.2.Phân loại hiện thực...9</small></b>
<i><b><small>3.Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực...9</small></b></i>
<i><b><small>4.Ý nghĩa phương pháp luận...10</small></b></i>
<small>2.1.Các yếếu tốế nh hảưởng đếến kh năng lo i b hình ph t t hình Vi t Nam:ảạ ỏạửở ệ...14</small>
<small>2.2. Kh năng tấết nhiến trong vi c lo i b hình ph t t hình Vi t Nam:ảệạ ỏạửở ệ...15</small>
<small>2.3. Kh năng ngấẫu nhiến trong vi c lo i b hình ph t t hình Vi t Nam:ảệạ ỏạửở ệ...16</small>
<small>3.Phấn tích mốấi quan h bi n ch ng, v n d ng phệệứậụương pháp lu n vào hi n th c áp d ng -ậệựụkh năng lo i b hình ph t t hình Vi t Nam:ảạ ỏạửở ệ...16</small>
<small>KẾẾT LU NẬ ...18</small>
<small>Tài li u tham kh oệả ...19</small>
<small>3</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>I. MỞ ĐẦU</b>
Thực tế cho thấy rằng trong xã hội bây giờ có một bộ phận khơng nhỏ cá nhân có nhận thức sai lệch về lối sống, về thế giới quan, thực dụng, ham thích hưởng thụ, mong muốn thành công nhưng không chịu cố gắng, sử dụng “quyền và tiền” để đạt được mục đích. Đó là lý do tại sao nổi cộm lên những vấn đề nhức nhối của xã hội: tham nhũng, các biểu hiện suy thối đạo đức, bệnh thành tích,... Lí do có những vấn nạn như vậy xảy ra cũng bởi các cá nhân đó chưa hiểu và nắm bắt được các quy luật vận động và phát triển của thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Do vậy, để có được cái nhìn đúng đắn về thế giới quan, định hướng thế giới quan cho thế hệ trẻ, nhất là sinh viên, phải đi từ lý luận đến thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau để nói về vấn đề này: “Lý luận đi đôi với thực tiễn”, “Lý luận đi đơi với thực hành”... Dù nói “đi đôi”, gắn liền kết hợp nhưng điều cốt lõi nhất mà Người muốn nhấn mạnh là “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà khơng có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông.” (HCM, 1995, tập 8, tr.496). Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa nhau, hậu thuẫn nhau, bổ sung cho nhau.
Từ những lí do nói trên, tiểu luận này sẽ đi sâu vào việc nghiên cứu cặp phạm trù khả năng và hiện thực dưới góc độ Triết học Mác – Lênin và ứng dụng vào giải quyết một vấn đề thực tế để cung cấp cho mọi người những hiểu biết khái quát về mặt lý thuyết và cách để ứng dụng chúng vào những vấn đề trong cuộc sống.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>II. NỘI DUNG LÝ THUYẾT1.Giới thiệu</b>
<b>1.1.Phép biện chứng duy vật</b>
Trong chủ nghĩa MÁC – LÊNIN, khái niệm biện chứng dùng để chỉ các mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật hiện tượng, quá trình trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của Thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy, phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép siêu hình - phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của Thế giới trong trạng thái cô lập và bất biến.
Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ăngghen cho rằng: “Phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”<small>1</small>
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin cịn có một số định nghĩa khác về phép biện chứng duy vật. Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Ăngghen đã định nghĩa: “ Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng vào tư duy chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại giữa chúng ,trong sự móc xích của chúng, trong sự vận động của chúng, trong sự phát sinh và tiêu vong của chúng”.<small>2</small>
Trong khi nhấn mạnh nguyên lý về sự phát triển Lênin đã khẳng định: “Trong số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hồn mĩ nhất, sâu sắc nhất và khơng phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức, của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”<small>3</small>
<small>1 C.Mác và Ph.Ăngghen : Tồn t p, Nhà xuấất b n Chính tr quốấc gia -S th t, Hà n i, nămậảịựậộ 1994, tấp 20, trang 2012 Mác, Ph.Ăngghen :Tuy n t p, t p V, Nhà xuấất b n S th t, Hà N i, 1983, trang 3ểậậảựậộ8</small>
<small>3 V.I.Lê-nin :Toàn t p , Nxb.Tiêấn b , Mát -xc -va, 1980, t23, tr.53ậộơ5</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Trong quá trình nhận thức của con người thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các đối tượng để nắm bắt và thể hiện thơng qua các khái niệm những thuộc tính và mối liên hệ chung cùng có ở tất cả chúng. Đó là vận động, khơng gian, thời gian, nhân quả, tính quy luật, tất yếu, ngẫu nhiên, giống nhau... Chúng là những đặc trưng của các đối tượng vật chất, là những hình thức tồn tại phổ biến của vật chất, còn các khái niệm phản ánh chúng là những phạm trù Triết học.
Như vậy phạm trù triết học là hình thức hoạt động trí óc phổ biến của con người, là những mơ hình tư tưởng phản ánh những thuộc tính và mối liên hệ vốn có ở tất cả các đối tượng hiện thực .Chúng giúp con người suy ngẫm những chất liệu cụ thể đã thu nhận được trong quá trình nhận thức và cải biến hiện thực, chỉ ra những đặc trưng cơ bản nhất của khách thể. Các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện chứng duy vật khái quát thành các phạm trù cơ bản. Tính cặp đôi của các phạm trù thể hiện sự phản ánh biện chứng tính thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập của thế giới khách quan. Các phạm trù hình thành và phát triển trong hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội của con người. Trong phép biện chứng duy vật có sáu cặp phạm trù, trong đó mỗi cặp phạm trù có vai trị phương pháp luận khác nhau. Các cặp cái riêng và cái chung; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng là cơ sở phương pháp luận của các phương pháp phân tích và tổng hợp ; diễn dịch và quy nạp ; khái quát hóa, trừu tượng hóa để nhận thức được tồn bộ các mối liên hê theo hệ thống. Các cặp nguyên nhân và kết quả; khả năng và hiện thực là cơ sở phương pháp luận chỉ ra các mối liên hệ và sự phát triển của các sự vật, hiện tượng như những quá trình tự nhiên. Cặp nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận nắm bắt các hình thức tồn tại hoặc biểu hiện của đối tượng trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Để nhận thức được rõ hơn về cặp phạm trù triết học, ta sẽ đi tìm hiểu về khái quát nội dung và ý nghĩa phương pháp luận cặp phạm trù: Khả năng và hiện thực.
<b>1.2.Khả năng và hiện thực </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Khi đã nhận thức được bản chất và các mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện tượng, chủ thể nhận thức đã có thể phán đốn được sự vật, hiện tượng đó do sự phát triển của những mâu thuẫn bên trong nó quy định, sẽ biến đổi theo hướng nào, nghĩa là đã có thể nhận thức được đồng thời cả hiện thực và khả năng biến đổi của sự vật, hiện tượng đó. Biện chứng của sự liên hệ lẫn nhau giữa quá khứ, hiện tại và tương lai được phản ánh trong các phạm trù “khả năng” và “hiện thực”. Phạm trù khả năng phản ánh thời kỳ hình thành đối tượng, khi nó mới chỉ tồn tại dưới dạng tiền đề hay với tư cách là xu hướng. Vì thế khả năng là phạm trù phản ánh tổng thể các tiền đề của sự biến đổi, sự hình thành của hiện thực mới, là cái có thể có, nhưng ngay lúc này chưa có; hiện thực là phạm trù phản ánh kết quả sinh thành, là sự thực hiện khả năng, và là cơ sở để định hình những khả năng mới.
ra khi có điều kiện thích hợp. Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại gồm tất cả các sự vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại khách quan trong thực tế và các hiện tượng chủ quan đang tồn tại trong ý thức, là sự thống nhất biện chứng của bản chất và các hiện tượng thể hiện bản chất đó. Theo nghĩa này, hiện thực khách quan và hiện thực chủ quan được dùng để phân biệt các hiện tượng vật chất với các hiện tượng tinh thần. Về thực chất, hiện thực là sự thống nhất giữa bản chất của đối tượng với vô vàn các hiện tượng của nó, tạo nên tính xác định động cho đối tượng trong một không gian, thời gian cụ thể.
<b>2.PHÂN LOẠI2.1.Phân loại khả năng</b>
Mọi khả năng đều là khả năng thực tế nghĩa là khả năng thực sự tồn tại do hiện thực sinh ra. Nhưng có khả năng được hình thành do quy luật vận động nội tại của sự vật quy định, được gọi là khả năng tất nhiên, có khả năng được hình thành do các tương tác ngẫu nhiên quy định được gọi là khả năng ngẫu nhiên.
Ví dụ:
<small>7</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"> Khi gieo hạt xuống đất, khả năng hạt sẽ nảy mầm, mọc thành cây và lại cho ta những hạt mới là khả năng tất nhiên.
bệnh nên không thể nảy mầm, không phát triển thành cây, cho hạt được. Khả năng này do những tác động ngẫu nhiên quy định nên được gọi là khả năng ngẫu nhiên.
Trong khả năng tất nhiên bao gồm khả năng gần, nghĩa là đã có đủ hoặc gần đủ những điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực và khả năng xa, nghĩa là chưa đủ điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực mà còn phải trải qua nhiều giai đoạn quá độ nữa.
Ví dụ:
lãnh đạo đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, có Nhà nước xã hội chủ nghĩa thật sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, có những điều kiện quốc tế thuận lợi thì khả năng hồn thành thắng lợi cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại
chủ nghĩa là khả năng xa hơn.
<b>2.2.Phân loại hiện thực</b>
Hiện thực bao gồm cả hiện thực vật chất (hiện thực khách quan) và hiện thực tinh thần (hiện thực chủ quan), nghĩa là cả vật chất và tinh thần đều tồn tại. Về thực chất, hiện thực là sự thống nhất giữa bản chất của đối tượng với vơ vàn hiện tượng tạo nên tính xác định cho đối tượng trong một khơng gian, thời gian cụ thể
Ví dụ:
điều kiện kinh tế xã hội, giáo dục, y tế, khoa học kĩ thuật của nước ta chỉ đang ở mức đang phát triển
<b>3.Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><i><b>Một là, khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ khơng tách rờinhau, ln ln chuyển hóa lẫn nhau.</b></i>
Q trình đó diễn ra như sau: khả năng biến thành hiện thực; hiện thực này do sự vận động nội tại của nó lại nảy sinh khả năng mới; khả năng mới này khi có điều kiện thích hợp lại trở thành hiện thực mới v., đó là quá trình phát triển vơ tận của thế giới khách quan. Ví dụ, trong con gà mái chứa đựng khả năng đẻ trứng gà, khi con gà đẻ trứng thì quả trứng là hiện thực. Trong hiện thực quả trứng gà lại chứa đựng khả năng nở thành con gà con và v.v..
<i><b>Hai là, trong cùng một sự vật, cùng một điều kiện nhất định, không phải chỉ tồntại một mà là tồn tại nhiều khả năng khác nhau.</b></i>
Ngoài những khả năng vốn có của sự vật, khi điều kiện mới xuất hiện thì sự vật sẽ xuất hiện những khả năng mới và bản thân mỗi khả năng cũng sẽ thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện.
<i><b>Ba là, khả năng muốn biến thành hiện thực thường không phải chỉ cần mộtđiều kiện mà là sự tập hợp của nhiều điều kiện. </b></i>
Khi phân tích tình thế cho một cuộc cách mạng nổ ra, V.I.Lênin chỉ ra cần có 4 yếu tố (điều kiện) đó là: thứ nhất, giai cấp thống trị không thể giữ nguyên sự thống trị của mình như trước được nữa; thứ hai, giai cấp bị trị đã bị bần cùng hóa quá mức bình thường; thứ ba, tính tích cực của quần chúng nhân dân được tăng lên đáng kể; thứ tư, giai cấp cách mạng có đủ năng lực tiến hành những hành động cách mạng mạnh mẽ, đủ sức đập tan chính quyền của giai cấp thống trị. Nếu thiếu một trong các điều kiện này thì cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể nổ ra và thắng lợi.
<b>4.Ý nghĩa phương pháp luận</b>
Thứ nhất, khả năng và hiện thực tồn tại trong mối liên hệ không tách rời nhau và ln chuyển hố cho nhau; do hiện thực được chuẩn bị bằng khả năng còn khả năng hướng tới sự chuyển hoá thành hiện thực, nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không thể dựa vào khả năng. Tuy nhiên, vì khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai
<small>9</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">nên. Khi đề ra kế hoạch phải tính đến mọi khả năng để kế hoạch đó sát với thực tiễn. Nhiệm vụ của hoạt động nhận thức là phải xác định được khả năng phát triển của sự vật, hiện tượng và tìm ra khả năng ấy trong chính bản thân nó, bởi khả năng nảy sinh vừa do sự tác động qua lại giữa các mặt bên trong, vừa do sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng với hoàn cảnh bên ngoài.
Thứ hai, phát triển là q trình trong đó khả năng chuyển hố thành hiện thực; cịn hiện thực này trong q trình phát triển của mình lại sinh ra các khả năng mới, trong điều kiện thích hợp các khả năng mới ấy lại chuyển hố thành hiện thực, tạo thành q trình vơ tận; do vậy, sau khi đã xác định được được các khả năng phát triển của sự vật và hiện tượng thì mới tiến hành lựa chọn và thực hiện khả năng.
Thứ ba, trong quá trình thực hiện khả năng đã lựa chọn, cần chú ý trong một sự vật, hiện tượng có thể chứa nhiều khả năng khác nhau, do vậy cần tính đến mọi khả năng để dự kiến các phương án thích hợp cho từng trường hợp có thể xảy xa.
Thứ tư, cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại một số khả năng và ngoài một số khả năng vốn có, thì khi có điều kiện mới bổ sung ở sự vật, hiện tượng sẽ xuất hiện thêm một số khả năng mới dẫn đến sự xuất hiện một sự vật, hiện tượng mới, phức tạp hơn. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải lựa chọn khả năng trong số hiện có, trước hết phải chú ý đến khả năng gần, khả năng tất nhiên vì chúng dễ chuyển hố thành hiện thực hơn.
Thứ năm, khả năng chỉ chuyển hoá thành hiện thực khi có đầy đủ các điều kiện cần thiết nên cần tạo ra các điều kiện đó để nó chuyển hố thành hiện thực. Cần tránh sai lầm, hoặc tuyệt đối hố vai trị của nhân tố chủ quan, hoặc xem thường vai trò ấy trong quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực.
<b>III. Vận dụng vấn đề</b>
Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt chính của Việt Nam, tước bỏ quyền sống của người phạm tội. Xuyên suốt lịch sử lập hiến, đã có
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">hay khơng. Việc duy trì hay loại bỏ hình phạt này ở Việt Nam phụ thuộc vào nhiều yếu tố: xu hướng xóa bỏ hình phạt tử hình trên thế giới, sự vận đồng của các cơ
<b>quan nhân quyền, định kiến, tập quán pháp, văn hóa trả thù,... Trên thực tế, hiện</b>
nay, hình phạt tử hình vẫn đang được áp dụng, dù Bộ luật Hình sự Việt Nam từ 1985 đến nay qua các lần chỉnh sửa đã dần cắt giảm số lượng các tội danh bị áp
<b>dụng án phạt tử hình. Tuy nhiên, khả năng thực hiện xóa bỏ hình phạt tử hình ởViệt Nam trong thời gian tới là chưa có, dù xu hướng giảm dần hình phạt tửhình khả năng cao sẽ xảy ra. Để có cái nhìn cụ thể về hình phạt tử hình, ta sẽđối chiếu giữa khả năng và hiện thực của hình phạt này trên các phương diệnkhác nhau ở trong xã hội. Về mặt xã hội, ở Việt Nam, tử hình vẫn được coi là</b>
hình phạt cần thiết và cần phải có nhằm trừng trị những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng để bảo đảm cho an ninh và trật tự an toàn xã hội, tạo mơi trường an tồn cho người dân.
<b>1. Hiện thực:</b>
<b>1.1. Các yếu tố hiện thực trong việc áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam:</b>
Ở Việt Nam, tử hình vẫn được coi là hình phạt cần thiết và cần phải có nhằm trừng trị những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng để bảo đảm cho an ninh và trật tự an tồn xã hội, tạo mơi trường an tồn cho người dân. Tình hình tội phạm ở Việt Nam vẫn cịn diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng cả về số lượng lẫn tính chất, mức độ nguy hiểm. Bộ Luật Hình sự qua nhiều lần sửa đổi đã có những thay đổi sâu sắc nhằm giảm nhẹ tới việc sử dụng các hình thức tử hình nhằm phủ hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và xu hướng chung của các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới để đảm bảo quyền con người, nhân đạo hóa các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
<small>11</small>
</div>