Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học: Thực trạng giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng tại Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.1 MB, 116 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NOI

TRAN THI THU HIEN

THUC TRANG GIAI QUYET HAU QUA PHAP LY CUA VIEC NAM NU CHUNG SONG NHU VO CHONG

TAI TOA AN NHAN DAN THANH PHO THANH HOA

<small>Hà Nội - 2017</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

TRAN THI THU HIEN

THUC TRANG GIAI QUYET HAU QUA PHAP LY CUA VIEC NAM NU CHUNG SONG NHU VO CHONG

TAI TOA AN NHAN DAN THANH PHO THANH HOA

Chuyên ngành: Luật Dân sự và tổ tụng dân sự Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYEN THỊ LAN

<small>Hà Nội - 2017</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

LỜI CAM ĐOAN

<small>Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập củariêng tôi.</small>

Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bat kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được

trích dẫn đúng theo quy định.

<small>Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.</small>

<small>Tác giả luận văn</small>

Trần Thị Thu Hiền

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>Luat HN&GD Luật Hôn nhân và gia đìnhBLDS Bộ luật dân sự</small>

BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự ĐKKH Đăng ký kết hôn

GCNQSDD Giấy chứng nhận quyền sử dung đất

<small>TAND Tòa án nhân dân</small>

TANDTC Tòa án nhân dân Tối cao TP Thành phố

UBND Ủy ban nhân dân

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small>MỤC LỤC</small> LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC CÁC CHU VIET TAT

3700006710012... ... | Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VE GIẢI QUYẾT HẬU QUÁ PHÁP LÝ CUA VIỆC CHUNG SĨNG NHƯ VO CHONG. ...-.- 5-5 5° s©ss=sesses 8 1.1. Khái niệm chung về chung sống như vợ chong và giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng ...5- <5 ss° s2 se ssess=sessesessese 8 1.1.1. Khái niệm nam nữ chung sống như vợ ChOng....sscsssssssessssescessscessssessesssseessseees 8 1.1.2. Khái niệm giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ 1.2. Sơ lược pháp luật điều chỉnh quyền và lợi ích của nam, nữ chung sống như vợ chồng và giải quyết hậu quả pháp lý...--.---- 5< ss<sessese=sesssessese 18 1.2.1. Giai đoạn áp dụng Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 và giải quyết hậu qua pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng ...---s--e-s-sse<ses2 18

1.2.2. Giai đoạn áp dụng Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 và giải quyết hậu qua pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng ...--.s--e-s<se<ses2 20

1.2.3. Giai đoạn áp dụng Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 và giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng ...-s--s-e-s-sse<sese 22 1.3. Pháp luật hiện hành về giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung SOmg NNW VO ZJ TT ng. ...ơƠ 25

1.3.1. Giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng không

<small>{fal Pld LOS ca gg114H0310101020HG18800415195010100LH830311SHB44-HSGEHG.11003241010122088 25</small>

1.3.1.1. Về quan hệ nhân than oo. cccccscescsecsesessessesessesessessssesssstsetseetensseeeen 25 1.3.2.2. Về quan hệ tài sản...---¿- 2 St SE 1EE1211181121111111111111 111 xe. 26 1.3.2.3. Về quan hệ giữa cha, mẹ Va COI...- --- + +25 + SE *+*EEE+eerreerrrrererrvrs 27 1.3.2. Giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng trái

<small>0:08 00 :ỔŸ®£ỔỶỔƠẦ®ỔỔ... 34</small>

1.3.2.1. Giải quyết về dân SU ...--- 2-5 ©s+S2+ESEE2EEEEEEE2EE212112152121 2111 xe. 34

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

1.3.2.2. Giải quyết về hành chính ...-- ¿2 2 SE £EE£EE+E£EE2EEEEEEEEEerkrrerkers 36 1.3.2.3. Giải quyết về hình sự...---¿- ¿52s SE 2112121717111 1111 re 37 1.3.3. Giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng và được pháp luật công nhận là vợ chỒng...--2- - 2 2 k+EE+E++E+EE+E£EE+ErEeEEzEerxzxee 38

1.3.3.1. Về quyền nhân thân...----¿- 2 +5 E+EE+E£+E£EE£EEEESEEEEEEEEEErkrrkrrerxee 39 1.3.3.2. Về quan hệ tài sản ...---E- St 1E 1111111111111 11x xcE. 39 1.3.3.3. Về quan hệ giữa cha, mẹ Và COI...- -- 55 2 S113 £***#EEE++eeeseeeeeres 40 Kết luận chương I... -- 2-2 +S9SE+E9EE9E2EEE1212111121112111111111. 111.11. cxeE 41 Chương 2. GIẢI QUYẾT HẬU QUÁ PHAP LY CUA VIỆC NAM NU

CHUNG SÓNG NHƯ VỢ CHỊNG TẠI TỒ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHĨ

THANH HOÁ VÀ MỘT SỐ KIÊN NGHỊ,...--2- 5-22 se <cse ses<esessese 42 2.1. Giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng tại Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá...-.- 2-2 ° 5£ s2 =s£ss£sesses2£sessesessese 42 2.1.1. Những vấn đề còn vướng mắc trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng tại toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá... 45 2.1.2. Một số vụ việc điển hình... s--s<s<vssev+seerxseerrseerksserrkserrsserrksee 48 2.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả điều chỉnh hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chỒng...--.s--- << s£ ss2 sess£sessess£sessesessese 54 2.2.1. Về bố sung cơ sở pháp lý ...--s-e<s- s se s22 s£ sEs£ s£SEseEsEseEsexesersesersersese 55 2.2.2. Về giải quyết các hậu qua cụ thỂ...--s-e° 5c s52 sess£s£ sess£sessesessessesessese 58 KẾt luận chương 2...---- 5< s£ s©s£ s92 9S EsEE3ES9 E339 525 3952552535525 56 63 KET LUAN 0277 ... 64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

<small>PHỤ LỤC</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

PHAN MỞ DAU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu

Chung sống như vợ chồng - hay tinh trạng nam, nữ tổ chức chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn - là một hiện tượng xã hội đã và đang tôn tại trong xã hội Việt Nam và đang có xu hướng tăng về cả số lượng và tính chất quan hệ. Tình trạng này diễn ra không chỉ đối với các cặp nam nữ từ trước ngày 03/01/1987 do hoàn cảnh chiến tranh hay trình độ pháp luật cịn thấp mà ngay cả với cả cặp nam nữ sau khi có Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 có đủ các điều kiện để đăng ký kết hôn mà không đăng ký, đặc biệt đối với giới trẻ thế hệ sinh năm từ 1980-1990 đang hướng đến quan niệm mới về cuộc sống, tình bạn, tình u, hơn nhân với sự thé hiện tự do và cởi mdi hơn so với các thế hệ trước. Có thé nói tình trạng nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng là một hiện tượng khá phổ biến trong xã hội nước ta và ngày càng có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước đang trong quá trình day manh nén cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện chính sách mở cửa, giao lưu với tất cả các quốc gia trên thế giới, mặt trái của nên kinh tế thị trường đã làm thay đôi không nhỏ tới quan điểm về tình u và hơn nhân; với tâm lý ngại đi đăng ký kết hôn bởi lý do không muốn thực hiện các thủ tục hành chính, con người với lối sống tự do, phóng túng, không muốn bị ràng buộc về mặt pháp lý. Việc chung sống này thê hiện dưới các dạng thức khác nhau đã tạo ra nhiều hậu quả không tốt đối với đời sống hơn nhân và gia đình.

Điều này đã trở thành vấn đề néi com không chỉ với gia đình mà đối với cả xã hội, vì nó phá vỡ nguyên tắc, chuẩn mực liên quan đến hôn nhân như thiếu sự tham gia và chứng kiến của gia đình, xã hội và cơ quan nhà nước có thâm quyên trong việc đăng ký kết hôn trước khi họ trở thành vợ chồng của nhau. Mặt khác, quan hệ hơn nhân của họ khơng có ràng buộc về mặt pháp lý vậy khi có tranh chấp xảy ra hay quyền lợi các bên bị xâm phạm mà có yêu cầu giải quyết ly hôn, pháp luật sẽ giải quyết như thế nào?

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

sống với nhau như vợ chồng. Thời gian qua, Cùng với đó liên ngành Toà án, Viện kiểm sát, Bộ tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp về hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HN&GD quy định hướng dẫn giải quyết đối với trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng ma khơng đăng ký kết hơn nhưng vẫn chưa có quy định day đủ về giải quyết hậu quả của tình trạng này đã dẫn tới việc giải quyết các tranh chấp trở lên phức tạp, quyên lợi của các bên chưa được đảm bảo, công tác xét xử của Tịa án gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong q trình áp dụng pháp luật.

Vì vậy, nghiên cứu các trường hợp chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hơn và hậu quả pháp lý của tình trạng này nhằm nâng cao ý thức pháp luật của

<small>nhân dân trong việc xác lập quan hệ hôn nhân. Đặc biệt, nghiên cứu các quy định</small>

của pháp luật đối với các trường hợp chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hơn cịn nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác xét xử của Tòa án nhân dân đối với các tranh chấp hơn nhân và gia đình nói chung và tranh chấp liên quan đến việc chung sống như vợ chồng khơng đăng ký kết hơn nói riêng là vơ cùng cần thiết.

<small>Nghiên cứu và phân tích những quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình</small>

năm 2014 trong vấn đề giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn là đòi hỏi khách quan và cấp thiết hiện nay, điều

<small>này giúp nâng cao ý thức pháp luật của người dân trong việc xác lập quan hệ hônnhân, nâng cao hiệu quả trong cơng tác xét xử của Tịa án trong lĩnh vực hơn nhân</small>

và gia đình. Từ đó góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta, xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ, xã hội phát triển. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực trạng giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung song như vợ chẳng tại Toà án nhân dân thành phố Thanh Hố” làm Luận văn

<small>thạc sĩ của mình.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề chung sống như vợ chồng đã, đang và sẽ luôn tồn tại trong xã hội chúng ta. Nhăm hạn chế và giải quyết hậu quả của thực trạng này, pháp luật Việt Nam đã có nhiều quy định liên quan đến việc chung sống như vợ chồng để góp phần điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của các cá nhân, đồng thời giúp cho các cơ quan thi hành pháp luật áp dụng đúng và thống nhất pháp luật.

Thời gian qua, đã có một số cơng trình khoa học nghiên cứu về van dé nam nữ chung sống như vợ chồng sau:

Một số giáo trình, sách chuyên khảo điển hình như: “Giáo trình Luật hơn nhân

<small>và gia đình Việt Nam” (2014)- Trường Dai học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân</small>

dân, Hà Nội;“Mội số vấn dé lý luận và thực tiễn về Luật hơn nhân và gia đình năm

2000” của PGS.TS.Nguyễn Văn Cừ- ThS.Ngơ Thị Hường (2002), Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội; “Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000” của TS.Đinh Thị Mai Phương (2004), Nxb Chính trị quốc gia; “Bình luận

khoa học Luật HN&GD Việt Nam ”của tác giả Nguyễn Ngọc Điện (2002), Nxb trẻ,

Hồ Chí Minh,...

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường về “Giải quyết van dé hôn nhân thực tế theo Luật hơn nhân và gia đình năm 2000” do PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ - trưởng

<small>bộ môn Luật hôn nhân và gia đình Trường đại học Luật Hà Nội làm chủ biên;</small>

Một số khoá luận tốt nghiệp đại học, luận văn thạc sĩ: Lê Thị Thu Trang (2010),Van dé nam nữ chung sống như vợ chơng dưới góc độ bảo vệ phụ nữ và trẻ em, khoá luận tốt nghiệp, trường đại học Luật Hà Nội, Hoàng Hạnh Nguyên (201 1), Những khía cạnh pháp lý của thực té chung sống như vợ chong không đăng ký kết hôn ở Việt Nam, luận văn thạc sĩ, Khoa luật- đại học quốc gia Hà Nội; Nông Thị Hong Yến (2015), Hau quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng theo

<small>pháp luật hơn nhán và gia đình Việt Nam hiện hành, luận văn thạc sĩ, Khoa luật- đại</small>

học quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Phuong Thảo (2015), Chung sống như vợ chẳng <small>-Một so ván đề lý luận và thực tiên, luận văn thạc si, Đại học Luật Hà Nội...</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Cừ (Tạp chí luật học số 5/2000); “Vé sự điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ chung sống như vợ chong” của tác giả Thái Trung Kiên (Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/2005); “Can có hướng dan thong nhất về thụ lý yêu cau ly hôn hay không công nhận vợ chong và thủ tục giải quyết” của tác giả Doan Đức Lương (Tạp chí Kiểm sát số 9/2005); “Những vướng mắc trong việc thụ lý giải quyết ly hôn với những trường hợp chung sống như vợ chong khơng có đăng ký kết hơn”, tác giả Đào Mai Hường - Tòa án nhân dân; “Van dé chung sống như vợ chong mà không đăng ký kết hôn theo pháp luật về hơn nhân và gia đình”, tác giả Bùi Huyền (Dân chủ và Pháp luật.- Số chuyên dé Sửa đổi, bổ sung Luật hơn nhân và gia đình năm 2000/2013); “chung sống như vợ chông không đăng kỷ kết hơn: thực trạng và kiến nghị hồn thiện pháp luật”, tác giả Lê Thu Trang (Tạp chí Kiểm sát số 7/2017);...

Nhóm giáo trình, sách bình luận thường khơng đi sâu vào vấn đề chung sống như vợ chồng mà chỉ tập trung vào các khía cạnh chính của hơn nhân - gia đình là kết hơn, ly hơn.

Ngồi ra, về mặt đời sống xã hội, chung sống như vợ chồng được nghiên cứu một cách khá toàn diện nhưng còn thiếu tập trung, thường mỗi một bài nghiên cứu của một tô chức, cá nhân cụ thể chỉ nghiên cứu về một nhóm đối tượng nhất định như: chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ dưới góc độ “sống thử”; chung sống như vo chồng giữa những người đồng giới, chuyển giới của các tổ chức bảo vệ quyền lợi cho đối tượng này:...

Như vậy, có thể thấy, dưới cả hai góc độ là xã hội và pháp luật, dù không nhiều nhưng cũng đã xuất hiện các cơng trình khoa học nghiên cứu về chung sống như vợ chồng. Tuy nhiên, nghiên cứu về hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng cũng như thực tiễn áp dụng là chưa có nhiều cơng trình và bài viết đề cập đến.Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các cơng trình đã được cơng bố trước đó, luận văn đi sâu vào nghiên cứu khía cạnh thực trạng giải quyết hậu quả pháp lý của việc chấm dứt việc chung sống như vợ chồng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>3. Mục tiêu nghiên cứu và mục đích nghiên cứu của luận văn</small>

- Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và pháp luật về giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng và thực tiễn giải quyết tại Toà án nhân dân thành phố Thanh Hố; qua đó đề xuất một số ý kiến để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sông như vợ chồng trong việc xét xử tai Tồ án nhân dân thành phơ Thanh Hố.

<small>- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:</small>

+ Làm rõ những van dé lý luận dé đưa ra khái niệm về chung sống như vợ chồng: + Làm rõ các trường hợp chung sống như vợ chồng;

+ Khái quát pháp luật Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1959 đến trước năm

2014 quy định về giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng:

<small>+ Phân tích, đánh giá quy định của Luật hơn và nhân gia đình năm 2014 giải</small>

quyết hậu quả pháp lý của việc chung sơng như vợ chồng:

+ Tìm hiểu thực tiễn áp dụng xét xử của Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá về giải quyết quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng trong 05 năm (từ năm 2013 đến năm 2016), 6 tháng đầu năm 2017 và qua các vụ án cụ thé.

+ Trên cơ sở tìm hiểu những van dé lý luận và thực trạng thực thi pháp luật như trên, đề xuất các giải pháp hoàn thiện cụ thể những kiến nghị nhăm hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hơn nhân gia đình.

4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

<small>Dưới góc độ phạm vi nghiên cứu cua một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung</small>

nghiên cứu về một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến chung sống như vợ chồng; quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề này, đặc biệt là các

quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn luật

này; thực tiễn giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng tại Toà án nhân dân thành phố Thanh Hố.

Trong đó, tác giả cịn trích dẫn và phân tích một số vụ án điển hình mà Tồ án nhân dân thành phố Thanh Hố đã giải quyết, số liệu thơng kê thực tế về chung sống như vợ chồng trong nhiều giai đoạn khác nhau dé bài viết thêm tính thuyết phục.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

phân tích các hạn chế của pháp luật; nghiên cứu thực tiễn các vấn đề liên quan đến việc chung sống như vợ chồng. Từ đó, tác giả nêu lên những đề xuất nhằm hoàn

<small>thiện quy định của pháp luật.6. Phương pháp nghiên cứu</small>

<small>Dựa trên cơ sở là các phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng</small>

H6 Chi Minh, quan điểm của Dang và nhà nước ta về hơn nhân gia đình,

<small>Luận văn được thực hiện thơng qua các phương pháp như sau:</small>

- Phương pháp phân tích: được sử dụng khi phân tích các van dé liên quan đến hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng:

- Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng để khái quát hóa nội dung cần nghiên cứu, đưa ra hướng nghiên cứu một cách có lơ-gic dé làm sáng tỏ vấn dé cần nghiên cứu;

- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để nghiên cứu, xem xét pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ về việc chung sống như vợ chồng là liên hệ với pháp luật của một số quốc gia khác trên thế giới;

- Phương pháp thống kê: được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn hoạt động xét xử của ngành Toà án, qua số liệu của các cơ quan khác trong q trình triển khai các quy định của Luật hơn nhân và gia đình nói chung và các quy định về hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng nói riêng. Trên cơ sở các số liệu đó, giúp ta tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng đã thực sự đi vào đời sống và phát huy tác dụng hay chưa? Từ đó, đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hậu quả pháp lý của việc chung sống như VỢ chồng với thực tiễn đời sống xã hội.

7. Ý nghĩa nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 ra đời đã quy định về việc giải quyết hậu quả việc nam, nữ chung sống như vợ chồng trong ba Điều luật: Điều 14, 15 và 16.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<small>Ngồi ý nghĩa là một cơng trình nghiên cứu riêng của hậu quả pháp lý của việc</small>

chung sống như vo chồng dé hồn thành chương trình học tập và báo cáo tốt nghiệp

<small>lớp Cao học ứng dụng Luật dân sự khoá 23 của trường Đại học Luật Hà Nội, việc</small>

nghiên cứu dé tài cịn có ý nghĩa đi sâu phân tích các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật đối với những trường hợp chung sống như vợ chồng ở tinh Thanh Hố, dé từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm mục đích

<small>xây dựng và hồn thiện pháp luật.</small>

Luận văn có thé được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho người học ở các cơ sở đào tạo luật của Việt Nam trong chuyên ngành luật hôn nhân và gia đình. Đồng thời có thé làm tài liệu tham khảo cho Thâm phán, Kiểm sát viên nghiên cứu, vận dụng và thực hiện trong thực tiễn công tác. Luận văn có thé là tài liệu tham khảo trong việc hoàn thiện quy định của pháp luật, cho việc xây dựng các quy chế hoạt động của Toà án nhân dân cũng như các quy chế phối hợp liên ngành, phục vụ cho công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, bồi dưỡng cán bộ của Toà án. Luận văn cũng là một nguồn tài liệu cho những bạn đọc quan tâm đến lĩnh vực khoa học này.

8. Kết cầu của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có

<small>nội dung chính như sau:</small>

Chương 1: Khái quát chung về giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng.

Chương 2: Giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng tại Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá và một số kiến nghị.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

1.1. Khái niệm chung về chung sống như vợ chồng và giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng

1.1.1. Khái niệm nam nữ chung sống như vợ chong

Theo Dai từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Y', “chung” được hiểu là cùng với nhau làm gì đó, như vậy, “chung sống” là cùng sống với nhau. “Vợ chồng” là danh từ chỉ vợ và chồng nói chung. Từ đây, gộp nghĩa của hai từ lại ta có thé hiểu, “chung sống như vợ chồng” là việc cùng sống với nhau và coi nhau như vợ chồng mặc dù chưa đăng ký kết hơn.

Trên thực tế, có nhiều khái niệm chung sống như vợ chồng như:

Dưới góc nhìn của những nhà xã hội, văn hóa, chung sống như vợ chồng là việc sống thử - chung sống phi hôn nhân, theo đó các cặp nam nữ về sống chung với nhau như vợ chồng, nhưng không tô chức hôn lễ cũng như đăng ký kết hơn.

Dưới góc độ pháp lý thuật ngữ “chung sống như vợ chồng” chỉ quan hệ vợ chồng mà khi xác lập quan hệ đó các bên nam nữ không tiễn hành đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Mặc dù, khơng có giấy chứng nhận kết hôn nhưng các bên nam nữ vẫn chung sống với nhau như vợ chồng và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, với gia đình và xã hội.

Tuy nhiên, cần phải thay rằng, hai quan điểm kê trên đều chưa bao quát được toàn bộ các trường hợp chung sống như vợ chồng và đặc điểm của nó.

Bởi, thứ nhất, về mặt chủ thể, ở cả hai khái niệm đều chỉ nói tới nhóm chủ thể duy nhất là nam - nữ. Nhưng trong thực tế, ta không thấy hiếm gặp các trường hợp chung sống như vợ chồng giữa nam - nam; nữ - nữ; người chuyển giới nhưng chưa tiến hành phẫu thuật chun đơi giới tính, mặc dù ở cả phương diện sinh học và pháp luật đều đang mang một giới tính nhưng lại chung sống với người cùng giới <small>'Nguyễn Như Y va d.t.g (1996), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo Duc, Hà Nội, tr.399</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<small>tính đó của mình. Ví dụ như những trường hợp vì khơng có đủ khả năng tài chính,</small>

lo sợ các van đề y tế mà khơng tiến hành phẫu thuật chuyền giới, nhìn bề ngồi và trên giấy tờ là nam nhưng vẫn yêu và sống chung với một nam giới khác. Ngoài ra, đối với người chuyển giới cịn có trường hợp người đó đã phẫu thuật chun đổi giới tính, nghĩa là về mặt hình hài người đó hồn tồn khác biệt với giới tính ghi trong các giấy tờ tùy thân mà pháp luật quy định. Khi đó, việc chung sống giữa họ

<small>sẽ được thực hiện với một người khác giới tính hiện có của mình. Như vậy, hai khái</small>

niệm đã làm hẹp phạm vi chủ thể cần có.

Thứ hai, là về hành vi chung sống. Trong việc chung sông như vợ chồng phải có chứng cứ là hai người đã và đang chung sống với nhau như vợ chồng về mặt thực tế, nếu khơng có hành vi chung sống thì vấn đề công nhận vợ chồng cũng không cần phải đặt ra. Trong thực tế việc xác định nam nữ chung sống như vợ chồng gặp nhiều khó khăn. Căn cứ dé làm chuẩn mực cho việc đánh giá về hành vi chung sống như vợ chồng của các bên hết sức đa dạng và phong phú. Vì vậy, tơng hợp qua thực tiễn xét xử của Tồ án ta có thể chia thành hai nhóm biểu hiện của hành vi chung sống như vợ chồng là tổ chức chung sống công khai, có thé t6 chức lễ cưới hoặc khơng, có thể có đời sống tình dục hoặc khơng, cùng tiến hành chăm sóc, yêu thương lẫn nhau. Hoặc là việc chung sống lén lút, khơng cơng khai, cũng có thé có đời sống tinh dục hoặc khơng và van coi nhau như vợ chồng mà chăm sóc

<small>nhau. Như vậy, một khái niệm hoàn chỉnh phải nêu bật lên được cả hai nhóm hànhvi là cơng khai và khơng cơng khai. Tuy nhiên, đọc hai khái niệm nêu trên, ta không</small>

thấy xuất hiện yếu tô hành vi chung sống.

Thứ ba là về hậu quả của hành vi. Đây là một yếu tố quan trọng, giúp ta phân biệt được chung sống như vợ chồng với một vài các hiện tượng khác như ngoại tình, cặp bồ. Ta có thé ké tới một số hậu quả trên thực tế như: có con chung, có tài

sản chung,... Tuy nhiên, trên góc độ thực tế, có thể nhận định rằng, VIỆC CĨ con

chung hay tài sản chung... là điều tất yếu xảy ra với những cặp chung sống như vợ chồng. Và vì vậy, theo ý kiến của tác giả, không nhất thiết phải đề cập tới phương

<small>diện này trong khái niệm.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Như vậy, từ ba phân tích kê trên, ta chưa có được một khái niệm hồn chỉnh

cho chung sống như vợ chồng. Hiện nay, mặc dù trên nhiều lĩnh vực, phương diện,

có nhiều nhà nghiên cứu hay các luật sư, thâm phán đã đưa ra quan điểm nhưng hau như vẫn chưa có một khái niệm nào là thực sự đầy đủ và bao hàm toàn bộ các trường hợp cũng như biểu hiện của nó trên thực tế.

<small>Luật hơn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) năm 2014 ra đời đã quy</small>

định tại Khoản 7 Điều 3 như sau: “Chung sống như vợ chong là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”. Như vậy, ké từ ngày

<small>01/01/2015 (ngày Luật HN&GD năm 2014 có hiệu lực) thì đây là khái niệmpháp lý chính thức dành cho người dân, người thực thi pháp luật và áp dụng pháp</small>

<small>luật. Tuy nhiên, căn cứ vào ba tiêu chí phân tích như trên, khái niệm mà Luật</small> HN&GD đưa ra vẫn chưa hồn chỉnh và cịn nhiều thiếu sót.

Chung sống như vợ chồng mà pháp luật thừa nhận chỉ tồn tại giữa nam và nữ. Nhưng cần lưu ý rằng, việc xác định giới tính là nam hay nữ sẽ được căn cứ vào các giấy tờ tùy thân như chứng minh thư, giấy khai sinh, hộ khau,... chứ khơng phải căn cứ vào ngoại hình hay bản chất con người thật. Điều này đã vơ tình làm thiếu đi một nhóm các chủ thê khác. Đồng thời cũng là sự bất bình đăng với những người đồng giới, chuyển giới.

Về hành vi, ở đây luật chỉ nêu lên một cụm từ mơ hồ và khó hiểu là “2ổ chức cuộc sống chung”. Do đó, dé hiểu một cách đầy đủ thì ta cần hiểu là việc có tổ chức lễ cưới khi về chung sống như với nhau, việc nam nữ về chung sống với nhau có được gia đình (một hoặc hai bên) chấp nhận, cùng chung sống dưới một mái nhà

<small>một cách công khai hoặc khơng cơng khai, thường xun, có quan hệ tình dục vớinhau hoặc không.</small>

Cụm từ “coi nhau là vợ chong” cũng là cụm từ chung chung. Ta có thé tam hiểu đây là cách thức mà hai bên chung sống, đối xử với nhau và xuất phát từ đây sẽ

<small>phát sinh ra hậu quả của hành vi như đã trình bày ở trên. Hai bên “coi nhau là vợ</small>

chồng ” nên chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình, họ trao cho nhau những quyên và gánh vác các nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho các cặp đôi đã đăng ký kết hôn như việc tơn trọng, u thương, vun đắp cuộc sống gia đình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Một lần nữa, cần khăng định rằng, luật thực định đã đưa ra một khái niệm chưa hoàn chỉnh, chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống ngày nay. Khái niệm mà Luật HN&GD quy định không chỉ chưa bao qt được tồn bộ các nhóm chủ thé mà cịn thiếu những thơng tin cần thiết, cụ thé dé nhận biết quan hệ này.

Căn cứ vào một loạt các phân tích ké trên, tác giả xin đưa ra khái niệm chung sống như vợ chồng như sau: Chung sống như vợ chong là việc hai cá nhân thoả thuận chung sống với nhau như vợ chong mà không đăng ký kết hôn”

Thực tế trong những năm qua cho thấy tình trang nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn xảy ra tương đối phổ biến. Có rất nhiều nguyên nhân, lý do dẫn đến việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ý kết hôn, do vậy trên thực tế cũng tồn tại nhiều trường hợp chung sống như vợ chồng trong xã hội. Mỗi loại hình chung sống lại mang trong minh căn nguyên khác nhau từ đó cũng dé lại những hậu quả khác nhau, do vậy cách giải quyết hậu qua

<small>pháp ly cũng từ đó mà khác nhau. Căn cứ vào các quy định của Luật HN&GD,</small>

trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả xin đưa ra một số trường hợp chung sống như vợ chồng đang tôn tại trong xã hội hiện nay:

* Nam nữ chung sống như vợ chồng không trái pháp luật

Nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng không bị coi là trái pháp luật là việc chung sống như vợ chồng không vi phạm các hành vi cam quy định tại các các điểm b,c và d Khoản 2 Điều 5 Luật HN&GD năm 2014:

<small>- Không tảo hôn;</small>

- Khơng chung sống như vợ chồng với người đang có vợ, có chồng hoặc chung sống như vợ chồng hoặc chưa có vợ, chưa có chồng màchung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

- Khơng chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về

<small>trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với</small>

con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu,

<small>mẹ vợ với con rê, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kê với con riêng của chông.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Tuy nhiên, hiện nay pháp luật về hơn nhân gia đình chưa quy định cụ thê về các trường hợp chung sống như vợ chồng cụ thé mà lại chỉ đề cập đến thuật ngữ: “nam, nữ có diéu kiện kết hơn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chong” (khoản 1, Điều 14 Luật HN&GD 2014). Việc quy định về việc chung sống như vợ chồng như vậy là chưa đầy đủ và chính xác, nội hàm của khái niệm này chưa liệt kê đầy đủ các trường hợp chung sống như vợ chồng trên thực tế. Như vậy, khái niệm đó hẹp hơn so với trường hợp chung sống như vợ chồng không trái

<small>pháp luật ở trên.</small>

* Nam nữ chung song như vợ chong trái pháp luật

Chung sống như vợ chong trái pháp luật là việc nam nữ chung sống với nhau nhưng khơng tiến hành đăng kí kết hôn (DKKH); đồng thời việc chung sống này vi phạm quy định cấm của pháp luật tại Điều 5, Luật HN&GD năm 2014. Luật HN&GD 2014 không quy định về như thế nào là chung sống như vo chong trái pháp luật, tuy nhiên dựa trên điều luật đó cùng các văn bản hướng dẫn khác có liên quan, ta có thé chia chung sống như vợ chong trái pháp luật thành các trường hợp.

Thư nhất, chung song như vợ chồng khi một bên hoặc cả hai bên dưới tuôi luật định (chưa đến tuổi kết hôn).

Độ tuổi là một trong những điều kiện đầu tiên trong việc kết hôn được quy định tại Điều 8 Luật HN&GD năm 2014 “Nam tir đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên ”.

Đồng thời, Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp về hướng dan thi hành một số quy định của Luật HN&GD (sau đây gọi là TTLT số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP) cũng quy định “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ du 18 tuổi trở lên” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật HN&GD là trường hợp nam đã đủ hai mươi tuổi, nữ đã đủ mười tám tuôi trở

<small>lên và được xác định theo ngày, tháng, năm sinh.</small>

<small>Truong hợp không xác định được ngày sinh, tháng sinh thì thực hiện như sau:</small>

a) Nếu xác định được năm sinh nhưng không xác định được tháng sinh thì

<small>thang sinh được xác định là thang một cua năm sinh;</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

b) Nếu xác định được năm sinh, tháng sinh nhưng không xác định được ngày <small>sinh thì ngày sinh được xác định là ngày mùng một của tháng sinh.</small>

Tảo hôn là việc lấy VỢ, lay chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 8 của luật này. Mặt khác điểm b khoản 2 Điều 5 Luật HN&GD năm 2014 quy định cấm hành vi tảo hơn. Do đó có thé khang định việc chung sống như vợ chồng dưới tuổi luật định khơng đăng kí kết hơn là chung sống như vợ chồng trái pháp luật.

<small>Nguyên nhân của tình trạng này là do phong tục tập quán của địa phương hay</small>

là do nguyện vọng của hai bên gia đình mong muốn các con được thành lập gia đình sớm, hoặc đo tình u đơi lứa của hai bên nam nữ maho muốn chung sống với nhau dù chưa đến tuổi được kết hôn. Tảo hôn không chỉ là việc nam, nữ kết hơn trước tuổi luật định mà cịn bao gồm cả trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng trước tuổi luật định.

Thứ hai, chung sông như vợ chồng giữa nam và nữ mà một bên hoặc cả hai

bên đang có vợ, có chồng.

Tại Điểm c khoản 2 Điều 5 Luật HN&GD năm 2014 quy định về cắm các hành vi dé bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình : “øgười dang có vợ có chỗng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chong với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chong mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chẳng với người đang có chẳng, có vợ”

Cùng theo quy định tại khoản 4 Điều 2 TTLT số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì “Người đang có vợ hoặc có chồng” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 của Luật HN&GD là người thuộc một trong các trường hợp sau đây:

“a) Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hơn nhân và gia đình nhưng chưa ly hơn hoặc khơng có sự kiện vợ (chồng)

của họ chết hoặc vợ (chong) của ho không bị tuyên bố là đã chết;

b) Người xác lập quan hệ vợ chong với người khác trước ngày 03-01-1987 mà chưa đăng kỷ kết hơn và chưa ly hơn hoặc khơng có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;

c) Người đã kết hôn với người khác vi phạm điều kiện kết hơn theo quy

<small>định của Luật HN@&(Œ1® nhưng đã được Toa an công nhận quan hệ hôn nhân</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

bằng bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật và chưa ly hơn

hoặc khơng có sự kiện vợ (chông) của họ chết hoặc vợ (chông) của họ không

bị tuyên bố là đã chết. ”

Như vậy, có thể nói một người đang có vợ, có chồng được hiểu là khi người đó đang tồn tại một quan hệ hơn nhân hợp pháp thì được coi là đang có vợ có chồng.

Nguyên nhân này là do mặt trái của nền kinh tế thị trường dẫn đến sự xuống

cấp về đạo đức, tác động đến quan hệ vợ chồng, nhiều giá trị tốt đẹp của gia đình

Việt Nam bị phá vỡ, hiện tượng ngoại tình diễn ra ngày một nhiều, ngoại tình khơng

chỉ có ở người chồng mà cịn xảy ra ở người vợ. Tình trạng này làm hạnh phúc gia đình khơng cịn được bền vững.

Thứ ba, trường hợp thuộc điểm d khoản 2 Điều 5 Luật HN&GD năm 2014. Điểm d khoản 2 Điều 5 Luật HN&GD năm 2014 quy định: “kết hôn hoặc chung sống như vợ chong giữa những người cùng dòng máu trực hệ, giữa những <small>người có họ trong phạm vi ba đời, giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa những</small>

người đã từng là cha, mẹ nuôi với con, cha chong voi con dâu, me vợ với con ré,

cha duong với con riêng của vợ, me kế với con riêng của chong”.

Trường hợp này bị coi là chung sống trái pháp luật, các quan hệ này mang tính chất “loạn luận” làm cho đời sau phải gánh chịu hậu quả do đời trước để lại, ảnh hưởng tới chất lượng nịi giống. Do đó, pháp luật cắm hành vi này bởi nó sẽ làm mat đi giá trị tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Tình trạng này thường diễn ra ở những nơi có đồng bào dân tộc. Họ là những người có trình độ dân trí thấp, khơng hiểu biết pháp luật. Tình trạng này dẫn đến nhiều trường hợp hôn nhân cận huyết, làm ảnh hưởng không nhỏ tới giống nòi.

Như vậy, chung sống như vợ chồng nếu thuộc các hành vi quy định ở trên thì sẽ là các hành vi chung sống như vợ chong trái pháp luật.

* Giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng và được pháp luật công nhận là vợ chồng

Nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng có giá trị pháp lý là những trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 (trước ngày Luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

HN&GD năm 1986 có hiệu lực). Những trường hợp này thi dù họ đăng ký kết hơn hay khơng thì thời kỳ hơn nhân của họ vẫn được tính từ thời điểm họ chung sống

<small>với nhau.</small>

Cũng tại điểm b khoản 4 Điều 2 sau đây gọi là TTLT số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP quy định: “Người dang có vợ hoặc có chong” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 của Luật HN&GD năm 2014 là người thuộc trường hợp sau đây: “Người xác lập quan hệ vợ chong với người khác trước ngày 03-01-1987 mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hơn hoặc khơng có sự kiện vợ (chong) của họ

chết hoặc vợ (chong) cua ho không bị tuyên bố là đã chết”.

Và tại Khoản 3, Điều 25, thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày ngày 16 tháng 11 năm 2015 của Bộ tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, hướng dẫn về cách ghi “Tình trạng hơn nhân” trong giấy xác nhận tình trạng hơn nhân đối với trường hợp chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 như sau: “Nếu là trường hợp chung sống với nhau như vợ chong trước ngày 03/01/1987 và vẫn chung sống với nhau mà chưa đăng ký kết hơn thì ghi “Hiện tại đang có vợ/chồng là bà/ông...”.

Như vậy, căn cứ vào những văn bản hướng dẫn trên thì trường hợp nam, nữ

chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 vẫn được pháp luật thừa nhận quan hệ hơn nhân. Theo đó, khi có u cầu ly hôn sẽ được thụ lý giải quyết việc ly hơn nếu các bên có u cầu, quyền và nghĩa vụ của các bên được pháp luật giải quyết như đối với trường hop vợ chồng ly hôn. Quyền lợi của người phụ nữ sẽ được bảo vệ như người vợ trong trường hợp nam, nữ có đăng ký kết hơn. Nếu người vợ đang có thai, sinh con hoặc ni con dưới 12 tháng tuổi thì người chồng khơng được quyền u cầu ly hơn, hay nói cách khác người chồng bị hạn chế quyền yêu

cầu ly hôn (Khoản 3 Điều 51 Luật HN&GD năm 2014).' <small>Việc pháp luật quy định như vậy là hợp lý bởi:</small>

<small>? Lê Thu Trang (2015), Quyên lợi của các bên chung sống như vợ chông không đăng ký kết hôn mà</small>

<small>xin ly hơn, Tạp chí dân chu và pháp luật;</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Thứ nhất, quan hệ này được xác lập trong một thời điểm đặc biệt, trước khi có Luật HN&GD năm 1986, chúng ta mat một khoảng thời gian dài đất nước bị chia cắt. Điều này tác động không nhỏ tới vấn đề vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn.

Thứ hai, các quan hệ được xác lập trước ngày 03/01/1987, tính đến thời điểm

Luật HN&GD năm 2014 có hiệu lực, đã trải qua một thời gian dài, mỗi quan hệ

giữa hai bên nam, nữ cũng đã ồn định. Bởi vậy công nhận giá trị pháp lý đối với những trường hợp này là cần thiết để ôn định quan hệ hơn nhân gia đình tránh những xáo trộn trong đời đống gia đình của họ.

1.1.2. Khái niệm giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chong

Giải quyết là việc lựa chọn các phương thức thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, hài hịa lợi ích của các chủ thể trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên và quy định của pháp luật, giúp đảm bảo trật tự, ôn định xã hội .

Theo từ điển Tiếng Việt, hậu quả được hiểu là kết quả không hay về sau. Như vậy, hiểu theo định nghĩa này, hậu quả của việc chung sống như vợ chồng chính là những kết quả không hay khi giữa hai người chung sống như vợ chồng khơng cịn tình cảm và họ khơng cịn muốn chung sống đưới một mái nhà, cùng nhau xây dựng gia đình và chăm sóc con cái nữa. Thực tế nếu như trong quan hệ chung sống như vợ chồng giữa hai người tham gia vào quan hệ luôn u thương và có một cuộc sống hạnh phúc thì có lẽ, chung sống như vợ chồng sẽ mang lại cho cả hai bên nhiều những niềm vui, sự lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống và tình u. Ngồi ra, với các trường hợp chung sống như vợ chồng được coi là sống thử trước hơn nhân thì nhìn chung, ta coi việc chung sống này như một cơ hội dé ta có được lựa chọn tốt nhất về người vợ, người chồng của mình trong tương lai. Đồng thời, việc chung sống như vợ chồng do không đăng ký kết hơn nên khơng có ràng buộc, hai bên có thé dé dàng cham dứt mối quan hệ bat kì lúc nào mình muốn mà khơng cần phải thơng qua một cơ quan, tơ chức nào cả.Tuy nhiên, nhìn chung, việc chung sống như <small>vợ chông sẽ đem lại nhiêu hệ quả xâu hơn là những hệ quả tích cực kê trên.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Về mặt pháp luật, hậu quả pháp ly của việc chung sống như vo chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản và con cái giữa hai người chung sống như vợ chong khi ly hôn.

- Về quan hệ nhân thân

Khi hai bên nam, nữ chung sống như vợ chồng do không có sự kiện pháp lý là ĐKKH nên giữa hai bên không phát sinh quyên và nghĩa vụ về nhân thân. Khi thụ lý giải quyết, Toà án sẽ tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chong.

- Về quan hệ tài sản

Khi nam, nữ chung sống như vợ chồng có yêu cầu chấm dứt quan hệ, hay

tranh chấp về tài sản, con cái thì họ khó có thể thoả thuận thong nhat trong viéc

phân chia tài san, nuôi dưỡng con cái nên cần có một cơ quan Nha nước có đủ tham quyên tiến hành giải quyết việc giải quyết các hậu quả sau khi họ chung sống như

VỢ chồng. Theo khoản 7 Điều 28 Bộ luật Tố Tung dân sự năm 2015 (BLTTDS

2015) [3] quy định: “Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật thuộc thâm quyên giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng của Toà án”.

Khi một trong hai bên nam, nữ chung sống như vợ chồng có đơn gửi đến Tồ án u cầu giải quyết ly hôn và cùng với việc ly hôn họ yêu cầu giải quyết về tài sản va con cái thì Toa án sẽ tiễn hành thụ lý vụ án, thực hiện các thủ tục, quy trình tơ tụng đã được pháp luật Tố tụng quy đinh như: lẫy lời khai, thu thập chứng cứ, hoà giải, mở phiên toà....Các bước tố tụng này giúp Tồ án có thể xem xét, đánh giá chứng cứ, cân nhắc ký, quyết định về tính hợp pháp, hợp lý trong lời khai, chứng cứ do các bên đưa ra dé đưa ra các quyết định cuối cùng.

- Về quan hệ cha, mẹ và con:

<small>Quan hệ giữa cha mẹ và con là một quan hệ thiêng liêng, được Nhà nước bảo</small>

vệ và điều chỉnh bằng các quy định pháp luật.Thông thường quan hệ giữa cha mẹ và con được phát sinh từ sự kiện sinh đẻ. Khi một đứa trẻ ra đời, quan hệ huyết thống

<small>là căn cứ phát sinh quan hệ giữa cha mẹ và con.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<small>Quan hệ cha me va con là loại quan hệ xã hội đặc biệt hình thành giữa những</small>

chủ thé có quan hệ gần gũi, gắn bó và thân thiết nhất trong gia đình.Pháp luật chỉ điều chỉnh các quan hệ cơ bản, chủ yếu nhất trong quan hệ cha, mẹ và con.Nội dung quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con là nghĩa vụ và quyền nhân thân; nghĩa vụ và quyên tài sản của cha mẹ đối với con. Bên cạnh đó cịn bao gồm cả nghĩa vụ và quyền nhân thân, nghĩa vụ và quyên tài sản của con đối với cha me.

Khi xác định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái, luật chỉ dựa vào sự ton tại của quan hệ giữa cha mẹ - con cái, khơng phân biệt tính chất của quan hệ đó theo tính chất của quan hệ giữa cha và mẹ, là vợ chồng hợp pháp hay chung sông

như vợ chồng. Sự kiện chấm dứt quan hệ giữa nam, nữ chung sống như vợ chồng,

nhưng quan hệ giữa cha mẹ và con cái về nguyên tắc không thay đổi. Cha mẹ vẫn phải thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình đối với con cái, nhưng cách thức thực hiện quyền và nghĩa vụ này có những đặc thù nhất định, không giống như trong thời kỳ chung sống. Trong quan hệ giữa cha, mẹ và con thì cha và mẹ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chăm sóc, ni dưỡng. Tuy nhiên, khi cha

mẹ chung sống như vợ chồng, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái có sự khác nhau. Khi cha mẹ chấm dứt quan hệ chung sống, con chỉ có thể ở

<small>cùng với một trong hai bên, do đó, sự gặp gỡ, chăm sóc, giáo dục,... của bên khơng</small> trực tiếp ni con sẽ ít nhiều bị hạn chế hơn so với bên kia. Con không sống chung với cha, mẹ dưới một mái nhà không thé thụ hưởng sự chăm sóc, quan tâm, giáo dục từ cha mẹ trong cùng những điều kiện như con sống chung với cha mẹ.

Như vậy, giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng là cách thức mà pháp luật quy định đề xử lý các quan hệ về nhân thân, tài sản, và con cái giữa hai người nam, nữ chung sống như vợ chồng với nhau, giữa hai người nam, nữ chung sông như vợ chồng với người thứ ba với con cái khi họ chấm dứt việc chung sống.

1.2. Sơ lược pháp luật điều chỉnh quyền và lợi ích của nam, nữ chung sống như vợ chồng và giải quyết hậu quả pháp lý

1.2.1. Giai đoạn áp dụng Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 và giải quyết

<small>hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sông như vợ chong</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Điều 11 Luật HN&GD năm 1959 quy định: “Việc kết hơn phải được Ủy ban

<small>hành chính cơ sở nơi tru quan của bên người con trai hoặc bên người con gái cơng</small>

nhận và ghi vào số kết hơn. Mọi hình thức kết hơn khác déu khong có giả tri vé mặt

<small>pháp luật ”</small>

Như vậy, theo Luật HN&GD năm 1959, van đề ĐKKH là thủ tục bắt buộc để hôn nhân có hiệu lực pháp luật, những trường hợp chung sống như vợ chồng không

<small>DKKH sẽ không được Nhà nước thừa nhận. Tuy nhiên, đây là thời kì nước ta đang</small>

trải qua cuộc chiến tranh chống Mỹ, kéo dai suốt hơn 20 năm, việc mọi người tiễn hành kết hôn vẫn chỉ theo thông lệ, phong tục cũ mà chưa tiến hành tuân theo quy định của pháp luật, hay nếu có muốn tn theo thì đơi khi cũng khơng có điều kiện dé thực hiện: thiếu cơ sở vật chất, cán bộ... Ma theo pháp luật, nếu hôn nhân không được công nhận, khi xảy ra các tranh chấp hay vấn đề phát sinh sẽ không

<small>được pháp luật bảo hộ. Trong hồn cảnh như vậy, Nhà nước khơng chỉ thừa nhận</small>

những quan hệ hơn nhân có đăng kí là hợp pháp mà cả những quan hệ chung sống như vợ chồng mà không vi phạm pháp luật cũng được coi là hợp pháp. Lúc này, để bảo vệ quyền lợi của các bên nam, nữ song vẫn thể hiện được việc tuân thủ Luật HN&GD về các điều kiện kết hơn, tại Thơng tư số 112/NCPL ngày 19/8/1972 Tồ án nhân dân (TAND) tối cao hướng dẫn việc xử lý việc kết hôn vi phạm thủ tục ĐKKH với nội dung sau: “Chi coi là hôn nhân thực tế việc kết hôn chưa dang ký, kết hôn mà hai bên nam nữ đã tuân thủ đây đủ các diéu kiện kết hôn khác chỉ vi phạm thủ tục đăng ky kết hôn. Kẻ từ khi kết hôn đã thực sự chung sống cơng khai,

<small>gánh vác chung cơng việc gia đình, được họ hàng, xã hội xung quanh coi nhự vợ</small>

chồng”. “Hôn nhân thực tế” là thuật ngữ chỉ quan hệ vợ chồng mà khi xác lập quan hệ đó các bên nam, nữ không tiễn hành ĐKKH theo quy định của pháp luật. Mặc dù, khơng có giấy chứng nhận kết hôn nhưng các bên nam, nữ vẫn chung sống như vợ chồng và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, với gia đình

<small>và xã hội.</small>

Thừa nhận quan hệ chung sống như vợ chồng không ĐKKH điều đó có nghĩa quan hệ hơn nhân của hai bên nam, nữ được pháp luật bảo vệ. Theo tinh thần của

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

hướng dẫn này, không phải mọi quan hệ hôn nhân vi phạm thủ tục ĐKKH đều được

<small>pháp luật bảo vệ mà chi có những quan hệ hôn nhân vi phạm thủ tục ĐKKH nhưng</small>

phải thoả mãn các “điều kiện”: tuân thủ đầy đủ các điều kiện ĐKKH khác, hai bên thực sự chung sống cơng khai, gánh vác chung cơng việc gia đình, được họ hàng, xã hội xung quanh coi như vợ chồng. Như vậy, về mặt pháp luật các bên phải đảm bảo điều kiện về độ tuổi kết hôn, tự nguyện xác lập hôn nhân và không được rơi vào các trường hợp cấm kết hơn.

<small>Nói tóm lại, như những phân tích đã nêu ra ở trên, pháp luật nước ta thời kì</small>

này nhìn chung là thừa nhận trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng là hôn nhân thực tế, khi họ có yêu cầu cham dứt việc chung sống thì sẽ được giải quyết như quy định của pháp luật khi giải quyết ly hôn.

1.2.2. Giai đoạn áp dụng Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 và giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng

Tại Điều 8 Luật HN&GD năm 1986 quy định:

“Việc kết hôn do uy ban nhân dân xã, phường, thị tran nơi thường trú của một trong hai người kết hôn công nhận và ghi vào số kết hôn theo nghỉ thức do nha

<small>nước quy định.</small>

Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài do cơ quan đại

<small>điện ngoại giao của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam cơng nhận.</small>

Mọi nghỉ thức kết hơn khác đều khơng có giá trị pháp lý”

Về ngun tắc, chỉ có những quan hệ hơn nhân có ĐKKH mới là hợp pháp và mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp luật giữa vợ và chồng.

Dé giải quyết các trường hợp chung sống như vợ chồng, TAND tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/HĐTP ngày 20/01/1988 của hội đồng thâm phán TAND tối cao, hướng dẫn áp dụng một sé quy dinh cua Luat HN&GD nam 1986. Cu thé, tại mục 2 của văn bản có quy định: “7rong thực tế vẫn có khơng ít trường hợp kết hơn khơng có đăng ký. Việc này tuy có vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không phải là việc kết hôn trái pháp luật, nếu việc kết hôn không trải các diéu 5, 6, 7. Trong những trường hợp này, nếu có một hoặc hai bên xin ly hơn, Tịa án khơng hủy việc kết hôn theo điều 9 mà xử như việc ly hôn theo điều 40”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Các điều 5, 6, 7 là các quy định về độ tuổi kết hôn; sự tự do trong hôn nhân và các trường hợp cam kết hôn. Trường hợp tiến hành đăng ký kết hơn mà vi phạm các điều này thì gọi là kết hôn trái pháp luật và sẽ bị tịa án tun bố hủy việc kết hơn.

Ngược lại, việc không đăng ký mà không vi phạm sẽ được coi là hôn nhân thực tế.

Khi xảy ra tranh chấp và kiện ra tịa thì tịa án sẽ xử ly hơn và giải quyết theo các quy định chung về con cái, tài sản mà luật áp dung cho vợ chồng hợp pháp.

Tại kết luận của TAND tối cao tại Hội nghị tơng kết cơng tác ngành tịa án năm 1995: dé đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự, nhất là đối với phụ nữ, Tòa án nhân dan tối cao tiếp tục thừa nhận “hôn nhân thực tế” đối với những cặp chung sống như vợ chồng với nhau không đăng ký kết hôn đã chung sống với nhau hàng

<small>chục năm có tài sản hoặc có con chung.</small>

Xét thấy, quy định ở hai văn bản ké trên là Nghị quyết số 01-NQ/HDTP của Hội đồng thâm phán và kết luận của Chánh án TAND tối cao là có khác nhau về cách thức giải quyết. Tuy nhiên, sự khác nhau này không được xem là mâu thuẫn

<small>giữa hai văn bản.</small>

Mặc dù trong Nghị quyết không hướng dẫn cụ thể về thời điểm chung sống, nhưng phải hiểu rang Tòa án chỉ thụ lý giải quyết như việc xin ly hôn theo điều 40 Luật HN&GD 1986 nếu những cặp nam nữ chung sống với nhau không đăng ký kết hơn trước ngày luật này có hiệu lực, chứ khơng phải ké từ ngày Luật HN&GD có hiệu lực trở về sau. Vì, nếu hướng dẫn cho cả về sau thì vơ hình chung, Hội đồng thâm phán TAND tối cao hướng dẫn trái pháp luật (vì Luật 1986 chỉ công nhận hôn nhân hợp pháp khi đáp ứng đủ điều kiện kết hơn và có đăng ký). Về kết luận của Chánh án TAND tối cao, do thời điểm tổ chức hội nghị là năm 1996 nên theo tinh thần hướng dẫn trong kết luận này, Tòa án cũng chỉ có thể thụ lý giải quyết như việc xin ly hơn theo điều 40 Luật HN&GD khi có đơn xin ly hôn của các cặp nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn trước ngày Luật HN&GD 1986 có

<small>hiệu lực.</small>

Nói tóm lại, Luật HN&GD 1986 không trực tiếp mà gián tiếp thừa nhận một hình thức chung sống như vợ chồng duy nhất là hôn nhân thực tế thông qua các văn

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

bản dưới luật khác nhau. Về cách thức giải quyết, mặc dù có sự nhìn nhận khác nhau nhưng tựu chung lại, đối với những cặp nam nữ chung sống với nhau sau ngày Luật HN&GD 1986 có hiệu lực mà khơng đăng ký kết hơn nếu có đơn xin ly hơn thì Toa án khơng thụ lý để giải quyết theo điều 40 Luật HN&GD về ly hôn mà chỉ thụ lý để giải quyết việc nuôi con và chia tài sản chung (nếu có yêu cầu) theo quy định tại Điều 9 Luật HN&GD và các quy định tương ứng của Bộ luật dân sự.

Việc quy định như vậy đã phần nào đảm bảo được quyền lợi cũng như nghĩa

<small>vụ của các bên trong quan hệ, đặc biệt là người phụ nữ và trẻ em.</small>

1.2.3. Giai đoạn áp dụng Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 và giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chong

Như đã trình bày ở trên, trong hai văn bản Luật HN&GD trước đó, chung sống như vợ chồng tuy không được quy định trong văn bản luật nhưng lại được đưa ra xem xét và có những quy định cụ thé tai văn bản đưới luật điều chỉnh. Cho đến khi Luật HN&GD năm 2000 ra đời vẫn đề này đã được các nhà làm luật thay đôi so

<small>với hai văn bản luật trước đây.</small>

Nhưng, cho đến luật năm 2000, do xuất phát từ sự phát triển nhanh chóng một cách tồn diện về cả kinh tế, xã hội, trình độ nhận thức,...cũng như những hệ lụy xấu mà tình trạng chung song như vợ chồng khơng được cơng nhận dem lại nên nó đã bị phủ nhận một cách tuyệt đi.

Luật HN&GD năm 2000 được Quốc hội Khoá 10 kỳ họp thứ 7 thơng qua ngày 09/6/2000, có hiệu lực từ ngày 01/01/2001. Điều 11 quy định: “Nam nữ không đăng ký kết hơn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng”. Như vay, kê từ ngày Luật HN&GD năm 2000 có hiệu lực, nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hơn, dù có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật cũng không được công nhận là hôn nhân thực tế. Luật

<small>này chỉ thừa nhận và bảo hộ cho các cuộc hơn nhân có đăng kí và tuân thủ quy định</small>

của pháp luật. Lúc này đã khơng cịn tơn tại khái niệm “hơn nhân thực tế” nữa. Việc Luật HN&GD năm 2000 không công nhận hôn nhân thực tế đối với các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng (kể từ ngày Luật này có hiệu lực) mà

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

khơng đăng ký kết hôn dựa trên những cơ sở lý luận và thực tế nhất định. Các cơ sở <small>đó là:</small>

- Sự phát triển của kinh tế, xã hội - một điều kiện cơ bản đảm bảo cho việc thực hiện đăng ký kết hôn.

- Công tác tuyên truyền, phô biến, giáo dục pháp luật đã được chú trọng.

- Hệ thống các cơ quan hộ tịch tiếp tục được củng cố cùng với những cải cách thủ tục hành chính - môi trường thuận lợi cho người đăng ký kết hôn.

- Không thừa nhận “hôn nhân thực tế” để đảm bảo tính pháp chế trong việc thừa nhận tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân, tạo điều kiện cho các Tồ án giải quyết các án kiện về hơn nhân gia đình được thuận lợi thống nhất.

Tuy nhiên, trên thực tế, có những trường hợp quan hệ hơn nhân được xác lập từ trước ngày Luật HN&GD năm 2000 có hiệu lực pháp luật bởi vậy van đề tồn tai trước đó là một điểm cần lưu ý và giải quyết. Do đó, tại Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GD (Nghị quyết số 35/2000/QH10), Nghị quyết số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính Phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GD và Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 đã có những hướng dẫn cu thé việc giải quyết về mặt pháp luật đối với những trường hợp vi phạm việc đăng ký kết hôn <small>từ trước ngày 01/01/2001. Theo đó chia thành hai nhóm như sau: Trong trường hợp</small> quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn sẽ không bị “buộc” phải đăng ký kết hơn thì được khuyến khích đăng ký kết hơn; Trong trường hợp ké từ ngày 03/01/1987 các bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà vi phạm thủ tục đăng ký kết hơn thì “buộc phải đăng ký kết hôn” va đăng ký “trong thời hạn hai năm kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003”.

Trong trường hợp thứ nhất, khi có tranh chấp dẫn tới ly hơn thì Tịa án thụ lý và giải quyết theo Luật HN&GD 2000. Mặc dù những cặp này không buộc phải đăng ký kết hôn nhưng giả sử họ vẫn tiến hành đăng ký thì quan hệ giữa họ, các

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

quyền và nghĩa vụ nhân thân, con cái, tài sản được xác lập và công nhận từ thời điểm họ tiến hành sống chung chứ không phải tại thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.

Trường hợp thứ hai, nếu trong khoảng thời gian 2 năm buộc phải đăng ký kết hôn mà xảy ra ly hơn thì Tịa án coi họ là vợ chồng và giải quyết theo thủ tục chung; nếu sau thời hạn 2 năm đó mà khơng tiến hành đăng ký thì Tịa án khơng cơng nhận ho là vợ chồng, chỉ giải quyết về con cái và tài sản theo duy nhất điều 17 Luật HN&GD 2000. Kê từ sau ngày 01/01/2003 họ mới đăng ký kết hôn và sau đó một bên hoặc cả hai bên có yêu cau ly hơn, thì Toa án thụ ly vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật HN&GD năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý là trong trường hợp này, thì quan hệ vợ chồng của họ chỉ được công nhận là đã xác lập kê từ ngày ho đăng ký kết hơn.

Cịn đối với những trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng kể từ ngày 01/01/2001 trở đi mà không đăng ký kết hôn đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng: nếu có u cầu giải quyết van đề ly hơn Tòa án sẽ giải quyết theo khoản 2, 3 Điều 17 của Luật HN&GD 2000 về tài sản và con chung. Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hơn. Đối với tài sản thì áp dụng quy định về tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc về người đó, tài sản chung chia theo

<small>thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được xét theo công sức đóng góp, xây dựng của</small>

mỗi cá nhân.

Nhu vậy, tại Luật HN&GD 2000, nhà nước ta kiên quyết xóa bỏ hôn nhân thực tế và chỉ đưa ra các quy định dé giải quyết van đề này. Mặt khác, pháp luật cũng hướng tới xây dựng quy chế pháp lý cho các cặp hơn nhân hợp pháp chứ hồn tồn bỏ qua các cặp chung sống như vợ chồng.

Và mới đây nhất, ngày 01/01/2015 Luật HN&GD mới đã chính thức có hiệu lực với những quy chế cụ thé hơn về việc thé nào là chung sống như vợ chồng cũng như cách thức giải quyết van dé này; điều đó cho thay quan điểm của những nhà lập pháp về chung sống như vợ chồng đã có cái nhìn rộng mở và bao quát hơn trước thực tế xã hội. Điều đó sẽ được phân tích cụ thé hơn ở phan tiếp theo của Luận văn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

1.3. Pháp luật hiện hành về giải quyết hậu qua pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng

1.3.1. Giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chong không trái pháp luật

1.3.1.1. Về quan hệ nhân thân

Về mặt pháp lý, thì trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng không bị coi là trái pháp luật nhưng cũng không được công nhận là vợ chồng, khi có đơn yêu cầu giải quyết hậu quả của việc chung sống này thì theo quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật HN&GD năm 2014 trường hợp khơng đăng ký kết hơn mà có u cầu ly hơn thì Tịa án sẽ thụ lý: “Trong trường hợp khơng dang ký kết hơn mà có u cau ly hơn thì Tịa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chong theo quy định tại khoản 1 Diéu 14 của Luật này; nếu có u cẩu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điễu 15 và Điều 16 của Luật này ”.

Về nhân thân, Tòa án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật HN&GD năm 2014. Quy định này nhằm đảm bảo tính pháp chế trong việc thừa nhận tính hợp pháp của quan hệ hơn nhân, tạo tính thống nhất trong các văn bản pháp luật, giúp việc giải quyết tranh chấp liên quan đến quan hệ hôn nhân được thuận lợi.

Khoản | Điều 14 Luật HN&GD năm 2014 đã quy định: “Nam, nữ có đủ diéu kiện kết hơn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà khơng đăng ký kết hơn thì khơng lam phát sinh quyên, nghĩa vụ giữa vợ và chong. Quyên, nghĩa vụ đổi với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”.

Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hơn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hơn nhân sẽ được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn [3, khoản 2 Điều 14].

Pháp luật cũng không công nhận các quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ chồng được quy định từ Điều 17 đến Điều 23 Luật HN&GD năm 2014 trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Hơn

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

nữa, trong quan hệ chung sống thì đại diện giữa vợ và chồng theo pháp luật cũng không được đặt ra trong trường hợp này, cũng như giữa họ không phát sinh van đề thừa kế di sản thừa kế của nhau, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng cũng không

<small>được đặt ra.</small>

Do đó, khi phát sinh tranh chấp giữa các bên trong quan hệ chung sống và họ yêu cầu Tòa án giải quyết ly hơn thì Tịa án sẽ tun bố không công nhận họ là vợ chồng.

1.3.2.2. Về quan hệ tài sản Về tài sản riêng:

<small>Với tư cách là một công dân, theo quy định của pháp luật nên ai cũng có</small>

qun sở hữu tai sản cho riêng mình và thé xác lập quyền sở hữu với những tai sản riêng đó. Vì vậy, khi cham dứt việc nam nữ chung sống như vợ chồng thi phan tài sản của bên nào vẫn thuộc về bên ấy. Điều này là phù hợp với quy định quyền sở hữu riêng của công dân được Hiến pháp 2013 ghi nhận và bảo vệ.

Về tài sản chung:

Điều 16 Luật HN&GD 2014 quy định về giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết

<small>hôn như sau:</small>

“1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp dong của nam, nữ chung sống với nhau nh vợ chong mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp khơng có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật

<small>dan sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.</small>

2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyên, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; cơng việc nội trợ và cơng việc khác có liên quan để duy trì đời sống

<small>chung được coi nhu lao động có thu nháp. ”</small>

Như vậy, nguyên tắc đầu tiên Luật HN&GD năm 2014 dé các bên tự thỏa thuận chia tài sản chung khi chấm dứt việc chung sông như vợ chồng. Pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản của các bên và cho phép họ tự thỏa thuận chia tài sản chung. Sự thỏa thuận này không được vi phạm điều cắm của pháp luật, không

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

trái đạo đức xã hội. Việc tự thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn phải dam bảo nguyên tắc vợ chồng phải hồn tồn tự nguyện, khơng được áp đặt, đe doa hay cưỡng ép. Điều này có ý nghĩa rất lớn bởi nó khơng những sẽ đáp ứng được nguyện vọng của các bên mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan nhà nước có thâm quyền giải quyết các vấn đề phát sinh nhằm tiết kiệm thời gian, công sức. Pháp luật nước ta tôn trọng tối đa sự tự định đoạt khi các bên có thỏa thuận. Tuy nhiên điều này có thể sẽ bị các bên lợi dụng dé trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với

<small>bên thứ ba khi đó, thỏa thuận này được xem là thỏa thuận vô hiệu.</small>

Trường hợp các bên không thỏa thuận được thì u cầu Tịa án giải quyết. Khi đó, Tịa án sẽ áp dụng Điều 16 Luật HN&GD năm 2014 để giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau:

- Trong trường hợp khơng có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của

<small>BLDS và các quy định khác của pháp luật có liên quan.</small>

- Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyên, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và cơng việc khác có liên quan dé duy trì đời sống chung <small>được coi như lao động có thu nhập. Quy định như vậy không những bảo đảm tính</small> nhân văn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và mà sâu xa hơn còn phù hợp với lẽ công bằng, bảo vệ quyền tài sản của các bên liên quan. Thừa nhận công việc nội trợ và các cơng việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được xem như lao động có thu nhập là quy định tiến bộ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ trong quá trình chung sống. Tuy nhiên, do tồn tại quy định mang tính tùy nghi “các cơng việc khác có liên quan” nên nếu khơng được giải thích rõ

ràng và áp dụng thống nhất thì bảo đảm pháp lý này sẽ bị giới hạn trên thực tế.”

1.3.2.3. Về quan hệ giữa cha, mẹ và con

Chủ trương của các nhà làm luật từ trước tới nay đều là quan hệ cha mẹ con không bị ảnh hưởng bởi việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quan hệ giữa cha và me. Đồng thời, quan hệ này cũng không phụ thuộc vào tinh chất quan hệ giữa cha <small>3 Lê Thu Trang (2015), Quyền lợi của các bên chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn mà</small>

<small>xin ly hôn</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

và mẹ, nghĩa là du cha mẹ có kết hơn hay khơng kết hơn thì vẫn tồn tại những quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ con. Tinh thần này tiếp tục được duy trì tới ngày hơm nay và được cụ thé hóa bằng Điều 15 Luật HN&GD năm 2014: “Quyên, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chông và con được giải quyết theo quy định của Luật này và quyên, nghĩa vụ của cha me và con”. Như vay, những người chung sông như vợ chồng nếu có con với nhau thi các quyên, nghĩa vụ mà

<small>pháp luật quy định cho cha mẹ va con cái được áp dụng theo đúng Luật HN&GD</small>

năm 2014 tại chương V: Quyên và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con. * Căn cứ xác định người trực tiếp nuôi con

Quan hệ Hơn nhân và gia đình cũng là quan hệ dân sự. Vì vậy, về nguyên tắc, việc ai là người ni con sau khi ly hơn có thé được các bên đương sự (bố, mẹ) tự

<small>thỏa thuận với nhau và được Tòa án ghi nhận trong bản án.</small>

Cha mẹ là người hiểu rõ nhất các điều kiện của bản thân mình dé trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con một cách tốt nhất. Do đó, khi ly hơn vợ chồng có thé thỏa thuận với nhau về người trực tiếp nuôi con. Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật HN&GD năm 2014 về việc trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn: “Vo, chong thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyên của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Toa an quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuoi can cứ vào quyên lợi về mọi mặt của con;....”.

Trường hợp ly hôn, khi yêu cầu Tòa án giải quyết, mọi vấn đề về tài sản và

<small>con cái đã được họ thỏa thuận một cách hợp lý. Tịa án sẽ tơn trọng sự thỏa thuận</small>

của hai bên về van dé này. Nếu như van đề ni con đã được các bên thỏa thuận thì Tịa án vẫn phải tơn trọng sự thỏa thuận đó và chỉ giải quyết những vấn đề về tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế không phải sự thỏa thuận nào cũng là hợp lý và vì quyền lợi của con. Có những trường hợp người khơng đủ điều kiện đảm bảo cuộc sống cho con lại nhận ni con, cịn người có đầy đủ khả năng lại trốn tránh trách nhiệm ni con. Do đó, khi lựa chọn ai là người trực tiếp ni con Tịa án cũng cần xem xét sự thỏa thuận của các bên vợ chồng có hợp lý hay khơng, có đảm bảo tốt

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

nhất sự phát triển cho con hay không trước khi quyết định ai là người phù hop nhất để nuôi con.

Trong trường hợp hai người cha, mẹ không thể thoả thuận được với nhau thì Tồ án sẽ có quyền phán xét, giao quyền nuôi con cho một bên vợ hoặc chồng. Quyết định của tòa án căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt và hướng tới tương lai tốt đẹp của con. Quyền lợi mọi mặt của con bao gồm quyền lợi về vật chất và tinh thân, quyền được yêu thương, chăm sóc, quyền được bảo vệ qun và lợi ích hợp pháp, quyền được tơn trọng ý kiến,... nhằm đảm bảo cho con được nuôi đưỡng, học tập, giáo dục, phát triển lành mạnh về thê chất, trí tuệ và đạo đức. Nếu việc thỏa thuận về người trực tiếp nuôi dưỡng không dựa trên quyền lợi mọi mặt của con thì Tịa án khơng chấp nhận sự thỏa thuận này. Tòa án sẽ xem xét các điều kiện của cha mẹ

dựa trên quyền lợi mọi mặt của con dé ra quyết định giao con cho bên nao trực tiếp <small>ni dưỡng.</small>

Theo đó, người trực tiếp nuôi con sẽ là người đáp ứng tốt nhất các điều kiện đảm bảo cho sự phát triển về thể chất và tinh thần của con. Khi lựa chọn ai trực tiếp ni dưỡng thì Tịa án phải xem xét nhiều yếu tố của cha mẹ như lối sống đạo đức; điều kiện chăm sóc, ni dưỡng; ai là người đã trực tiếp chăm sóc con trước khi ly hơn. Người trực tiếp ni con có ảnh hưởng rất lớn đến con, vì vậy van dé này Tịa án cần phải xem xét cần thận và chính xác.

<small>- Căn cứ vào nguyện vọng của con</small>

Theo quy định tại Điều 81 Luật HN&GD năm 2014 quy định độ tuổi dé xem xét ý muốn của con là từ đủ bảy tuổi. Khi đủ bảy tuôi, con đã nhận thức được một phần tình cảm, sự u thương, chăm sóc của người cha, người mẹ dành cho mình nên xem xét ý kiến của con từ đủ bảy tudi có ý nghĩa dé Tòa án dé dang xác định lựa chọn người trực tiếp ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con. Việc hỏi ý kiến của con từ đủ bảy tuổi trở lên muốn ở với ai là một thủ tục pháp lý bắt buộc trước khi Tòa án quyết định giao con cho ai nuôi dưỡng, ngay cả trường hop cha mẹ đã thỏa thuận được với nhau về người ni con. Khi ly hơn, cha mẹ vẫn có nghĩa vụ đảm

<small>bảo quyên và lợi ích mọi mặt của con, trong đó có qun được tơn trọng ý kiên của</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

con. Do vậy, cha mẹ cũng cần xem xét ý kiến của con mong muốn được ở với ai. Ở lứa tuổi này, tuy con đã có nhận thức nhất định nhưng ý kiến đấy thiên về cảm tính, chưa thé day đủ và sâu sắc về quyền lợi mọi mặt của mình, nên ý kiến của con từ đủ bảy tuổi mong muốn ở với ai chi là yếu tố dé Tòa án tham khảo chứ không phải là yếu tố quyết định ai là người trực tiếp nuôi con.

- Căn cứ vào độ tuổi của con và điễu kiện của Hgười mẹ

Nuôi con là chức năng tự nhiên của người mẹ, đặc biệt đối với con dưới 36 tháng tuổi. Theo quy định tại Khoản 3, Điều 81 Luật HN&GD năm 2014: ”Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hop với lợi ích cua con’. Đây là lứa tuổi mà nhiều trẻ cịn bú sữa mẹ, và chỉ có người mẹ mới thực hiện việc chăm sóc này đối với con được tốt nhất. Do vậy, nếu các bên khơng có thỏa thuận nào khác về việc giao con dưới 36 tháng tuổi cho ai ni dưỡng thì pháp luật quy định người mẹ là người trực tiếp nuôi con. Trường hợp này, pháp luật ưu tiên hơn quyền trực tiếp nuôi con cho người mẹ để bảo đảm cho con được phát triển, chăm sóc, ni dưỡng một cách tốt nhất. Điều này là hồn tồn hợp tình, hợp lý.

Như vậy, trong bất kế trường hợp nào, Tòa án quyết định giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng khi cha mẹ khơng cịn chung sống đều phải dựa trên quyền lợi mọi mặt của con nhăm đảm bảo cho con được ni dưỡng, chăm sóc, phát triển trong điều kiện.

* Quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con <small>- Trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo đục con</small>

Người trực tiếp ni dưỡng con có những điều kiện tốt để chăm sóc thì việc

trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc con được thực hiện dễ dàng hơn, đảm bảo con

phát triển bình thường về thé chất tinh thần. Do cùng chung sống trực tiếp với con nên việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ này của người trực tiếp nuôi con diễn ra liên tục và không bị hạn chế về không gia và thời gian. Nên việc họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với giống như khi chưa ly hôn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

+ Quyên đại diện cho con

Điều 73 Luật HN&GD năm 2014 quy định: “Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mắt năng lực hành vi dân sự,

<small>trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theopháp luật". “Đại diện” là việc một người nhân danh người khác xác lập, thực hiện</small>

giao dịch dân sự trong phạm vi thấm quyền dược đại diện. Theo quy định của pháp

<small>luật dân sự thì cha mẹ là người đại diễn đương nhiên cho con chưa thành niên, con</small>

đã thành niên nhưng mắt năng lực hành vi dân sự, trừ một số trường hợp. Khi cha mẹ chấm dứt việc chung sống mà có con thuộc đối tượng trên thì người trực tiếp ni con cũng đồng thời là người đại diện theo pháp luật cho con nếu họ đủ điều kiện.

+ Quyên quản lý tài sản riêng của con

Tài sản riêng của con là dé phuc vu cudc sống hiện tại và tương lại của con, vì vậy, người trực tiếp ni con thương là người có trách nhiệm quản lý tài sản đó. Điều 75 Luật HN&GD năm 2014 quy định: “Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gom tai sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập <small>do lao động cua con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu</small>

<small>nhậphợp pháp khác. Tài san được hình thành từ tài sản riêng cua con cũng là tài</small>

sản riêng của con”. Tuy nhiên, nếu con từ đủ 15 tuổi trở lên thì có quyền tự mình

<small>hoặc nhờ người khác quản lý tài sản riêng của mình. Cha mẹ khơng có nghĩa vụ</small>

phải quản lý tài sản riêng cho con trong trường hợp này. Nếu người con có yêu cầu cha mẹ quản lý thì khi đó nó trở thành một quyền mà khơng cịn là nghĩa vụ của cha mẹ. Nếu người đó dưới 15 tudi hoặc mat năng lực hành vi dân sự thì việc quan lý tài sản của con sẽ là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ - người trực tiếp nuôi con. Ở độ tuổi đưới 15 hoặc mat năng lực hành vi dân sự thì con không thể quyết định được van dé quản ly tài sản riêng của mình một cách chính xác và đúng dan. Vi vậy, là người sinh thành, chăm sóc, ni dưỡng con thì cha, mẹ là người thích hợp nhất dé thực hiện nhiệm vụ này. - Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con:

- Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con:

Con cái khơng sống chung với cha, mẹ thì nghĩa vụ ni dưỡng con của cha, mẹ đó được chuyền thành nghĩa vụ cấp dưỡng. Thông thường vấn đề cấp dưỡng chỉ

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

đặt ra đối với người không trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, trong một số trường hop, người trực tiếp ni con vẫn có thé phải thực hiện nghĩa vụ này, tức là họ vừa thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng vừa thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Pháp luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về trường hợp cha, mẹ có nghĩa vụ cấp

<small>dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên khơng có khả năng lao động và</small>

khơng có tài sản để tự ni mình trong trường hợp sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con (Điều 110 Luật HN&GD năm 2014). Theo đó, các hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng của người trực tiếp nuôi dưỡng con như:

không đảm bảo việc ăn uống, sinh hoạt, giáo dục con; không quan tâm, chăm sóc

con,... Với các hành vi chưa vi phạm đến mức độ nghiêm trong để có thé u cầu Tịa án xem xét người trực tiếp ni con thì Tịa án có thé u cầu bên trực tiếp ni con thực hiện cam kết thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con một khoản tối thiểu dé có thé đảm bao sự phát triển thé chất, học tập, sinh hoạt ở mức bình thường.

- Nghĩa vụ tạo diéu kiện cho bên khơng trực tiếp ni con được thăm nom,

<small>chăm sóc con cải</small>

Khi nam, nữ cham dứt quan hệ chung sống, họ khơng thé cùng nhau thực hiện <small>việc chăm sóc, nuôi dưỡng con như việc sinh hoạt, ăn, ngủ, học tập,... của con như</small> trước đây được nữa mà quyên và nghĩa vụ này được thực hiện bởi người trực tiếp nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con không thé thực hiện việc này mà họ chỉ có thé thực hiện gián tiếp thông qua việc thăm nom, cấp dưỡng cho con. Bên trực tiếp nuôi con phải tạo điều kiện để bên không trực tiếp nuôi con được gần gũi, tiếp xúc con, tạo cho con tâm lý thoải mái, nhẹ nhàng, không cảm thấy bị cô đơn, thiệt thịi, thiếu thốn tình cảm.

* Qun và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con + Quyên đại diện cho con

Khi chấm dứt quan hệ chung sống, quyền đại diện cho con chưa thành niên thuộc về người trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, quyền này sẽ thuộc về người không trực tiếp nuôi con nếu người trực tiếp nuôi con thuộc các trường hợp sau: bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân

<small>phâm, danh dự của con với 161 cơ ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

trông nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con; phá tán tài sản của con; có lối sống đơi trụy; xúi giục, ép buộc con làm những việc trai pháp luật, trai đạo đức xã hội (Điều 85 Luật HN&GD năm 2014). Khi người trực tiếp ni con có những hành vi quy định tại điều trên thì người đó cũng có thé sẽ mat đi quyền trơng nom, chăm

<small>sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện thep pháp luật cho con.</small>

Và lúc này van dé thay đổi người trực tiếp ni con có thé được đặt ra nêu như một hoặc cả hai bên có yêu cầu.

+ Quyên quản lý tài sản riêng của con

Trong thời kỳ chung sống, cả cha và mẹ đương nhiên có quyên quản lý tai sản riêng của con. Tuy nhiên, khi cham dứt quan hệ, quyền này bị hạn chế đối với người không trực tiếp nuôi con. Thông thường người trực tiếp nuôi con sẽ là người quản lý tài sản riêng của con. Người không trực tiếp ni con chỉ có thể là người quản lý tài sản riêng của con khi: Tài sản riêng của con có được là do thừa kế, tặng cho,... và người thừa kế tặng cho ấy chỉ định người có quyền quản lý tài sản này cho con là người không trực tiếp nuôi con. Hoặc khi con từ đủ 15 tuổi trở lên quyết định người không trực tiếp ni con có quyền quản lý tài sản cho mình thì lúc ấy quyền này thuộc về họ.

- Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con:

Khi chấm dứt quan hệ; cha, mẹ không cùng chung sống, con cái sẽ do một bên trực tiếp ni dạy, chăm sóc, do đó người khơng trực tiếp nuôi con cũng phải chia sẻ gánh nặng này bang cách cấp dưỡng cho con. Khoản 2 Điều 82 Luật HN&GD năm 2014 quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp ni con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không u cầu cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Tịa án cần phải giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi để họ biết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là hồn tồn tự nguyện và họ có đầy đủ khả năng, điều kiện để nuôi dưỡng con thì Tịa án xem xét và có thê quyết định bên kia khơng phải cấp dưỡng ni con. Việc Tịa án không buộc bên không trực tiếp cấp dưỡng cho

<small>con không phải là cơ sở đê châm dứt nghĩa vụ câp dưỡng của người cha, người mẹ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

khơng trực tiếp ni con. Vì lợi ích của con, nếu sau này người trực tiếp ni con có u cầu thì Tịa án vẫn có thê quyết định bên kia phải thực hiện cấp dưỡng cho con.

- Quyên thăm nom con sau khi ly hôn

Dé đảm bảo quyền lợi cho con và cũng để người không trực tiếp nuôi con được thực hiện trách nhiệm của mình và bù đắp phần nào nỗi day dứt khi phải sống xa con, pháp luật đã quy định cho họ những quyền và nghĩa vụ rất đặc thù.

Khoản 3, Điều 82 Luật HN&GD năm 2014 quy định: “Sau khi ly hôn, người khơng trực tiếp ni con có qun, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản tro”. Pháp luật quy định cho người khơng trực tiếp ni con có quyền thăm nom con nhăm bù dap phan nào sự thiếu hut, thiếu thốn tinh cảm đó. Khi thăm nom con, khoảng cách giữa cha, mẹ sẽ được củng cố, xóa đi những mặc cảm nặng nề về cuộc sơng ly hôn giữa bố và mẹ trong suy nghĩ của con trẻ.

Theo Khoản 2, Điều 81 Luật HN&GD năm 2014 thì vợ chồng có thé thỏa thuận quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn. Do vậy, quyền thăm nom con của các bên cũng cần được các bên thỏa thuận. Việc thỏa thuận quyền thăm nom con là thỏa thuận về cách thực thực hiện quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con. Hai bên có thê thỏa thuận về thời gian thăm con vào ngày, giờ cụ thể

trong tuần, tháng, năm hoặc thỏa thuận linh hoạt vào bat ky thoi gian diém nao.

1.3.2. Giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chong trái pháp luật

Hiện nay, pháp luật hơn nhân gia đình khơng phân định cụ thể trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật; do vậy, chưa có quy định cụ thê việc giải quyết cho trường hợp này. Nên về cơ bản, khi giải quyết hậu quả pháp lý việc chung sống như vợ chồng trái pháp luật vẫn áp dụng các Điều 14, 15, và 16 Luật HN&GD năm 2014 về quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản và quan hệ giữa cha mẹ

<small>va con cái.</small>

1.3.2.1. Giải quyết về dân sự

Về hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng trái pháp luật được giải quyết tương tự như trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng không

</div>

×