Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học: Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (42.14 MB, 82 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

VŨ NGỌC HUY

XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRƯỜNG HỢP SINH CON BANG KỸ THUẬT HO TRỢ SINH SAN THEO

PHAP LUAT VIET NAM

HA NOI -2017

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

VŨ NGỌC HUY

XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRƯỜNG HỢP SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SAN THEO

PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số : 60.38.01.03

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên

HÀ NỘI -2017

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small>riêng tÔI.</small>

Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bat kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.

Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

<small>Tác giả luận văn</small>

<small>Vũ Ngọc Huy</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>BLDS : Bộ luật dân sự</small>

BLTTDS : Bộ Luật Tố tụng dân sự

<small>BLHS : Bộ Luật Hình sự</small>

BLTTHS : Bộ Luật Tố tụng hình sự

<small>HN & GD : Hơn nhân va gia đình</small>

<small>ICSI : Kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bao tương ứng</small>

IUI : Cấy tinh trùng vào tử cung IVF : Thụ tinh trong ống nghiệm

<small>TAND : Tòa án nhân dân</small>

TTTON : Thụ tinh trong ống nghiệm UBND : Ủy ban nhân dân

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small>CHƯNG |...-G G G € ° s sE E4 S4 S4 S4 Sẻ SE 5E 3s S4 S9 S9S8 SE sEsEs E3 S9 EsEeEeSeses 6</small> NHỮNG VAN DE LÝ LUẬN VE XÁC ĐỊNH CHA, ME, CON TRONG TRUONG HOP SINH CON BANG KY THUAT HO TRO SINH SAN... 6

1.1. Một số khái niệm CO bản...----s- 5 << s2 se =sessessesseseseesess 6

<small>1.1.1. Khái niệm cha, mẹ, C0I... --- G5 22c S2 SvEEseeresreersrserre 6</small>

1.1.2. Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ... 7

<small>1.1.3. Khái niệm xác định cha, me, c0n...-..-- 5555-55 <++<<<<ss+2 9</small>

1.1.4. Sơ lược về sự phát triển của phương pháp hỗ trợ sinh sản... 12 1.2. Một số kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tiêu biểu...---5--°- 15

<small>1.2.1. Thụ tỉnh nhân tạo (UD) ...- --- 55555 *+++sesseeeeesexrs 15</small>

1.2.2. Thu tỉnh trong ống nghiệm (VF)...-- - 2c x+csrxerxssees 16

<small>1.2.3. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ... --- 55+ 16</small>

1.3. Điều kiện áp dụng phương pháp hỗ trợ sinh sản ... 17 1.3.1. Đối với cặp vợ chồng vô sỉnh...--- 2 5xx 17 1.3.2. Đối với phụ nữ độc thân ...-- 2-2 2+S+E++EeExeErxerxrrees 18

<small>1.3.3. Người gửi tinh trùng vào ngân hàng tỉnh tring... 19</small>

<small>1.3.4. Người nhận tỉnh trùng... --- - - S12 seseeirerrreske ÁP)</small>

1.3.5. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo... 23 1.4. Ý nghĩa việc xác định cha, mẹ, con khi sinh con bằng kỹ thuật hỗ

<small>trự SIM, SÁT eeesewesaaeeninikteiaesaadidiiiinA400382161814006639N08143/810102Ấ0069/50000810662/2/49006080/0800/586 25</small>

1.4.1. Ý nghĩa về mặt xã ROD ec ecccecsesecsesscsesssstestsscsteaeeseess 25 1.4.2. Ý nghĩa về mặt pháp lý...---2- - s +EeEk+EerxeErxerxexees 28 1.5. Căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh SAn ...---- << << << SsSsEsEsEs£s£seseseseseseseseseessse 30 1.5.1. Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân của cặp vợ chồng vô sinh ... 30

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>trùng, cho và nhận phôi... ..-- - ¿5c 2S 1122 1333115111111 x re. 3]</small>

<small>1.5.3. Can cứ vào sự kiện sinh đẻ ooo... eee ceeseceteeceneeeneeeeeeeeeeees 33</small>

<small>CHUONG 27 ... 36</small> NỘI DUNG QUY ĐỊNH PHAP LUẬT HIỆN HANH VE XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRƯỜNG HỢP SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN...--° 5-2 5° s2 sess£seEseseesessesers 36

<small>2.1. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người vợ trong cặp vợ</small>

chồng vô sinh và người phụ nữ độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ

<small>SỈnH SẲI...- << 5 5< 5 %9 9 0.00... 05.000.000.900 90 099000.04.000004.08096 362.1.1. Đôi với cặp vợ chông vô sinh ...--- + + + x*++svexsseeeeeeeress 362.1.2. Đôi với người phụ nữ độc than ...--.-- ¿5555 sss+++sss+sssessss 402.2. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đíchVU oo 43</small>

2.3. Xác định cha, mẹ, con trong trường hop vợ chồng vô sinh sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tỉnh trùng từ ngân hàng tỉnh 2.3.1. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con băng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng của người chồng ...---- tees tees 44 2.3.2. Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng của người hiễn...-- -2- 2 s+S2+Ee£x+EsrxeExzxees 45

<small>2.4. Thủ tục xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp áp dụng kỹ</small>

thuật hỗ trợ sinh sản ...--5-5-5° << s£ses£ S2 sEsEseSEEsEsEseseEsesesesesee 45

<small>2.4.1. Thủ tục hành chính... -- - - ----+++++++2+++2++++++>z>zzzzzzzzzzzzz 45</small>

<small>2.4.2. Thủ tục tư pháp ...- --- - c2 2111126111111 11 1118111181111 8x re 50</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small>9199) i6 ... 54</small> THUC TRANG VA KIEN NGHI NHAM DAM BAO HIEU QUA VIEC XÁC ĐỊNH CHA, ME, CON TRONG TRUONG HOP SINH BANG KY THUAT HỖ TRỢ SINH SAN ...ccsssssssssesssssscesssesessesoessssesesssssessssesecsecseesees 54

<small>3.1. Thực trang việc xác định cha, me cho con trong trường hợp sinh</small>

con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh SAM ...- 5-5 5c 5s <sess=sessesee 54

<small>3.1.1. Thue trang x8 AGL... a... 54</small>

3.1.2. Những điểm tích cực va han chế còn tồn tại của quy định về xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh

3.1.2.1. Những điểm tích cực của quy định về xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con băng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ... 55 3.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ...- ¿22-5 + cz+szx+ezrcxes 59

<small>3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả việc xác định cha, mẹ cho con trong</small>

trường hop áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản... ¿2-2-5555 62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<small>Luật Hơn nhân và gia đình là một văn bản luật quan trọng trong hệ</small>

thống pháp luật Việt Nam, quy định về chế độ hơn nhân và gia đình, đó là tồn bộ những quy định của pháp luật về kết hôn, ly hôn; quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi và những vấn đề khác liên quan đến hơn nhân và gia đình. Ngồi ra, Luật Hơn nhân và gia đình cịn quy định về chuân mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cơ chế độ hơn nhân và

<small>gia đình Việt Nam.</small>

Nếu quan hệ giữa vợ chồng là quan hệ pháp lý hơn nhân thì quan hệ giữa cha, mẹ và con cái là quan hệ tràn đầy tình cảm yêu thương chăm sóc như một lẽ tự nhiên nhưng đầy ý thức trách nhiệm. Tuy nhiên, có một thực tế đó là tỷ lệ vơ sinh ở các cặp vợ chồng đang có xu hướng tăng cao làm ảnh hưởng đến quyền được làm cha làm mẹ một cách bình thường của các cặp vợ chồng. Do đó, sinh con băng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đang ngày càng phô biến và mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Có thể thấy, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là van đề khá phức tạp, nhất là việc xác định cha, mẹ, con bởi nó làm thay đôi những quan niệm truyền thống về mặt huyết thống giữa cha mẹ và con. Quan hệ cha, mẹ, con xác lập sẽ được pháp luật và cộng đồng thừa nhận, là cơ sở để thực hiện tốt những quy định về nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha, mẹ và con, nghĩa vụ và quyền về tài sản giữa cha, mẹ và con, về thừa kế tài sản...Bên cạnh đó quan hệ cha, mẹ, con là điều kiện phát sinh

<small>nghĩa vụ câp dưỡng của cha, mẹ đôi với con và của con đôi với cha, mẹ.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Đối với xã hội, việc xác định cha, mẹ, con sẽ tạo lập được đơn vi là gia đình, gia đình là cơ sở, là tế bào của xã hội, gia đình có vai trị sản xuất ra con người duy tri noi giống, tái sản xuất ra sức lao động bằng việc ni dưỡng, chăm sóc sức khỏe cho các thành viên, đồng thời giáo dục xã hội hóa con người. Cá nhân là thành viên của gia đình đồng thời là cơng dân của xã hội, vì vậy mỗi thành viên trong gia đình sẽ làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp và phát

<small>triên mọi mặt.</small>

Hiện nay, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được áp dụng ở rất nhiều nước trên thế giới và ở cả Việt Nam. Thực tế cho thấy sinh con theo phương pháp này có rất nhiều ưu điểm vượt bậc, nhưng bên cạnh đó cũng có khơng ít những khó khăn khi thực hiện. Vì vậy, cần có những văn bản pháp lý quy định và hướng dẫn rõ ràng, cụ thê về vấn đề này. Đặc biệt, khi tranh chấp phát sinh trong xác định cha, mẹ, con; quyền nhân thân và quyền tài sản của đứa trẻ, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sẽ khơng có cơ sở pháp lý để giải quyết; do đó gây ra nhiều thiệt thịi, ảnh hưởng đến quyền lợi của đứa trẻ cũng như của các bên liên

Từ những bất cập của pháp luật và thực tiễn của cuộc sống cần phải nghiên cứu một cách toàn diện và nghiêm túc về van đề này dé từ đó xây dựng hành lang pháp lý vững chắc làm cơ sở giải quyết tranh chấp tranh chấp phat sinh. Đó chính là lý do dé tơi lựa chọn dé tài “ Xác định cha, me, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hồ trợ sinh sản theo pháp luật Việt

<small>Nam `.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

sinh sản không phải là một van đề mới. Với sự ra đời của ba em bé thụ tinh trong ống nghiệm ở Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ năm 1998, pháp luật Việt Nam lần đầu tiên dé cập đến vấn dé sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tại khoản 2 Điều 63 Luật HN&GD năm 2000 với thuật ngữ sinh con theo phương pháp khoa học. Kể từ năm 2000 đến nay, sinh con băng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được đề cập đến trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau: Nghị định số 12/2003/NĐ-CP, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, Thông tư số 07/2003/TTBYT, Thông tư số 12/2012/TT-BYT, Thông tư số 57/2015/TT-BYT, Luật Hiến, ghép mô, bộ phận cơ thé người và hiến, lay xác năm 2006, Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014. Tuy nhiên số lượng bài viết, cơng trình nghiên cứu dưới góc độ pháp luật có liên quan đến xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là không nhiều. Bài viết “Sinh con theo phương pháp khoa học và một số vấn đề pháp lí có liên quan”, của TS. Nguyễn Thị Lan, đăng trên Tạp chí Luật học, số 2/2003, là một trong những bai đầu tiên dé cập tới van đề này. Bài viết đã dé cập tới nhiều khía cạnh pháp lý như phân tích điều kiện cho và nhận tỉnh trùng, quyên làm cha, làm mẹ đối với đứa trẻ được sinh ra theo phương pháp khoa học, cũng như các xác định quan hệ cha, mẹ, con và những bắt cập trong quy định này...Có thé thấy đây là bài viết điển hình đầu tiên dé cập đến những van dé có liên quan đến sinh con bang kỹ thuật hỗ trợ sinh sản một cách khái qt nhất, tồn diện nhất dưới góc độ pháp lý. Cho đến thời gian gần đây khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định chỉ tiết cụ thể hơn về vấn dé sinh con bang kỹ thuật hỗ trợ sinh sản so với quy định trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP có hiệu lực bãi bỏ Nghị định số 12/2003/NĐ-CP đã có rất nhiều bài viết, cơng trình nghiên

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

thai hộ, ít đề cập đến sinh con băng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

<small>3. Mục đích nghiên cứu</small>

e Mục tiêu tong quát

Luận văn nghiên cứu phân tích và làm rõ nội dung quy định về vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã cụ thé và sát thực tiễn hay chua?. Qua đó đánh giá khả năng áp dụng quy định đã nêu vào thực tiến.

e Mục tiêu cụ thé

Với mục tiêu nghiên cứu tổng quát như vậy, mục tiêu cụ thể nghiên cứu

<small>được xác định những khía cạnh sau:</small>

- _ Nghiên cứu những van đề lý luận khái quát chung về van dé xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con băng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

- Phan tích, đánh giá những quy định của Luật về vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

- _ Thực trạng ở Việt Nam hiện nay và những van dé có thé phát sinh trong thực tiễn.

4. Đối tượng, phạm vỉ và phương pháp nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo pháp luật Việt Nam, thực trạng của van dé, những bất cập và thách thức đặt

<small>- Phạm vi nghiên cứu:</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con băng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

<small>- Phuong pháp nghiên cứu:</small>

Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, liệt kê, tổng hợp dựa trên nền tảng là phương pháp luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật dé làm rõ đối tượng nghiên cứu đã đặt ra.

5. Kết cau của luận văn

Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Những van dé lý luận về xác định cha, me cho con trong trường hợp sinh con theo phương pháp hỗ trợ sinh sản.

Chương 2: Nội dung quy định pháp luật hiện hành về xác định cha mẹ cho con trong trường hợp sinh con theo phương pháp hỗ trợ sinh sản.

Chương 3: Thực trạng và kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả việc xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp sinh con theo phương pháp hỗ trợ sinh sản.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

NHUNG VAN DE LÝ LUẬN VE XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRUONG HOP SINH CON BANG KY THUAT HO TRO SINH SAN 1.1. Một số khái niệm cơ bản

<small>1.1.1. Khái niệm cha, mẹ, con</small>

<small>Khái niệm cha, mẹ, con được nghiên cứu dưới hai góc độ: góc độ sinhhọc-xã hội và góc độ pháp lý:</small>

<small>Dưới góc độ sinh học — xã hội, cha, mẹ, con là những khái niệm ln</small>

tồn tại cùng nhau, có mối liên quan không thẻ tách rời. Mối quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ ln gan liền với q trình sinh đẻ, từ việc thụ thai, mang thai và sinh con. Về nguyên tắc, cha đẻ, mẹ đẻ phải đảm bảo hai yếu tố: thứ nhất, có quan hệ huyết thống trực hệ với người con; thứ hai, phải mang huyết thống, mã gen của cha mẹ; thứ ba, mẹ trực tiếp sinh ra. Tuy nhiên, trong trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học thì yếu tơ thứ nhất (mang huyết thống) có thé sẽ khơng được đảm bảo nếu việc sinh con theo phương

<small>pháp khoa hoc có sự tham gia của người thứ ba (người cho tinh trùng, cho</small>

<small>trứng, cho phơi). Vì vậy, dưới góc độ sinh học — xã hội, cha, mẹ đẻ, trong</small>

quan hệ với con, là người trực tiếp sinh ra con, có thể có hoặc khơng có quan hệ huyết thống với người con; Con đẻ, trong quan hệ với cha mẹ, là người được cha mẹ trực tiếp sinh ra, có thể có hoặc khơng có quan hệ huyết thống với cha, mẹ.

<small>Dưới góc độ pháp lý, tư cách là cha, mẹ, là con chỉ được chính thức</small>

thừa nhận thơng qua những thủ tục pháp lý nhất định. Vậy, cha, mẹ đẻ trong mối quan hệ với con, là người trực tiếp sinh ra người con, có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Con đẻ, trong mối quan hệ với cha

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<small>Dưới góc độ pháp ly, khái niệm “con” còn được nghiên cứu với tư</small>

<small>cách là con trong giá thú, con ngoài giá thú, con chung, con riêng. Từ đó, là</small>

cơ sở cho việc xác định cha, me, con’.

1.1.2. Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Đề hiểu rõ hơn về van dé này, trước hết cần xem xét một số khái niệm được quy định tại Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP Quy định về sinh con băng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục

<small>đích nhân đạo:</small>

<small>-Nỗn là giao tử của nữ.</small>

<small>-Tinh trùng là giao tử của nam.</small>

-Phơi là sản phẩm của q trình kết hợp giữa noãn và tinh trùng.

-Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi.

Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có thể được xem xét

<small>dưới hai góc độ:</small>

<small>-Dưới góc độ y học:</small>

Theo định nghĩa từ Đạo luật về Chứng chỉ và Mức thành cơng của các phịng Y tế Hỗ trợ sinh sản (Hoa Kỳ), từ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (tiếng Anh: Assisted Reproductive Technology A.R.T) bao gồm tất cả các phương pháp chữa trị chứng vơ sinh trong đó có cả trứng lẫn tinh trùng đều được sử dụng”.

Bên cạnh đó, cịn có một số định nghĩa khác về kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

<small>Nguyễn Thị Lan (2010), Luận án tiến sĩ “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt Nam”, tr.20.* class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

tăng khả năng sinh sản”.

+ Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là các phương pháp giúp đỡ và điều trị cho các cap vợ chồng hiếm muộn, vô sinh băng các thủ thuật y học với sự can thiệp của cơ sở y tế có thâm quyên.

Trong đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP “Vô sinh là tình trạng vợ chong sau một năm chung sống có quan hệ tình duc trung bình 2-3 lân/tn, khơng sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ van

<small>khơng có thai `.</small>

Tuy nhiên, hiện nay, các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản còn được sử dụng để giúp những người phụ nữ sống độc thân, mong muốn có con mà khơng thuộc trường hợp hiém muộn hay vơ sinh. Vì thé, các định nghĩa trên vẫn còn tồn tại thiếu sót.

Nói tóm lại, sinh con bang kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con thông qua biện pháp áp dụng những kỹ thuật y sinh học bởi các cơ quan y tế có thâm quyền dé giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn — vô sinh hoặc những người phụ nữ song độc than thực hiện được mong muốn có con của mình.

<small>-Dưới góc độ pháp ly:</small>

Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quy định tại Khoản 21 Điều 3 Luật HN&GD năm 2014:

“Snh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tình nhân tạo hoặc thụ tỉnh trong ống nghiệm `.

Có thé thay, thơng qua việc sử dụng phương pháp liệt kê, quy định này

<small>chưa làm rõ được thê nào là “sinh con băng kỹ thuật hô trợ sinh san” cũng</small>

<small>3 Drtuong.wordpress.com/2009/1 1/21/art/</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Thực chất, khi nói đến sinh con theo phương pháp khoa học thì cũng được hiểu là sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Vì thế, khái niệm trên về cơ bản đã làm rõ được thế nào là sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Tóm lại, dưới góc độ pháp lý, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có thể được định nghĩa như sau:

Sinh con băng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con có sự can thiệp

<small>của các kỹ thuật y sinh học công nghệ cao trong trường hợp quá trình mang</small>

thai tự nhiên của con người bị hạn chế bởi những nguyên nhân khác nhau, được tiễn hành trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các chủ thé.

<small>1.1.3. Khái niệm xác định cha, me, con</small>

Khái niệm xác định cha, me cho con theo từ điển Luật hoc được hiểu

<small>là: “Định rõ một người là cha hoặc một người là mẹ cho con trên cơ sở cácquy định cua pháp luật”, ngồi ra cịn có khái niệm xác định con cho cha, me</small>

<small>là “Định rõ một người là con cua cha hoặc của mẹ trên cơ sở các quy định</small>

của pháp luật. Tuy vậy, mỗi quan hệ giữa cha, mẹ và con là mối quan hệ hai chiều và không thể tách rời, xác định cha, mẹ cho con cũng chính là xác định

<small>con cho cha, me sau khi xác định được ai là cha, mẹ hoặc ai là con cũng sé</small>

phát sinh những quyền và nghĩa vụ theo pháp luật như nhau. Suy cho cùng xác định cha, me, con là việc xác nhận mối quan hệ huyết thông giữa cha, mẹ, con. Quan hệ huyết thống không chi là cơ sở để xác định cha, mẹ, con ma còn là cơ sở xác định nguồn gốc, dòng họ, gia pha với những giá trị văn hoa tinh than, đạo đức và truyền thống của dịng họ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Chính vì vậy, việc tách riêng thành hai khái niệm là không cần thiết mà chỉ cần nêu khái niệm chung về việc xác định cha, mẹ, con mà thôi. Sau đây là những khái niệm khái quát về vấn đề này:

- Trong từ điển Tiếng Việt:

“Xác định ” theo từ điển Tiếng Việt là “qua nghiên cứu, tìm tịi, biết được rõ ràng, chính xác ”, vậy xác định cha, mẹ cho con là việc nghiên cứu, tìm tịi dé tim ra nguồn gốc của một con người một cách rõ rang và chính xác.

<small>- - Dưới góc độ sinh học — xã hội: Xác định cha, mẹ, con là việc nghiên</small>

cứu, tìm kiếm, nhận diện mối quan hệ huyết thống giữa hai thế hệ kế tiếp nhau thông qua sự kiện sinh đẻ”.

<small>- Dưới góc độ pháp lý:</small>

<small>+ Với tư cách là một sự kiện pháp lý: Xác định cha, mẹ, con là sự kiện pháp</small>

lý làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha, mẹ và con về mặt huyết thống”. Sự kiện sinh đẻ là hành vi sinh con của người phụ nữ và hành vi này phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế phát triển tự nhiên của bào thai, nhiều khi nằm ngồi sự kiểm sốt của người mẹ, vì vậy, sự kiện sinh đẻ là sự biến pháp lý tương đối. Tuy nhiên, sự kiện sinh đẻ chỉ là một trong những sự kiện dé xác định tư cách cha, mẹ, con. Sự kiện sinh đẻ phải đi liền với một loạt các hành vi pháp lý khác mới đủ cơ sở để xác định quan hệ pháp luật giữa cha mẹ con hành vi đăng ký khai sinh, một quyết định hay một bản án có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thầm quyền công nhận hoặc xác định tư cách cha, mẹ, con.

<small>+ Với tư cách là một quan hệ pháp luật: Xác định cha, mẹ, con là các quan</small>

hệ xã hội phát sinh trong quá trình tìm kiếm, nhận diện tư cách cha, mẹ, con về mặt huyết thống của các chủ thể được các quy phạm pháp luật điều chỉnh”. Căn cứ vào tính chất của quan hệ pháp luật, việc xác định cha,

<small>* Nguyễn Thị Lan (2010), Luận án tiến sĩ “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt Nam”, tr.20.Ÿ Nguyễn Thị Lan (2010), Luận án tiến sĩ “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt Nam”, tr.23.6 Nguyễn Thị Lan (2008), Luận án tiến sĩ “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt Nam”, tr.26.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

me, con bao gom quan hé vat chat va quan hệ hình thức; căn cứ vào ý chí cua các chủ thể, việc xác định cha, mẹ, con bao gồm quan hệ tự nguyện nhận cha, mẹ, con được tiễn hành tại cơ quan hành chính nhà nước (UBND) và quan hệ tranh chấp xác định cha, me, con được tiến hành tại co quan tư pháp (TAND); căn cứ vào hôn nhân của cha, mẹ việc xác định cha, mẹ, con bao gồm quan hệ

<small>xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ có hơn nhân hợp pháp và quan hệ xác định</small>

cha, mẹ, con khi cha mẹ khơng có hơn nhân hợp pháp. Ở mỗi cách phân loại, mối quan hệ về xác định cha, mẹ, con đều có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định. Mỗi chủ thể, tùy theo tư cách của mình trong mối quan hệ, có quyền và nghĩa vụ nhất định dé nhận diện đúng tư cách cha, mẹ, con.

+ Với tư cách là một chế định pháp lý: Xác định cha, mẹ, con là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, quy định về quyền va nghĩa vụ của các chủ thể, căn cứ và thủ tục pháp lý nhằm nhận diện một người cha, một người mẹ, một người con có mối quan hệ huyết thống trực hệ”. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc xác định cha, mẹ, con luôn qui định quyền và nghĩa vụ tương ứng giữa các chủ thể, đảm bảo quyền xác định cha, mẹ, con cho mỗi chủ thé, cũng như qui định nghĩa vụ của các chủ thể phải tôn trọng quyền xác định cha, mẹ, con của người khác; các qui phạm điều chỉnh việc xác định cha, mẹ, con thường gắn bó mật thiết với qui phạm đạo đức, phong tục tập qn. Các qui phạm này thường khơng có chế tài kèm

<small>theo mà luôn hướng tới sự tự giác, tự nguyện nhận cha, mẹ, con của các chủ</small>

thé. Các chủ thé trong việc xác định cha, mẹ, con không được phép tự thỏa thuận dé làm hay thay đổi các quyền và nghĩa vụ pháp ly mà pháp luật đã qui

<small>định. Khi thực hiện quyên và nghĩa vụ của mình trong việc xác định cha, mẹ,</small>

<small>7 Nguyễn Thi Lan (2008), Luận án tiến sĩ “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt Nam”, tr.39.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

con các chủ thé ln phải hướng tới vì lợi ích chung của gia đình, đảm bảo

<small>việc xác định cha, mẹ, con theo đúng nghĩa của nó.</small>

1.1.4. Sơ lược về sự phát triển của phương pháp hỗ trợ sinh sản e Trên thế giới

Lan đầu tiên vào năm 1959, kỹ thuật thụ tinh nhân tạo giữa trứng và tỉnh trùng thỏ được thực hiện trong mơi trường ống nghiệm, từ đó tới nay, các nhà khoa học khơng ngừng nghiên cứu tìm kiếm những phương pháp mới cho việc điều trị vô sinh ở người. IVF va ICSI là những kỹ thuật nhằm tăng tỷ lệ thụ tinh trong điều kiện hiễm muộn đã được báo cáo thành công trên thế giới

<small>từ những năm 1978 và 1992, cho tới nay đã có hơn một triệu em bé ra đời từnhững kỹ thuật trên.</small>

Năm 1978, em bé đầu tiên từ thụ tỉnh trong ống nghiệm, Louis Brown ra đời đánh dấu bước đầu cho sự phát triển của thụ tinh trong ống nghiệm.

<small>Sau đó, hai trường hợp khác từ TTTON cũng đã được báo cáo tại Anh. Sauđó, chương trình nay tại Anh bị gián đoạn trong 2 nam.</small>

Năm 1980, em bé TTTON thứ tư trên thế giwosi được sinh ra tại Úc. Trung tâm Monash ở Úc được ghi nhận là nơi thứ hai trên thế giới thực hiện

<small>thành công TTTON. Trung tâm này sau đó liên tục báo cáo các trường hop</small>

sinh sau TTTON. Do trung tâm TTTON đầu tiền ở Anh tạm ngừng hoạt động sau 3 trường hợp sinh đầu tiên, người ta ghi nhận rằng 12 trong số 15 em bé TTTON đầu tiên trên thé giới được ra đời từ trung tâm Monash ở Úc.

Năm 1981, em bé TTTON đầu tiên ở Mỹ ra đời. Đây cũng là trường hợp TTTON đầu tiên sử dụng phương pháp kích thích buồng trứng.

Sau đó, trong những năm 80, kỹ thuật TTTON đã phát triển rất mạnh và lần lượt được báo cáo thành công tại nhiều nước trên thế ĐIỚI, ké cả Châu

Á. Trong đó, Singapore được ghi nhận là nơi thực hiện thành công TTTON

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

đầu tiên ở Châu Á vào năm 1983 bởi nhóm nghiên cứu của SC Ng và cộng

Năm 1984, kỹ thuật chuyên giao tử vào vòi trứng (GIFT) được báo cáo

<small>thành công tại Mỹ.</small>

Năm 1984, em bé đầu tiên ra đời từ trường hợp một phụ nữ khơng cịn bng trứng, thực hiện xin trứng TTTON tại Úc.

<small>Năm 1984, có báo cáo trường hợp có thai từ trứng người sau đơng lạnh</small>

và rã đông tại Úc. Tuy nhiên, tỷ lệ thành công được báo cáo rất thấp.

Năm 1988, trường hợp tiêm tinh trùng vào dưới mang trong suốt (SUZI) được báo cáo thành công lần dau tiên tại Singapore.

Năm 1989, kỹ thuật đục thủng màng trong suốt (PZD) dé hỗ trợ thụ

<small>tinh được giới thiệu ở Mỹ bởi Cohen.</small>

<small>Năm 1992, kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bao tương trứng được báo cáo</small>

thành công lần đầu tiên tại Bỉ bởi Palemo và cộng sự.

Năm 1994, trường hợp có thai đầu tiên từ trứng non trưởng thành trong ống nghiệm được báo cáo tại Úc.

Năm 1994, các trường hợp hút tinh trùng từ mao tinh qua vi phẫu va

<small>tiêm tỉnh trùng vào bào tương trứng được giới thiệu.</small>

<small>Năm 1995, kỹ thuật phan lập tinh trùng từ tính hồn ở những trường</small>

<small>hợp giảm sinh tinh tại tinh hoàn và tiêm tinh trùng vào bao tương trứng đượcbáo cáo thành cơng.</small>

Năm 1997, trường hợp có thai ở phụ nữ 63 tuổi với kỹ thuật xin trứng

<small>TTTON được báo cao.</small>

Năm 1997, trường hợp có thai đầu tiên từ trứng trữ lạnh và rã đông của Mỹ được báo cáo 11 năm sau trường hợp đầu tiên trên thé giới được báo cáo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Năm 2001, phác đồ mới trong kỹ thuật trữ trứng được báo cáo, cải thiện đáng kê tỷ lệ thành công. Đồng thời, những trường hợp sinh đầu tiên từ cả trứng và tinh trùng đông lạnh được báo cáo tại Y.

<small>e Tại Việt Nam</small>

Ở Việt Nam, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bắt đầu được triển khai từ năm 1995 và đặc biệt kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm được triển khai thành công từ năm 1998. Đi sau thế giới khoảng 20 năm, nhưng kỹ thuật này đã nhanh chóng phát triển và có những bước tiến vượt bậc. Tính đến năm 2016 đã có 23 trung tâm hỗ trợ sinh sản được thành lập, tập trung chủ yếu ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Ở miền Trung, một trung tâm ở Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa, một ở Bệnh viện Trung ương Huế, một ở Bệnh viện Đại học Y - Dược Huế và IVF Da Nẵng. Đặc biệt, Việt Nam được xem là nước thực hiện số chu kỳ hỗ trợ sinh sản nhiều nhất khu vực Đông Nam Á. Với Phương

<small>pháp này, các cặp vợ chong hiêm muộn càng có thêm nhiêu hy vọng dé cóIUI với tinh trùng lọc rửa</small>

<small>Thực hiện thành công kỹ thuật</small>

<small>` 1997 BV Từ Dũ 1971TTTON dau tién</small>

Các trường hop TTTON đâu tiên

<small>1998 BV Từ Dũ 1978ra đời</small>

<small>Š Theo VnExpress Sức khỏe</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật

<small>1999 BV Từ Dũ 1993ICSI</small>

Em bé dau tiên ra đời từ chu kỳ

<small>2000 BV Từ Dũ 1995TTTON sử dung rec.FSH</small>

Em bé đâu tiên ra đời từ kỹ thuật

1.2. Một số kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tiêu biểu

<small>1.2.1. Thu tỉnh nhân tao (IUD)</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Thụ tinh nhân tao là phương pháp bom tinh trùng vào buông tử cung được tién hành bằng cách chọn lọc tinh trùng khỏe nhất của người chồng, sau đó bơm vào buồng tử cung của người vợ ở thời điểm rụng trứng. Phương pháp này nhằm giúp tăng khả năng đậu thai cho những cặp vợ chồng bị hiếm muộn do tính trùng yếu, it; cơ tử cung yếu; lạc nội mạc tử cung nhẹ... hoặc vô sinh hiếm muộn không rõ nguyên nhân.

1.2.2. Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF)

Thụ tỉnh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm dé tạo thành phôi (Khoản 1, Điều 2, Nghị định số 10/2015/ND-CP). Hay nói cách khác, phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm là phương pháp mà trứng và tinh trùng được thụ tinh bên ngoài cổ tử cung của người phụ nữ. Đây là phương pháp điều trị hiếm muộn trong các trường hợp: Tắc nghẽn ống dẫn trứng; lạc nội mạc tử cung; tinh trùng it, yếu, di dang; xin trứng;...Đây cũng là biện pháp được nhiều cap vợ chồng vơ sinh, phụ nữ độc thân tìm đến và mang lại hiệu quả tương đối cao. Quá trình thụ tỉnh của trứng và tinh trùng được xảy ra hoàn toàn bên ngoài cơ thé con người, chỉ sau khi đã tạo thành hợp tử (phơi thai) có từ 4 tới 8 tế bào mới được đưa vào buồng tử cung của nữ giới bằng những kỹ thuật đặc biệt của bác sỹ chuyên khoa và trang thiết bị y tế. Trong một lần thụ tinh người ta có thé tạo ra nhiều phơi thai và cây cùng lúc vào buồng tử cung để tăng khả năng làm tổ của phơi tại bộ phận này, có thé trong nhiều phơi được cấy chỉ có 1 phơi có thể làm tổ nhưng có những trường hợp có nhiều phơi có thé làm tổ và gây ra tình trạng da thai.

Ngày nay, với công nghệ tiên tiến, ty lệ mang thai của người được thu tinh trong ống nghiệm đã được nâng lên đáng kể so với trước đây.

<small>1.2.3. Mang thai hộ vì mục đích nhân dao</small>

<small>Theo Luật HN&GD năm 2014 hiện hành thì mang thai hộ là việc mộtngười phụ nữ tự nguyện, khơng vì mục đích thương mại giúp mang thai cho</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh san, bằng việc lay noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tỉnh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con. Mang

<small>thai hộ vì mục đích nhân đạo khác với mang thai hộ vì mục đích thương mại,pháp luật chỉ thừa nhận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.</small>

Theo đó, các cặp vợ chồng vi lý do nào đó khơng thé tự sinh con có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện, gồm: Giấy xác nhận của tơ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thé mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang khơng có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Luật được thông qua dựa trên nguyên tắc “người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng để

<small>ngăn ngừa tinh trạng thương mại hóa việc mang thai hộ”. Theo đó, người</small>

được nhờ mang thai hộ phải có đủ 5 điều kiện: Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tơ chức y té có thâm qun về kha năng mang thai hộ; trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý băng văn bản của người chồng và đã được tư vấn về y tế, pháp ly, tâm lý”.

1.3. Điều kiện áp dụng phương pháp hỗ trợ sinh sản

Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định: “Cặp vợ chong vơ sinh và phụ nữ độc thân có qun sinh con bằng kỹ thuật thụ tỉnh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa: cặp vợ chong vơ sinh có qun nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân dao”.

1.3.1. Đối với cặp vợ chồng vơ sinh

<small>? Te.aspx?ItemID=30</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Khái niệm “vô sinh” được hiểu theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, la “tinh trang vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tinh duc trung bình 2 - 3 lân/tn, khơng sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ van khơng có thai”. Các ngun nhân dẫn đến vơ sinh có thé xuất phát từ người đàn ơng và cũng có thé xuất phát từ người phụ nữ. Ở nam giới thường do tinh trùng chất lượng kém hoặc có số lượng ít. Sự di chuyên của tinh trùng bị hạn chế, đường dẫn ống tinh trùng từ tinh hoàn ra túi tỉnh hoàn bị tắc, niệu đạo khơng thơng ra ngồi ở đầu dương vật nên khó đi vào lỗ tử cung. Ở nữ giới có thé do, ơng dẫn trứng bị tắc, viêm phan phụ, lạc nội mạc tử cung. Hoặc rỗi loạn hóc mơn khiến trứng khó rụng thường xun, tử cung bị di tật có u xơ, chất dịch cổ tử cung hoặc độ axit âm đạo bất thường,

<small>can trở tinh trùng từ âm đạo vào tử cung.</small>

Trong trường hợp cả tinh trùng và nỗn của cặp vợ chồng vơ sinh đều đảm bảo để tạo thành phôi nhưng do bệnh tập hoặc khuyết tập về mặt sinh học mà khơng thé tự thụ thai được thì cho thủ tinh nhân tạo hoặc thủ tinh trong ống nghiệm rồi cấy phơi cho người vợ là phù hợp, vì đó là gen của họ nên con sinh ra là con của họ khơng có vấn đề gì phức tạp. Theo Bộ Y tế, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 7,7% cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản, tương đương với hon 1 triệu cặp vợ chồng gặp phải các van đề về vơ sinh, hiếm

<small>muộn. Trong đó, 40% là do nam giới, 40% do nữ giới còn lại chưa rõ nguyên</small>

1.3.2. Đối với phụ nữ độc thân

Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, quy định: “Phụ nữ độc

<small>thân là phụ nữ khơng có quan hệ hơn nhân hợp pháp theo quy định cua pháp</small>

luật”. Nghia là, tại thời điểm đó, người phụ nữ khơng có quan hệ hơn nhân với bất ky ai. Người phụ nữ độc thân có thể nhận tinh trùng của người dan

<small>!° class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

ông khác để tạo phôi. Đây là trường hợp chính đáng, vì bản thân họ khơng thể tự có con được, và con cũng mang dịng máu, gen của người này. Mặc dù không muốn bị ràng buộc bởi hơn nhân nhưng họ vẫn muốn có một đứa con để yêu thương, chăm sóc, đó cũng là một trong những lý do dẫn đến người phụ nữ lựa chọn phương pháp này. Cuộc sống công nghiệp hiện đại không những cuốn hút phái nam mà cả phái nữ. Càng ngày càng có nhiều phụ nữ độc thân lựa chọn biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

<small>1.3.3. Người gửi tỉnh trùng vào ngân hàng tỉnh trùng</small>

Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngân

<small>hang tinh trùng lưu giữ tinh trùng trong các trường hợp sau:</small>

- Người tình nguyện hiến tinh trùng:

- Tinh trùng của người chồng khi cặp vợ chồng đang điều trị vơ sinh.

<small>- Người có nguyện vọng lưu giữ cá nhân.</small>

e_ Người tình nguyện hiến tinh trùng

Tại Điều 4 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP và khoản 1 Điều 6 Luật Hiến, lay, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006, có quy định về việc hiến tinh trùng. Mà theo đó “Nam tir đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự day đủ có qun hiến,

<small>nhận tinh trùng, nỗn, phơi trong thụ tỉnh nhân tạo theo quy định của pháp</small>

luật”. Với quy định này người hiến tỉnh trùng phải là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì có qun thể hiện ý chí trong việc hiến tinh trùng. Quy định về điều kiện của chủ thé trong việc hién tinh trùng đã loại trừ những cá nhân khơng có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, bị mất năng lực lực hành vi

<small>dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, có năng lực</small>

hành vi dân sự hạn chế khơng có quyền được hiến tinh trùng. Thêm vào đó người hiến tinh trùng khơng những là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

sự, mà còn phải đạt độ tuổi tối thiểu theo quy định của pháp luật đối với nam từ đủ 20 tuổi mới có qun hiến tinh trùng.

Ngồi ra, người hiến tinh trùng phải là người không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau. Người mắc bệnh di truyền khi cho tỉnh trùng thì tinh trùng của họ đã mang mam bệnh. Trên nhiễm sắc thé của tinh trùng đã có san các gen bệnh hoặc nhiễm sắc thé bị sai lệch bất thường. Do đó mam bệnh sẽ có từ trong phôi, từ điểm khởi thủy của sự sống trong 6 từ cung.

Hơn nữa người hiến tinh trùng không bị nhiễm HIV. Việc tinh trùng nhiễm HIV có thé dẫn tới việc không những đứa trẻ được sinh ra từ tinh trùng này có nguy cơ nhiễm HIV mà cịn có thể lây truyền sang mẹ, người mang thai. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người mẹ và trẻ em.

Bên cạnh đó pháp luật cịn quy định việc hiến tinh trùng là hoàn toàn tự nguyện và tỉnh trùng của người hiến chỉ được sử dụng cho một người và được hiến tại một cơ sở duy nhất. Ngoài ra người hiến tinh trùng được đảm bảo giữ bí mật những thơng tin về tên, ti, địa chỉ, hình ảnh của mình.

© Cặp vợ chơng đang điều trị vô sinh

Người chong trong cặp vợ chong dang diéu trị vơ sinh

<small>Việc gửi tinh trùng, gửi nỗn, gửi phôi được thực hiện trong các trường</small>

hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP: Cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh.

Về điều kiện kết hôn, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Luật HN&GD năm 2014: “Nam từ du 20 tuổi trở lên”. Theo quy định này, độ tuổi tối thiểu khi người chồng trong cặp vợ chồng lưu giữ tinh trùng phải trên 20 tuổi. Đây là độ tuổi theo quy định tại BLDS năm 2015 có năng lực hành vi dân sự day đủ. Vậy người chồng trong cặp vợ chồng đang điều trị vơ sinh có tồn quyền trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến việc lưu giữ tinh trùng, xử lý tinh trùng khi họ khơng có nhu cầu lưu giữ...

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Người được phép tiếp tục lưu giữ tỉnh trùng

Tại khoản 2 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định: “7zường hợp người gửi tinh trùng, gửi noãn, gửi phôi bị chết mà cơ sở lưu giữ tinh trùng, nỗn, phơi nhận được thơng báo kèm theo bản sao giấy khai tử hợp pháp từ phía gia đình người gửi, thì phải hủy số tỉnh trùng, nỗn, phơi của người đó, trừ trường hợp vợ hoặc chong của người đó có don dé nghị lưu

<small>giữ, bao quản `.</small>

Với quy định này đã cho phép người vợ được quyên tiếp tục lưu giữ tinh trùng của người chồng trong trường hợp người chồng gửi tinh trùng của mình vào ngân hàng tinh trùng trước khi chết.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 21 Nghị định này, trong trường hợp ly hơn người vợ chỉ có quyền sử dụng phơi để sinh con bằng kỹ thuật hộ trợ

<small>sinh sản.</small>

<small>e Nguoi có nguyện vọng lưu giữ cá nhân</small>

Dù pháp luật hiện hành không quy định cụ thể đối với trường hợp người có nguyện vọng lưu giữ tinh trùng cá nhân. Nhưng có thê hiểu, đó phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có tồn quyền trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự vì lợi ích của mình hoặc vì lợi ích của chủ thê

<small>khác và có nghĩa vụ thực hiện các giao dịch mà mình xác lập. Như vậy,</small>

người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì có quyền

<small>lưu g1ữ tinh trùng cua mình.</small>

Tuy nhiên, nghiên cứu quy định tại khoản 4 Điều 21 BLDS năm 2015: “Người từ đủ mười lam tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động

<small>sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dán sự khác theo quy định của luật</small>

phải được người đại điện theo pháp luật dong ý”. Việc một người tự nguyện

<small>lưu gitr tinh trùng của chính mình tại ngân hàng tinh trùng, là giao dịch hồn</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

tồn mang tinh tự nguyện, khơng vi phạm vào điều cấm của pháp luật, mặc dù ở lứa tuổi từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi pháp luật chưa cơng nhận họ có day đủ sức khỏe sinh sản, nhưng thực tiễn cho thấy, nhiều trường hợp người nam, cơ thé có sự phát triển sớm nên việc lấy tinh trùng ra khỏi cơ thé ho là điều khơng khó. Điều hơn cả, họ muốn lưu giữ tinh trình của chính mình chi dé đề phịng bat trắc xảy ra mà thôi.

<small>1.3.4. Người nhận tỉnh trùng</small>

<small>e Người phụ nữ độc thân</small>

Pháp luật cho phép người phụ nữ độc thân được quyên nhận tinh trùng từ người hiến tinh trùng khi họ đáp ứng điều kiện từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, đáp ứng các điều kiện về sức khỏe theo quy định Bộ Y tế ban hành. Ngồi ra nỗn của họ bảo đảm chất lượng dé thụ thai, nghĩa là đứa trẻ được sinh ra trong trường hợp này do sự kết hợp tỉnh trùng

<small>của người cho và noãn của người nhận tinh trùng tạo thành phôi và phôi phát</small>

triển tự nhiên trong tử cung của người nhận tinh trùng. Người mẹ của đứa trẻ là người sinh, mang thai và có cùng huyết thống đối với đứa trẻ. Thêm vào đó giữa người cho và nhận tinh trùng khơng có quan hệ cùng dong máu về trực

<small>hệ hoặc có họ trong phạm vi ba doi.</small>

Theo quy định tại khoản 4 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, trong trường hợp chấm dứt hôn nhân do người chồng chết thì người vợ vẫn được phép sử dụng tinh trùng của người chồng được lưu giữ trước khi chết. Việc sinh con bằng tinh trùng của người chồng làm phát sinh các quan hệ ngồi

<small>quan hệ hơn nhân.</small>

Trường hợp chấm dứt hơn nhân do ly hơn thì người vợ không được phép sử dụng tinh trùng của người chồng lưu giữ mà chỉ được sử dụng phôi.

<small>Việc sử dụng này làm phát sinh các quan hệ ngoai quan hệ hơn nhân gia đình</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<small>thì thực hiện theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật dân</small>

e_ Người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh

Đối với trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản từ tinh trùng của người hiến ngoài đáp ứng các điều kiện giống như phụ nữ độc thân còn phải đáp ứng điều kiện ngun nhân vơ sinh là từ phía người chồng. Đó là trường hợp người chồng khơng có tỉnh trùng hoặc tỉnh trùng bất thường nặng không thé sử dụng ngay cả khi làm thụ tinh trong ống nghiệm hoặc người chồng có bat thường về gen.

So với trường hợp phụ nữ độc thân sinh con băng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có hai điểm khác biệt.

+TJu nhất, khác nhau về độ tuổi được phép thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phụ nữ độc thân từ đủ 18 tuổi trở lên trong khi người vợ là từ đủ 19 tuôi trở lên.

<small>+Thit hai, đỗi với chủ thé là người vợ có thêm điều kiện ngun nhân</small>

vơ sinh là từ phía người chồng. Sở dĩ có sự khác biệt này là các nhà làm luật muốn có cơ hội cho vợ chồng sinh con tự nhiên trước khi quyết định sinh con băng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Ngoài ra cũng là hạn chế sinh con bằng kỹ thuật hộ trợ sinh sản dé lựa chon giới tinh thai nhi.

Việc người vợ sử dụng tinh trùng của người chồng dé sinh con phải có sự đồng thuận, thống nhất với người chồng.

1.3.5. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo e Điều kiện đối với bên nhờ mang thai hộ

Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được quy định tại Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và được hướng dẫn tại Nghị định

<small>10/2015/NĐ-CP.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Không phải người nào cũng có quyền nhờ mang thai hộ và khơng phải người nào cũng quyền nhận mang thai hộ. Nhóm chủ thể nhờ mang thai hộ chỉ có hai trường hợp: Một là do những dị tật của tử cung, mặc dù trứng vẫn khỏe mạnh nhưng có dị tật về tử cung không thể mang thai và sinh sản tự nhiên được. Hai là trường hợp người có đầy đủ cả những yếu tố trên nhưng sức khỏe quá yêu thậm chí đến mức có thê làm chết cả mẹ lẫn con. Trên thực tế cũng đã có nhiều trường hợp có nhiều bà mẹ mong mỏi có một đứa con đến mức hy sinh cả sức khỏe của mình cuối cùng cả mẹ và con đều chết. Ngay cả khi khơng có khả năng mang thai thì cả hai trường hợp này cũng không thể

<small>được phép áp dụng biện pháp mang thai hộ một cách tùy tiện. Những trường</small>

hợp nay cần phải có một hội đồng y khoa tiễn hành xác nhận, hội đồng sẽ tiễn hành cuộc họp y khoa và đi đến kết luận bằng văn bản hành chính rằng cặp vợ chồng này khơng có khả năng mang thai tự nhiên được, thì lúc này các cặp vợ chồng mới được tiếp cận kỹ thuật mang thai hộ.

e Điều kiện đối với bên mang thai hộ

Thứ nhất, người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hang của bên vợ hoặc bên chồng người nhờ mang thai hộ (điểm a, khoản 3, Điều 95 Luật HN&GD năm 2014). Nhóm người thân thích được quy định cu thể tại khoản 7, Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP). Nếu có nhiều người thân trong gia đình đồng ý giúp đỡ mang thai hộ thì cũng chỉ được phép nhờ một trong số những người đó mang thai hộ và cũng chỉ được phép thực hiện mang thai hộ một lần (điểm b, khoản 3, Điều 95 Luật HN&GD năm 2014).

Thứ hai, người mang thai hộ phải ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về kha năng mang thai hộ (điểm c, khoản 3, Điều 95 Luật HN&GD năm 2014). Độ tuổi phù hợp được khoanh vùng là từ 20 đến 35 tudi, có đủ sức khỏe thụ thai, khơng mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS, bệnh truyền nhiễm hay các bệnh di truyền khác

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

và có xác nhận của tơ chức y tế có thâm quyền. Luật quy định người mang

<small>thai hộ phải là người đã từng sinh con, bởi những người đã từng sinh đẻ mới</small>

mới có đủ hiểu biết, kinh nghiệm thực tế về van dé sinh sản.

Thứ ba, người mang thai hộ phải đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý (điểm đ, khoản 3, Điều 95 Luật HN&GD năm 2014). Y nghĩa của quy định là để các nhà tư vẫn thâm định về sự chuẩn bị và điều kiện của các bên, tìm hiểu hồn cảnh và sự chín chắn cho quyết định này của người mang thai hộ cũng như người nhờ mang thai hộ, giúp họ hiểu được những vấn đề có thể nảy sinh trong suốt q trình. Cần phải chat van những người trong cuộc xem họ đã ý thức về việc làm của ho tới mức nao, nhu cầu tới đâu. Họ đã sẵn sảng cho một việc hy sinh dài lâu với tình yêu thương và trách nhiệm vô điều kiện hay chưa, đồng thời không được tư vấn cho cả vợ chồng nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ. Khó khăn lớn nhất đối với công việc tư vấn là làm thế nào mỗi bên thấu hiểu đây là một “hop đồng đặc biệt”, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên chắc chăn sẽ khác với các loại hợp đồng dịch vụ khác và trách nhiệm nặng nề sẽ theo suốt mỗi bên trong cả đời người.

1.4. Ý nghĩa việc xác định cha, mẹ, con khi sinh con bằng kỹ thuật hỗ

<small>trợ sinh sản</small>

1.4.1. Ý nghĩa về mặt xã hội

Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay cần thiết phải đặt ra van đề là việc xác định cha, mẹ, con có ý nghĩa gì và sẽ đạt được mục đích gì về mặt xã hội và pháp lý. Có thể khang định rằng, gia đình hiện đại cũng như gia đình truyền thống luôn coi trọng những mỗi quan hệ tạo nên sự bền vững của gia đình, đó là quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái. Việc xác định cha, mẹ, con đóng một vai trị hết sức quan trọng trong việc ơn định các mối

<small>quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Trên cở sở xã hội và pháp lý, việc xác định cha, mẹ, con, trước hết, xuất phát từ bản chất tự nhiên của con người. Mối quan hệ giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng luôn tồn tại một cách khách quan và tất yêu dẫn dén những sản phẩm nhất định — những đứa con. Vì vậy, việc xác định cha, mẹ, con là một tất yếu khách quan trong mọi xã hội dé ghi nhan mối quan hệ cha mẹ và con. Việc sinh con khơng chỉ thỏa mãn lợi ích của vợ chồng mà cịn thỏa mãn lợi ích của gia đình, của dòng họ. Mỗi người được sinh ra, lớn lên đều luôn hướng về cội nguồn, luôn muốn biết minh sinh ra từ ai. Đó chính là ban năng gốc rất tự nhiên của mỗi người.

Việc xác định cha, mẹ, con xuất phát từ bản chất xã hội sẽ trở nên phức tạp hơn nhiều. Những mối quan hệ gia đình và xã hội đan xen lẫn nhau đã tác động rất nhiều đến mỗi quan hệ cha mẹ và con. Việc xác định cha, mẹ, con đụng chạm đến lợi ích của nhiều mối quan hệ khác. Vì vậy, việc xác định cha, mẹ, con mang tính nhạy cảm cao. Phải khang dinh rang, viéc xac dinh cha, me, con duong nhién dan dén những xung đột về mặt lợi ích. Vậy, những chủ thé nào sẽ thỏa mãn được lợi ich trong việc xác định cha, mẹ, con? Tựu chung có ba nhóm chủ thé chính đạt được lợi ích của minh trong việc xác

<small>định cha, me, con:</small>

Thứ nhất là nhà nước. Qua việc xác định cha, mẹ, con, nhà nước sẽ chỉ ra được ai là chủ thể mang quyền và nghĩa vụ trong mỗi quan hệ cha mẹ và con. Nhà nước san sẻ trách nhiệm đối với các chủ thé trong mối quan hệ đó và

<small>đương nhiên nhà nước sẽ bớt đi gánh nặng cho mình. Mặt khác, nhà nước</small>

điều hịa được lợi ích chung của xã hội, dự phịng được những xung đột về lợi

<small>ích trong tương lai.</small>

<small>Thứ hai là gia đình. Lợi ích dành cho gia đình và tộng hơn là lợi ích</small>

của cả dòng họ. Việc xác định cha, mẹ, con tạo nên những mối quan hệ thiêng liêng trong gia đình, từ đó xác định được quyền và nghĩa vụ của các chủ thé.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Việc xác định cha, mẹ, con là cần thiết và quan trọng nhằm ổn định những mỗi quan hệ gia đình về mặt xã hội và pháp lý. Điều đặc biệt quan trọng là đảm bảo hịa khí trong các mối quan hệ gia đình. Điều này đã đặt ra nhiều thách thức đối với việc xác định cha, mẹ, con.

Thứ ba là trẻ em. Đây là nhóm chủ thé đặc biệt. Khi sinh ra, đứa trẻ cần biết cội nguồn gốc của mình. Việc lấy đứa trẻ là trung tâm của gia đình khơng còn là vấn đề mới trong xã hội hiện đại. Sự xuất hiện và tồn tại của đứa trẻ trong gia đình sẽ dẫn đến những thay đổi căn bản các mối quan hệ gia đình khác. Tuy nhiên, sự có mặt của đứa trẻ phải được xác định là quan trọng nhất và được ưu tiên số một. Khi thực hiện hức năng cơ bản của mình, gia đình đã gánh vác trách nhiệm nặng nề là tạo ra của cải vật chất và tinh thần để chăm sóc, ni dưỡng các thành viên của mình. Mặt khác, gia đình là nơi truyền thụ văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác nhằm giữ tìn và phát huy các giá trị văn hóa cao q của đất nước. Gia đình là mơi trường giáo dục đầu tiên tạo nên nhân cách cho thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước. Sự thiếu văng cha, mẹ sẽ làm cho trẻ thụ động và không định hướng được trong môi trường phức tạp day biến động và khi đến một độ tuổi nhất đinh rất có thể chúng sẽ chống đối lại người lớn và xã hội. Điều này là vô cùng nguy hiểm

<small>cho một xã hội ở hiện tại và trong tương lai. Vì vậy, việc xác định cha, mẹ,</small>

con sẽ là cơ sở dé đảm bảo việc nâng cao ý thức trách nhiệm đối với gia đình giữa các thế hệ, tạo điều kiện cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của trẻ em. Việc xác định cha, mẹ, con là sự kết hợp hài hịa giữa lợi ích gia đình và xã hội. Bởi khơng một tơ chức từ thiện nào, không một làng trẻ em mồ côi nào có thể thay thế được gia đình, đó chính là tổ ấm mang lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời mình.

Xét ở tầm vĩ mơ, việc xác định cha, mẹ, con là cần thiết trong mọi xã

<small>hội. Đôi với những nước nghèo, những nước đang phát triên, việc xác định</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

cha, mẹ, con suy cho cùng là tìm kiếm người chỉ trả cho đứa trẻ trước khi tính đến sự thỏa mãn về mặt tinh thần của các chủ thê trong mối quan hệ đó. Đối với những nước giau việc xác định cha, mẹ, con đảm bảo cao hơn quyền của trẻ em, đảm bảo những quyên lợi tối ưu nhất của trẻ em, giúp cho trẻ em hòa nhập với gia đình gốc của mình, bởi vốn di nó được sinh ra từ đó.

1.4.2. Ý nghĩa về mặt pháp lý

<small>Việc xác định cha, mẹ, con ln có ý nghĩa trong mọi thời đại và đặc</small>

biệt được coi trong, bởi nó liên quan đến rất nhiều mối quan hệ pháp ly khác như dan sự, hơn nhân và gia đình, thé hiện quyền bình đăng giữa các chủ thé. Việc xác định cha, mẹ, con là một trong những cơ Sở dé dam bảo quyén binh đăng giữa nam va nữ. Dac biệt là quyền làm cha, làm mẹ và nó gắn liên với thiên chức tự nhiên của người đàn ông và người phụ nữ, thể hiện sự bình dang

Khi xây dựng pháp luật về xác định cha, mẹ, con đương nhiên nhà làm luật phải cân nhắc các yếu tố khách quan và chủ quan nhăm dung hòa lợi ích xã hội. Các quy phạm pháp luật về xác định cha, mẹ, con cần đảm bảo sự phối hợp tối đa các lợi ich xã hội mà mỗi chủ thé đạt được. Pháp luật về xác định cha, mẹ, con đảm bảo quyền chủ thể đồng thời cũng chỉ ra nghĩa vụ tương ứng mà mỗi chủ thê phải gánh chịu. Đặc biệt, xét ở mức độ cao hơn, pháp luật về xác định cha, mẹ, con còn đảm bảo tính dự phịng dé gidi han hanh vi cua các chủ thé trong một phạm vi nhất định, Bởi tất cả các lợi ích xã hội liên quan đến việc xác định cha, mẹ, con có sự phụ thuộc lẫn nhau, chỉ phối và tác động lẫn nhau. Tức là, các chủ thể trong quan hệ xác định cha, mẹ, con có thể dùng quyền pháp lý dé thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của mình thì họ cũng phải tuân theo các nghĩa vụ pháp lý nhất định. Bởi vì, những nghĩa vụ đó chính là phương tiện dé nhà nước thiết lập trật tự xã hội, đảm bảo

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

lợi ich chung cua xã hội. Su dung hoa tối đa lợi ich giữa cá nhân và xã hội là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.

Việc xác định cha, mẹ, con liên quan đến nhiều chế định pháp lý trong pháp luật HN&GD. Nó là cơ sở phát sinh các mối quan hệ trong gia đình, đặc biệt là những mối quan hệ thân thuộc. Việc xác định cha, mẹ, con là cơ sở dé các chủ thé thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật như quan hệ giữa cha mẹ và con, giữa vợ và chồng, giữa anh chị em, giữa ông bà

<small>và cháu và giữa các thành viên khác trong gia đình. Trong quan hệ giữa cha</small>

mẹ và con, việc xác định cha, mẹ, con có ý nghĩa trong việc xác định quyền nhân thân và tài sản giữa cha mẹ và con như quyền xác định dân tộc, quyền đại diện, quyên thừa kế, quyền sở hữu tai sản. Trong quan hệ giữa anh chị em,

<small>giữa ông bà và cháu, việc xác định cha, mẹ, con có ý nghĩa trong việc xác</small>

định quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng...

Việc xác định cha, mẹ, con có ảnh hưởng trực tiếp tới chế định kết hơn. Bởi vì, việc xác định cha, mẹ, con sẽ dẫn tới việc các chủ thé có hoặc khơng có quan hệ về trực hệ và có họ trong phạm vi ba đời. Day là cơ sở dé xem xét các bên chủ thé có đủ điều kiện kết hôn hay không. Nếu ho đã kết hơn thì sẽ có cơ sở xác định họ có thuộc trường hợp kết hôn trái pháp luật không. Đây là căn cứ quyết định hủy hay không hủy việc kết hôn trái pháp luật.

Trong mối liên hệ với chế định ly hôn, việc xác định cha, mẹ, con là cơ sở xác định có hay khơng có quan hệ nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng giữa cha mẹ và con từ đó đảm bảo được qun và lợi ích hợp pháp của các chủ thé, Nhu vậy, việc xác định cha, mẹ, con là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thâm quyền giải quyết vụ việc trên thực tế.

Đối với chế định giám hộ giữa các thành viên trong gia đình, việc xác định cha, mẹ, con sẽ quyết định tới việc xá định một người chưa thành niên có

<small>cân người giám hộ hay khơng; thứ tự giám hộ của người giám hộ của người</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự. Bởi vì, người chưa thành niên chỉ cần giám hộ khi không xác định được, cha, mẹ; khơng cịn cha mẹ... Vậy nếu xác định được cha, mẹ cho người chưa thành niên sẽ đảm bảo quyên và lợi ích của các chủ thể...

Đối với chế định nuôi con nuôi, việc xác định cha, mẹ, con có thé là căn cứ xác định việc nuôi con nuôi là hợp pháp hay không, xác định quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi...

Bên cạnh những mối liên hệ với các chế định pháp luật hơn nhân và gia đình, việc xác định cha, mẹ, con còn liên quan mật thiết đến nhiều chế định

<small>trong pháp luật Dân sự:</small>

<small>Trong giao dịch dân sự, việc xác định cha, mẹ, con có ý nghĩa trong</small>

việc xác định quyền yêu cau tuyển bố giao dịch vô hiệu do người chưa thành

<small>niên thực hiện.</small>

Trong chế định tài sản và quyền sở hữu, việc xác định cha, mẹ, con có ý nghĩa trong việc xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu; quyền quản lý, sử

<small>dụng, định đoạt tài sản.</small>

1.5. Căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

1.5.1. Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân của cặp vợ chồng vô sinh

<small>Thời kỳ hôn nhân không chỉ là căn cứ xác định cha, mẹ, con mà còn là</small>

điều kiện bắt buộc dé cặp vợ chồng vô sinh được phép áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản. Có thể thấy rằng thời kỳ hôn nhân là căn cứ quan trọng nhất để xác định tư cách người cha, người mẹ đôi với đứa con được sinh ra từ phương pháp hỗ trợ sinh sản. Đây là dấu hiệu về mặt pháp lý không thể thiếu trong việc sinh con theo phương pháp hỗ trợ sinh sản, đặc biệt là việc sinh con theo

<small>phương pháp này có sự tham gia của người thứ ba</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Cặp vo chồng vơ sinh ở đây là cặp vợ chồng có kết hôn hợp pháp, tức là khi tiến hành sinh con theo phương pháp hỗ trợ sinh sản phải đưa ra được giấy chứng nhận kết hơn để chứng minh tình trạng hơn nhân của mình. Có như vậy mới ràng buộc trách nhiệm của họ đối với quá trình sinh con, tránh nguy cơ người đàn ông không nhận con có thê xảy ra. Mặt khác, việc chung song như vợ chồng khơng có sự ràng buộc về mặt pháp lý nên rất dé bi phá vỡ và như vậy quyền lợi của các chủ thê có thé bi ảnh hưởng `".

1.5.2. Căn cứ vào sự tự nguyện của cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ

<small>nữ độc than, của người cho và nhận noan, cho và nhận tỉnh tring, cho vanhận phôi</small>

“Viéc thu tinh trong ống nghiệm, cho và nhận nỗn, cho và nhận tinh

<small>trùng, cho và nhận phơi, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được thực hiện</small>

trên nguyên tắc tự nguyện” (khoản 3 Điều 3 Nghị Dinh số 10/2015/ND —

<small>CP). Theo quy định này, việc thực hiện kỹ thuật sinh sản, người cho, nhận</small>

<small>tinh trùng, cho, nhận noãn phải tự nguyện và chỉ cho tại một cơ sở khám</small>

bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật thụ tính trong ống nghiệm. Khơng ai có thể ép buộc một người cho và nhận nỗn hoặc tinh trùng hoặc phơi hoặc mang thai hộ bởi đây là van đề có liên quan đến sức khỏe, tính mạng của cá nhân. Việc quy định như vậy cũng đảm bảo quyền tự do của mỗi người.

Theo pháp luật thực định, văn bản thê hiện sự tự nguyện đều được xác định ké từ trước khi bắt đầu tiến hành qui trình thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Vì sau khi hồn tất hồ sơ, hồ sơ đó phải được hội chân, phê duyệt và chỉ định áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Ngồi ra, cịn có thêm bản cam kết theo mẫu qui định, trước khi chính thức bắt dầu thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

<small>iM Nguyễn Thị Lan, luận án tiến sĩ luật hoc, trường đại học Luật Hà Nội, 2008, xác định cha, mẹ, con trong</small>

<small>pháp luật Việt Nam, tr.128</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Như vậy, người có nhu cầu thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được thể hiện sự tự nguyện thêm một lần nữa trước khi thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Một van đề đặt ra trong trường hop nay là việc xác định thời điểm tiến hành việc sinh con theo phương pháp khoa học là thời điểm nào?. Theo quan điểm cá nhân em cho rang cần xác định thời điểm này đó là khi hồn tất hồ sơ về mặt chun mơn. Bởi vì thời điểm này đã đủ căn cứ xác định sự tự nguyện của các chủ thé, mặt khác đã đủ căn cứ chuyên môn để xác định Cặp vợ chồng có khả năng tương thích dé thực hiện kỹ thuật y học. Việc xác định thời điểm này rất quan trọng, vì nó liên quan đến việc ràng buộc trách nhiệm pháp lý của các chủ thể trong quá trình hỗ trợ sinh sản, cũng như trách nhiệm với đứa

<small>con tương lai của mình.</small>

Một vấn đề nữa đó là khi sinh con theo phương pháp khoa học đứa con sinh ra có thé mang gen của bố hoặc mẹ hoặc không mang mã gen của cả hai. Do vậy, điều kiện quan trọng nhất liên quan đến việc xác định cha, mẹ, con là

<small>người cho nỗn, tinh trùng, phơi phải tự nguyện, cho khơng và khơng được</small>

tìm hiểu về tên, tuổi, dia chỉ và hình ảnh của người nhận. “Viéc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc vô danh giữa

<small>người cho và người nhận; tỉnh trùng, phơi của người cho phải được mã hóa</small>

dé bảo dam bí mật nhưng vẫn phải ghi rõ đặc điểm của người cho, đặc biệt là yếu t6 chủng tộc” (khoản 4 Điều 3 Nghị Định số 10/2015/ND — CP). Theo quy định nay, sẽ không cung cấp thông tin cá nhân người cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phơi, quy định như vậy để tránh tình trường hợp người cho tinh trùng, cho nỗn địi lại con. Tuy nhiên, vẫn phải ghi rõ đặc điểm của người cho, đặc biệt là yếu tổ chủng tộc dé tránh trường hợp các con sau này của người được sinh ra kết hơn cùng huyết thơng.

<small>Ngồi ra, trứng và tinh trùng của người cho chỉ được sử dụng cho một</small>

người. Quy định này đã hạn chế đến mức tối đa diện những đứa trẻ có cùng

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

huyết thống nhưng được sinh ra từ các gia đình khác nhau mà về mặt pháp ly lại không phải là anh chị em ruột. Trong tương lai có thé giữa những đứa trẻ này lại kết hôn với nhau và thế hệ tiếp theo sẽ không đảm bảo sinh ra được

<small>những đứa trẻ khỏe mạnh.</small>

Theo pháp luật Việt Nam, người phụ nữ độc thân cũng có quyền xin được áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Hiện nay trên thế giới chi có Canada

<small>và Israel có quy định tương tự pháp luật Việt Nam. Pháp luật quy định người</small>

phụ nữ độc thân khơng được phép nhận phơi và nhận nỗn mà chỉ có thê được nhận tinh trùng mà thơi. Việc cắm thực hiện cho phôi với người phụ nữ độc thân cịn có thé xuất phát từ mục đích là ngăn chặn việc mang thai hộ. Việc

<small>cho — nhận, nỗn, cho — nhận tinh trùng, cho — nhận phơi khơng được thực</small>

hiện đối với người nước ngồi trừ trường hợp người vo là người gốc Việt.

<small>Như vậy, người phụ nữ độc thân mà là người nước ngồi sẽ khơng được áp</small>

dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Van đề mang thai hộ cũng là một van đề phức tạp. Bởi lẽ việc xác lập quan hệ thân thích như thế nào là một vấn đề phức tạp. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhưng cơ chế giám sát đối với người mang thai hộ thì chưa có chăng hạn như: chế độ ăn uống, đi lại...Nếu họ có chồng thì có cần sự đồng ý của người chồng không, hoặc khi đang nhờ người khác mang thai hộ, cặp vợ chồng vô sinh nảy sinh mâu thuẫn muốn ly hơn thì giải quyết như thé nào với việc mang thai hộ 'Ÿ.

<small>1.5.3. Căn cứ vào sự kiện sinh đẻ</small>

Đối với việc sinh con theo phương pháp khoa học thì tồn bộ q trình sinh đẻ về ngun tắc phải nằm trong thời kỳ hôn nhân chứ không thê xảy ra trước ngày đăng ký kết hôn. Người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh không thể thụ thai trước thời kỳ hôn nhân và càng không thể sinh con trước thời kỳ hôn

<small>2 Nguyễn Thị Lan (2008), Luận án tiến sĩ “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt Nam”, tr. 29.</small>

</div>

×