Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.59 MB, 32 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>ĐỀ TÀI: ĐẶC ĐIỂM RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ ÝNGHĨA CỦA NHỮNG ĐẶC ĐIỂM ĐĨ VỚI CƠNG TÁC ĐỔI MỚI, CHỈNH ĐỐN</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>A. MỞ ĐẦU</b>...<b>2</b>
<b>B. NỘI DUNG...4</b>
<b>I. Tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX</b>...<b>4</b>
1. Tình hình thế giới và tác động của nó đối với cách mạng Việt Nam...4
2. Khái quát xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời...6
3. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng...9
4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam...10
<b>II. Đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa ba yếu tố Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước</b> ...12
1. Vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với sự ra đời của Đảng...15
2. Vai trò của phong trào công nhân đối với sự ra đời của Đảng...17
3. Vai trò của phong trào yêu nước đối với sự ra đời của Đảng...19
<b>III. Ý nghĩa của những đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đối vớicông tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay...20</b>
1. Hiện nay Đảng ta vẫn luôn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, kiên trì đi theo và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin...20
2. Công nhân Việt Nam hiện nay phát triển nhanh về số lượng và chất lượng tuy nhiên giai cấp công nhân đang đối mặt với nhiều khó khăn...23
3. Đảng phát triển lớn mạnh, có mặt ở khắp mọi nơi đồng thời cũng tồn tại một vài khuyết điểm hạn chế...26
<b>C. KẾT LUẬN...29</b>
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...30</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Gần bảy thập kỷ vừa qua, dân tộc ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh cực kỳ khó khăn, gian khổ, giành được nhiều thắng lợi vẻ vang. Từ thân phận người dân mất nước, nhân dân ta đã anh dũng vùng lên, lần lượt đánh bại sự xâm lược của nhiều đế quốc lớn mạnh, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Lực lượng lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhìn lại q trình lịch sử của cách mạng Việt Nam chúng ta thấy Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo, tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân tộc khi thắng lợi cũng như lúc khó khăn, khi thành công cũng như lúc sai lầm, khuyết điểm. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một điều tất yếu, khách quan của cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc ở Việt Nam lúc bấy giờ; là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước, tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức của một tập thể cách mạng; là sự sàng lọc và lựa chọn nghiêm khắc của lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi mất nước vào ta đề quốc thực dân Pháp. Đảng ra đời là một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa Mac-Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Ba yếu tố đó đóng vai trò to lớn đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và cho đến nay vẫn luôn giữ được ý nghĩa quan trọng và lớn lao đối với công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Nhân dân Việt Nam ngày nay, đặc biệt là thế hệ trẻ đã và đang được trực tiếp hưởng thụ những thành quả cách mạng từ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Việc giáo dục cho các thế hệ trẻ thấy được vai trò và sự cống hiến to lớn của Đảng và đặc biệt là thấy được ý nghĩa và đặc điểm quan trọng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là vô cùng cần thiết.
Do vậy, em lựa chọn đề tài: “Đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và ý nghĩa của những đặc điểm đó với cơng tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay”. Làm đề tài tiểu luận cho mình.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>I. Tình Hình Thế Giới Và Việt Nam Cuối Thế Kỷ XIX Đầu Thế Kỷ XX</b>
1. Tình hình thế giới và tác động của nó đối với cách mạng Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên bình diện thế giới xuất hiện những biến cố lịch sự mang tính chất là bước ngoặt của xã hội loài người.
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (ĐQCN). Chính bước chuyển này đã làm cho mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay gắt: Mâu thuẫn vốn có trong CNTB là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã phát triển đến mức cần phải giải quyết. Mâu thuẫn này tạo ra tính tất yếu của cách mạng vơ sản, phạm trù cách mạng thế giới chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, cách mạng XHCN. Cùng với mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi nước tư bản thì thời điểm này cũng đã xuất hiện mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau do tranh giành thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực ảnh hưởng. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918). Đặc biệt là sự thống trị tàn bạo của CNĐQ làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với CNĐQ thực dân ngày càng trở nên gay gắt và trở thành một vấn đề mang tính thời đại đại.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một học thuyết cách mạng và khoa học đã khẳng định được vị trí và được xem là vũ khí lý luận của giai cấp cơng nhân, đó là lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Khơng những thế lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng chỉ ra cho các dân tộc thuộc địa con đường giải phóng mình.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác-Lênin đã xây dựng học thuyết lý luận cách mạng không ngừng với nội dung cơ bản: Giai cấp công nhân, sau khi đã trưởng thành về trình độ giác ngộ, trình độ tổ chức, có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ tư sản trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế phong kiến. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự liên minh giữa hai giai cấp công nhân với giai cấp nông dân là lực lượng chủ yếu đánh đổ chế độ chuyên chế phong kiến, thành lập nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân và giai cấp nơng dân (gọi tắt là chun chính cơng nơng). Một cuộc một cuộc cách mạng như vậy được gọi là cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Sự hồn thiện triệt để cách mạng đó có nghĩa là tạo lập chiếc cầu trực tiếp để chuyển sang cách mạng XHCN và giữa chúng khơng có “bức tường thành ngăn cách”.
Lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và đặc biệt là lý luận cách mạng không ngừng đã chỉ ra con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa như Việt Nam, đó là phải tiến hành một cuộc cách mạng theo con đường cách mạng vô sản. Đồng thời Lênin cũng chỉ ra việc cần thiết phải xây dựng một Đảng Cộng sản kiểu mới của giai cấp công nhân.
Trong lúc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đnag phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là khi được trang bị bởi một học thuyết cách mạng và khoa học, cuộc cách mạng vô sản đầu tiên nổ ra và giành thắng lợi tại Nga năm 1917.
Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga đã cổ vũ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, đặc biệt là nhân dân các nước thuộc địa. Cách mạng Tháng Mười Nga đã thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt các Đảng Cộng sản trên thế giới: Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Hunggari (1918), Đảng Cộng sản Mỹ (1919), Đảng Cộng sản Anh, Đảng Cộng sản Pháp (1920) …
Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, dẫn tới sự ra đời
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">của hàng loạt các Đảng Cộng sản. Tình hình đó địi hỏi phải có một tổ chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập tủng sức mạnh của phong trào ở tất cả các quốc gia, dân tộc (Quốc tế II đã khơng cịn vai trị tiên phong từ sau khi Awngghen qua đời năm 1895).
Tháng 3 – 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập, với khẩu hiệu “Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” đã đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. “Lần đầu tiên trong lịch sử quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu, liên minh chiến đấu giữa hai giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống trị thực dân”. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam: “Xem trọng các tổ chức Đệ tam quốc tế, có đặt ra một riêng, chuyên nghiên cứu và giúp đỡ kách mệnh bên Á – Đông … Xem khẩu hiệu Đệ tam quốc tế, chẳng những rằng “vô sản giai cấp” mà lại thêm câu “… và dân tộc bị áp bức trên thế giới liên hiệp lại” … Xem những việc ấy thì đủ biết rằng An Nam muốn làm kách mệnh thành cơng, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”.
Như vậy, tình hình thế giới và những đặc điểm trên đây của thời đại có ảnh hưởng to lớn tới cách mạng Việt Nam và đặc biệt là quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Khái quát xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Năm 1858, tại cửa biển Đà Nẵng, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, mặc dù nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng, song các phong trào đấu tranh đều lần lượt thất bại. Đến năm 1897, thực dân Pháp đã áp đặt xong bộ máy cai trị ở nước ta và bắt đầu tiến hành khai thác thuộc địa với những chính sách phản động và hà khắc.
, thực dân Pháp thực hiện chính sách chuyên chế với bộ máy đàn Về chính trị
áp nặng nề, mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp. Toàn quyền Đông Dương Thống đốc Nam Kỳ, Thống sứBắc Kỳ, Khâm sứ
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Trung kỳ, Công sứ các tỉnh. Biến vua quan Nam Triều thành bù nhìn tay sai. Biến Việt Nam từ một nước phong kiến thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Chúng dùng chính sách chia để trị. Chia nước ta thành 3 kỳ sát nhập với Lào, Campuchia lập Liên bang Đông Dương, nhằm xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Mỗi kỳ có chính sách khác nhau hịng chia rẽ và gây thù hận giữa các sứ làm cho dân tộc ta khơng đồn kết thống nhất, khơng tạo sức mạnh tổng hợp chống lại chúng.
Về kinh tế, 1897 Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần 1, sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), chúng khai thác lần 2 để bù vào những tổn thất trong chiến tranh (vốn đầu tư với tốc độ nhanh, giai đoạn 1924 - 1925 hơn 6 lần 1847 – 1918), tập trung vào hai khu vực chủ yếu là đồn điền cao su và mỏ than.
Tăng cường ngân hàng để cho vay nặng lãi và thâu tóm để kiểm sốt các hoạt động kinh tế ở Đông Dương. Chúng tăng thuế lên 2 - 3 lần so với trước, độc quyền thuốc phiện, rượu, muối.
Chúng thực hiện chế độ mộ phu cực kỳ man rợ và chiếm đoạt ruộng đất của nông dân làm 50% nông dân nước ta mất ruộng đất. Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.
Chúng du nhập phương thức sản xuất TBCN làm cho quan hệ kinh tế ở nơng thơn bị phá vỡ và hình thành nên những đô thị, khu dân cư và trung tâm kinh tế mới.
Chúng duy trì phương thức sản xuất phong kiến, kết hợp hai phương thức sản xuất để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Chúng không du nhập phương thức sản xuất TBCN một cách hồn chỉnh, chính vì thế mà Việt Nam khơng thể tiến lên TBCN bình thường được. Vì vậy nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vịng lạc hậu - vừa mang tính chất tư bản thực dân - vừa mang tính chất phong kiến.
Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa nơ dịch, ngu dân, gây tâm lý tự ti, vong bàn để chúng dễ bề thống trị. Đồng thời chúng cịn tìm mọi
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">cách bưng bít và ngăn chặn khơng cho ảnh hưởng đến văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã nói rõ chính sách này: “Chủ nghĩa tư bản Pháp đó vào Đơng Dương từ nửa thế kỷ nay; vì lợi ích của nó, nó đã dựng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tơi. Từ đó, chúng tơi khơng những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Tôi xin nhấn mạnh từ “đầu độc” bằng thuốc phiện, bằng rượu … Chúng tôi khơng có quyền cư trú và du lịch ra nước ngồi, chúng tơi phải sống trong cảnh ngu dốt, tối tăm và chúng tơi khơng có quyền tự do học tập”.
Sự thống trị của thực dân Pháp đã để lại nhiều hậu quả trong nền kinh tế -xã hội Việt Nam.
Về kinh tế, nền kinh tế Việt Nam khơng thể tiến lên TBCN bình thường được, trái lại nó phát triển chậm chạp, q quặt, mất đàn tính độc lập, ngày càng lệ thuộc vào kinh tế Pháp; nó bị kìm hãm trong vịng lạc hậu – vừa mang tính chất TB thực dân – vừa mang tính chất phong kiến.
Về xã hội, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến, mẫu thuẫn trong xã hội cũng bị chi phối bởi đặc điểm này; xã hội Việt Nam hình thành nhiều mâu thuẫn đan xen lẫn nhau, song mâu thuẫn chủ yếu nhất nổi lên lúc này là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.
Về giai cấp cũng bị phân hóa triệt để do chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, ngoài những giai cấp vốn có (địa chủ phong kiến và nơng dân), xã hội Việt Nam xuất hiện những giai cấp mới như tư sản, tiểu tư sản, vô sản.
Thái độ chính trị của các giai cấp cũng có sự phân hóa sâu sắc, theo đó trong các giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản đều có những bộ phận có thể lơi kéo, lợi dụng trong lực lượng cách mạng; các giai cấp tiểu tư sản và nông dân đều có tinh thần hăng hái cách mạng, là lực lượng quan trọng của cách mạng. Đặc biệt là công
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">nhân, tuy chiếm khoảng 1% dân số nhưng là lực lượng duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng nếu được trang bị Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong bối cảnh đó, các phong trào yêu nước theo chiều khuynh hướng khác nhau diễn ra: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), Khởi nghĩa của nông dân Yên Thế (1885 – 1913), Phong trào Đông Du (1906 – 1908), Phong trào Duy Tân (1906 – 1908), Phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925 – 1926), Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng (1927 – 1930) … Nhưng tất cả các phong trào đều lần lươt thất bại, cách mạng Việt Nam rơi vào khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng. 3. Vai Trò Của Nguyễn Ái Quốc Trong Việc Chuẩn Bị Các Điều Kiện Thành Lập Đảng
Trước yêu cầu bức bách phải tìm ra con đường cứu nước mới, tháng 6 năm 1911, Nguyễn Ái Quốc sang phương Tây, nơi có nền khoa học - kỹ thuật phát triển, có tư tưởng dân chủ, tự do xem họ làm thế nào rồi về giúp đồng bào mình thốt khỏi gơng cùm nơ lệ.
Tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của Lênin. Bản luận cương đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết của Người là độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào. Từ đó Người hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III.
Tháng 12 - 1920 tại đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua đã diễn ra cuộc tranh luận gay gắt là gia nhập Quốc tế III hãy ở lại Quốc tế II. Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, từ chiến sĩ yêu nước trở thành chiến sĩ cộng sản.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Sau khi đã lựa chọn chắc chắn cho mình con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Từ 1921 đến 1923, Nguyễn Ái Quốc hoạt động tại Pháp thành lập “Hội Liên hiệp thuộc địa”, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và được xuất bản lần đầu tiên ở Pari vào 1925.
Từ tháng 6 - 1923 đến 1924, Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô tham dự nhiều Hội nghị và Đại hội quốc tế.
Từ 11 – 11 – 1924 đến 1927, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu - Trung Quốc, thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông. Tháng 6 – 1925, Người sáng
<b>lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đây là bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết</b>
định về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ 1925 – 1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu. Đầu năm 1927, những bài giảng của Người được tập hợp thành sách với tên gọi “Đường kách mệnh”, với những nội dung cơ bản vạch ra phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng ở Việt Nam.
Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chủ trương “Vơ sản hóa”. Đến 1929 phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển rất mạnh mẽ. Các yếu tố thành lập Đảng đã xuất hiện, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bị phân liệt, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần lượt ra đời. Yêu cầu của phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản.
Nguyễn Ái Quốc với tư cách là biệt phái viên của Quốc tế Cộng sản, triệu tập các tổ chức cộng sản và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị diễn ra từ 6 – 1 đến 7 – 2 – 1930 tại Cửu Long – Hương Cảng – Trung Quốc.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong nước thì những đồng chí hội viên tiên tiến của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Bắc Kỳ đã tiến hành họp tại số nhà 5D Hàm Long Hà Nội vào đầu 3 – 1929 để tiến hành lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên ở trong nước và chi bộ này đã ra nghị quyết phải thành lập ra Đảng Cộng sản. Cuối 3 – 1929 đại hội kì bộ Bắc Kỳ của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội cũng được tiến hành và đại hội này đã thông qua chủ trương thành lập Đảng của chi bộ cộng sản đầu tiên đồng thời đại hội cũng cử đại biểu đi dự Đại hội Thanh niên toàn quốc và giao nhiệm vụ cho các đồng chí đại biểu: “phải phấn đầu để chủ trương thành lập Đảng được chấp thuận tại Đại hội Thanh niên toàn quốc”.
Ngày 1 – 5 – 1929, đại hội lần thứ I của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội được tiến hành tại Hương Cảng – Trung Quốc. Tại đại hội này, đoàn Đại biểu Bắc Kỳ đưa ra vấn đề thành lập Đảng nhưng lại không được đại hội chấp thuận. Vì thế, các đồng chí đã tự động rút về nước và thành lập ra tổ chức cộng sản đầu tiên là Đông Dương Cộng sản Đảng (6 – 1929) do đồng chí Hồ Tùng Mậu làm bí thư.
7 – 1929: Thành lập An Nam Cộng sản Đảng 9 – 1929: Thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
Trước sự xuất hiện 3 tổ chức cộng sản ở trong nước thì Quốc tế Cộng sản đã viết thư kêu gọi những người cộng sản ở Việt Nam là phải nhanh chóng hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản đồng thời giao nhiệm vụ cho đồngchí Nguyễn Ái Quốc là thay mặt Quốc tế Cộng sản hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản, thành lập ra Đảng Cộng sản. Sau chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã bắt tay ngay vào việc chuẩn bị các văn kiện cho hội nghị hợp nhất và khi mọi
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">cơng tác chuẩn bị đã hồn tất thì hội nghị hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản tiến hành từ 3 đến 7 – 2 – 1930 tại Hương Cảng – Trung Quốc. Hội nghị thảo luận bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, quyết định thành lập Đảng Cộng sản và lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thơng qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng, bầu Ban chấp hành Trung ương lâm thời. Hội nghị được coi như là hội nghị thành lập Đảng và các văn kiện do Hội nghị thông qua chính là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, là bước ngoặt vĩ đại trong phong trào cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ giai cấp cơng nhân Việt Nam đã trưởng thành. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào công nhân với phong trào yêu nước. Đâ là quy luật thành lập Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
<b>II. Đặc Điểm Ra Đời Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Là Sự Kết Hợp Giữa Ba Yếu Tố Chủ Nghĩa Mác-Lênin Với Phong Trào Công Nhân Và Phong Trào Yêu Nước</b>
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Thực tế cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự lựa chọn của chính lịch sử.
Trước ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp, hàng loạt các phong trào đấu tranh nổ ra của nhiều giai – tầng trong xã hội, với nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau: tiêu biểu cho khunh hướng phong kiến là phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Thượng thư bộ inh Tôn Thất Thuyết khởi xướng. Do lực lượng của phong trào quá mỏng nên phong trào sớm bị thất bại. Điều đó cho thấy giai cấp địa
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">chủ phong kiến khơng cịn đủ vai trị và uy tín để kêu gọi và triệu tập lwujc lượng trong quần chúng nhân dân.
Cùng thời gian với phong trào Cần Vương cịn có phong trào đấu tranh của giai cấp nông dân lớp dưới mà tiêu biểu là cuộc đấu tranh gần 30 năm của nghĩa quân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Nhưng còn “nặng cốt cách phong kiến” nên phong trào cũng đi vào kết cục là thất bại.
Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (1927 – 1930). Lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chinh. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất theo khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ, cả học sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp.
Về chủ trương Đảng mô phỏng chủ nghĩa Tam Dân của Tơn Trung Sơn. Về chính trị, Đảng chủ trương đánh Pháp, xóa bỏ chế độ vua quan, lập dân quyền, nhưng chưa ao giờ có đường lối chính trị rõ ràng, cụ thể. Về tổ chức, Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở nhưng chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất. Về phương pháp đấu tranh, nặng ám sát cá nhân, lấy bạo động làm lối thoát.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Yên Bái vào 9 – 2 – 1930 với phương châm “không thành công cũng thành nhân” đã bị thực dân Pháp dìm phong trào trong biển máu. Vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái.
Trong khi các giai cấp, tầng lớp đều lần lượt bước lên vũ đài chính trị nhưng đều khơng được lịch sử chấp nhận thì với nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Chủ nghĩa Mác-Lênin được tuyền bá rộng rãi vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam và đnag được khẳng định được sức mạnh của mình. Nếu như những năm 1919 – 1925,
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">phong trào công nhân được đánh giá là đã có bước phát triển hơn với “những cuộc bãi công đã trở nên phổ biến, diễn ra trên quy mơ lớn hơn và thời gian dài hơn” thì từ 1925, phong trào công nhân Việt Nam được đánh giá là có sự chuyển hóa “tùng bước từ tự phát sang tự giác”.
Trong những năm 1926 – 1929, phong trào công nhân Việt Nam đấu tranh dưới sự lãnh đạo của các tổ chức như Hội Việt Nam Cách mạn Thanh niên, Cơng hội đỏ và các nhóm cộng sản ra đời từ năm 1929. Các cuộc bãi công liên tiếp nổ ra. Tiêu biểu là cuộc bãi công của 1000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, 500 công nhân đồn điền cao su Cam Tiến … Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc đấu tranh cơng nhân diễn ra trong tồn quốc. Theo số liệu thống kê, năm 1927 có 7 cuộc đấu tranh lớn, thì năm 1929 là 24 cuộc, năm 1930 lên tới 98 cuộc (với số người tham gia từ 350 người lên 31.680 người).
Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam thời kỳ này mang tính chính trị rõ rệt và diễn ra trong phạm vi cả nước. Trong mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành và các địa phương. Phong trào cơng nhân đã đạt đến trình độ “tự giác”, được đánh giá là thuần thục về chính trị. Bản thân phong trào cơng nhân có sức lơi cuốn đối với phong trào yêu nước và có thể nói, nó quyết định phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Như vậy, ttrong khi các phong trào đấu tranh theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, đồng thời cũng là sự xuất hiện của nhiều giai – tầng trong xã hội trên vũ đài chính trị, … nhưng tất cả đều không được lịch sử chấp nhận. Với sự nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Chủ nghĩa Mác-Lênin được thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước làm cho các phong trào này có khuynh hướng phát triển từ tự phát sang tự giác. Chính xu hướng đó đã làm cho nhu cầu tất yếu của lịch sử đòi hỏi phải thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam, làm cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình đã bị phân liệt dẫn đến sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">và cuối cùng là sự tất yếu phải hợp nhất để thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất. Điều đó khẳng định sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của chính lịch sử, là sản phẩm của sự kết hợp 3 yếu tố Chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
1. Vai trò của Chủ nghĩa Mac-Lenin đối với sự ra đời của Đảng
Ngay trong quá trình vận động chuẩn bị thành lập Đảng, trong “Đường kách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”. Dẫn đường cho mọi hoạt động của giai cấp đều cần thiết phải có một học thuyết cách mạng. Song, theo Hồ Chí Minh: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Nếu khơng có lý luận dẫn đường, Đảng chỉ là một tập hợp ngẫu nhiên, rời rạc, thiếu thống nhất và khơng có sức mạnh. Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết cách mệnh nhất vì nó chỉ ra cho Đảng mục tiêu, con đường thực hiện sứ mệnh giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và giải phóng dân tộc, xóa bỏ áp bức bất công, xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp. Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt khơng có nghĩa là giáo điều máy móc theo từng câu, từng chữ mà chính là nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó linh hồn sống là phép biện chứng duy vật.
Đồng thời phải thâu tóm tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh nghiệm của các đảng an hem, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để hoạch định đường lối đúng đắn. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam viết: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.”
</div>