Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.93 MB, 99 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
LUAN VAN THAC SI LUAT HOC
<small>Chuyên ngành: Ly luận va lich sử nhà nước va pháp luật</small> Mã số: 60380101
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi
<small>Hà Nội - 2017</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn sốc rõ ràng, được <small>trích dẫn đúng theo quy định.</small>
<small>Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận van này.</small>
<small>Hà Nội, ngày 30 thang 11 năm 2017Tác giả luận văn</small>
<small>Ninh Khánh Ly</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>Lời cam đoanMục lục</small>
<small>Danh mục chữ viết tắt</small>
<small>9827.1000... ... |Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CUA HOÀN THIỆN PHAP LUẬT VETHỪA PHAT LẠ Ì...--- 5-2 2 SSEE‡SE£EE+EEEE2EEEEEEEEEEEE217111711111111111 111.111. Xe. 8</small>
<small>1.1. Khái niệm Thừa phat Ìại...-- - -- c2 2222113211211 51551111111 rrke 8</small>
<small>1.2. Pháp luật về Thừa phat lại ở Việt Namo... eseseeeeeseseeeeees 141.2.1. Khái niệm pháp luật về Thừa phát ại...--- + + + s+£+k+s+£sEskzszecsees 141.2.2. Đặc điểm của pháp luật về Thừa phát Ìại ...-- ¿2 + s52 £s£+s+s+e£sc+: 161.2.3. Nội dung pháp luật về Thừa phát Idi cccccccccccccscscscscsssssssssesescssecsesessscsees 171.3. Tiêu chí đánh giá mức độ hồn thiện của pháp luật về TPL ... 181.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về Thừa phat lại</small>
<small>1.4.1. Sức ép của quả trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tễ... 231.4.2. Quan điểm chi đạo của Đảng và Nhà HHỚC... 5252 32222 241.4.3. Nhận thức về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay ... .-- 5s 55s 5s +: 28Kết luận Chương 1... - -- - 2S +x+SE+EeEE9 SE E21EE121121112111111111111 1111 1.1 6 30Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢIPHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VẺ THỪA PHÁT LẠI Ở VIỆT NAM</small>
<small>2.1. Thực trạng pháp luật về Thừa phat lại ở Việt Nam hiện nay... 3l2.1.1. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến Thừa phát lại ... 312.1.2. Thực trạng các quy định của pháp luật về Thừa phát lại...--- 33</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>2.2.2. Nguyên nhân của những tôn tại, hạn chế của pháp luật về Thừa phát lại... 642.3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại... 662.3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại...--- -5- 662.3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại ...--- 55s ss5s¿ 68Kết luận chương 2... .--- 2 5s St x9 12k E12112181121111111111111111111111 1111 11g16 v9KẾT LUAN ... 5-5652 1 21215 15112151121112111111111111111111 1111111111111 1 1g 80DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><small>Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại mộtsố tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương</small>
<small>Văn phòng Thừa phát lại</small>
<small>Xác minh điều kiện thi hành án dân sự</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Xã hội hóa dịch vụ cơng trong đó có xã hội hóa một số hoạt động tư <small>pháp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay</small> nhằm đáp ứng được nhu cầu khách quan của đời sống xã hội, Nhà nước
không trực tiếp thực hiện hết mọi công việc mà giao cho xã hội thực hiện và
Nhà nước chỉ giữ vai trị quản lý chung. Xã hội hóa một số hoạt động tư pháp
nhằm mục đích phục vụ tốt hơn nữa nhu cầu của nhân dân và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho họ trong lĩnh vực này, do vậy, tại Nghị quyết Đại hội
lần thứ IX của Dang chỉ rõ: “Cải cách hệ thong Tư pháp. Nâng cao việc giám sát của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước...Hỗ trợ và khuyến khích các tơ chức hoạt động khơng vì mục đích lợi nhuận mà vì nhu cẩu và lợi ích của dân. Những tơ chức này có thể được Nhà nước ủy quyên thực hiện một số nhiệm vụ cung cấp một số dich vụ công với sự giám sát của cộng đơng. Thơng
qua đó Nhà nước có thể tập trung sức lực dé có thể thực hiện những nhiệm vu <small>quan trong hơn ”.</small>
<small>Thị hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng là một trong những</small> hoạt động quan trọng nhằm khôi phục, bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại. Việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án là yếu t6 quan trọng nhất của hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật. Nếu bản án, quyết định của Tòa án không được thi hành đồng nghĩa với việc pháp luật mà bản án, quyết định căn
cứ khơng có ý nghĩa trên thực tế.
Do vậy, thi hành dứt điểm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay trên thực tẾ có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ đối với người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; bảo đảm tính pháp chế của các bản án, quyết định; bảo đảm trật tự,
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">chỉnh chấp hành ”.
Trong những năm qua Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách và pháp luật, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi <small>hành án dân sự; các cơ quan quản lý thi hành án dân sự, Cơ quan Thị hành án</small> dân sự và cán bộ, công chức ngành thi hành án đã nỗ lực phấn đấu để nâng cao kết quả và hiệu quả của công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, lượng án tồn đọng trong công tác THADS cũng như số lượng cơng việc của Tịa án
cũng không ngừng tăng lên khiến cho việc tống đạt giấy tờ trở nên quá tải, làm ảnh hưởng trực tiếp tới quyên và lợi ích hợp pháp của người dân, gây bức <small>xúc trong xã hội, làm ảnh hưởng tới tính nghiêm minh của pháp luật; uy tín,</small> hiệu lực quản lý xã hội của các cơ quan nhà nước giảm sút, đồng thời dẫn tới tình trạng khiếu nại kéo dài. Do đời sống xã hội ngày càng được nâng lên, dân
trí tăng cao cùng với nền kinh tế thị trường, quá trình hội nhập kinh tế, quốc tế, nhu cầu pháp lý từ phía các cơ quan, tơ chức, cá nhân trong xã hội, đặc biệt
là nhu cầu tự bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của mình, ngăn ngừa vi phạm hoặc thiệt hại có thé xảy ra cho mình hoặc cho cộng đồng cũng tăng lên.
Ngày 19/02/2009 Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 224/QD-TTg phê duyệt Đề án “7c hiện thi điểm chế định Thừa phát lại tại thành
phố Hồ Chí Minh”. Theo Quyết định này, việc thực hiện dé án là nhằm xác định sự cần thiết và tính hiệu quả của Thừa phát lại trong hoạt động tư pháp <small>nói chung và THADS nói riêng, xác định khả năng áp dụng mơ hình này trên</small>
tồn quốc, thực hiện chủ chương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa một số hoạt động hành chính, tư pháp. Sau thời gian nghiên cứu nhu cầu xã hội như <small>hoạt động của cơ quan Toa án, Cơ quan Thi hành an dân sự, Chính phủ đã</small> ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">một số điều của Nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 và nhiều văn bản pháp luật trực tiếp hướng dẫn thực hiện chế định TPL. Sự ra đời của Thừa
phat lại có thé chính là giải pháp hữu hiệu giải quyết sự quá tải trong công tác
<small>THADS và hoạt động của Tòa án, làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà</small>
nước, cũng như đáp ứng được nhu cầu khách quan của nhân dân.
Pháp luật về TPL là một công cụ hữu hiệu dé quản lý tổ chức, hoạt động
TPL. Trong thời gian qua, pháp luật về TPL ở nước ta đang từng bước được
xây dựng và hồn thiện góp phần quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp
ở Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, công cuộc cải cách tư pháp là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng đất nước phát triển bền
vững thì việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại là hết sức cần thiết.
Nhận thức được tính cần thiết của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại ở nước ta hiện nay, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp <small>của mình.</small>
2. Tình hình nghiên cứu các van đề có liên quan déndé tài
Tuy Thừa phát lại đã từng ton tại ở Việt Nam từ trước năm 1975, nhưng <small>đã một thời gian dài mô hình này khơng được áp dụng nữa, vì vậy việc nghiên</small> cứu pháp luật về Thừa phát lại là rất cần thiết và được sự quan tâm ủng hộ của Đảng, Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, cho tới nay, có rất ít cơng trình nghiên cứu riêng biệt, có hệ thống pháp luật về Thừa phát lại. Một số cơng trình <small>nghiên cứu có liên quan tới nội dung của luận văn như:</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">thi hành án của một số nước trên thế giới va đề xuất một số mơ hình Thừa phat lại ở Việt Nam dé thảo luận.
- Luận văn thạc sĩ, gồm có:
+ Xã hội hóa thi hành án dân sự, tac giả Lê Xuân Hồng (2001), luận văn <small>thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong luận văn tác giả đã làm sáng tỏ</small> nhiều vấn đề quan trọng mang giá trị lý luận cao như: Khái niệm về xã hội
hóa, xã hội hóa THADS; nội dung của xã hội hóa; đề xuất mơ hình Thừa phát <small>lại trong xã hội hóa THADS...</small>
+ Thừa phát lại — Một số vấn dé lý luận và thực tiên ở Việt Nam hiện
nay, tác giả Nguyễn Minh Thùy (2011), luận văn thạc sĩ, Trường Đại học <small>Luật Hà Nội. Trong luận văn tác giả tập trung nghiên cứu quy định của pháp</small> luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của của Thừa phát lại ở Việt Nam, đánh giá những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những mặt tồn tại và hạn chế trong pháp luật, tổ chức hoạt động của Thừa phát lại, từ đó để xuất những
giải pháp góp phần hồn thiện về pháp luật và nâng cao hiệu qua trong tổ <small>chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay.</small>
+ Thừa phát lại — Một số vấn dé lý luận và thực tiễn, tác giả Nguyễn <small>Anh Thư (2014), luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong luậnvăn tác giả tập trung nghiên cứu hoạt động TPL, tức là công việc mà TPL</small> thực hiện và các cơ chế dé bảo dam cho hoạt động có hiệu quả của TPL, luận
văn phân tích những van dé lý luận cơ bản về TPL và đưa ra những kết quả dat được đồng thời chỉ ra những mặt tôn tại trong giai đoạn thí điểm, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">hóa THADS; các quy định của pháp luật về thực hiện xã hội hóa THADS và kiến nghị nhằm hồn thiện hoạt động này.
- Khóa luận tốt nghiệp: Pham Hùng Cường (2010), Ä⁄ơ hình Thừa phát lại tại thành pho Hà Chi Minh — Bước đột pha trong việc thực hiện xã hội hóa
thi hành án dân sự ở Việt Nam, khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà <small>Nội. Trong khóa luận tác giả nghiên cứu mơ hình Thừa phát lại được thực</small> hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) trong tiến trình xã hội
hóa THADS ở Việt Nam; khóa luận đưa ra khái niệm về xã hội hóa THADS; quan điểm đánh giá quy định của pháp luật về TPL được thực hiện thí điểm tại TP. HCM; các vấn đề còn tồn tại cần phải khắc phục cũng như kiến nghị <small>giải pháp hoàn thiện.</small>
<small>Ngồi ra có sách tham khảo:</small>
TS. Nguyễn Đức Chính (Chủ biên, 2006), 76 chức Thừa phát lại, Nxb
Tư Pháp. Cuốn sách giới thiệu một cách tương đối tồn diện, có hệ thống về
sự xuất hiện, hình thành, phát triển của Thừa phát lại ở Việt Nam, vai trò của Thừa phát lại trong hoạt động tư pháp trước đây; lý giải vì sao hiện nay cần phải có Thừa phát lại; thành lập tổ chức Thừa phát lại sẽ có những lợi ích gì;
mối quan hệ giữa Thừa phát lại với các chức danh tư pháp hiện tại; các nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể, mơ hình tổ chức Thừa phát lại; các giải
pháp. điều kiện, các bước nên thực hiện dé TPL hình thành và hoạt động. Ths.Vũ Hoài Nam (2013), Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay, Nxb Tư Pháp. Cuốn sách dé cập tới quá trình hình thành và phát triển của Thừa phát lại ở Việt Nam; tô chức và hoạt động của Thừa
phát lại ở một số quốc gia trên thế giới; Thừa phát lại và Văn phịng Thừa <small>phát lại ở Việt Nam; các cơng việc mà Thừa phát lại được làm; một sô vân đê</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Bên cạnh đó cịn một số các bài viết trên tạp chí, các bài báo đề cập đến van đề xây dựng mơ hình Thừa phat lại.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài cao học Luật, tác giả tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay, đánh giá những kết quả đạt được, những mặt ton tại và hạn chế của pháp luật và trong tô chức hoạt động của Thừa phat lại, từ đó dé xuất những
giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện
nay. Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu pháp luật về Thừa phát lại ở Việt
Nam từ năm 2005 đến nay.
<small>4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn</small>
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá quy định pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam dé tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về <small>Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay.</small>
<small>5. Các cau hỏi nghiên cứu của luận văn</small>
Làm sáng tỏ lý luận về hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại.
Đánh giá quy định pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam.Từ đó chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực này và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó.
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về Thừa phát <small>lại ở Việt Nam trong thời gian tới.</small>
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac-Lénin, <small>tư tưởng Hơ Chí Minh, quan điêm của Đảng và Nhà nước trong các văn kiện</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><small>Bên cạnh đó, luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng các phương</small> pháp nghiên cứu cụ thé như: lịch sử, tổng hợp, so sánh, phân tích...
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá quy định pháp luật về Thừa phát lại ở
Việt Nam, luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về quy định pháp luật
về tô chức, hoạt động của Thừa phát lại, những điểm tích cực, hạn chế của quy định pháp luật về TPL, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn mang ý nghĩa tham khảo; các kết luận và kiến nghị được đưa ra trong luận văn có giá trị tham khảo trong q trình <small>hoàn thiện quy định pháp luật Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay; luận văncòn là tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy nghiên cứu liên quan, cho</small> các Thừa phát lại và những người quan tâm đến lĩnh vực này.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu va phan kết luận thì luận văn được kết cấu làm <small>hai chương:</small>
Chương 1. Cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại
<small>Chương 2. Thực trạng pháp luật, phương hướng và giải pháp hoàn thiện</small>
pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><small>1.1. Khái niệm Thừa phát lại</small>
Thừa phát lại là một nghề xuất hiện trên thế giới hàng trăm năm nay,
TPL được hình thành từ thời trung cô tại các nước ở châu Âu: Anh, Pháp, Bi, Đức, Hà Lan và các nước châu Mỹ như Canada, My’. Ngày nay, trên thé giới có nhiều cách hiểu khác nhau về TPL.
Tại Hoa Kỳ, Thừa phát lại (Bailiffs) được hiểu đó là cán bộ thực thi pháp <small>luật mà nhiệm vụ được giới hạn trong phạm vi Tòa án. Họ chịu trách nhiệm</small> chính cho việc duy trì an ninh trật tự trong phòng xử án và hỗ trợ thâm phán
trong việc tiễn hành có trật tự của phiên toa’.
Tại Anh, Thừa phát lại là người thực hiện các hoạt động pháp ly hỗ trợ
cho Cảnh sat, Tham phan tại Tịa án và các cơ quan hành chính địa phương.
Nhiệm vụ của TPL rất đa dạng và khác nhau trong các lĩnh vực như: Xét xử,
cưỡng chế thi hành các bản án, thực hiện các nhiệm vụ tư pháp hoặc tống đạt các yêu cầu của các công ty thu hồi nợ, đánh thuế và được hiểu như là các <small>công ty tư nhân thực hiện nhiệm vụ.</small>
Theo đánh giá nói chung, so với các nước trên thế giới, chế định Thừa
phat lại (Huissier) ở Pháp được xây dựng hoàn thiện, hiệu quả hơn cả. Điều 1
Pháp lệnh số 452592 ngày 02/11/1945 quy định thâm quyên theo nội dung của TPL và tổ chức nghề TPL có quy định như sau: “Thira phát lại là người <small>'Hà Thị Lan Anh (2012), “7hừa phát lại — vai trò pháp lý và nhu cau đào tạo phát triển”, Nghé luật. (4),</small>
<small>? Nguyễn Anh Thu (2014), Thừa phát lại — Một số vấn dé lý luận và thực tiên, Luận văn Thạc sĩ, Trường Dai</small>
<small>học Luật Hà Nội, tr.5, trích tài liệu: “www.legalcaceers.about.com (Bailiffs are lawenforcement officers whoplay an important role in the courtroom. Bailiffs areprimarilyresponsible for maintaining order and securityin the courtroom and assisting the judge in the orderly conduct of trail)”.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">định của tòa án và các văn ban có hiệu lực thi hành khác ... `”.
Nhắc tới danh từ “7a phát lại” han rất xa lạ với đa số người dân Việt <small>Nam hiện nay. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của các nhà khoa học và tài liệu</small> lịch sử hiện có thì TPL xuất hiện ở Việt Nam từ thời phong kiến. Một số học giả nghiên cứu về lich sử nhà nước — pháp luật Việt Nam cho rằng ngay từ
giai đoạn đầu khi Nhà nước phong kiến hình thành, việc xét xử chủ yếu vẫn
<small>do các quan lại phụ trách và người giúp việc của quan lại phải thực hiện cáccông việc tương tự với công việc chức danh Thừa phát lại hiện này được làm,</small>
chắng hạn như: Truyền đạt khâu lệnh, cơng văn, giấy tờ, chuẩn bị phiên tịa, thơng báo việc thi hành án... Có tài liệu cho rằng, Thừa phát lại xuất hiện ở
<small>Việt Nam song hành với việc Vua Tự Đức ký Hòa ước ngày 05/6/1862</small> nhượng 6 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp, khi người Pháp đặt chế độ cai trị thực dân và áp dụng quy chế về thuộc địa lãnh thổ và coi 6 tỉnh Nam kỳ như một Hạt của Pháp. Chính vì vậy mà có thể nói chế định TPL mới ở giai đoạn manh nha, bước đầu hình thành ở Việt Nam.
<small>Thuật ngữ Thừa phát lại chỉ được chính thức ghi nhận trong các văn bản</small> đó là: Bộ Dân sự tố tụng Nam Việt năm 1910; Bộ Dân luật Bắc ky năm 1917 và Bộ Dân sự tố tụng Bac Ky năm 1931; Bộ Dân luật Trung ky năm 1942; Nghị định số 111 ngày 08/3/1949 của chính quyền Bảo Đại; Bộ luật Dân sự, Thương sự tố tụng năm 1972 của Việt Nam Cộng Hòa”. Trong các văn ban <small>trên và ở các vùng khác nhau, Thừa phát lại được gọi với những tên khác</small>
<small>> Nguyễn Anh Thư (2014), Thừa phát lại - Một số vấn dé lý luận và thực tiễn, Luan văn Thạc si, Trường Daihọc Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.5, trích trong tài liệu: “www.puf.edu.vn (Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại</small>
<small>ở Cộng hòa Pháp”.</small>
<small>“Vii Hoài Nam (2013), 76 chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.9.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">nhau như: Chưởng tòa (miền Bắc), Mõ tòa (miền Trung), Thừa phát lại (miền Nam) nhưng đều thé hiện chức năng của chức danh “Huissier” trong Bộ Dân luật Pháp năm 1804 và Bộ Dân sự tố tụng Pháp năm 1807 mà dich sang tiếng Việt là “Chưởng tòa” hay là nhân viên chấp hành (ở Tịa án); (cũ) mõ tịa'. Theo đó, hoạt động của Thừa phát lại bao gồm: 1) Trước khi xét xử Thừa phát lại được lap các vi bằng, biên bản, tống đạt các thư mời, giấy triệu tập. 2)
Trong khi xét xử Thừa phát lại có nhiệm vụ báo tin tòa đăng đường, tòa bế
mạc, truyền đạt việc gọi tên, các đương sự, người làm chứng, chuyên chứng cứ; giữ gìn trật tự phiên tịa. 3) Sau khi xét xử Thừa phát lại tống đạt các giấy tờ đốc thúc thi hành án; lập các chứng thư thi hành các nội dung bản án đã tuyên về trục xuất, phát mại tài sản, trả nợ,... Thừa phát lại được bô nhiệm và <small>là công lại, nhiệm lại, nhưng không phải công chức hưởng lương nhà nước.</small> Thừa phát lại được tô chức và hoạt động theo quản hạt của Tòa án. Nhiệm vụ của Thừa phát lại rất rộng, khơng chỉ thi hành các bản án có nghĩa là các cơng
việc sau xét xử mà cịn thực hiện các cơng việc trước và trong xét xử”.
Đó là xuất xứ của danh từ Thừa phát lại, tuy nhiên dé nói tới khái niệm
Thừa phát lại thì có nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất, Thừa phát lại - Những nhân viên cơng lại có nhiệm vụ tống đạt các văn bản tố tụng tư pháp và các van bản khác, cưỡng chế thi hành các bản án, quyết địnhcủa Tịa án, các văn bản của cơng chứng viên và làm các cơng việc khác tại các tịa án”. Tuy nhiên với cách định nghĩa như
<small>°Lé Khả Kế (chủ biên, 1997), Tir điển Pháp - Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 725.</small>
<small>“Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Tờ điển luật học, NXB Tư điền Bách khoa và NXB Tư Pháp,</small>
<small>Hà Nội, tr. 756.</small>
<small>7 Nhà pháp luật Việt Pháp (2009), Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp - Viét, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà</small>
<small>Nội, tr. 426.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">quan điểm này thi dé nhằm lẫn chức năng công chứng viên và chức năng của <small>Thừa phát lại, định nghĩa chưa rõ ràng.</small>
Quan điểm thứ hai, Thừa phát lại là viên chức chuyên tổng đạt giấy tờ và thi hành phán quyết của Tòa án hay thu một sản vật. Thừa — giúp, phụ giúp; theo, tuân theo lệnh của cấp trên. Phát - gửi đi, giao cho ai vật gì. Lại - người làm việc cấp dưới. Thừa phát lại là những người được luật pháp giao cho các việc: truyền phiếu, các việc biên chép, chuyên đưa các giấy tờ thuộc về Thâm
phán hoặc ngoại Tham phán, các việc thi hành án, các công văn và các công <small>việc nội bộ trong các tòa án...</small>
Với cách hiểu như trên thê hiện được hoạt động của Thừa phát lại mang tính quyền lực nhà nước, Thừa phát lại không hưởng lương ngân sách nhà <small>nước. Theo định nghĩa trên thì Thừa phát lại đang là một cơ quan được luật</small> pháp giao việc và Thừa phát lại có thê từ chối không làm được không? Nếu không được từ chối mà buộc phải làm thì Thừa phát lại khơng khác gì một <small>công chức, viên chức nhà nước.</small>
Quan điểm thứ ba, được thê hiện trong quy định tại khoản 1 Điều 2 Văn
bản hợp nhất số 7821/VBHN-BTP: “Thira phát lại là người có các tiêu
chuẩn, được Nhà nước bồ nhiệm và trao quyền dé làm các công việc theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan”. Quan điểm mới nhất này
nhìn nhận Thừa phát lại dưới góc độ chủ thê và đã phần nào làm rõ được câu <small>hỏi: “Thừa phát lại là ai? Thừa phat lại làm những cơng việc gì? ”.</small>
Tuy nhiên, khác với các quan điểm trên, nếu nhìn nhận Thừa phát lại dưới góc độ tồn diện về chủ thé và hoạt động của chức danh này thì có thê
đưa ra một khái niệm tổng quát về Thừa phát lại như sau: Thira phát lại là
người có đủ tiêu chuẩn được Nhà nước bồ nhiệm và trao quyền đề thực hiện các cơng việc về tong dat các văn bản của Tịa án, Cơ quan Thi hành án dân su; lập vi bang; xác minh diéu kiện thi hành án và thi hành án dân sự theo
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">trình tự, thủ tục do pháp luật quy định về tô tụng, thi hành án và pháp luật có <small>liên quan.</small>
Định nghĩa trên về TPL cho thấy chức danh này vừa có điểm tương
đồng, vừa có điểm khác biệt với một số chức danh tư pháp khác. Cụ thể: - Thừa phát lại và Chấp hành viên
Chấp hành viên là người được Nhà nước tuyên dụng, bố nhiệm và giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định mà theo quy định của Luật thi hành án dân sự phải được đưa ra thi hành. Chấp hành viên là công chức, hưởng lương từ ngân sách nhà nước và phải thực hiện công việc theo quy định về chế độ công chức, công vụ.
Thừa phát lại mặc dù cũng do Nhà nước b6 nhiệm và thực hiện một SỐ
công việc như Chấp hành viên như: Trực tiếp tô chức thi hành bản án, xác
minh điều kiện thi hành án, tuy nhiên, Thừa phát lại không phải là công chức nha nước, chức danh TPL làm việc được hưởng thù lao, phí tổn theo biểu giá Nhà nước quy định và hợp đồng ký kết với khách hàng.
- Thừa phát lại và Kiểm sát viên
Mỗi quan hệ giữa Thừa phát lại và Kiểm sát viên là mối quan hệ kiêm tra
- giám sát. Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện nơi đặt Văn phịng Thừa phát lại có thâm quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tống đạt các văn bản về thi hành và trong hoạt động thi hành án của TPL theo Luật tô
chức Viện kiểm sát nhân dân và pháp luật về thi hành án dân sự. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tống đạt các văn bản của
Tòa án được thực hiện theo quy định của Luật tô chức Viện kiểm sát nhân dân và pháp luật về tố tụng.
<small>- Thira phat lại và Thư ky Toa án</small>
Cũng giống như Chấp hành viên và Kiểm sát viên, Thư ký Tịa án là
<small>cơng chức nhà nước, họ được giao thực hiện một sơ cơng việc của Tịa án</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">như: Phát hành các giấy tờ triệu tập đương sự và những người liên quan khác đến Tòa án để lấy lời khai; tham dự phiên tòa; giúp ghi lời khai đương sự, nhân chứng: tiễn hành các thủ tục khai mạc phiên tòa, ghi biên bản phiên <small>tịa,...</small>
Như vậy, có thể nói mối quan hệ giữa TPL và Thư ký Tòa án nêu trên là
mỗi quan hệ phối hợp — hỗ trợ, Thừa phát lại hỗ trợ Thu ký Tịa án thực hiện
một số cơng việc. Rõ ràng việc làm trên của TPL đã góp phần quan trọng cho việc nâng cao hiệu quả xét xử đồng thời cũng góp phần bảo đảm các quyền
lợi chính đáng của các đương sự, nhất là các quyền về tô tụng. <small>- Thira phat lại và Công chứng viên</small>
Thoạt nhìn, hoạt động của Thừa phát lại có những nét giống với hoạt động
của Công chứng viên, nhất là hành vi công chứng và hành vi lập vi bằng. Tuy
nhiên, hoạt động của hai chức danh này không hề chồng chéo nhau. Nếu Công
chứng viên là người thay mặt Nhà nước dé chứng kiến và cơng nhận tính xác thực của các thỏa thuận, văn kiện, giấy tờ, hợp đồng dân sự theo yêu cầu của khách hàng; hoạt động của Thừa phát lại là lập các vi bằng về những sự kiện
xảy ra mà ít bị khống chế về thời gian và không gian theo yêu cầu của khách
hàng. Mục đích của hoạt động cơng chứng và Thừa phát lại đều nhằm hỗ trợ
ngăn chặn cũng như giải quyết các tranh chấp, giúp tô chức va cá nhân bảo vệ qun và lợi ích hợp pháp của mình một cách tốt nhất.
Ở một khía cạnh nao đó, hoạt động lập vi bang nói chung và các vi băng nói riêng cũng hỗ trợ cho hoạt động của các Công chứng viên. Thực tế, rất
nhiều giao dịch cần có sự chứng kiến của Thừa phát lại, khi đó các tài liệu
này sẽ hỗ trợ q trình tác nghiệp của Cơng chứng viên. Hai chức danh này không bài trừ nhau, không chồng chéo về lập vi bằng và các văn bản khác
<small>được công chứng.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">1.2. Pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam 1.2.1. Khải niệm pháp luật về Thừa phát lai
Các quan điểm hiện đại đều cho rằng, pháp luật là công cụ quản lý xã hội
đã phát triển đến một trình độ nhất định, xã hội trở nên phức tạp, đặc biệt là khi xã hội có sự phân hóa giai cấp có lợi ích đối lập nhau, các công cụ quản lý
xã hội khác như tập qn, đạo đức, tín điều tơn giáo... khơng cịn đủ khả năng duy trì được trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Trong những điều kiện như vậy, Nhà nước đã ban hành ra pháp luật, một mặt, Nhà nước thừa nhận một số quy định đã có trong xã hội thành pháp luật và bảo đảm cho chúng được thực hiện, mặt khác, Nhà nước tiễn hành đặt ra những quy định mới dé tổ chức và quản lý xã hội, vừa dé bảo vệ lợi ích chung của xã
hội vừa dé bảo vệ lợi ích của lực lượng cầm quyên.
Theo nghĩa hẹp, pháp luật gồm các quy định mà phân lớn là các quy tắc
xử sự chung do nhà nước ban hành đề điều chỉnh các quan hệ xã hội vì lợi ích chung của xã hội và lợi ích của lực lượng cầm quyên.
Theo nghĩa rộng, pháp luật không chỉ gồm các quy tắc xử sự chung mà
còn bao hàm các nguyên tắc xử sự, các tư tưởng, học thuyết pháp lý, khung
pháp luật, chính sách pháp luật... được thể hiện ở các loại nguồn pháp luật
khác nhauẺ.
Thông thường pháp luật được hiểu khái quát như sau: “Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm
thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục dich, định hướng cua
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Pháp luật về Thừa phát lại là một trong những bộ phận cầu thành nên hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để điều <small>chỉnh hoạt động của Thừa phát lại, hay các quan hệ phát sinh trong quá trình</small> hoạt động của Thừa phát lại cần có pháp luật. Pháp luật Thừa phát lại ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tông thé các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thầm quyền ban hành được thê hiện trong nhiều văn bản <small>quy phạm pháp luật.</small>
Hệ thống văn bản pháp luật về Thừa phát lại, cùng với pháp luật nói chung đã xây dựng được cơ chế quản lý thống nhất về tổ chức, hoạt động của Thừa Phát lại; pháp luật quy định Thừa phát lại có bốn chức năng chính là tống đạt văn bản, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án, trực tiếp thi hành dân sự các ban an, quyết định của Tịa đã có hiệu lực pháp luật, được
<small>thực hiện bởi chức danh Thừa phát lại. Văn phòng Thừa phát lại có sự độc lậpvới Cơ quan thi hành án dân sự.</small>
Trên cơ sở khái niệm về pháp luật và khái niệm Thừa phát lại có thể
hiểu: Pháp luật về Thừa phát lại là hệ thông các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên
quan đến tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại; trình tự, thủ tục thực hiện <small>các chức năngcủa Thừa phái lại và các quan hệ xã hội phát sinh trong quảtrình hoạt động của Thừa phát lại.</small>
Pháp luật về Thừa phát lại được thê hiện chủ yếu trong các văn bản quy
phạm pháp luật như: Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tơ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành
phố Hồ Chí Minh.Nghi định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính
phủ về sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/ND-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tơ chức và hoạt động của Thừa phát lại
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh (Nghị định số 61/2009/NĐ-CP
và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP được Bộ Tư pháp hợp nhất thành Văn bản hợp nhất số 7821/VBHN-BTP ngày 25/11/2013); Thông tư liên tịch số <small>03/2014/TTLT-BTP-NHNN ngày 17/01/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và</small> Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc xác minh điều
kiện thi hành án của Thừa phát lại tại các tổ chức tín dụng: Thơng tư liên tịch <small>09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/02/2014 hướng</small> dẫn thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số
36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội...
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về Thừa phát lại
Trên cơ sở khái niệm pháp luật về Thừa phát lại, có thé thấy pháp luậtvề
Thừa phát lại có một số đặc điểm cơ bản sau:
Mặc dù tồn tại ở nước ta trong nhiều năm nhưng trong thời gian gần đây
mơ hình TPL mới được thực hiện trở lại nên các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại; trình tự, thủ tục thực hiện chức năng của Thừa phát lại là: Tống đạt văn bản, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án, trực tiếp thi hành các bản án,
quyết định của Tòa đã có hiệu lực pháp luật và các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình hoạt động của Thừa phát lại. Do vậy, yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về t6 chức và hoạt động của TPL là diéu tất yếu. Q trình xây dựng, hồn thiện pháp luật về TPL nhằm làm cho hệ thống pháp luật
nói chung và pháp luật về Thừa phát lại nói riêng đảm bảo tính tồn diện, thống nhất, đồng bộ, phù hợp, khả thi, ngôn ngữ, kỹ thuật xây dựng văn bản <small>đạt trình độ cao.</small>
Pháp luật về Thừa phát lại gồm các quy tắc xử sự chung được đặt ra dựa trên sự khái quát hóa những trường hợp phơ biến xảy ra trong xã hộicần có sự
điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật về TPL mang tính bắt buộc chung, quy
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">định pháp luật được dự liệu đối với tat cả cá nhân, t6 chức có liên quan, là sự
mơ hình hóa những nhu cầu của xã hội dưới hình thức pháp lý.
Pháp luật về Thừa phát lại được đặt ra từ đòi hỏi, yêu cầu của công cuộc
đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, từng bước thực hiện việc xã <small>hội hóa thi hành án dân sự.</small>
Pháp luật về Thừa phát lại liên quan trực tiếp đến hoạt động quản lý nhà nước đối vớihoạt động bổ trợ tư pháp, thi hành án; bảo đảm tốt hơn quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tơ chức, góp phân ồn định các quan hệ xã hội,
bảo đảm an ninh trật tự, từ đó góp phần xây dựng kinh tế - xã hội phát triển. Mặc dù quy định về Thừa phát lại không nằm tập trung trong một văn bản nhưng pháp luật về Thừa phát lại đang từng bước phát triển nhanh chóng và
ngày càng hồn thiện hơn nhằm đáp ứng địi hỏi của xã hội.
1.2.3. Nội dung pháp luật về Thừa phát lại
Nội dung pháp luật về Thừa phát lại bao gồm ba nhóm quy định cơ bản tại Văn bản hợp nhất số 7821/VBHN-BTP, cụ thể như sau: Các quy định về tổ chức Thừa phát lại, Văn phòng Thừa phát lại; các quy định về hoạt động
của Thừa phát lại; các quy định về khiếu nại, tố cáo và kiểm sát hoạt động của <small>Thừa phát lại.</small>
- Các quy định về tô chức của Thừa phát lại bao gom:
Một là, quy định về nhiệm vụ, quyền han và các hành vi bị cam đối với <small>Thừa phát lại.</small>
Hai là, về b6 nhiệm, miễn nhiệm Thừa phát lại trong đó quy định về tiêu
chuẩn được bồ nhiệm lam TPL, trình tự, thủ tục b6 nhiệm, miễn nhiệm Thừa <small>phát lại.</small>
Ba la, quy định về tơ chức bộ máy va mơ hình hoạt động của Văn phòng <small>Thừa phát lại.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Bon là, quy định về thành lập, giải thé Văn phòng Thừa phát lại bao gồm quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập, giải thê VP TPL.
Năm là, quy định về chế độ thông tin, báo cáo của VP TPL. Sáu là, quy định về quan lý nhà nước đối với Thừa phát lại.
Bảy là, quy định về xử lý vi phạm đối với Thừa phát lại, Văn phòng <small>Thừa phát lại.</small>
- Các quy định pháp luật về chức năng của Thừa phát lại
Theo quy định của pháp luật về Thừa phát lại, Thừa phát lại có một số chức năng cơ bản sau: Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc
Cơ quan Thi hành án dân su; lập vi bằng theo yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức; xác minh điều kiện thi hành án; thi hành các bản án, quyết định của Tòa
án theo yêu cầu của đương sự.
- Quy định về khiếu nại, tô cáo và kiểm sát hoạt động của TPL. 1.3. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về TPL Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về Thừa phát lại và trong thực tiễn tô chức, thực hiện chế định Thừa phát lại đã đặt ra yêu cầu hoàn thiện thể chế về Thừa phát lại, nhất là phải xây dựng hành lang pháp lý vững chắc để tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại đạt được hiệu quả cao trong
thực tiễn, góp phân thiết thực trong thực hiện chủ trương xã hội hóa đối với
một số hoạt động tư pháp. Do vậy, hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại là hoạt động làm cho pháp luật về Thừa phát lại hoàn chỉnh, toàn diện, đồng bộ
và kịp thời nhăm xây dựng hành lang pháp lý vững chắc cho tổ chức và hoạt
động Thừa phát lại đạt hiệu quả cao trong thực té, đáp ứng nhu cầu, đỏi hỏi <small>khách quan của xã hội.</small>
Đề đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về Thừa phát lại cần dựa
vào những tiêu chí được xác định về mặt lý thuyết, từ đó liên hệ với điều kiện <small>và hoàn cảnh thực tê thực tê, xem xét một cách khách quan và rút ra những</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">kết luận, đánh giá làm sáng tỏ những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật về Thừa phát lại. Xác định tiêu chí hồn thiện pháp luật về Thừa phát lại có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đây mạnh cải cách tư pháp ở <small>nước ta hiện nay.</small>
Đề có cơ sở đánh giá, xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật về Thừa
phát lại, cần phải dựa vào những tiêu chí nhất định. Về mặt lý thuyết, những
tiêu chí đó là những yếu tố làm nên giá trị của pháp luật về Thừa phát lại; về mặt thực tiễn, là những điều kiện địi hỏi cơng tác xây dựng pháp luật phải đáp ứng dé bảo đảm và phát huy vai trò to lớn của pháp luật về Thừa phát lai. Có nhiều tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại, trong đó, có một số tiêu chí cơ bản là: Tính tồn diện, tính thống nhất, đồng
<small>bộ, tính phù hợp, khả thi, ngôn ngữ, kỹ thuật xây dựng pháp luật, tính minh</small>
bạch và tính 6n định tương đối của pháp luật về Thừa phat lại. - Tinh toàn diện của pháp luật về Thừa phát lại
Tính tồn diện của pháp luật về Thừa phát lại thé hiện ở cấu trúc hình thức của nó, nghĩa là pháp luật về Thừa phát lại phải có khả năng đáp ứng được day đủ nhu cầu điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực Thừa phat lại. Điều này đòi hỏi các quy định pháp luật về Thừa phát lại phải có khả năng bao quát day đủ nhu cau, đòi hỏi của xã hội về Thừa phat lai, để những van dé về tổ chức, hoạt động của Thừa phat lại can có sự điều chỉnh của pháp luật thì đều có pháp luật điều chỉnh kịp thời. Tính tồn diện của pháp luật về TPL cần <small>phải được đánh giá từ các quy định pháp luật có logic, chặt chẽ hay khơng, có</small> đầy đủ các quy phạm cần thiết hay khơng. Bên cạnh đó, khơng chỉ chú trọng về luật nội dung mà cần phải chú trọng luật hình thức về trình tự, thủ tục. Đồng thời, phải ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn chi tiết các trường hợp cần có pháp luật điều chỉnh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">- Tinh thong nhất và đồng bộ của pháp luật về Thừa phát lại
Giữa các bộ phận của pháp luật về TPL khơng chỉ có mối liên hệ gắn bó, chặt chẽ mà cịn ln có sự thống nhất nội tại với nhau. Sự thống nhất và đồng bộ của pháp luật là điều kiện cần thiết bảo đảm cho tính thống nhất về mục đích của pháp luật và sự triệt dé trong việc thực hiện pháp luật. Tinh thống nhất và đồng bộ thể hiện giữa các quy phạm pháp luật có thống nhất, đồng bộ hay khơng, có hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn nhau của các quy phạm pháp luật. Điều này đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống nhất, hài hòa về nội dung mà còn phải bảo đảm sự đồng bộ, tính thứ bậc của mỗi văn bản về giá trị pháp lý của chúng. Bất kỳ một quy phạm pháp luật nào hoặc văn bản quy phạm pháp luật <small>nào cũng được tạo ra và tác động không phải trong sự độc lập, riêng rẽ mà</small> trong tổng thể những mối liên hệ và ràng buộc nhất định. Do vậy, tính đồng bộ của pháp luật về Thừa phát lại ảnh hưởng rất lớn đến tính khả thi, hiệu quả của pháp luật. Tính đồng bộ của pháp luật về TPL còn thé hiện ở việc ban hành đầy đủ các văn bản quy phạm chỉ tiết; các văn bản, quy định pháp luật trong những trường hợp cần có sự quy định chỉ tiết, để khi văn bản pháp luật có hiệu lực thì nó cũng đã có đủ các điều kiện để có thé tổ chức, thực hiện
ngay trên thực tế.
Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về TPL phải tuân thủ đúng thẩm quyền, quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Nguyên tac về tinh thong nhất giữa các văn bản đòi hỏi phải có sự tuân
thủ nguyên tắc pháp chế trong việc ban hành văn bản của các cơ quan nhà
nước, chống chủ quan, duy ý chí, cục bộ địa phương, ngành; thường xuyên
làm tốt công tác xử lý văn bản, hệ thống hố pháp luật, cơng tác so sánh pháp luật, học tập kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của các nước, song khơng dập <small>khn, sao chép máy móc.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">- Tinh phù hop và khả thi của pháp luật về Thừa phát lại
Tính phù hợp, khả thi của hệ thống pháp luật thể hiện ở nội dung của hệ
thống pháp luật ln có sự tương quan với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế - xã hội, nó khơng thé cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó.
Có nội dung quy phạm pháp luật phù hợp với những nguyên tắc, yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thể hiện ở <small>những tiêu chí như tính cơng khai, minh bạch, dân chủ và xã hội hố... Có nội</small> dung quy định pháp luật phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng về cải cách hệ thống tư pháp, khuyến khích TPL hoạt động khơng vì mục đích lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân. Thừa phát lại được
Nhà nước ủy quyền thực hiện một số nhiệm vụ cung cấp một số dịch vụ công
với sự giám sát của cộng đồng, quản lý của Nhà nước. Trên cơ sở đó, tạo tiền
dé dé giảm tải công việc, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Tịa án,
Cơ quan Thi hành án dân sự, góp phan tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội <small>ngũ cán bộ, cơng chức.</small>
Ngồi ra, pháp luật về TPL phải được xây dựng phù hợp với các nguyên
tắc cơ bản của các điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế, có phương pháp điều
chỉnh pháp luật phù hợp cho mỗi loại quan hệ xã hội.
Tính khả thi của pháp luật về TPL còn thể hiện ở việc các quy định pháp
luật được ban hành phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật
hiện hành, nghĩa là, khi ban hành các quy phạm pháp luật về TPL phải xem xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện được hiệu qua hay không, đồng thời phải xem xét đến các điều kiện về tổ <small>chức bộ máy nhà nước, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, dư luận xã</small> hội trong việc tiếp nhận các quy định hoặc văn bản pháp luật về TPL hay khơng, trình độ văn hóa, kiến thức pháp lý của nhân dân...
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">- _ Ngôn ngữ và kỹ thuật xây dựng pháp luật về Thừa phát lại
Một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải được xây dựng ở trình độ kỹ thuật lập pháp cao, yêu cầu này cũng đúng đối với pháp luật về TPL. Điều này địi hỏi q trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về TPL phải được tiến hành theo những nguyên tắc tối ưu, xác định chính xác cơ cấu nội tại của pháp luật về TPL, được biểu đạt băng ngôn ngữ pháp lý rõ ràng, cô đọng, logic, chính xác và một nghĩa, đồng thời mang tính phố thơng và ổn định cao. Việc bảo đảm kỹ thuật lập pháp là điều kiện quan trọng dé bảo đảm tính chính xác về nội dung, bảo đảm văn bản quy phạm pháp luật về TPL dễ hiểu, hiểu thống nhất và dễ thực hiện.
- Tính minh bạch và 6n định tương doi của pháp luật về Thừa phát lại
Nhu cau xã hội va các quan hệ xã hội có tính ơn định tương đối, nên
pháp luật về Thừa phát lại cũng cần có tính 6n định tương đối. Tính ổn định của pháp luật là yêu cầu cần thiết, bởi không thé thường xuyên đảo lộn các quan hệ xã hội bằng việc thay đổi pháp luật. Tính 6n định tương đối của pháp
luật về Thừa phát lại chứng tỏ các quy phạm pháp luật được ban hành có nội
dung phù hợp với quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, có tính dự báo tốt.
Tính minh bạch của pháp luật về Thừa phát lại thể hiện ở nội dung các quy phạm pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu, đơn nghĩa, không mâu thuẫn; các
văn bản pháp luật về Thừa phát lại phải được công bố cơng khai (từ khi bắt
dau quy trình xây dựng van bản đến việc lay ý kiến đóng góp của các cơ quan liên quan, các chuyên gia và đông đảo người dân đến khi văn bản được ban hành) dé cá nhân, cơ quan, tơ chức có liên quan nắm rõ quyền và nghĩa vụ của
mình; về tơ chức, chức năng, hoạt động của Thừa phát lại... Việc công khai <small>văn bản pháp luật không chỉ ở việc đăng tải trên Công báo và các phương tiệnthông tin đại chúng mà cịn phải được thực hiện thơng qua cơng tác tuyên</small> truyền, phô biến, giáo dục pháp luật dé người dân dễ dàng tiếp cận, hiểu rõ, <small>thực hiện theo và giám sát quá trình thực hiện hoạt động của Thừa phát lại.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về Thừa
<small>phát lại ở Việt Nam</small>
Việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam trong
điều kiện hiện này chịu sự ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Những yếu tố này có
những tác động thuận lợi và cả những bắt lợi đối với q trình hồn thiện pháp luật về Thừa phát lại, những yếu tổ đó là:
1.4.1. Sức ép của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc té Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành và
phát triển trong q trình đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và
xây dựng chủ nghĩa xã hội đầy khó khăn và do đó, khơng tránh khỏi sự thăng tram. Ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước Việt Nam Dan chu Cộng hoa trước đây, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay đã có rất nhiều đặc
điểm của một Nhà nước pháp quyên. Tuy nhiên, mãi đến những năm thực
hiện công cuộc đổi mới, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới trở thành
một khái niệm chính trị - pháp lý chính thức trong xã hội ta và dé từ đó được hiện thực hoá trong sự nghiệp đổi mới và trở thành một trong những nên tang
của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Tuy nhiên, do được xây
dựng trên nền tảng của một hệ thống chính trị - pháp lý đặc thù của thời kỳ chuyên đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, nên
nhiều cấu trúc, định chế, đặc biệt là hệ thong pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế khiến cho các quan hệ xã
hội càng trở nên phong phú, đa dạng hơn nên yêu cầu cần phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các đơn vị cung cấp dịch vụ pháp lý phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách nền tư pháp ở Việt Nam. Xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về bố trợ tư pháp (luật sư, cơng chứng, giám định, ...) nói chung và hồn thiện pháp luật về Thừa phát lại nói riêng theo
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">hướng hỗ trợ pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện
xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản ly nhà nước
với tự quản của các tô chức xã hội nghề nghiệp là điều tất yếu. Thực tiễn đất nước đã cho thay, cần phải cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đăng, cơng khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp.
1.4.2. Quan điểm chi đạo của Đảng và Nhà nước
Hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại trên cơ sở thé chế hóa kip thời,
day đủ, đúng đắn đường lối của Dang thé hiện tại Nghị quyết 107/2015/QH13 ngày 26/11/2016 của Quốc hội và Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Một trong những nội dung quan trọng đặt ra trong Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị là làm sao có cơ chế thích hợp dé từng bước thực hiện việc xã hội
hóa hoạt động thi hành án dân sự: “Nghiên cứu thực hiện và phát triển các
loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước dé tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng mình, bảo vệ qun và lợi ích hợp pháp của
<small>mình... từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ</small>
tục để giao cho tô chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số
công việc thi hành án dân sự” và “Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên); trước mắt, có thé tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo ”.
Quốc hội ban hành Nghị quyết số 24/2008/QH12 về thi hành Luật Thi
hành án dân sự, trong đó quy định: “Dé trién khai thực hiện chủ trương xã
hội hố một số cơng việc có liên quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và tô chức thực hiện thi điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành (01/7/2009) đến ngày 01 tháng 7 năm 2012. Chỉnh phủ tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định”. Kê từ sau năm 1975, đây là văn bản chính thức đầu tiên của Dang nhắc tới chế định Thừa phát lại và chức danh Thừa hành viên (Thừa phát lại).
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã giao Bộ tư pháp chủ trì, phối hợp với Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Uỷ ban nhân dân TP.HCM va một số cơ quan liên quan xây dựng dé án “7c
hiện chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chi Minh”. Đề án được xây
dựng trên việc nghiên cứu, tiếp thu các yếu tố hợp lý của chế định Thừa phat lại đã từng ton tại ở Việt Nam thời kỳ trước năm 1950 và tiếp tục ở miền Nam cho đến năm 1975”, đồng thời có sự điều chỉnh, bố sung các nội dung mới
phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính hiện nay ở nước ta. Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số 224/QĐ-TTg ngày 19/02/2009, theo đó, Thừa phát lại là người có đủ các tiêu chuẩn do pháp luật quy định, được Nhà nước bé nhiệm để làm công việc THADS (bao gồm: XMĐKTHADS và trực tiếp thi hành án;
tống đạt giấy tờ của Tòa án và của Cơ quan THADS cho đương sự; lập vi bang và làm các công việc khác theo quy định của pháp luật).
Đề án cũng xác định việc thí điểm chế định Thừa phát lại được thực hiện trước tiên tại TP. HCM (là địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội tương đối
thuận lợi cho việc phát triển các loại hình dịch vụ, trong đó có dịch vụ pháp lý như Thừa phát lại. Việc thí điểm này nhằm mục tiêu: Xác định sự cần thiết và <small>tính hiệu quả của Thừa phát lại trong hoạt động tư pháp nói chung và THADSnói riêng, xác định khả năng áp dụng mơ hình này trong tồn qc, thực hiện</small>
<small>!° Tạ Quỳnh Anh (2015), Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc si, Trường Đại</small>
<small>học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.13.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa một số hoạt động hành <small>chính, tư pháp.</small>
Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội và Đề án đã được phê duyệt ngày 24/7/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP quy định về tô chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. HCM, trên cơ sở đó giao Bộ tư pháp phối hợp với UBND thành phó, các Bộ, Ngành có liên quan tơ chức thực hiện thí điểm và đã tổ chức tong kết theo quy định. Các
Bộ, ngành đã ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện như: Thông tư 03/2009/TT-BTP ngày 30/9/2009 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một
số quy định của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tơ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ
Chí Minh; Thơng tư liên tịch số 12/2010/TTLT-BTP-BTC-TANDTC ngày <small>24/6/2010 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tài chính và Chánh án</small> Tịa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điều của Nghị định số
61/2009/NĐ-CP; Thông tư liên tịch số <small>13/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 07/7/2010 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Tòa án</small> nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tôi cao. Qua tổng kết cho thấy, việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại TP. HCM đạt kết
quả tốt, hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại đã thu được kết quả khả <small>quan, được xã hội, người dân đón nhận tích cực.</small>
Đề có cơ sở thực hiện nhằm đánh giá một cách đầy đủ và tồn diện về sự
cần thiết, vai trị, tác động của chế định TPL đối với hoạt động Tư pháp và đời sống xã hội, Quốc hội đã xem xét, ban hành Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định
Thừa phát lại. Theo Nghị quyết số 36/2012/QH13, việc thí điểm chế định Thừa phát lại được tiếp tục thực hiện thí điểm tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đến hết ngày 31/12/2015. Thực hiện Nghị quyết của Quốc
hội, ngày 25/3/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">510/QĐ-TTg phê duyệt dé án “Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát
lại”. Đề triển khai thực hiện, Bộ tư pháp đã phối hợp với các Bộ, Ngành chọn
12 địa phương mở rộng thí điểm (gồm các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải <small>Phịng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Bình</small> Dương, Đồng Nai, Tiền Giang, An Giang, Vĩnh Long). Việc lựa chọn các địa
phương mở rộng thí điểm đã đáp ứng yêu cầu của Đề án về số lượng địa
phương tham gia, có tính đại diện cho các vùng, miền có điều kiện kinh tế -xã hội khác nhau. Các địa phương được lựa chọn đã xây dựng Đề án, trình Bộ tư pháp phê duyệt làm cơ sở thực hiện. Để quy định cụ thê về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số
điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Các
Bộ, ngành đã ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện như: Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BTP-NHNN ngày 17/01/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phat lại tại các tổ chức tin dụng; Thông tư liên <small>tch 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/02/2014</small> hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số
36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội.
Nhận thay được tính hiệu qua cua thực hiện chế định Thừa phát lại ở Việt Nam. Ngày 26/11/2015, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 về thực hiện chế định Thừa phát lại, theo đó chấm dứt việc
thí điểm và cho thực hiện chế định Thừa phat lại trong phạm vi cả nước kế từ ngày 01/01/2016. Giao Chính phủ căn cứ tình hình thực tế địa phương, tổ chức thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi hành nghề theo quy định
hiện hành, có sự sửa đổi, bố sung cần thiết để khắc phục những ton tại, hạn chế trong hoạt động Thừa phát lại và chịu trách nhiệm tô chức đào tạo nghề
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Thừa phát lại. Việc thực hiện chế định TPL có ý nghĩa quan trọng, góp phần
thực hiện tốt chủ trương về xã hội hóa hoạt động bồ trợ tư pháp đã được đề ra tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trên cơ sở đó, tạo tiền đề giảm tải công việc, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Tòa án, Cơ quan thi hành án dân
sự, góp phan thực hiện thành cơng Nghị quyết số 39/NQ-TW ngày 17/4/2015
củaBan chấp hành Trung ương về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Mặc khác, với chức nang lập vi bằng cua TPL, việc thực hiện chế định này đã bổ sung nguồn chứng cứ, tạo thêm công cụ pháp ly để người dân tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế và trong giải quyết tranh chấp; đồng thời, người dân cũng có thêm sự lựa chọn phù hợp trong yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Tịa án; u cầu XMĐKTHADS.
Hồn thiện pháp luật về TPL trên cơ sở thé chế hóa các quan điểm của
Dang dé xây dựng pháp luật về TPL đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyên xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, góp phan xây dựng nén tư pháp Việt Nam trong sạch, dân chủ, <small>nghiêm minh, bảo vệ cơng lý, từng bước xã hội hóa dịch vụ cơng, nhân dânlàm chủ, Nhà nước giữ vai trò chỉ đạo chứ khơng làm thay. Theo đó pháp luật</small> về TPL phải đáp ứng được các tiêu chí về tính tồn diện, đồng bộ, phù hợp,
khoa học, thực tiễn, công khai, minh bạch.
1.4.3. Nhận thức về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay
Nhận thức được những quan hệ xã hội nào phát sinh và cần có pháp luật
điều chỉnh hay không là yếu tố vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng
và hồn thiện pháp luật về Thừa phát lại.
Từ nhận thức có thé xác định được những ưu điểm, đánh giá được mức độ hoàn thiện của quy định pháp luật về Thừa phát lại, xác định được những
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">quy định còn hạn chế, bat cập trong pháp luật dé có những sửa đổi, bổ sung <small>kip thoi, hoàn thiện hơn.</small>
Do vậy, điều quan trọng đầu tiên là thay đổi nhận thức của cán bộ thuộc cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nhận thức không day đủ về tầm quan trọng của việc ban hành văn bản, tính nguy hại của việc đưa vào cuộc sống những văn bản quy phạm thiếu tính thống nhất, đồng bộ, hồn chỉnh, khả thi và kỹ thuật xây dựng văn bản chưa cao không chỉ làm tốn kém thời gian, tiền bạc của Nhà nước mà cịn gây ra khó khăn, vướng mắc trong
q trình triển khai, thực hiện pháp luật trong thực tiễn, giảm sút niềm tin của <small>nhân dân.</small>
Bên cạnh đó, nhận thức của Thừa phát lại và người dân về Thừa phát lại chính là cơ sở dé đánh giá khách quan, chính xác về tính hiệu quả thực hiện các quy định pháp luật hiện hành, từ đó, đưa ra những ý kiến, giải pháp hoàn hiện pháp luật, nâng cao chất lượng hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam
hiện nay, phát huy vai trò của Thừa phat lại trong công tác bổ trợ tư pháp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">Kết luận Chương 1
Trước nhu cầu, đòi hỏi của xã hội đã đặt ra yêu cầu cải cách ngành tư pháp, trong đó, nhiệm vụ cấp bach là xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự. Tại Nghị Quyết số 49/NQ-TW đã xác định nghiên cứu chế định Thừa phát lại và tơ chức thí điểm ở một số địa phương, sau quá trình đánh giá nhận thấy tính khả thi, hiệu quả của chế định Thừa phát lại, Quốc hội ban hành Nghị quyết 107/2015/QH13 để thực hiện chính thức chế định Thừa phát lại trên
phạm vi toàn quốc từ ngày 01/01/2016.
Pháp luật về Thừa phát lại là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà
nước ban hành va bảo đảm thực hiện dé điều chỉnh các quan hệ xã hội liên
quan đến tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại; trình tự, thủ tục thực hiện
<small>các chức năng của Thừa phát lại và các quan hệ xã hội phát sinh trong quá</small>
trình hoạt động của Thừa phát lại. Pháp luật về Thừa phát lại bao gồm các quy
định về tô chức và hoạt động của Thừa phát lại như: Nhiệm vụ, quyền hạn của
Thừa phát lại; b6 nhiệm, miễn nhiệm Thừa phat lại; thành lập, giải thể Van phòng Thừa phát lại; chức năng của Thừa phát lại; xử lý vi phạm đối với TPL, Văn phòng Thừa phát lại... Để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về
Thừa phát lại phải dựa vào các tiêu chí như tính tồn diện, tính thống nhất và đồng bộ, tính phù hợp, ngơn ngữ và kỹ thuật xây dựng pháp luật, tính minh bạch và ôn định tương đối của pháp luật. Việc hoàn thiện pháp luật về Thừa
phát lại ở Việt Nam hiện nay chịu ảnh hưởng bởi các yêu tố cơ bản như: Sức ép của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế; quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước; nhận thức của cá nhân, cơ quan, tô chức về Thừa <small>phát lại.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Chuong 2. THUC TRANG PHAP LUAT, PHUONG HUONG VA GIAI PHAP HOAN THIEN PHAP LUAT VE THUA PHAT LAI
O VIET NAM HIEN NAY
2.1. Thực trang pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến Thừa phát lại Tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về t6 chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí
Minh.Nghi định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung tên
gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tô
chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; hướng dẫn, giải quyết khó
khăn, vướng mắc trong tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại. Bộ Tư pháp phối hợp với các bộ, ngành xây dựng, ban hành các văn bản như: Thông tư
liên tịch số 03/2014/TTLT-BTP-NHNN ngày 17/01/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại tại các tổ chức tin dụng; Thông
tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày
28/2/2014 hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị
quyết số 36/2012/QH13. Các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại.
<small>Bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật, trong quá trình thực hiện,</small> Ban Chỉ đạo Trung ương, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành đã có nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý đối với Thừa phát lại
nhằm chấn chỉnh sai sót, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho các địa phương như: Công văn 4003/BTP-TCTHADS ngày 19/9/2014 về hướng dẫn
một số nội dung trong hoạt động Thừa phát lại, Công văn số 296/BTP-BCD
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">ngày 28/01/2015, Công văn số 2104/BTP-BCĐ ngày 17/6/2015 của Ban chỉ đạo Trung ương hướng dẫn một số nội dung trong hoạt động Thừa phát lại...
Ở địa phương, Ban Chỉ đạo, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố cũng
<small>đã ban hành chỉ thị, văn bản chỉ đạo các Sở, ban, ngành nâng cao trách nhiệm,</small>
có kế hoạch, giải pháp để thực hiện tốt việc thí điểm. Định kỳ, Sở Tư pháp phối hợp với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cục Thi hành án dân sự và cơ quan liên quan tô chức giao ban, họp liên ngành dé trao đổi thông tin, hướng dẫn giải quyết khó khăn, vướng mắc, kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót, hỗ trợ hoạt động của Thừa phát lại. Trong tô chức và hoạt động, các
Văn phịng Thừa phát lại đã ln nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của các cấp, <small>các ngành.</small>
Bên cạnh những ưu điểm vẫn còn tồn tại, hạn chế về ban hành văn bản
pháp luật về Thừa phát lại chưa kịp thời; chưa bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong các văn bản pháp luật về Thừa phát lại và các văn bản có liên quan khác như thi hành án, tố tụng dân sự, tài chính - ngân hàng..., cụ thể:
- Hệ thông các văn bản quy phạm pháp luật về Thừa phát lại còn hạn chế về số lượng; việc hướng dẫn, chỉ đạo về tổ chức và hoạt động của TPL và VP
TPL bằng Công văn là chủ yếu.
- Việc ban hành các văn bản để thực hiện chủ trương của Đảng về thực hiện chế định TPL còn chậm như: Chậm ban hành văn bản quy phạm pháp
luật để thực hiện Nghị quyết số 107/2015/QH13 về thực hiện chế định Thừa
phát lại, chậm ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thống nhất tổ chức và
hoạt động của Thừa phát lại trong giai đoạn chế định Thừa phát lại được thực
hiện trong phạm vi tồn quốc.
- Văn bản có hiệu lực cao nhất quy định về tô chức và hoạt động của Thừa phát lại chỉ mới là Nghị định của Chính phủ, điều đó dẫn đến vướng
mắc về áp dụng pháp luật khi có mâu thuẫn, xung đột nội dung giữa Nghị định với các Luật, Pháp lệnh có liên quan, làm hạn chế hoạt động của Thừa
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">phát lại. Nhiều quy định pháp luật trong các lĩnh vực có liên quan, đặc biệt là
pháp luật về tố tụng, tài chính - ngân hàng... chưa đồng bộ, thậm chí cịn là <small>rào cản cho hoạt động của Thừa phát lại.</small>
2.1.2. Thực trạng các quy định của pháp luật về Thừa phát lại 2.1.2.1. Các quy định về tổ chức của Thừa phát lại
- Quy định vé nhiém vu, quyền hạn và các hành vi bị cắm đối với TPL Theo quy định tại Điều 5 Văn bản hợp nhất số 7821/VBHN-BTP, Thừa
phát lại có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Mot là, Thừa phát lai được bô nhiệm theo đúng quy định của pháp luật, <small>phải trung thực, khách quan khi thực hiện công việc.</small>
Hai là, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, quy chế tổ chức, hoạt động và
đạo đức nghé nghiệp Thừa phát lai.
Ba là, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện cơng việc của mình. Bên cạnh các nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên, pháp luật cũng quy định cụ thê những hành vi bị cắm đối với Thừa phat lại, cụ thé:
Một là, không được tiết lộ thông tin về việc thực hiện công việc của <small>mình, trừ trường hợp pháp luật cho phép.</small>
Hai là, Thừa phát lại khơng được địi hỏi bất kỳ khoản lợi ích vật chất nào khác ngồi chi phí đã được thỏa thuận và ghi nhận trong hợp đồng.
<small>Ba là, trong khi thực thi nhiệm vụ của mình, Thừa phát lại không được</small> nhận làm những việc liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và những
người là người thân thích của mình, bao gồm: Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi;
<small>cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bac,</small> chú, cậu, cô, di va anh, chi, em ruột của Thừa phát lại, của vợ hoặc chồng của <small>Thừa phát lại; cháu ruột mà Thừa phát lại là ông, bà, bác, chú, cậu, cơ, dì.</small>
Khi thực hiện cơng việc về thi hành án dân sự, Thừa phát lại có quyền
như Chấp hành viên quy định tại Điều 20 của Luật thi hành án dân sự năm
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">2008 được sửa đổi, bố sung năm 2014, trừ nội dung quy định tại khoản 9,
khoản 10 và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Riêng việc cưỡng chế
thi hành án có huy động lực lượng bảo vệ, áp dụng quy định tại Điều 40 của Văn bản hợp nhất 7821/VBHN-BTP.
- Quy định về bồ nhiệm, miễn nhiệm Thừa phái lại
Về quy định bố nhiệm TPL, Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm Thừa phát lại theo đề nghị của co quan có thâm quyền. Theo quy định tại Điều 10 Văn bản hợp nhất 7821/VBHN-BTP, người được xem xét bổ nhiệm phải bảo đảm
các tiêu chuẩn sau:
Mot là, Thừa phát lại là cơng dân Việt Nam, có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức tốt. Theo Luật quốc tịch năm 2008 được sửa đổi, bố sung năm 2014, công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Đối với yêu cầu về sức khỏe thì người được bổ nhiệm được cho là có đủ sức khỏe khi có giấy xác nhận của cơ sở y tế có thâm quyền về việc họ có đủ sức khỏe để cơng tác và học tập. Về phẩm chất, đạo đức được thé hiện qua đánh giá của co quan quan
lý, chính quyên nơi cư trú, sinh sống và làm việc.
Hai là, khơng có tiền án, người đã được xóa án tích coi như chưa bị kết án và họ có quyền trở thành TPL nếu có nhu cầu và đáp ứng các điều kiện <small>khác theo quy định.</small>
Ba là, những người có băng cử nhân luật hoặc tương đương cử nhân trở <small>lên theo quy định của pháp luật Việt Nam.</small>
Bốn là, đã công tác trong ngành pháp luật trên 05 năm hoặc từng là
Thâm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, Chấp hành viên, Công chứng viên, Điều tra viên từ trung cấp trở lên. Theo các quy định hiện hành những trường hợp
này thường được xem xét dé miễn tập sự hoặc miễn tham gia các lớp tập huấn
<small>vê nghề đôi với nhiêu chức danh nghê như Luật sư, Công chứng viên...</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Năm là, có chứng chỉ hoàn thành lớp tập huấn về nghề TPL do Bộ tư pháp tổ chức. Day là yêu cầu bắt buộc khi bổ nhiệm.
Sáu là, không kiêm nhiệm hành nghề Công chứng, Luật sư và những
công việc khác theo quy định của pháp luật do tính đặc thù của nghề TPL. Trình tự, thủ tục b6 nhiệm TPL hiện nay thực hiện theo quy định tại Điều 12 Văn bản hợp nhất 7821/VBHN-BTP. Trong thời hạn không qua 15 ngày, kế từ ngày nhận hồ sơ, Giám đốc Sở tư pháp tỉnh, thành phố nơi tiếp
nhận hồ sơ phải xem xét, néu thay có đủ điều kiện thì dé nghị Bộ trưởng Bộ
tư pháp bổ nhiệm. Trong trường hợp, Sở tư pháp nơi nhận hồ sơ từ chối thi
phải trả lời bằng văn bản cho người nộp đơn xin làm TPL. Bộ trưởng Bộ tư pháp xem xét bố nhiệm TPL trong thời hạn không quá 30 ngày, ké từ ngày
nhận được hé sơ dé nghị. Người được b6 nhiệm làm TPL được Bộ tư pháp
cấp thẻ TPL.
về quy định miễn nhiệm TPL, Thừa phát lại miễn nhiệm theo nguyện vọng của cá nhân TPL hoặc bi miễn nhiệm nếu vi phạm một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 13 Văn bản hợp nhất số 7821/VBHN-BTP. Thừa phát lại bị miễn nhiệm nếu có một trong các trường hợp sau đây:
Một là, không đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 10 Văn bản hợp nhất
số 7821/VBHN-BTP.
Hai là, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Ba là, không hành nghề TPL kể từ ngày được bổ nhiệm từ 6 tháng trở <small>lên, trừ trường hợp có lý do chính đáng.</small>
Bốn là, đã bị xử phạt vi phạm hành chính đến lần thứ hai trong hoạt động hành nghề TPL mà còn tiếp tục vi phạm hoặc bị xử lý vi phạm bằng hình thức cảnh cáo trở lên đến lần thứ hai mà còn tiếp tục vi phạm.
Năm là, bị kết tội bằng bản án của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.
</div>