Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.21 MB, 108 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>Hà Nội - 2017</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>riêng tdi.</small>
ràng, được trích dẫn đúng quy định.
<small>Tác giả luận văn</small>
<small>Hoàng Mai Liên</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">1.1. Khái niệm va dấu hiệu của các tội phạm về mại đâm...--¿-2-s+s+s+s+sss2 6 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc qui định các tội phạm về mại dâm trong
<small>Bộ luật hình Sự... CC 0001 100111101111011111 111111 Em 7</small>
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc qui định các tội phạm về mại dâm trong Bộ luật hình
1.3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự ở Việt Nam đối với các tội phạm về mại dâm từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 cho đến trước khi có Bộ luật hình sự năm
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mang tháng Tam 1945 đến năm 1975... 16 1.3.2. Giai đoạn từ sau năm 1975 đến trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985.... 20 1.3.3. Giai đoạn từ khi có Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi có Bộ luật hình
<small>Š/.://0622 0E 21</small>
Chuong 2. CAC TOI PHAM VE MAI DAM THEO QUY DINH CUA BO LUAT HÌNH SỰ VIET NAM NAM 1990...2-° < s %9 9E v99 39g99 s54£ 25
2.1. Dau hiệu pháp ly của các tội phạm về mại đâm ...- 2-2 s2 2+s+c+ +2 aa 2.1.1. Dấu hiệu pháp lý của tội chứa mại AGM .eceececccescssscescesssessessessvessesseessessesseen 25 2.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội môi giới MAI ¿ÌÂMM...- 5: 552cc 37 2.1.3. Dấu hiệu pháp lý của tội mua dâm người chưa thành niên...--- 46 2.2. Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về mại dâm...---¿ss+csc+ 56 2.2.1. Trách nhiệm hình sự đối với tội chứa mại dlâm...-: 2+5 ceccvcscEvzsssez 56 2.2.2. Trách nhiệm hình sự đối với tội mơi giới mại đÌÂH...--- 5 5c <5s<++s+<52 60 2.2.3. Trach nhiệm hình sự đối với tội mua dâm người chưa thành niên ... 64
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">CAC QUI ĐỊNH NAY wissssssssssssssssssssssssssssssssessssssesessessssssesessesessssesesssssssssesessssssessesess 70 3.1. Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 (so với Bộ luật hình sự năm
1999) khi qui định các tội phạm về mại dâm ...----¿ 2 +s+E+E+EEE£E+E+EeEEtrkrrrree 70 3.1.1. Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về dấu hiệu định tội của các tội phạm VỀ mại AGM. ceccccesesscsessessssesscessesesussesussesesssvesesussesusssstssestsssaussesueseeteseaeees 70 3.1.2. Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm VỀ mại AGM vecccsecccsescesessesceresessesesvesessesveresessesseuesveresverestesestaneavenees 73 3.2. Đánh giá qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 về các tội phạm về mại dâm và đề xuất phương hướng hoàn thiện các qui định này ... 82
3.2.1. Đánh gia qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 vé các tội phạm 7.;;77./,P.R.RERERERERRR 52
<small>3.2.2. Phuong hướng hoàn thiện qui định cua Bộ luật hình sự Việt Nam nam 2015</small>
về các tội phạm VỀ mại AGM vececscsescssescsecsesssvsvsresssvecessevevesesvevesessaveesesvaveseseavsvsseseens 84 00905 ...ÔỎ 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">hết mọi quốc gia trên thế giới. Trong những năm gần đây, tại Việt Nam đã xuất hiện những đối tượng và hình thức hoạt động mại dâm mới như: du lịch tình dục, người
<small>nước ngồi ban dâm, mơi giới mai dâm thơng qua mang Internet, facebook,... TỆ</small>
nạn mại dâm đã và đang gây nhiều hệ lụy cho xã hội: Nguy cơ lây lan các bệnh xã
<small>hội, HIV/AIDS qua đường tình dục do quan hệ tình dục khơng an tồn; tình trạngngười mại dâm sử dụng ma túy có xu hướng gia tăng; tệ nạn mại dâm cũng là một</small>
trong những nguyên nhân làm gia tăng các tô chức tội phạm, đường dây mua bán
<small>người, tình trạng mua bán phụ nữ, trẻ em vì mục đích mại dâm cũng ngày càng có</small>
xu hướng tăng; xuất hiện nhiều tụ điểm mại dâm tại các khu vực công cộng tác động xấu đến môi trường văn hóa, thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng đến trật tự an
<small>toàn xã hội, gây bức xúc trong dư luận... Cùng với những hệ lụy đó thì ngay chínhnhững người bán dâm cũng rơi vào tình trạng bi ngược đãi, bạo lực, bi chà đạp nhân</small>
phẩm, bị bóc lột, lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tinh dục, bi phân biệt đối
Chính vì vậy, để xác định tầm quan trọng của việc đấu tranh phòng chống mại dâm cũng như thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác
<small>này, các hành vi chứa mại dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên</small>
đã được quy định tại Bộ luật Hình sự Việt Nam. Đồng thời, ngày 14/3/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Phòng chống mại dâm năm 2003. Ngày 07/3/2016, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Chương trình hành động phịng chống mại dâm giai đoạn 2016-2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 361/QD-TTg ngày 07/3/2016). Trên cơ sở đó, các cơ quan có thâm quyền đã liên tục triển khai các biện pháp tăng cường phòng ngừa, đấu tranh, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm về mại dâm. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong cơng tác phịng, chống mai dâm nhưng các tội phạm về mại dâm vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp. Để ngăn chặn có hiệu quả các tội phạm này, Nhà nước cần thực hiện tổng thể các biện pháp
<small>khác nhau, trong đó biện pháp hồn thiện Bộ luật Hình sự đóng vai trị cực kì quantrọng. Vì vậy, vân đê đặt ra là cân nghiên cứu các quy định của Bộ luật Hình sự</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">nâng cao hiệu qua áp dụng các quy định pháp luật dé xử lý các tội phạm này trong
thực tiễn.
Chính vì những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Các đội phạm về mai
<small>dâm trong pháp luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình.</small>
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các tội phạm về mại dâm mặc dù không phải là một van đề dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu luật hình sự, tuy nhiên cũng có một sỐ cơng trình nghiên cứu có giá trị liên quan đến vấn đề này. Có thé ké đến một số nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến dé tài như:
* Luận văn thạc sĩ gồm có:
<small>+ “Tơi mua dâm người chưa thành niên theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm</small>
1999 — những vấn dé lý luận và thực tiên”, tác giả Nguyễn Việt Khánh Hòa, khoa Luật đại học Quốc gia, Hà Nội, năm 2009;
+ “Luật hình sự Việt Nam với việc bảo vệ trẻ em”, tac giả Nguyễn Văn
<small>Hương, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2003.</small>
* Sach chun khảo gồm có:
+ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm, tap IX, tác giả Đinh Văn Quế, Nxb tông hợp TP.Hồ Chí Minh, năm 2006.
* Bài viết trên tạp chí gom có:
+ “Thực tiễn ap dụng các quy định cua Bộ luật hình sự vé tội phạm liên
quan đến mại dâm và những vấn dé can hoàn thiện”, tac giả Nguyễn Văn Truong, Tạp chí Tịa án nhân dân, Số 24, năm 2007;
+ “Tôi mua dam người chưa thành niên ly luận và thực tiễn”, tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Tịa án nhân dân, Số 10, năm 2010;
+ “Tôi chứa mại dám, tội môi giới mại dâm: lý luận và thực tiễn”, tac giả Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 22, năm 2010;
+ “Về những vướng mắc và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về tội
chứa mại dâm, tội môi giới mại dâm”, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hoa, Tạp chí Tịa
án nhân dân, Số 22, năm 2011;
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Thạch, Tạp chí Tịa án nhân dân, Số 4, năm 2015;
<small>+ “Phạm Thi M phạm tội chứa mại dâm và Moi giới mại dâm ”, tác giả Vũ</small>
Đức Việt, Tạp chí Tịa án nhân dân, Số 14, năm 2015;
+ “Phạm Thị M chỉ phạm tội chứa mại dâm”, Tap chí Tịa án nhan dân, Số
<small>16, năm 2015.</small>
Ngồi ra, các giáo trình của các cơ sở đào tạo luật trên cả nước đều đề cập đến nhóm các tội phạm về mại dâm như: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002; Gido
<small>trình Luật Hình sự Việt Nam, tập 2 của Trường Dai học Luật Ha Nội, Nxb Công an</small>
nhân dân Hà Nội, 2009; Gido frình Luật Hình sự Việt Nam, phần các tội phạm của
<small>Học viện Cảnh sát nhân dân, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, 2012; Giáo trình</small>
Luật Hình sự Việt Nam, phần các tội phạm (tập 2) của Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Duc, 2016; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, phần các tội phạm (tập 2) của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, 2016... Bên cạnh đó, một số sách bình luận khoa học về Bộ luật hình sự cũng đề cập đến nhóm tội này.
Nhìn chung, các đề tài, cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập ở các mức độ khác nhau đến các tội phạm về mại dâm dưới góc độ luật hình sự. Trong đó phan lớn các cơng trình tập trung nghiên cứu dấu hiệu pháp lí của các tội phạm về mai dâm theo qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, một sé cơng trình nghiên cứu cả thực tiễn áp dụng các qui định về các tội phạm mại dâm kê từ khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực, ngồi ra một số cơng trình đã đưa ra giải pháp, kiến nghị nhăm hoàn thiện qui định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội phạm về mại dâm. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu
<small>của Bộ luật Hình sự năm 1999 (Bộ luật Hình sự hiện hành) trong sự liên hệ với Bộ</small>
luật Hình sự năm 2015 (Bộ luật Hình sự đã được Quốc hội thơng qua nhưng chưa có hiệu lực) nhằm đưa ra ý kiến đề xuất góp phần hồn thiện qui định về các tội phạm về mại dâm trong Bộ luật Hình sự 2015. Vì vậy, việc tác giả lựa chọn đề tài
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
<small>3.1. Mục đích nghiên cứu</small>
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống và tồn diện các qui định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội phạm về mại dâm. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội phạm về mại dâm, tìm ra những điểm bat cập của Bộ luật này cũng như phương hướng hoàn thiện. Do Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được Quốc Hội thơng qua, do vậy, tác giả cũng có sự liên hệ, đánh giá Bộ luật Hình sự năm 2015, từ đó, tìm ra những điểm chưa hồn thiện của Bộ luật Hình sự năm 2015, dé xuất những giải pháp hoàn thiện luật nhằm nâng cao hiệu quả việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 trong thời
<small>gian tới.</small>
<small>3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu</small>
- Tác giả sẽ nghiên cứu qui định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội phạm mại dâm, tìm ra được bất cập của những qui định đó. Sau đó, tác giả sẽ phân tích, đánh giá qui định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về nhóm tội này, chỉ rõ Bộ
những tồn tại nào chưa được giải quyết. Từ đó, tác giả sẽ có những đề xuất cụ thê. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
1999 đối với các tội phạm về mai dam và qui định tương ứng của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với các tội phạm này.
<small>4.2. Phạm vi nghiên cứu</small>
<small>Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ Luật hình sự. Tác giả tập trung</small>
nghiên cứu qui định của Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với các tội phạm về mại
<small>dâm; bên cạnh đó, tác giả cũng nghiên cứu, đánh giá qui định tương ứng của Bộ luật</small>
Hình sự năm 2015 về nhóm tội này.
<small>5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><small>tư pháp.</small>
<small>Phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng là phương pháp phân tích,</small>
so sánh, tổng hợp, lịch sử,...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn đã nghiên cứu qui định của các tội phạm về mại dâm trong Bộ luật Hình sự năm 1999 một cách có hệ thống và tương đối tồn
diện, từ đó, tìm ra những bất cập của Bộ luật Hình sự năm 1999. Đồng thời, trên
<small>cơ sở nghiên cứu, đánh giá qui định của Bộ luật Hình sự năm 2015, tác giả sẽ tìm</small>
ra những điểm mới cũng như điểm tích cực của Bộ luật này so với Bộ luật Hình sự năm 1999, đồng thời, chỉ ra được những điểm hạn chế cịn tơn tại của Bộ luật Hình sự năm 2015, từ đó đưa ra những phương hướng, kiến nghị nhằm hoàn thiện
<small>qui định của Bộ luật Hình sự năm 2015 và nâng cao hiệu quả thi hành Bộ luật nàytrong thời gian tới.</small>
Về thực tiễn, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cơ quan có thâm quyền nghiên cứu, tham khảo phục vụ cho việc ban hành Luật sửa đổi, b6 sung sắp tới nhằm khắc phục hạn chế, thiếu sót của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Ngồi ra, luận văn cịn có thể được sử dụng là tài liệu tham khảo trong
<small>công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào tạo bậc đại học, sau</small>
đại học về chuyên ngành luật học. 7. Cơ cầu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số van dé chung về các tội phạm về mại dâm
Chương 2: Các tội phạm về mại dâm theo qui định của Bộ luật hình sự Việt
<small>Nam năm 1999</small>
Chương 3: Đánh giả điểm mới của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 về các tội phạm về mại dâm và phương hướng hoàn thiện các qui định này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">1.1. Khái niệm va dấu hiệu của các tội phạm về mai dâm
<small>Theo quy định cua Bộ luật hình sự Việt Nam, tội phạm “Ja hành vi nguy</small>
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cô y hoặc vô y, xâm phạm độc lập, chu quyên,
nên văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, qun, lợi ích hợp pháp của tơ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh du, nhân phẩm, tự do, tài san, các quyên, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của
<small>trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa ”.</small>
Trên cơ sở khái niệm về tội phạm nói chung cũng như đặc điểm riêng của các tội phạm về mại dâm, tác giả xin đưa ra khái niệm đối với các tội phạm về mại
<small>dâm như sau:</small>
Các tội phạm về mai dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được qui định trong Bộ luật hình sự, do người có du diéu kiện chủ thé của tội phạm thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm đến trật tự công cộng được thể hiện bằng hành vi chứa mại
<small>dam, môi giới mai dâm hoặc hành vi mua dâm người chưa thành niên.</small>
Từ khái niệm trên có thể thay các tội phạm về mại dâm có những dấu hiệu
* Khách thể của các tội phạm về mại dâm
Khách thể trực tiếp của các tội phạm về mại dâm là trật tự cơng cộng. Điều này có nghĩa là, các tội phạm về mại dâm đã xâm hại đến trật tự chung, vi phạm nếp sống văn minh, đạo đức xã hội, quy tắc cuộc sống, gây ảnh hưởng xấu đến thuần
<small>phong mỹ tục của dân tộc.</small>
* Mat khách quan cua các tội phạm về mại dâm
Hành vi khách quan của các tội phạm về mại dâm tuy khác nhau ở hình thức thê hiện nhưng đều có cùng tính chất là hành vi nguy hiểm cho xã hội có liên quan đến hoạt động mua dâm, bán dâm, gây ảnh hưởng đến trật tự cơng cộng nói chung
<small>và ảnh hưởng đên cơng tác quản lí, phịng chơng tệ nạn mại dâm của Nhà nước ta.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><small>- Hành vi môi giới mại dâm;</small>
<small>- Hành vi mua dâm người chưa thành niên.</small>
Các tội này đều được qui định trong BLHS năm 1999 là tội phạm có cầu thành hình thức, chỉ có hành vi mới là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, cịn hậu quả khơng phải là dau hiệu bắt buộc trong cau thành tội phạm (CTTP).
Tuy nhiên, dấu hiệu hậu quả lại được qui định là tình tiết định khung tăng
nặng đối với một số tội. Bên cạnh đó, hậu quả có thé là căn cứ dé xem xét, quyết
định hình phạt đối với người phạm tội.
* Chủ thể của các tội phạm về mại dâm
Chủ thé của các tội phạm về mại dâm là chủ thé thông thường, tức là những người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS).
* Mat chủ quan cua các tội phạm về mại dâm
Lỗi của người thực hiện các tội phạm về mại dâm là lỗi cô ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình nhưng vẫn mong muốn thực hiện.
Động cơ phạm tội và mục đích phạm tội không phải là dau hiệu bắt buộc của CTTP của các tội phạm về mại dâm.
Các tội phạm về mại dâm được quy định tại Chương XIX Bộ luật hình sự
<small>năm 1999 thuộc nhóm các tội xâm phạm an tồn cơng cộng, trật tự cơng cộng bao</small>
gồm ba tội:
+ Tội chứa mại đâm (Điều 254); + Tội môi giới mại dâm (Điều 255);
+ Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256).
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc qui định các tội phạm về mại
<small>dâm trong Bộ luật hình sự</small>
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc qui định các tội phạm về mại dâm trong Bộ
<small>luật hình sự</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">các hành vi chà đạp phẩm giá, danh dự con người nhất là phụ nữ và trẻ em là van đề mà chuẩn mực quốc tế cũng như từng quốc gia luôn chú trọng.
Xét về chuân mực quốc tế, cộng đồng quốc tế đã có những hợp tác rất tích cực trong bảo vệ quyền con người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em — những đối tượng yếu thế trong xã hội, ngăn ngừa những nguy cơ đưa họ trở thành nạn nhân của mại dâm. Báo cáo năm 2009 của Liên Hợp Quốc cho thấy, 79% nạn nhân của bọn buôn người là để phục vụ mại dâm, và mại dâm đã được coi là “Chế độ nô lệ lớn nhất trong lịch sử"!
Các văn kiện quốc tế liên quan đến việc ngăn ngừa, trừng phạt các hành vi liên quan đến bn bán, bóc lột mại dâm phụ nữ, trẻ em thể hiện qua nhiều văn bản khác nhau. Qui định nhăm trừng phat và ngăn ngừa, tran áp việc bóc lột mại dam phụ nữ, trẻ em được thê hiện tại Công ước về tran áp việc buôn bán người và bóc lột mại dam người khác năm 1949, Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979 và Công ước về quyên trẻ em năm 1989. Đây là ba Cơng ước cơ bản có các nội dung liên quan đến việc phòng, chống mại dâm thé hiện rất rõ quan điểm của cộng đồng quốc tế đối với việc đấu tranh phịng chống nạn mại dâm nói riêng và bảo vệ quyên của phụ nữ, trẻ em nói chung.
Quy định pháp luật về mại dâm là khác biệt ở từng nước trên thế giới. Tính tới năm 2012, có thê chia luật về mại dâm của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thé giới thành 3 nhóm:ˆ
Nhóm 1: Mại dâm là hợp pháp và được pháp luật quy định các van đề liên quan. Nhóm này có 20 nước và một số bang của Úc.
Nhóm 2: Ở những nước thuộc nhóm này, khơng có bộ luật cụ thể để cắm mại dâm, nên mại dâm (trao đổi tình dục vì tiền) tự nó khơng phải là bất hợp pháp, nhưng hau hết các hoạt động liên quan (như mời gọi mua dâm nơi công cộng, nhà thổ và các hình thức dắt khách khác...) là bất hợp pháp, điều này khiến cho việc mua bán dâm là rất khó khăn dé khơng vi phạm bat cứ điều luật nào. Nhóm nay có
<small>' class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">
đó có một mục về mại dâm. Luật này quy định: chào mời bán dâm nơi công cộng sẽ bị phạt 3 tháng tù, rao số điện thoại để bán dâm bị phạt 6 tháng tù, chăn dắt mại dâm bị phạt 2 năm tù, chủ nhà thé bị phạt 1-3 năm tù (nếu tái phạm sẽ phạt nặng hơn), giam giữ nơ lệ tình dục bị phạt ít nhất 7 năm tù, ngồi ra cịn có nhiều mức
<small>phat cho các hành vi khác.</small>
Nhóm 3: Những nước đã ban hành các bộ luật cụ thể để cắm các hành vi mua bán, tơ chức, mơi giới mại dâm... Nhóm này có khoảng 160 nước và vùng lãnh thơ.
Như vậy, có thể thấy là đa phần các nước trên thế giới đều có quan điểm cam nạn mai dâm và trừng phạt nghiêm khắc các đối tượng có hành vi chứa, mơi giới hoặc hành vi khác liên quan đến mại dâm.
Trên thực tế, nhiều nước từng hợp pháp hóa mại dâm hoặc “thả lỏng” cho mại dâm hồnh hành cũng đã nhìn nhận lại và phải thay đổi chính sách, như: Ở
Thụy Điền, trong 30 năm (từ năm 1998 trở về trước) hoạt động mại dâm không bị
cam, nhưng sau khi xét thay việc hợp pháp hóa mai dâm càng khiến hoạt động này ngoải tầm kiểm sốt, gây tơn hại lớn về giá trị đạo đức xã hội nên đến năm 1999, Thụy Điển đã đưa ra luật nghiêm cấm mại dâm (tuy nhiên khác với luật cấm ở nhiều nước khác, ở Thụy Điển chỉ mua dâm mới bị phạt, luật nước nay coi mua dâm là hành vi bạo hành chống lại phụ nữ). Chính phủ Thụy Dién tuyên bố đấu tranh không khoan nhượng với nạn mại dâm và lý giải tam quan trọng của việc chống tệ nạn mai dâm: Mai dam gây ra tác hại nghiêm trọng cho mỗi cá nhân cũng như toàn thể xã hội. Tội phạm có tổ chức bao gom ca bn người cho mục dich tinh duc, buôn ban ma túy, cũng thường liên quan đến mại dâm. Năm 2009, đến lượt Na Uy, Iceland và tiêu bang Rhode Island (Mỹ) cũng cấm mai dâm trở lại sau nhiều năm cho tơn tại hợp pháp. Ở Pháp, Chính phủ đã đề ra những biện pháp ngăn chặn nạn mại dâm bằng cách phạt nặng người mua dâm (theo quy định đề ra năm 2013), nếu tái phạm mua dâm sẽ bị phạt 6 tháng tù giam cùng với 9.800 USD; môi giới
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">mại dâm có thé bị phat tù 7 năm. Pháp trở thành nước châu Âu thứ năm trừng phạt nặng hành vi mua dâm, cùng với Thụy Điển, Na Uy, Iceland và Anh.
Ngày 26/2/2014, Nghị viện châu Âu đã thông qua luật mại dim mới nhằm hình sự hóa tội danh mua dâm. Theo bà Mary Honeyball (đại diện thành phố London trong Nghị viện châu Âu), quyết định của Nghị viện châu Âu là tín hiệu cho thấy người dân châu Âu không muốn tiếp tục làm ngơ trước tình trạng lạm dụng phụ nữ: "Nhiều người nghĩ mại dâm là nghề cô xưa nhất trên thé giới. Vì thé một bộ phận du luận nghĩ rằng ching ta nên coi mại dâm là một phan tat yếu của cuộc sống và việc duy nhất chúng ta có thể làm là quản lý nó tốt hơn. Kiểu tư duy đó chỉ khiến mại dâm phát triển hơn, khiến mua dâm trở nên bình thường và khiến phụ nữ để bị lạm dụng hơn”. Đa SỐ nghị sĩ Nghị viện châu Âu đồng y với quan điểm hành vi mua dâm là vi phạm nhân quyền và là một hình thức bạo lực chống lại phụ nữ.”
Bà Sheila Jeffeys, giáo sư về Chính trị Giới tính - Bộ mơn Khoa học Xã hội và Chính trị của trường Dai học Melbourne cũng có quan điểm cho răng: “Trén thuc té thì tại Châu A và tồn thé giới, căn bản của những gì xảy ra trong mại dâm
động xã hội nguy hiểm và được đánh giá là có hại cho sức khỏe đối với phụ nữ và các em gái. Nó được tạo ra từ việc hạ thấp vai tro của phụ nit, coi sự ton tại của phụ nữ là để phục vụ cho lợi ích của đàn ông. Do vậy mại dâm cũng như những hành động văn hóa độc hại khác nhu bạo lực đối với phụ nữ, lam tồn thương tới bộ phận sinh duc nữ là những diéu can phải xóa bỏ hồn tồn. Hợp pháp hóa mại dâm
rõ ràng rang khơng có tác dụng bảo vệ phụ nữ”
Tiến si Janice G. Raymond, thuộc Liên minh phịng chống bn bán phụ nữ quốc tế (CATW), thông qua số liệu thực tế thu thập tại các nước đã hợp pháp hóa mại đâm cũng như qua phỏng vấn trực tiếp, đã liệt kê 10 thất bại và tác hại của biện
<small>pháp hợp thức hóa mại dâm như sau:</small>
- Tạo cơ hội cho nạn buôn người, thúc đây bn bán nơ lệ tình dục. Ví
<small>đên hàng đâu của tệ nạn buôn người.</small>
<small>* class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">
- Tiền thuế ma nhà nước thu được rat it, mà phần lớn chui vào túi các băng nhóm xã hội den, trong khi chi phí bỏ ra để duy trì hệ thống "phố đèn đỏ" và y tế
<small>cho gái bán dâm, cũng như truy quét các loại tội phạm “ăn theo mai dam" (như ma</small>
túy, trộm cướp...) lại rất lớn. Nhà nước thu được 1 đồng thuế thì lại phải chi ra vài đồng vì những tác hại gây ra.
- Làm gia tăng "mai dâm chui, gái đứng đường" không giẫy phép (do gái bán dâm không muốn phải nộp thuế và bị quản lý), kéo theo đó là bạo lực đường phố và làm giả giấy phép. Rốt cuộc lại tồn tại song hành cả "mai đâm hợp pháp" lẫn "mại dâm bat hợp pháp”, việc truy quét van cứ phải tiễn hành như trước trong khi việc quản lý càng rắc rối hơn (vì khó có thê xác minh gái mại dâm có hay khơng có giấy phép hành nghè, giấy phép đó là thật hay giả).
- Hợp pháp hóa khơng thể giúp kiểm sốt được mại dâm mà chỉ khiến nó lan
<small>tràn thêm. Lam gia tăng nạn mại dâm trẻ em. Khơng cịn sợ bị pháp luật trừng tri,</small>
nhiều trẻ em bị gia đình bán vào nhà chứa, nhiều em khác sẵn sàng tham gia bán dâm dé kiếm tiền tiêu xài khi không được cha mẹ đáp ứng.
- Làm tăng nhu cầu mại dâm. Việc không còn bị pháp luật chế áp, răn đe khiến cho đàn ơng (nhất là thanh niên trẻ) khơng cịn lo sợ và càng có nhu cầu mua dâm ở quy mô rộng lớn hơn nhiều, khiến kỷ cương xã hội rối loạn, làm hư hỏng đạo đức thanh thiếu niên và đe dọa hạnh phúc mỗi gia đình.
- Khơng giúp bảo vệ gái mại dâm, họ vẫn bị đối xử tàn nhẫn. Bởi thực tế, các trùm tội phạm mới là kẻ thực sự điều khiến lĩnh vực này. Các quy định bảo vệ mà chính phủ đề ra khó thực hiện trên thực tế.
- Không giúp bảo vệ sức khỏe của phụ nữ. Theo thống kê, phần lớn khách hàng nam giới không tuân thủ quy định về an toàn khi quan hệ, gái mại dâm phải chịu đựng dé giữ khách mà khơng hè có cảnh sát nhắc nhở như Chính phủ từng hứa
- Khơng tăng cường sự lựa chọn nghề nghiệp của phụ nữ, mà còn khiến nhiều người bị bọn tội phạm (thậm chí gia đình minh) day vào con đường này dé kiếm lợi từ thân xác họ.
- Chính các phụ nữ mại dâm đa phần khơng muốn hợp pháp hóa ngành cơng nghiệp tình dục. Họ cảm thấy tui hồ, bị xa lánh khi tên tuổi mình bị thơng báo cơng
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">khai. Họ đều xem đó là con đường nhục nhã, đã tước đoạt sức khỏe, danh dự và cuộc đời họ, và khơng muốn con em mình lại sa vào con đường này.”
Cuối cùng tiến sĩ Janice G. Raymond kết luận: "Hop pháp hóa mại dâm chi làm tram trọng thêm những vấn nạn của nó. Đó chỉ là sự thối thác trách nhiệm của chính phủ trước những vấn nạn mà mại dâm gây ra cho con người và xã hội"."
Nhận xét của tiễn sĩ hoàn toàn đúng với thực trạng ở Việt Nam cũng như nhiều nước hiện nay. Thực tế là nhiều phụ nữ đã bị bọn bn người lừa bán dé làm nơ lệ tình dục, họ bị đối xử rất tàn nhẫn. Nhiều người chỉ mong bị cảnh sát nước sở tại bắt trong những cuộc truy qt mại dâm và được giải thốt. Đó là cách duy nhất họ có thé trở về quê hương và thốt khỏi những kẻ bn người. Như vậy, nếu mại dâm được hợp pháp hóa thì kéo theo đó, số nạn nhân của nạn mua bán phụ
<small>nữ, trẻ em vì mục đích mại dâm sẽ ngày càng gia tăng, trong khi họ là những người</small>
Qua những nghiên cứu, phân tích trên có thé thay mại đâm không chi là một hiện tượng xã hội tiêu cực, biểu hiện của sự lệch lạc về chuẩn mực xã hội mà nó cịn là ngun nhân của nhiều tệ nạn xã hội khác, đặc biệt là nạn mua bán phụ nữ, trẻ em.... Karl Marx và Lenin đã cho rằng mại dam là sự buôn ban xác thị! con người, phản ánh sự tha hóa đạo đức và áp bức bóc lột xuyên suốt lịch sử từ chế độ nô lệ, phong kiến cho tới chủ nghĩa tư bản, là diéu can phải xóa bỏ trong xã hội xã hội chủ nghĩa vốn chú trọng đạo đức và công bằng.'
Ở Việt Nam, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng bảo vệ con người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Điều này thé hiện rõ thông qua Hiến pháp và pháp luật nước ta. Theo Điều 26 Hiến pháp năm 2013, qui định:
“1. Cơng dân nam, nữ bình dang về moi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm qun và cơ hội bình đẳng giới.
2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện dé phụ nữ phái triển tồn
<small>điện, phát huy vai trị của mình trong xã hội.3. Nghiém cam phân biệt đôi xử về giới `.</small>
<small> class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">
Tiếp đó, Điều 37 Hiến pháp năm 2013 qui định: “J. Tré em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, cham sóc và giáo duc; được tham gia vào các van dé về trẻ em. Nghiêm cam xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyên trẻ em”.
Ngày 14/3/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Phòng chống mại dâm năm 2003. Ngày 07/3/2016, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Chương trình hành động phòng chống mại dâm giai đoạn 2016-2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 361/QĐ-TTg ngày 07/3/2016).
Như vậy, có thể thấy rõ là về chuẩn mực quốc tế cũng như chính sách và pháp luật nước ta đều coi trọng con người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, do vậy, việc
<small>ngăn chặn nan mai dâm cũng như những hành vi bóc lột mại dâm, khai thác lam</small>
giàu bất chính trên thân xác phụ nữ và trẻ em là hồn tồn cần thiết vì đó là những hành vi chà đạp lên nhân phẩm danh dự của người phụ nữ và trẻ em, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Trong các biện pháp nhà nước có thé tiến hành thì biện pháp hình sự đóng vai trị quan trọng. Vì vậy, việc qui định các tội phạm về mại dâm trong BLHS là hoàn toàn cần thiết, phù hợp với cơ sở lý luận theo chuẩn mực quốc tế và pháp luật của Việt Nam.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện cụ thé cũng như chính sách pháp luật của quốc gia mà mỗi nước sẽ có cách qui định cụ thể. BLHS năm 1999 đã qui định các tội phạm mại dâmlà đúng đắn, phù hợp với chuân mực quốc tế và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Với việc qui định các tội phạm về mại dâm gồm tội
<small>chứa mại dâm, môi giới mại dâm và mua dâm người chưa thành niên, BLHS năm</small>
1999 cũng như BLHS năm 2015 đã thé hiện rõ quan điểm của Dang và Nhà nước ta trong việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm về mại dâm, qua đó góp phần vào công tác bảo vệ phụ nữ và trẻ em, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc qui định các tội phạm về mại dâm trong Bộ
<small>luật hình sự</small>
<small>Tại Việt Nam hiện nay, tệ nạn mại dâm và tội phạm mại dâm đang có xu</small>
hướng gia tăng và trở thành một vấn đề cấp bách địi hỏi sự quan tâm của tồn xã hội trong việc đấu tranh, phòng ngừa và đây lùi tệ nạn này. Từ năm 2011 đến 2015, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã thụ lý: 3.963 vụ/4.579 bị can phạm các tội về
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><small>mại dâm - trong đó: tội chứa mại dâm 2.231 vụ/ 2.280 bị can, tội môi giới mại dâm1.679 vụ/ 2.227 bị can; tội mua dâm người chưa thành niên 53 vụ/ 72 bị can. Viện</small>
kiểm sát đã truy tố 3.752 vụ/ 4.792 bị can. Toà án nhân dân (TAND) cấp sơ thâm đã thu lý 3.800 vụ với 5.004 bị cáo phạm các tội về mại dâm dé xét xử theo thủ tục sơ thâm (bao gồm cả số cũ từ năm trước chuyển sang); đã xét xử 3.619 vụ / 4.692 bị cáo - trong đó có 2.662 bị cáo bị xét xử về tội chứa mại đâm, 1.971 bị cáo bị xét xử về tội môi giới mại dâm và 59 bị cáo bị xét xử về tội mua dâm người chưa thành niên. Năm 2016 vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra 914 vụ/ 1188 bị can phạm các tội về mại dâm. Toà án nhân dân các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thấm 881 vụ/ 1.130 bị cáo phạm các tội về mại
lý và xét xử nhiều vẫn tập trung và một số các tỉnh, thành phố lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phịng... và ở một số địa phương có khu du lịch: như Quang
<small>Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Khánh Hịa...</small>
Cùng với đó, SỐ lượng cơ sở hoạt động mại dâm và SỐ lượng người bán dâm ngày một nhiều:
Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hiện nay, số người bán đâm có hồ sơ quản ly là 11.240 người, trong đó, tập trung nhiều ở một số khu vực như: đồng bằng sông Hồng 3.673 người; Đông Bắc: 913 người; Bắc Trung Bộ 887 người; Đông Nam Bộ 3.200 người; đồng bằng Sông Cửu Long 1.374 người;
các khu vực khác là 1.189 người. Ÿ
Tuy nhiên, con số thực tế có thể cịn cao hơn do đây là một hoạt động rất khó kiểm sốt bởi tính phức tạp, tinh vi và trá hình của nó. Tại hội nghị tổng kết phịng, chống mại dâm năm 2013 của Việt Nam cho thấy, cả nước ước tính có gần 33.000 người bán dâm, nhưng chỉ có khoảng 9.000 gái bán dam có hé sơ quản ly.”
Theo báo cáo của Cục phòng, chống tệ nạn xã hội thuộc Bộ lao động thương binh xã hội tại Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình phòng, chống mại dâm giai đoạn 2010-2015: Trong thời gian từ năm 2010-2015, đội kiểm tra liên
<small>Š Chương trình phịng chống mai dâm giai đoạn 2016-2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 361/QĐ-TTgngày 07 tháng 3 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ)</small>
<small>9 cập nhật ngày 9.8.2017</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">ngành 178/CP của các tỉnh, thành phố đã kiểm tra 122.079 lượt cơ sở kinh doanh
<small>dịch vu; phát hiện 42.111 lượt cơ sở vi phạm; xử lý cảnh cáo 6.321 lượt cơ sở, phat</small>
tiền 28.558 lượt cơ sở với tổng số tiền xử phạt 167 tỷ 438 triệu đồng; đình chi, thu hồi giấy phép kinh doanh 1.412 cơ sở và 5.820 cơ sở bị áp dụng các hình thức xử phạt bố sung. Bộ Cơng an, co quan công an các tỉnh, thành phố đã chi đạo tăng cường cơng tác truy qt 6 nhóm, đường dây tơ chức hoạt động mại dâm có quy mơ lớn, phức tạp, trá hình ở các khách sạn, nhà hàng, quán bar, vũ trường, ở nhiều địa phương, đặc biệt là ở các thành phố lớn đã truy quét, triệt phá 5.791 vụ, 6 nhóm hoạt động mại dâm với 23.231 người vi phạm, gồm 9.643 người bán dâm; 8.206 người mua dâm; 5.158 đối tượng chủ chứa, môi giới và 224 người bán dâm dưới 18 tuôi (tăng 1.572 vụ với 5.837 người vi phạm so với giai đoạn 2006-2010). '°
Nạn mại dâm ở nước ta đang diễn biến phức tạp, hoạt động dưới nhiều hình
<small>thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ “nhạy cảm” như:massage, nhà hàng, karaoke, quán bar, vũ trường, khách sạn... Bên cạnh đó, hoạt</small>
động mại dâm nam, mại dâm đồng tính, người chuyển giới hoạt động mại dâm và mại dâm có yếu tổ nước ngồi (trong đó ké cả người nước ngồi mua dâm va bán
<small>dâm) thơng qua hình thức chao hàng, mơi giới mai dâm trên mạng internet, điệnthoại ngày càng gia tăng. Tệ nạn mại dâm cũng làm gia tăng các băng nhóm tộiphạm hoạt động mại dâm, môi giới, bảo kê, cho vay nặng lãi và tội phạm mua bán</small>
người, mua bán phụ nữ và trẻ em, tội phạm về ma túy... “Thuc té cho thấy, tình hình tệ nạn mại dâm van diễn ra phức tạp, tôn tại ở cả các tụ điểm mại dâm và trá hình trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ. Hoạt động mại dâm có tổ chức với quy mô lớn, thu nhập cao ngày càng gia tăng, đặc biệt đối tượng liên quan đến người mẫu, diễn viên, hoa hậu. Độ tuổi của người ban dam trẻ hóa, có sự tham gia cua học sinh, sinh viên... “"
Như vậy, có thể thay là nan mai dâm ở nước ta rất tram trọng và con số trên không thê phản ánh hết nạn mại dâm ở nước ta. Đây là hiện tượng xã hội tiêu cực mang lại rất nhiều hệ lụy. Té nan mại dâm gia tăng không chi gây mất trật tự trị an,
<small>!°_ class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">
ảnh hưởng xấu đến truyền thống đạo đức, thuần phong mĩ tục, gây cản trở công tác dau tranh, phịng ngừa tội phạm nói chung và tệ nạn xã hội nói riêng mà nạn mại dâm còn kéo theo nhiều hệ lụy xấu đến đời sống xã hội như: nguy cơ gia tăng nạn
<small>mua bán người, mua ban phụ nữ và trẻ em, gia tăng hoạt động của các băng dang</small>
phạm tội, làm tha hóa một bộ phận cán bộ có chức quyền bảo kê cho hoạt động mại dâm; đồng thời, nó làm lây lan các bệnh xã hội, HIV/AIDS qua đường tình dục do
quan hệ tình dục khơng an tồn, tỷ lệ người nhiễm HIV qua đường tình dục ngày
càng gia tăng (45,3% - chiếm tỷ lệ cao nhất trong các đường lây truyền khác). Bên cạnh đó, người hoạt động mại dâm thường bị bạo lực, chiếm đoạt tài sản, tiền bạc, bóc lột tình dục, bị kỳ thị, xa lánh, khó tiếp cận với các dịch vu xã hội... ” Do vậy, có thê thay mai dâm đang thực sự là một vấn nạn cần được điều chỉnh bới pháp luật hình sự, nếu chỉ xử lí hành chính đối với các hành vi chứa mại dâm, môi gidi mai dâm... thực sự chưa đủ sức ran de, tran áp và phòng ngừa tệ nạn này. Do đó việc qui định tội phạm về mại dâm theo BLHS Việt Nam là hoàn tồn cần thiết cả về
mặt lí luận lẫn thực tiễn hiện nay.
1.3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự ở Việt Nam đối với các tội phạm về mại dâm từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 cho đến trước khi có Bộ luật
<small>hình sự năm 1999</small>
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1975
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến tận những năm 1954, chúng ta phải dốc toàn lực cho cuộc kháng chiến chống Pháp nên trong giai đoạn này chưa có văn bản pháp luật hình sự nào mới điều chỉnh các hành vi liên quan đến hoạt động mại dâm. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 47/SL với nội dung: “Cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Tì rung và Nam bộ van tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không trải với những diéu thay đổi ấn định trong sắc lệnh này”. Theo đó, ở miền Bắc áp dụng Bộ “Luật Hình An Nam”, miền Trung áp dung Bộ “Hồng Việt Hình Luật”, miền Nam áp dụng Bộ hình luật Pháp tu chỉnh. Tuy vậy, do đất nước đang trong hoàn cảnh chiến tranh nên chính quyền cách mạng chủ
<small>'? Chương trình phòng chống mai dâm giai đoạn 2016-2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 361/QĐ-TTgngày 07 tháng 3 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">yếu tập trung vào việc xét xử những tội phạm phản cách mạng, chống phá chính quyền và một số loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm như tội tích trữ, đầu cơ nhằm củng cố, bảo vệ nhà nước mới thành lập.
Từ năm 1955, ở Miền Nam Việt Nam, giai đoạn đầu, chính quyền Ngơ Đình Diệm vẫn cho duy trì một số đạo luật của chế độ thuộc Pháp trước đây về vẫn đề mại dâm. Sau đó, Ngụy quyền Sài Gòn đã ban hành Dụ số 64 ngày 17/10/1955 về bài trừ nạn mãi dâm, theo đó “nghé mãi dâm dưới mọi hình thức déu bị cam hắn và su vi phạm sẽ bị nghiêm trị... ` Du số 64 qui định rất rõ hình phạt đối với các hành vi phạm tội mối lái mãi dâm (Điều 3), hành vi tổ chức, chứa chấp hoặc dung túng
<small>cho hoạt động mãi dâm ở những nơi mà người phạm tội là chủ, người quản lý hoặc</small>
là người có quyền sử dụng (Điều 5, Điều 7), thậm chí cả những phụ nữ làm nghề mãi dâm cũng bị phạt tù hoặc phạt tiền (Điều 3). Dụ số 64 sau đó tiếp tục được bé sung bởi Du số 57/1 ngày 23/10/1956 và đến năm 1962, chính quyền Việt Nam Cộng hịa ban hành Luật số 12/62 ngày 22/5/1962 về “bảo vệ luân lý”, trong đó bé sung hành vi mua dâm cũng là tội phạm (Điều 7 Luật số 12/62) và qui định cả trường hợp tăng nặng định khung đối với hành vi mua dâm vị thành niên dưới 16 tuổi — đây có thé coi là qui định tương ứng với tội mua dâm người chưa thành niên
<small>hiện nay.</small>
Đến năm 1972, chính quyền Việt Nam Cộng hịa đã thống nhất các văn bản pháp luật hình sự để ban hành một bộ luật chung với tên gọi Bộ Hình luật Việt
<small>Nam, ban hành ngày 20/12/1972. Theo Bộ luật này thì hành vi mua dâm, bán dâm</small>
khơng bị coi là tội phạm; trong khi đó các hành vi chứa mại dâm, tô chức mại dâm, môi giới, dẫn dắt mại dâm và cưỡng bức mai dâm bị coi là tội phạm - được thể hiện thông qua các qui định về việc “mdi lái mãi dâm”, “cưỡng bách mãi dâm” và “sự giúp phương tiện cho việc mãi dâm” tại các điều từ 357 đến 364 Hình luật. Theo đó, các nhà làm luật của Việt Nam Cộng hòa đã qui định một số hành vi phạm tội về mại dam tương đối cu thé.
Tại Điều 357 đã qui định các hành vi bị coi là cau thành tội “mối lái mãi đâm ” gồm các hành vi sau:
- Tri tình giúp đỡ hay che chở bằng mọi cách việc mãi dâm của kẻ
<small>khác hay việc chiêu dụ khách đê mãi dâm;</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">- Bất cứ dưới hình thức nào chia phần lợi tức việc mãi dâm của kẻ
- Thu dụng, dụ dỗ hay bao dưỡng người làm việc mãi-dâm, hay
dâm-đãng mặc dầu người này có ưng thuận và đã trưởng thành;
- Làm trung gian, bất cứ với danh nghĩa nào giữa những người làm
<small>việc mãi-dâm hay dâm-đãng của kẻ khác;</small>
- Bằng mọi cách ngăn trở cơ quan hữu-trách trong việc phịng ngừa, kiểm sốt, hỗ trợ hay cải huấn các người mãi dâm hay sắp lâm vào tình trạng mãi dâm. ”
Như vậy, qui định về hành vi mối lái mãi dam trong Bộ Hình luật 1972 có điểm tương tự với hành vi mơi giới mại dâm theo BLHS Việt Nam hiện hành, tuy nhiên một số hành vi như hành vi giúp đỡ, che chở việc mãi dâm, thu dụng hay bao dưỡng người làm việc mãi dâm hoặc hành vi ngăn trở cơ quan hữu trách... thì giống
<small>với hành vi giúp sức trong các tội phạm mại dâm hiện nay. Bên cạnh đó, Bộ Hìnhluật 1972 cịn qui định “sự ø/ú? phương tiện cho việc mãi dam” — theo đó, tại các</small>
Điều 361, 362 và 364 Bộ Hình luật 1972 đã trừng phạt mọi hình thức của sự giúp phương tiện cho việc mãi dâm, bao gồm:
- Trực tiếp hay gián tiếp khai thác, quản lý, điều khiến, điều hành, tài trợ hay dự phần tai trợ một co sở mãi dâm;
- Khai thác, quản lý, điều khiến, điều hành, tài trợ hay dự phan tài trợ một
<small>khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ, quán ăn, quán rượu, câu lạc bộ, hội quán, nhà khiêu</small>
vũ, nơi du hí hay mọi nơi phụ thuộc hoặc bất cứ nơi nào mở cho công chúng ra vào hay sử dụng mà thường xuyên ưng thuận hay dung túng cho một hay nhiều người
<small>làm việc mãi dâm hay tìm khách mãi dâm ngay trong cơ sở hay nơi phục thuộc nóitrên.</small>
- Hoặc trợ lực những kẻ nói ở hai khoản trên. (Điều 361 Bộ Hình luật
<small>13 Bộ Hình luật Việt Nam 1972 của Việt Nam Cộng hòa, tr.44614 Bộ Hình luật Việt Nam 1972 của Việt Nam Cộng hòa, tr.448-449</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">- Người đã thường xuyên ưng thuận hay dung túng cho một hay nhiều người làm việc mãi dâm trong nhà hay nơi khơng có tánh cách công cộng thuộc quyền sử
dụng của họ với bất cứ danh nghĩa nào. ' (Điều 364 Bộ Hình luật 1972)
Những qui định về “sự giúp phương tiện cho việc mãi dâm ” xét về bản chất cũng chính là hành vi chứa mại dâm và hành vi tô chức, giúp sức cho việc chứa mại
<small>dâm theo Bộ luật hình sự hiện hành (theo qui định của BLHS năm 1999 và 2015,</small>
hành vi chứa mại dâm được hiểu là hành vi tạo điều kiện về địa điểm, phương tiện
<small>cho hoạt động mua dâm, bán dâm). Mặc dù cách qui định của Bộ Hình luật 1972</small>
chưa tập trung, thống nhất và cịn mang tính liệt kê, nhưng nhìn chung, Bộ Hình luật 1972 cũng mơ tả tương đối rõ các hành vi chứa mại dâm và hành vi tô chức, giúp sức cho việc chứa mại dâm cùng với các biện pháp trừng phạt cụ thể, thể hiện được ý định của nhà làm luật của Việt Nam Cộng hòa, muốn triệt đề bài trừ nạn mại dâm băng cách “?riệt hạ hay loại trừ mọi cơ sở hay phương tiện hoạt động của một
nghề nghiệp bat lương thiện và bat hợp pháp ”'5
Đặc biệt, Bộ Hình luật 1972 cịn qui định về t6i “cưỡng bách mãi dâm” tại Điều 359. Điều luật này được coi là một sáng tạo cua nhà làm luật Việt Nam năm 1972. Khung hình phạt đối với tội cưỡng bách mãi dâm rất nghiêm khắc (tử hình), do đó nhà làm luật cũng qui định rat chặt chẽ các điều kiện dé xử lí hành vi này.
Như vậy, từ năm 1955 đến 1975 ở miền Nam Việt Nam, chính quyền Mỹ -Ngụy (Việt Nam Cộng hòa) rất quan tâm đến việc đấu tranh, bai trừ nạn mại dam thông qua việc qui định đường lối xử lí tương đối nghiêm khắc đối với các hành vi phạm tội liên quan đến hoạt động mại dâm.
Thời kì này ở miền Bắc, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa mặc dù cũng ban hành các văn bản xử lí các đối tượng liên quan đến hoạt động mại dâm, tuy nhiên việc xử lí các đối tượng này chủ yếu là băng biện pháp hành chính mà khơng được qui định trong pháp luật hình sự. Thơng tư số 121/CP ngày 09/8/1961 của Hội đồng Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hịa về việc tập trung giáo dục cải tạo những phan tử có hành động nguy hại cho xã hội đã xác định “nhitng tên chủ chứa bon gái diém hiện đang hoạt động” thuộc điện các đối tượng phải đưa di cải tạo.
<small>15 Bộ Hình luật Việt Nam 1972 của Việt Nam Cộng hịa, tr.44916 Bộ Hình luật Việt Nam 1972 của Việt Nam Cộng hòa, tr.449</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">Tiếp theo đó, Quyết định số 129/CP ngày 08/8/1964 của Hội đồng Chính phủ về cơng tác bảo vệ an ninh trật tự đã nêu rõ: “Kiên quyét tập trung cải tạo hết những tên lưu manh chuyên nghiệp và gái điểm chuyên nghiệp”. Mặc dù đây chỉ là biện pháp hành chính nhưng cũng đã phần nào thể hiện quan điểm của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đối với việc phòng, chống tệ nạn mại dâm trong giai đoạn
1.3.2. Giai đoạn từ sau năm 1975 đến trước khi có Bộ luật hình sự năm
Sau thắng lợi mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, chế độ Mỹ - Ngụy bị lật đồ, tuy nhiên, nạn mại dâm ở miền Nam Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển, địi hỏi bên cạnh việc xử lí hành chính đối với một số hoạt động mại dam, Nhà nước cần phải qui định việc xử lí hình sự đối với những kẻ tổ chức mại dâm. Vì vậy, Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hịa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03-SL ngày 15/3/1976, trong đó tại Điều 9 Sắc luật số 03-SL (về các tội
<small>xâm phạm trật tự công cộng, an tồn cơng cộng và sức khỏe nhân dân) có qui định:“Phạm một trong các tội sau đây</small>
- Co bạc, tổ chức mại dâm, buôn bán tàng trữ ma tuy và các chat độc hai khác thì bi phạt tù từ 3 thang đến 5 nam.
<small>Truong hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù tới 15 năm.</small>
Trong mọi trường hop có thé bị phạt tiền đến 1000 đơng ngân hàng ”.
<small>Sau đó, tháng 4/1976 Bộ Tư pháp - Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa</small>
miền Nam Việt Nam đã ban hành Thông tư số 03/TT/BTP hướng dẫn thi hành Sắc luật số 03-SL, theo đó ngồi hình phạt chính qui định tại Điều 9 Sắc luật số 03-SL, Thông tư số 03/TT/BTP cịn qui định hình phạt bổ sung có thé áp dụng với người phạm tội: “Zich thu một phần hoặc tồn bộ tài sản sản, kẻ phạm tội có tính chat chun nghiệp cịn bi quản chế hoặc cam lưu trú ở một số địa phương từ một đến
<small>năm nam sau khi mãn hạn tù `.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Như vậy, với việc ban hành Sắc luật số 03-SL và Thơng tư số 03/TT/BTP thì việc tơ chức mại dâm đã chính thức được qui định là tội phạm, thuộc nhóm các tội
<small>xâm phạm trật tự cơng cộng, an tồn cơng cộng và sức khỏe nhân dân với hình phạt</small>
được qui định tương đối rõ (bao gồm cả hình phạt chính và hình phạt bồ sung). Tuy nhiên, so với cách qui định cụ thể, chi tiết về các tội phạm về mại dâm trong Bộ Hình luật Việt Nam năm 1972 thì những qui định về tội t6 chức mại dâm trong Sắc luật số 03-SL ngày 15/3/1976 còn chung chung, chưa được qui định thành một tội danh độc lập, các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của tội phạm cũng chưa được làm rõ trong văn bản pháp luật dẫn đến chưa đáp ứng được yêu cầu phân hóa TNHS đối với các hành vi liên quan đến hoạt động tổ chức mại dâm. Tuy nhiên, qui định này cũng đã phần nào tạo cơ sở pháp lí cho việc xử lí hình sự đối với hành vi tổ chức mại dâm, góp phần ngăn chặn nạn mại dâm khơng chỉ ở miền Nam mà cịn ở cả miền Bắc Việt Nam. Theo hướng dẫn tại Chỉ thị số 54-TATC ngày 8/4/1976 của TAND tối cao được ban hành nhăm hướng dẫn thi hành pháp luật thống nhất trong cả nước cũng nói rõ việc áp dụng các qui định tai Điều 9 Sắc luật số 03-SL như sau: “Các Tòa án thuộc tỉnh, thành phố phía Bắc cũng có thé áp dụng thong nhất điều khoản này đổi với một số tội nói trên, tịa án phía Bắc cho đến nay chỉ mới căn cứ vào án lệ, vào đường lỗi chính sách chung dé xử lí (như các tội du đãng, can quay, tổ chức 6 mại dâm....) ”. Day là lần đầu tiền ở miền Bắc nước ta có qui định chính thức về việc xử lí hình sự đối với hành vi tổ chức mại dâm. Mặc dù qui định về tội phạm mại dâm trong Sắc luật số 03-SL chưa thực sự cụ thể nhưng cũng có tác dụng nhất định trong việc bài trừ tệ nạn mại dâm ở cả hai miền Nam, Bắc thời kì đó.
1.3.3. Giai đoạn từ khi có Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi có Bộ
<small>luật hình sự năm 1999</small>
Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, Sắc luật số 03-SL có tầm quan trọng nhất định trong công tác đấu tranh bài trừ tệ nạn mại dâm. Tuy nhiên khi đất nước khơng cịn chiến tranh, cả nước chung sức phục hồi nền kinh tế, thì các tệ nạn xã
<small>hội, trong đó có tệ nạn mại dâm có xu hướng gia tăng, đòi hỏi Nhà nước ta phải xây</small>
dựng những qui định pháp luật hoàn chỉnh, cụ thé dé tăng cường đấu tranh với tội phạm mại dâm, góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, Bộ
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><small>luật hình sự năm 1985 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi được ban</small>
hành đã có một qui định riêng đối với tội phạm mại dâm tại Điều 202 của Bộ luật: “Diéu 202. Tội chứa mãi dâm, môi giới mãi dâm
1- Người nào chứa mãi dam, du dé hoặc dẫn dắt người mãi dâm thì bị phạt tù từ sdu tháng đến năm năm.
2- Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng hoặc tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. ”
<small>Như vậy, BLHS năm 1985 đã chính thức qui định tội phạm mại dâm bao</small>
gồm tội chứa mãi dâm và môi giới mãi dâm, lúc này tội mua dâm người chưa thành niên chưa được qui định và trong suốt 12 năm kế từ khi BLHS năm 1985 được ban hành cũng khơng có văn bản pháp luật nào đề cập đến tội mua dâm người chưa thành niên. Trong khi đó, tệ nạn mại dâm ngày càng mở rộng về phạm vi và đối tượng, đối tượng của nạn mại dâm không chỉ giới hạn ở người đã thành niên mà còn mở rộng cả ở những người chưa thành niên, bao gồm cả trẻ em. Vì vậy, để xử lí nghiêm minh những hành vi mại dâm liên quan đến người chưa thành niên, đặc biệt là trẻ em, trong lần sửa đổi thứ tư vào năm 1997, BLHS năm 1985 không chi sửa đổi, bố sung qui định tại Điều 202 về tội chứa mãi dâm, môi giới mãi dâm theo hướng qui định thêm các tình tiết tăng nặng định khung (trong đó có tình tiết tăng nặng trong trường hợp phạm tội đối với người chưa thành niên, trẻ em) mà còn bổ sung qui định mới về tội mua dâm người chưa thành niên tại Điều 202a như sau:
“Điều 202a. Tội mua dâm người chưa thành niên
1- Người nào mua dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
<small>2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm</small>
năm đến mười năm:
a) Phạm tội nhiễu lần;
<small>b) Gáy hậu quả nghiêm trọng.</small>
<small>3- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười</small>
năm đến mười lăm năm:
a) Mua dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; b) Có nhiễu tình tiết quy định tại khoản 2 Diéu này;
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">c) Gây hậu quả rất nghiêm trong."
Việc qui định các tội phạm về mại dam gồm tội chứa mãi dâm, môi giới mãi dâm và mua dâm người chưa thành niên tai Bộ luật hình sự năm 1985 sửa đơi, bố sung năm 1997 chính là tiền dé, cơ sở dé hai năm sau đó, BLHS năm 1999 đã dành riêng ba điều luật (Điều 254, 255, 256) qui định về các tội phạm mại dâm, trong đó
<small>tội chứa mại dâm và môi giới mại dâm được tách thành những tội phạm độc lập, tạo</small>
điều kiện cho việc phân hóa TNHS, xử lí các đối tượng phạm tội tương xứng với mức độ và tính chất của hành vi phạm tội.
Hiện nay, những qui định của BLHS năm 1999 vẫn tiếp tục được áp dụng và đến trước ngày 01/01/2018 (khi Luật sửa đôi, bố sung một số điều của BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật), khi đó những qui định mới về các tội phạm về mại dâm trong BLHS năm 2015 sẽ chính thức được áp dụng dé truy cứu TNHS người phạm tội. Đối với qui định của BLHS năm 1999 về các tội về phạm mại dâm, luận văn sẽ nghiên cứu, phân tích cụ thé tại Chương 2; các qui định của BLHS năm 2015 về các tội về phạm mại dâm, tác giả sẽ nghiên cứu và trình bày tại Chương 3 của
<small>luận văn.</small>
KET LUẬN CHƯƠNG 1
Như vậy, trong phan thứ nhất của Chương 1, luận văn đã đưa ra được khái niệm chung của các tội phạm về mại dâm. Đồng thời luận văn cũng đã phân tích, làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của việc qui định các tội phạm về mại dâm trong Bộ luật hình sự Việt Nam thông qua việc nghiên cứu qui định của pháp luật quốc tế (các Cơng ước về phịng chống mại dâm, phịng chống mua bán người, Cơng ước về quyền trẻ em) và quan điểm của một số quốc gia đối với việc kiểm sốt, xử lí mại dâm cũng như quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về phòng chống mại dâm (được thể hiện trong Hiến pháp và các văn bản pháp lí khác). Từ cơ sở lí luận đó, luận văn tiếp tục nghiên cứu các số liệu thống kê cụ thể về thực trạng mại dâm ở Việt Nam hiện nay và những hệ lụy của nó đối với đời sống xã hội. Qua đó có thê thấy việc qui định các tội phạm về mại dâm trong BLHS Việt Nam là hồn tồn cần thiết, phù hợp với địi hỏi của pháp luật quốc tế, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn xã hội cũng như việc đấu tranh phòng chống tệ nạn mại dâm, tệ nạn mua bán người
<small>vì mục đích mại dâm, bảo vệ qun của phụ nữ và trẻ em, bảo vệ pháp chê xã hội</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><small>chủ nghĩa. Ngoài ra, trong Chương | luận văn cũng đã nghiên cứu sơ lược qui định</small>
của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm mại dâm từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999 (trong đó chia ra thành các giai đoạn: từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1975, từ sau năm 1975 đến trước khi có BLHS năm 1985 và từ khi có BLHS năm 1985 đến trước khi có BLHS năm 1999) dé hiểu hơn về quá trình xây dựng những qui định về các tội phạm mại
<small>dâm trong luật hình sự Việt Nam giai đoạn trước khi có BLHS năm 1999; từ đó có</small>
thé nghiên cứu, phân tích các qui định của BLHS hiện hành một cách day đủ hơn trong các Chương tiếp theo (Chương 2, Chương 3).
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><small>Chương 2</small>
BO LUAT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999
2.1. Dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về mại dâm 2.1.1. Dấu hiệu pháp lý của tội chứa mại dâm
<small>* Khải niệm toi chứa mại dâm</small>
Dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam hiện cịn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tội chứa mại dâm:
Quan điểm thứ nhất: Tội chứa mại dâm là hành vi tạo diéu kiện vật chất hoặc tinh than cho hoạt động mại dâm được thực hiện ul
Quan điểm thứ hai: “Tội chứa mai dâm là hành vi cho thuê, cho mướn dia điểm hoặc tạo các diéu kiện vật chất khác cho hoạt động mại dâm; bố trí người
<small>canh gác bao vệ cho hoạt động mại dam; nhận gái mại dâm là người làm thuê, là</small>
nhân viên để che mắt nhà chức trách và cho hoạt động bán dâm; cho gái bán dâm hoạt động ở nơi kinh doanh cua mình dé trục lợi. ”'8
Quan điểm thứ ba: “Tội chứa mại dâm là hành vi chứa chấp việc mua, ban
dâm trái với các qui định của pháp luật” '”
Tuy nhiên, cá nhân tác giả khơng đồng tình với quan điểm nào trong cả ba quan điểm trên vì những lý do sau:
Việc xây dựng khái niệm về tội chứa mại dâm không chỉ phù hợp với qui
<small>định của BLHS mà còn phù hợp với qui định tương ứng của luật chuyên ngành</small>
(nghĩa là vừa phù hợp với BLHS và vừa phải phù hợp với Pháp lệnh phòng chống
<small>mại dâm năm 2003).</small>
Quan điểm thứ nhất cho rằng hành vi chứa mại dâm bao gồm cả hành vi tao diéu kiện vé tỉnh than cho hoạt động mại đâm là khơng phù hợp với cách giải thích, hướng dẫn tại Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003 (viết tắt là Pháp lệnh PCMD năm 2003) và Nghị định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15/10/2004 quy định chỉ
<small>!” Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2008), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phan các tội phạm). Nxb. Công annhân dân, Hà Nội, tr.515.</small>
<small>'3 Khơng Văn Hà (chủ biên, 2005), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phan các tội phạm, tập II, Học việnCảnh sát nhân dân, Bộ môn pháp luật, Hà Nội, tr. 104.</small>
<small>19 Phạm Mạnh Hùng (chủ biên, 2016), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phan các tội phạm) tập 2, TrườngĐại học Kiểm sát Hà Nội, tr. 234.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dam năm 2003 (gọi tat là
<small>Nghị định 178/2004/NĐ-CP ). Theo đó:</small>
<small>“Chứa mại dâm là hành vi sw dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho muon</small>
địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bản dâm” (khoản 4 Điều 3 Pháp lệnh PCMD năm 2003). Trong đó: "Cho thuê, cho muon địa điểm, phương tiện để hoạt động mại dâm" là hành vi của tổ chức, cá nhân có quyên quản lý, chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản mà cho thuê, cho mượn đề hoạt động mại dâm (khoản 1 Điều 3 Nghị định 178). Như vậy, hành vi chứa mại dâm chỉ bao gồm các hành vi tạo điều kiện về địa điểm, phương tiện (vật chất) mà không bao gồm hành vi tạo điều kiện về tinh thần cho hoạt động mại dâm. Trong khi đó, khái niệm thứ nhất về tội chứa mai dâm lại nêu cả hành vi tạo điều kiện về tinh thần cho hoạt động mại dâm là không phù hợp với bản chất của hành vi chứa mại dâm như hướng dẫn
<small>nêu trên.</small>
Quan điểm thứ hai mặc dù không nêu hành vi tạo điều kiện về tinh thần cho hoạt động mại dâm như quan điểm thứ nhất nhưng lại đi vào liệt kê các hành vi cụ thé của hoạt động chứa mại dâm như “bố tri người canh gác bảo vệ cho hoạt động mại dâm; nhận gai mai dâm là người làm thuê, là nhán viên dé che mắt nhà chức
<small>trách và cho hoạt động ban dam; cho gai ban dam hoạt động ở nơi kinh doanh của</small>
mình để trục lợi”. Việc liệt kê như vậy vừa chưa đầy đủ vừa chưa chính xác, ví dụ: hành vi bố tri người canh gác bảo vệ cho hoạt động mại dâm về bản chất chỉ là hành
<small>vi giúp sức cho hành vi chứa mại dâm chứ chưa phải là hành vi chính cua tội chứa</small>
mại dâm. Mặt khác, khái niệm thứ hai cũng mới chỉ mang tính chất liệt kê hành vi
chứ chưa nêu được đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của tội chứa mại dâm và ở một số chỗ lại dùng chính cum từ “mại đâm” có trong khái niệm dé đưa vào phan giải thích khái niệm. Vì vậy, tác giả khơng đồng tình với quan điểm này.
Quan điểm thứ ba tác giả cũng khơng đồng tình. Trong phan giải thích khái niệm, khơng cần thiết phải nêu thêm cum từ “ái với các qui định của pháp luật” vì về bản chất, mọi hành vi chứa chấp việc mua, bán dâm đều trái qui định của pháp luật. Nếu viết như vậy, sẽ có người hiểu nhằm rang sẽ có trường hợp chứa chấp việc mua bán, dâm phù hợp với qui định của pháp luật. Do đó, tác giả cũng khơng đồng
<small>tình với quan diém này.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">Trên cơ sở khái niệm tội phạm nói chung, quy định của BLHS về tội phạm
<small>này, Pháp lệnh PCMD năm 2003 và Nghị định 178/2004/NĐ-CP và đặc thù của</small>
hành vi chứa mại dâm, có thể thấy tội chứa mại dâm có những đặc điểm sau:
- Đây là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện dé các bên mua dâm, bán dâm thực hiện việc mua, bán dâm;
- Hành vi này do người có năng lực TNHS thực hiện với lỗi có ý; - Hành vi chứa mại dâm xâm phạm đến trật tự cơng cộng.
<small>Từ sự phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm tội chứa mại dâm như sau:“lội chứa mai dam là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho</small>
mượn địa điểm, phương tiện dé người khác thực hiện việc mua, ban dam do người có đủ điều kiện chủ thể của tội phạm thực hiện với lỗi cổ y xâm phạm đến trật tự
<small>công cộng `.</small>
<small>2.1.1.1. Mặt khách quan của tội chứa mại dâm</small>
“Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gom những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tơn tại bên ngồi thé giới khách quan ”?”. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm:
- Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành
<small>vi và hậu quả;</small>
- Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội... ).
Trong các biểu hiện của mặt khách quan thì hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu được phản ánh trong tất cả các CTTP cơ bản. Khơng có hành vi khách quan thì khơng có tội phạm (các nội dung biểu hiện khác của mặt khách quan chi được phản ánh trong những CTTP nhất định, có thé là CTTP co bản hoặc CTTP tăng nặng). Do đó, khi nghiên cứu mặt khách quan của một tội phạm cu thé, van dé dau tiên và quan trọng nhất là phải phân tích được hành vi khách quan của
<small>tội phạm đó.</small>
<small>20 Truong Dai hoc Luật Hà Nội (2006), Giáo trinh luật hình sự Việt Nam tập 1, Nxb. Công an nhân dân, HaNội, tr.91</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Trong luật hình sự, hành vi được hiểu là “biểu hiện” của con nguoi ra thé giới khách quan mà mặt thực tế của nó được ý thức kiểm sốt và ý chí điều khién *'
<small>Hanh vi khách quan cua tội chứa mại dam là hành vi sử dụng, thuê, cho</small>
thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện dé thực hiện việc mua dâm, ban
Trong đó, có thé hiểu:
- Cho thuê địa điểm, phương tiện là việc chủ sở hữu hoặc người quan ly địa điểm, phương tiện cho người khác dùng địa điểm, phương tiện thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình trong một thời gian nhất định để thực hiện việc mua dâm, bán dâm với điều kiện phải trả một khoản tiền hoặc tài sản nhất định cho thời gian sử
<small>dụng đó.</small>
- Cho mượn địa điểm, phương tiện là việc chủ sở hữu hoặc người quản lý địa điểm, phương tiện cho người khác dùng địa điểm, phương tiện thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình trong một thời gian nhất định dé thực hiện việc mua dâm, bán dâm mà người sử dụng không cần phải trả tiền hoặc tài sản cho thời gian sử
<small>dụng đó.</small>
<small>- Ngồi ra, theo Pháp lệnh PCMD năm 2003 thì cịn có hành vi sử dụng địa</small>
điểm, phương tiện dé thực hiện việc mua dâm, bán dâm. Vậy hành vi “sử dụng”
<small>32: ce</small>
phan biét voi hanh vi “cho thu cho mượn” ở điểm nào hiện còn chưa rõ ràng. Nghị định 178 cũng chỉ nêu về hành vi cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện mà khơng nói đến hành vi sử dung địa điểm, phương tiện. Nhà làm luật đã có ý tách ba hành vi này ra có nghĩa giữa chúng phải có sự phân biệt. Theo quan điểm của tác giả thì hành vi sử dụng trong trường hợp này có thể được hiểu là hành vi dùng địa điểm, phương tiện thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình để cho các bên mua dâm,
<small>bán dâm thực hiện hoạt động mại dâm (nhưng không phải cho thuê hay cho mượn</small>
địa điểm). Ví dụ: chủ cơ sở kinh doanh dịch vụ massage biết khách và nhân viên
<small>massage thực hiện việc mua dâm, bán dâm ngay tại cơ sở kinh doanh dịch vụ</small>
massage của mình nhưng vẫn cho phép (khách tự thỏa thuận và trả tiền cho nhân viên massage dé được mua dâm) thì trường hợp này là trường hop sử dụng địa điểm (nhiều trường hợp nhân viên massage phải trích lại một khoản tiền để nộp cho chủ
<small>” Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cau thành tội phạm, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr 91.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">cơ sở kinh doanh dịch vụ massage nhưng khoản tiền này không phải là tiền thuê địa điểm). Mặc dù vậy, có thé có quan điểm cho rang đây van là trường hợp cho mượn địa điểm dé thực hiện việc mai dâm. Hiện cũng chưa có hướng dẫn cụ thể để phân biệt giữa các trường hợp này nhưng theo quan điểm của tác giả: ngoài các trường hợp cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện thì các trường hợp cịn lại mà chủ sở hữu hoặc người quản lý có hành vi dùng địa điểm, phương tiện thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình để cho các bên mua dâm, bán dâm thực hiện hoạt động mại dâm thì được coi là hành vi sử dụng địa điểm, phương tiện trong mặt khách quan của tội chứa mại dâm. Tuy nhiên, nếu chủ sở hữu hoặc người quản lý địa điểm, phương tiện sử dụng chính địa điểm, phương tiện thuộc quyền sở hữu, quản ly của mình dé
<small>tự mình thực hiện việc mua dâm, bán dâm với người khác thì khơng bị coi là cóhành vi chứa mại dâm.</small>
- Ngồi các hành vi sử dụng, cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện thì hành vi khách quan của tội chứa mại dâm cịn có thé là hành vi th hoặc mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm. Tuy nhiên, đây phải là hành vi thuê hoặc mượn địa điểm cho người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm; cịn nếu người đó th, mượn địa điểm để tự mình thực hiện việc mua dâm hoặc ban dâm thì khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa mại dâm mà chỉ bị xử lý hành chính về hành vi mua dâm (nếu khơng thuộc trường hợp mua dâm người chưa thành niên) hoặc bán dâm. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trường hợp một người thay mặt một nhóm người (gồm người đó và cả những người khác) đứng ra thuê hoặc mượn địa điểm cho cả nhóm thực hiện hoạt động mại dâm trong cùng một khoảng thời gian thì trường hợp này người đứng ra thuê hoặc mượn địa điểm đó có bị coi là có hành vi chứa mại dâm đối với những người khác không? Trường hợp này trong thực tế, các cơ quan tiễn hành tố tụng thường khơng xử lý về tội chứa mại dâm vì quan niệm rằng hành vi chứa mại dâm về bản chất được thực hiện nhằm trục lợi, kiếm tiền bất chính. Tác giả cũng đồng tình với cách xử lí này. Ví dụ: H tổ chức sinh nhật nhân dịp H tròn 20 tuổi. H đã thuê phòng và mời B, C đến nhà nghỉ dé cùng quan hệ với gai mại dâm. H đã gọi lễ tân điều gái đến phục vụ cho H, B,C
<small>mua dâm. Trường hợp nay, hành vi của H không phạm tội chứa mại dâm.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">Ngoài ra, để làm rõ hơn về địa điểm, phương tiện của tội chứa mại dâm,
<small>trong Bình luận khoa học Bộ luật hình sự tập 9 (các tội xâm phạm an tồn cơng</small>
cộng, trật tự cơng cộng) của tác giả Dinh Văn Quế co nêu:
“_ Địa điểm mà người phạm tội sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho muon để thực hiện việc mua dâm, ban dâm tương đối da dang; có thể chỉ là một chiếc thun (ghe); một lêu vó, một phịng nhỏ trong quán Cà phê, nhà tắm, nhà vệ
<small>sinh, cabin Xe.V.V...</small>
<small>- Phương tiện ma người phạm tội sử dung, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho</small>
mượn dé thực hiện việc mua dâm, bán dâm tuy khơng phải là địa điểm nhưng có phục vụ cho việc thực hiện mại dam như: (Tường, chiếu, chăn màn, khăn lau, thuốc kích dục.v.v... Trường hợp cung cấp các phương tiện tránh thai như: Bao cao su, thuốc tránh thai cho người bán dâm thì cần phải phân biệt: nếu biết có việc mại dâm mà cung cap thì mới bị coi là chứa mại dâm, nếu biết là gái ban dâm mà cung cấp thuốc tránh thai hoặc bao cao su còn việc thực hiện hành vi mại dâm ở đâu vào hic nào người cung cấp bao cao su không biết thi không bị coi là chứa mại dâm. ” ” Tuy nhiên, theo tác giả thì quan điểm trên của tác giả Đinh Văn Quế có điểm chưa hợp lý. Bởi nếu cho rằng phương tiện là chăn màn, khăn lau, thuốc kích dục, bao cao su, thuốc tránh thai.... dẫn đến tác giả cho rằng trong trường hợp biết có việc mại đâm mà cung cấp phương tiện (bao cao su, thuốc tránh thai) thì bị coi là có hành vi chứa mai dâm - theo tác giả là không phù hợp với ban chất của hành vi chứa mại dâm. Về mặt từ ngữ, từ “ca” được giải thích là “cất giấu hoặc dé cho ở
trong nhà một cách bắt hợp pháp 725 do vay “chứa mại dam” có thé được hiểu là
việc chứa chấp, che giấu, dé cho hoạt động mại dâm xảy ra ở một nơi nào đó, vì vậy nếu cho rằng một người biết người khác chuẩn bị thực hiện việc mua dâm, bán dâm mà cung cấp bao cao su, thuốc tránh thai thì nghĩa là người đó có hành vi chứa mại dâm như quan điểm trên sẽ không phù hợp. Tác giả cho rang trong trường hợp nay phải hiểu địa điểm ở đây là những địa điểm thuộc quyền sở hữu, quản lý của người thực hiện hành vi chứa mại dâm hoặc địa điểm do người có hành vi chứa mại dâm đã đi thuê, đi mượn để cho các bên mua dâm, bán dâm thực hiện hoạt động mại
<small>? Dinh Văn Qué (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phan các tội phạm tập IX, Nxb tong hợp TP.HồChí Minh, tr.352-353. ¬</small>
<small>*Vién ngơn ngữ học (2002), Tir điển tiếng Việt, Nxb Da Nẵng — Trung tâm Từ điền học.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">dâm, như: một căn phịng, một ngơi nhà hoặc thậm chí nhà tắm, nhà vệ sinh hoặc một góc nào đó trong nhà... Cịn phương tiện có thê là: thuyền (ghe), xe ô tô, thùng xe tải, léu.... vi dụ: Một người cho người khác mượn ô tô của mình dé làm nơi thực
<small>hiện việc mua bán dâm.</small>
Qua những phân tích ở trên, luận văn đã phần nào làm rõ hơn về hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện. Tuy nhiên, dé
<small>những hành vi nay thực sự trở thành hành vi chứa mai dâm thì việc su dụng, thuê,</small>
cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện đó phải nhằm dé cho các bên
<small>mua dam, ban dâm thực hiện việc mua, bán dâm. Hay nói cách khác, chứa mại dâm</small>
là chứa việc mua dâm, bán dâm- tức là phải có cả người mua dâm lẫn người bán
dâm và việc chứa chấp họ nhăm mục đích dé cho họ thực hiện việc mua, bán dâm. Nếu chỉ chứa người bán dâm còn việc mua, bán dâm được thực hiện ở địa điểm
<small>khác thì người có hành vi chứa người bán dâm khơng phạm tội chứa mại dâm. Ví</small>
dụ: A là chủ quán café Hương Biển. Quán của A có hai nhân viên nữ nhưng thực chất là gái mại dâm. Mỗi lần người mua dâm có nhu cầu, họ sẽ gặp hoặc gọi điện cho A thỏa thuận về giá cả. Khi hai bên nhất trí, A sẽ điều gái mại dâm đến gặp khách dé bán dâm tại khách sạn mà khách đặt sẵn. Mỗi lần điều gái mại dâm đi gặp khách, A được chia tiền hoa hồng là 200.000đồng/I người. Trường hợp này A
<small>không phạm tội chứa mại dâm mà phạm tội mơi giới mại dâm.</small>
<small>Tóm lại, chứa mại dâm tức là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn,</small>
cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm trong đó, “bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác dé được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác, còn mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người ban dâm dé được giao cau.” Xin nêu ví dụ dién hình:
Khoảng 21 giờ ngày 01/5/2016, qua kiểm tra hành chính, các đơn vị nghiệp vụ của Cơng an tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang 9 đơi nam nữ đang có hành vi mua, bán dâm tại 2 nhà nghỉ Tiến Dat 1 và nhà nghỉ Tiến Dat 2 ở phường Hồng Diệu, thành phố Thái Bình. Đối tượng cầm đầu là vợ chồng Vũ Quang V và Hồ Thị
Tố Ng là chủ 2 cơ sở nói trên. Hồ Thị Tố Ng đã bị Tòa án tỉnh Thái Bình kết án về
<small>® Xem Điều 3 Pháp lệnh Phòng chống mai dâm tại nguồn</small>
<small> class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">
tội chứa mại dâm, riêng Vũ Quang V đã bỏ trốn và đã có lệnh truy nã sẽ xử lí sau. (Xem bản án hình sự sơ thâm số 155/2016/HSST ngày 15/10/2016 của TAND tỉnh
<small>Thái Bình).</small>
Trong thực tiễn từng xảy ra một số trường hợp có hành vi chứa chấp việc mua bán dâm của người đồng giới nhằm trục lợi, vậy hành vi này có phạm tội chứa mại dâm khơng? Ví dụ, H là chủ cơ sở mát xa, xông hơi. Tuy nhiên, đây thực chất là cơ sở tôn tại mua, bán dâm của người đồng tinh nam. Các nhân viên nam tại đây thực chất là người bán dâm chuyên phục vụ cho người đồng tính. Nếu khách đến xơng hơi, mát xa muốn quan hệ tình dục với nhân viên ở đây phải mua “tích kê” của H với giá 500.000 đồng/1 người, còn nếu chi mát xa, xơng hơi bình thường thi mua “tích kê” giá 200.000 đồng/1 người. Cơ sở kinh doanh của H bị bắt quả tang khi có 3 cặp đồng tính nam đang quan hệ tình dục. Vậy trường hợp này, hành vi của H có phạm tội chứa mại dâm không? Trong thực tiễn, các cơ quan tiến hành t6 tụng thường cho rằng hành vi trên của H không phạm tội chứa mại dâm. Một số nhà chuyên môn cũng cho rằng đó khơng phải là chứa mại dâm vì các lí do sau:
Theo Điều 3 Pháp lệnh PCMD 2003, “bán đâm là hành vi giao cấu của một người với người khác dé được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác”, còn mua dam là “hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người ban dâm để được giao cấu”. Tại Bản tổng kết số 392/HS2 ngày 11/5/1967 của Tòa án nhân dân tối cao có giải thích về hành vi giao cau: “giao cấu là sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ.... ”, theo đó hành vi giao câu được hiểu là hành vi quan hệ tình dục giữa nam và nữ. Nếu hiểu như vậy thì trong trường hợp chứa chấp hai người đồng giới (có được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác) dé họ
<small>quan hệ tinh dục thì khơng coi bị coi là hành vi chứa mại dâm vì khơng có việc giao</small>
cau mà đó chỉ là hành vi tinh dục khác. Vì lí do này mà một số trường hợp, người có hành vi chứa chấp việc mua, bán mại dâm nam chỉ bị xử phạt hành chính mà
<small>khơng bị xử lí hình sự.</small>
Về nội dung này, tác giả có một số ý kiến trao đổi như sau: Chương trình hành động phịng chống mại dâm giai đoạn 2016-2020 ban hành kèm theo Quyết định số 361/QĐ-TTg ngày 07/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ, tai phần thực trang
<small>tình hình mại dâm hiện nay có nêu về thực trạng mai dâm dong tính, người chuyên</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">giới bán đâm và các hình thức mại dâm mới. Điều này có nghĩa là việc mua bán dâm của những người đồng tính là hiện tượng tiêu cực đã và đang tồn tại được thừa nhận chính thức tai văn bản của cơ quan nhà nước có thấm quyền. Trong khi đó, khái niệm về hành vi “bán dâm” hoặc hành vi “mua dâm” của Pháp lệnh PCMD đã tỏ ra khơng cịn phù hợp nữa, chưa theo kịp thực tế (Pháp lệnh PCMD ra đời đã khá lâu, từ năm 2003). Trong xu thế tồn cầu hóa, trong sự giao thoa về văn hóa, văn
<small>hóa phương Tây đang ngày càng ảnh hưởng ở Việt Nam thì nhìn nhận và quan niệm</small>
về giao cấu có nhiều thay đơi. Do vậy, đã đến lúc cần thay đổi lại khái niệm giao cấu hay nói cách khác cần mở rộng hành vi giao cau theo đó giao cầu khơng chỉ bao gồm giao cấu truyền thống (hiểu như Bản tổng kết 329/HS2 đã hướng dẫn) mà cịn có hành vi tình dục khác”. Nếu hiểu giao cau theo nghĩa của giao câu mở rộng thì sẽ xử lí hình sự được đối với cả hành vi chứa chấp việc mua, bán dâm của người đồng tính. Ở một số nước trên thế giới như Hoa kì, Pháp, Anh, Thổ Nhĩ Kì, Nauy, Hungari..., tai BLHS của những nước này,khái niệm giao cầu được mở rộng, không chỉ ở hành vi quan hệ tình dục giữa nam và nữ mà đó cịn có thể là quan hệ tình dục đồng giới”. Văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có từ năm 1967, do đó thiết nghĩ cần có hướng dẫn mới, theo đó mở rộng khái niệm giao cấu bao gồm cả hành vi quan hệ tình dục đồng giới để có thể xử lý các tội phạm về mại dâm bao gồm cả những trường hợp mua bán dâm của người đồng tính hoặc chuyền
Đối với tội chứa mại dâm, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cau thành cơ bản của tội phạm. Tuy nhiên, nếu hành vi chứa mai đâm gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tuỳ từng trường
<small>hợp người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc</small>
khoản 4 Điều 254 BLHS năm 1999 (sẽ phân tích cụ thể trong phần đường lối xử lý đối với tội phạm này).
Như vậy, tội chứa mại dâm là tội phạm có cầu thành hình thức. Vi vậy, chỉ cần người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP (hành
<small>°5 BLHS năm 2015 đã có sự sửa đơi, bố sung về dấu hiệu định tội đối với những tội có mô tả về hành vi giaocau như tội hiếp dâm, hiếp dam người đưới 16 tudi, cưỡng dâm, cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16</small>
<small>tuôi, giao cau hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuôi.</small>
<small>* Bùi Thị Quyên (2013), Tói hiếp dâm - So sánh BLHS Việt Nam với BLHS một số nước trên thé giới, luậnvăn thạc sĩ luật học, Hà Nội năm 2013.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">vi su dụng, thuê, cho thuê hoặc muon, cho mượn địa điểm, phương tiện dé thực hiện việc mua đâm, bán dâm) thì tội phạm đã hồn thành. Điều này cũng đồng nghĩa với việc chỉ can người phạm tội có hành vi tạo điều kiện về địa điểm, phương tiện cho các bên dé thực hiện việc mua dâm, bán dâm cịn việc các bên đã hồn thành việc mua dâm, bán dâm hay chưa không làm anh hưởng đến thời điểm hoàn thành tội phạm - tức là kế cả trong trường hợp các bên chưa thực hiện hoặc chưa thực hiện xong hành vi giao cấu thì hành vi chứa mại dâm đã hồn thành.
<small>2.1.1.2. Mặt chủ quan của tội chứa mại dâm</small>
<small>Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lí bên trong của người phạm</small>
tội.” Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.
Trong các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm, động cơ, mục đích phạm tội chỉ được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong một số CTTP cơ bản, ngoài ra có thê được quy định là tình tiết định khung ở một số CTTP, trong khi đó lỗi là dau hiệu được phản ánh trong tất cả các CTTP.
Điều 9 BLHS năm 1999 quy định:
“ Có ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy khơng mong muốn nhưng van có ý thức dé mặc cho hậu quả xảy ra.”
Lỗi của người phạm tội chứa mại dâm là lỗi cô ý trực tiếp. Người phạm tội biết rõ hành vi tạo điều kiện về địa điểm, phương tiện dé các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm là hành vi vi phạm pháp luật, nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện dù không bị ai đe dọa, ép buộc. Người phạm tội đã nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi chứa mại dâm nhưng vẫn cố tình thực hiện (dù không bi ai đe dọa, ép buộc), điều này chứng tỏ người đó mong muốn thực hiện hành vi — hay nói cách khác, lỗi của người phạm tội trong trường hợp này được xác định là lỗi cỗ ý trực tiếp.
<small>27 Truong Dai hoc Luật Hà Nội (2006), Giáo trinh luật hình sự Việt Nam tập 1, Nxb. Cơng an nhân dan, HaNội, tr.125</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Động cơ, mục đích phạm tội khơng phải là dau hiệu bắt buộc trong cầu thành của tội chứa mại dâm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy người phạm tội chứa mại
<small>dâm thường là do hám lợi.</small>
2.1.1.3. Chủ thể của tội chứa mại dâm
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định va đã thực hiện hành vi phạm tội cu thể °°
Chủ thé của tội chứa mai dâm không phải là chủ thé đặc biệt, do đó bat kỳ người nào đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và khơng thuộc trường hợp mắc bệnh làm mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiến hành vi thì đều có thé trở thành chủ thé của tội chứa mại dâm. Trường hợp người đó mắc bệnh làm mat năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiến hành vi thì phải có chứng nhận của cơ quan có thâm quyền. Các trường hợp khơng có chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc tuy có chứng nhận nhưng trong đó xác định tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội người đó khơng bị mac bệnh làm mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi (hoặc chỉ bị hạn chế năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiến hành vi) thì người đó vẫn phải chịu TNHS khi đạt độ tuôi luật định. Theo quy định tại Điều 12 BLHS 1999:
“1. Người từ du 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự vé mọi tội
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cơ ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
<small>trọng. ”</small>
Đối chiếu với quy định tại Điều 8 BLSH 1999: tdi phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đổi với
tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Trên cơ sở quy định tại Điều 12 và Điều § BLHS 1999 thì người từ đủ 14
<small>ti đên dưới 16 ti phải chịu trách nhiệm hình sự vê tội chứa mại dâm thuộc</small>
<small>28 Trường Dai hoc Luật Ha Nội (2006), Giáo trinh Luật hình sự Việt Nam tập 1, Nxb Cong an nhân dân, HaNội, tr.114.</small>
</div>