Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

tiểu luận cuối kỳ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức vai trò của tri thức khoa học trong sự phát triển của xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 33 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT</b>

<b>QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬTBIỆN CHỨNG VỀ Ý THỨC, VAI TRÒ CỦATRI THỨC KHOA HỌC TRONG SỰ PHÁT</b>

<b>TRIỂN CỦA XÃ HỘI</b>

<b>Tiểu luận cuối kỳMôn học: Triết học Mác - Lênin</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>ĐIỂM: </b>

<b>NHẬN XÉT CỦA GV:</b>

<b>GV ký tên</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU...1</b>

<b>1. Lý do chọn đề tài...1</b>

<b>2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài...1</b>

<b>3. Phương pháp thực hiện đề tài...2</b>

<b>CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI...10</b>

<b>2.1. Khái niệm “tri thức khoa học” theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng...10</b>

<b>2.1.1...Khái niệm về “tri thức”11</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>2.2. Mối quan hệ giữa ý thức và “tri thức khoa học”....122.3. Vai trò và ứng dụng của “tri thức khoa học” trong sự phát triển của xã hội...13</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài</b>

Tầm quan trọng của ý thức là chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức không phải là một thực thể độc lập, mà là một phản ánh của thực tế vật chất. Ý thức bao gồm tư tưởng, quan điểm, giá trị và tri thức của con người. Nó có vai trị quan trọng trong việc hình thành và thay đổi xã hội. Vai trị của tri thức khoa học là một phần quan trọng của ý thức. Nó được xây dựng dựa trên phương pháp khoa học, thơng qua q trình nghiên cứu, thử nghiệm và lý luận. Tri thức khoa học cung cấp cho con người hiểu biết về thế giới xung quanh, giúp giải thích các hiện tượng tự nhiên và xã hội, và đưa ra các phương pháp giải quyết vấn đề. Sự phát triển của xã hội là chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào sự phát triển của các lĩnh vực khoa học và công nghệ. Tri thức khoa học giúp con người hiểu rõ hơn về tự nhiên và xã hội, từ đó đưa ra các phương pháp và công nghệ mới để cải thiện cuộc sống và phát triển xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi tri thức khoa học là một yếu tố quan trọng trong việc thay đổi xã hội. Qua việc nghiên cứu và áp dụng tri thức khoa học, con người có thể thay đổi và cải thiện các mặt của xã hội, từ kinh tế, công nghệ, giáo dục, y tế đến văn hóa và nghệ thuật. Đó cũng là lí do nhóm chúng em chọn đề tài “quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức và vai trò của tri thức khoa học trong sự phát triển của xã hội” làm đề tài tiểu luận của mình. Để qua đề tài này nhóm sẽ cung cấp những hiểu biết nhất định và cái nhìn đúng đắn hơn về quan hệ phức tạp giữa ý thức và

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

vật chất, cũng như vai trò của tri thức khoa học trong sự phát triển của xã hội.

<b>2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài</b>

Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu về quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức, vai trò của tri thức khoa học trong sự phát triển của xã hội.

Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận phải tập trung vào các nhiệm vụ sau:

<b>Thứ nhất: Phân tích về quan điểm của chủ nghĩa duy vật</b>

biện chứng đối với ý thức

<b>Thứ hai: Khái quát được nội dung và tầm quan trọng của tri</b>

thức; nêu lên mối quan hệ giữa ý thức và tri thức đồng thời phân tích vai trị của tri thức khoa học trong sự phát triển của xã hội.

<b>3. Phương pháp thực hiện đề tài</b>

Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời để thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu cũng như đạt được mục tiêu của đề tài, nhóm tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:

- phương pháp phân tích và tổng hợp: nhóm tác giả sử dụng phương pháp này để nghiên cứu cơ sở lý luận về quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đó có thể là hệ thống các định nghĩa, các mối quan hệ của ý thức và tri thức xã hội. Phương pháp này

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

giúp nhóm nghiên cứu đề tài làm sáng tỏ các khái niệm, cách hiểu và nội dung của quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng đối với ý thức.

- Phương pháp lịch sử: nhóm tác giả đã tích hợp nó chặt chẽ vào nghiên cứu để thu thập và phân tích nguồn tư liệu lịch sử. Qua đó, xây dựng một cơ sở tương quan về lịch sử, giúp hiểu rõ hơn về quá trình hình thành và biến đổi của quan điểm chủ nghĩa duy vật chứng đối với ý thức. Đồng thời, cũng nhấn mạnh tác động của tri thức khoa học trong quá trình phát triển xã hội suốt qua các giai đoạn lịch sử. - Phương pháp logic được kết hợp chặt chẽ với phương pháp

lịch sử nhằm phác họa rõ mối quan hệ giữa tri thức và ý thức. Điều này không chỉ đảm bảo tính logic và hợp lệ của các quan điểm và tuyên bố trong nghiên cứu mà còn thể hiện sự chặt chẽ và khoa học trong q trình phân tích.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Trước C.Mác bởi sự lạc hậu của công nghệ và giới hạn về kiến thức do đó có nhiều nhà triết học chưa thể đưa ra các nhận định đúng về ý thức hoặc có thể đưa ra các nhận định ban đầu nhưng vẫn chưa giải thích được hồn tồn nguồn gốc tự nhiên của nó, đến sau này cùng với sự xuất hiện của nhiều thành tựu mới của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học – thần kinh hiện đại. Các nhà triết học lỗi lạc của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa những nhận định đúng đắn đầu tiên đặt nên móng cho việc giải thích nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Họ cho rằng: “Ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng khơng phải là mọi dạng của vật chất, mà là thuộc

tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc con

người”<small>1</small>. Trong đó bộ óc của con người là cơ quan vật chất của ý thức và ý thức chính là chức năng của bộ óc con người, và khi bộ óc của con người bị tổn thương thì ý thức sẽ khơng bình thường hoặc bị rối loạn. Chính vì thế, có thể nói ý thức và bộ óc của con người có một mối quan hệ vô cùng chặt chẽ và không thể tách rời. Tuy nhiên, nếu bộ óc của con người chỉ đứng riêng lẻ mà khơng có sự tác động của các tác nhân bên ngồi để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì ý thức cũng khơng tồn tại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Phản ánh là tính chất phổ biến của tất cả các dạng vật chất, được biểu hiện thông qua sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau, phản ánh chính là năng lực lưu giữ và tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai đối tượng – đối tượng tác động và đối tượng nhận tác động. Trong q trình phản ánh, thơng tin ln được chuyển đến từ đối tượng tác động đến đối tượng nhận tác động. Điều rất quan trọng trong việc làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, xuất phát từ thuộc tính của vật chất. Ý thức là kết quả của sự phát triển dài hạn của khả năng phản ánh của vật chất, chủ yếu mang thông tin về thế giới bên ngoài và về vật được phản ánh. Ý thức là sự phản ánh của thế giới vào bộ não con người. Mặc dù bộ não tham gia vào quá trình phản ánh, nhưng chỉ có riêng bộ não không đủ để tạo ra ý thức. Hoạt động ý thức chỉ xảy ra khi thế giới bên ngồi tác động lên giác quan và thơng qua chúng tới não bộ. Do đó, ý thức có nguồn gốc tự nhiên từ sự tương tác giữa bộ não và thế giới xung quanh.

<b>1.1.2.Nguồn gốc xã hội</b>

Để giải thích sự ra đời của ý thức, nguồn gốc tự nhiên tuy quan trọng và không thể tách rời song vẫn chưa đủ điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức. Ý thức không thể tồn tại và phát triển nếu không đi kèm với sự phát triển của lao động và

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

ngôn ngữ. Như vậy có thể nói ý thức là một sản phẩm được tạo ra từ xã hội và nguồn gốc xã hội.

Lao động đóng một vai trị rất quan trọng trong việc giải thích nguồn gốc xã hội của ý thức, vì lao động khơng chỉ là một cơng việc vật chất mà cịn là một hoạt động sáng tạo. Thông qua lao động và nhờ lao động mà ý thức thể hiện được rõ nét đặc tính phản ánh của nó qua việc con người liên tục tác động vào các đối tượng hiện thực bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động thành những hiện tượng nhất định và các hiện này tác động trở lại bộ não con người từ đó giúp con người tư duy và tạo ra các sản phẩm mới mang giá trị cho sự phát triển của xã hội, bên cạnh đó qua sự tương tác giữa lao động và đối tượng lao động làm hình thành các mối quan hệ giữa người lao động và môi trường xã hội tạo ra một quá trình đối tượng hóa, và cũng từ đó ý thức được hình thành thơng qua tương tác này. Tóm lại cho ta thấy được ý nghĩa quan trọng của lao động trong q trình giải thích nguồn gốc của ý thức và cũng cho ta thấy được rằng ý thức chỉ được hình thành thơng qua hoạt động chủ động và thực tiễn của con người. Nhờ sự tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm cho ý thức của mình về thế giới trở nên phong phú và sâu sắc hơn.

Bên cạnh lao động, ngôn ngữ cũng là một yếu tố xã hội không thể thiếu trong việc giải thích nguồn gốc của ý thức, Ph.Ăngghen đã từng phát biểu: “trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời với lao động là ngơn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của vượn, làm cho bộ óc đó

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người”<small>2</small>. Thật vậy,

khơng có ngơn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Như vậy, nguyên nhân chủ yếu và quan trọng nhất đằng sau sự hình thành và phát triển của ý thức là do lao động và ngôn ngữ. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.

<b>1.2. Bản chất của ý thức</b>

Khác với chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình do khơng hiểu được nguồn gốc ra đời của ý thức nên đã không đưa ra được những quan điểm đúng đắn về bản chất của ý thức. Chủ nghĩa duy vật trên cơ sở nhận thức đúng đắn nguồn gốc ra đời của ý thức và nắm vững thuyết phản ánh, chủ nghĩa duy vật đã đưa ra các nhận định đúng đắn về bản chất của ý thức khi cho rằng ý thức không phải là bản sao đơn giản và thụ động máy móc của sự vật. Mà ý thức chính là những phản ánh của con người về thế giới khách quan trong quá trình con người tác động và cải tạo thế giới mà con người là một thực thể sáng tạo và năng động nên ý thức chính là sự phản ánh có tính năng động và sáng tạo. Ý thức là sự phản ánh sáng tạo lại hiện thực, theo nhu cầu thực tiễn xã hội. Nói cách khác, ý thức chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Tóm lại, bản chất của ý thức chính là sự phản ánh chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

và sáng tạo của não bộ. Và quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 yếu tố sau đây:

Thứ nhất là sự trao đổi thơng tin hai chiều, có định hướng và chọn lọc giữa chủ thể và đối tượng phản ánh.

Thứ hai là mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh. Tức quá trình “sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, hay biểu diễn các đối tượng vật chất thành các ý thức phi vật chất .

Cuối cùng là chuyển mơ hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức q trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực.

<b>1.3. Kết cấu của ý thức</b>

Ý thức là một định nghĩa phức tạp nó được xây dựng từ cá định nghĩa nhỏ hơn bao gồm định nghĩa về tri thức, cảm xúc và ý chí vì vậy muốn phân tích và hiểu sâu hơn về kết cấu của ý thức thì ta phải phân tích từ những định nghĩa cấu thành nên nó

- Tri thức bao gồm nhiều yếu tố như kiến thức, thông tin, sự hiểu biết, kỹ năng có được thơng qua trải nghiệm, thơng qua giáo dục hoặc tự học hỏi. Tri thức có thể chỉ sự hiểu biết về một đối tượng (về mặt lý thuyết hoặc thực hành). Nó có thể ẩn tàng, chẳng hạn những kỹ năng hay năng lực thực hành, tường minh, như những hiểu biết lý thuyết về một đối tượng; nó có thể ít nhiều mang tính hình thức hay có tính hệ thống. Theo C.Mác, “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại đối với

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

ý thức là tri thức..., cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý thức biết cái đó”

Tri thức gồm hai loại: Tri thức thơng thường, là những nhận thức thu nhận được từ hoạt động thường ngày của mỗi cá nhân, mang tính cảm tính trực tiếp, bề ngồi rời rạc chưa có tính hệ thống; Tri thức khoa học là tri thức đã được đúc kết từ thực tiễn thành lý luận kinh nghiệm.

Muốn cải tạo đối tượng thì phải có sự hiểu biết về đối tượng đó. Chính vì vậy, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức. Ý thức mà thiếu đi tri thức chỉ là sự trừu tượng trống rỗng, vô dụng trong các hoạt động thực tiễn. Con người càng tích lũy được nhiều tri thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau thì càng thơng thái, hồn thiện và có năng lực cải thiện và phát triển bản thân cũng như xã hội. Tuy nhiên, không thể đồng nhất ý thức và tri thức vì bên cạnh tri thức thì cịn nhiều yếu tố khác.

- Ý thức không phản ánh hiện thực khách quan thụ động mà phản ánh một cách tích cực, sáng tạo. Trong q trình phản ánh đó, thái độ của con người với đối tượng đã nảy sinh. Đó chính là cảm xúc hoặc tình cảm. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa người với người và mối quan hệ giữa người và thế giới quan. Cảm xúc rất đa dạng và phong phú. Khác với tri thức được kiểm chứng và công nhận rộng rãi, cảm xúc lại khơng có một thước đo rõ ràng và cịn mang tính cá nhân. Đứng trước cùng một đối tượng có người thì nảy sinh sự say mê, u thích, có người thì lại thấy chán nản, ghét bỏ. Trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

cùng một hoàn cảnh, có người thấy vui vẻ, có người lại buồn bã đó là lẽ thường tình. Một khi tri thức gắn với tình cảm thì hoạt động của con người sẽ được tăng lên gấp bội.

- Trong quá trình thực hiện kế hoạch, mục tiêu của bản thân, ta không thể tránh khỏi việc phải chạm trán đối mặt với những gian nan, thử thách. Muốn vượt qua khó khăn, bên cạnh trang bị những tri thức, tình cảm, chúng ta phải có ý chí, quyết tâm. Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực cùng khả năng huy động tối đa tiềm năng trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại, đạt được mục đích đề ra. Ý chí giúp con người xác định được mục đích cho hành động của bản thân và xa hơn thế nữa, xác định mục đích sống. Ý chí tạo nên một lập trường vững vàng để giúp ta tránh bị lay động bởi lời xúc giục, những lời đàm tiếu của thế giới xung quanh.

Bên cạnh việc phân chia theo các lớp cấu trúc, ý thức còn được biểu hiện qua các cấp độ khác nhau như tự ý thức, tiềm thức và vô thức. Để dễ hình dung, ta thử tưởng tượng một tảng băng với bề nổi là tự ý thức, tầng băng chìm ở giữa là tiềm thức và tầng băng chìm sâu nhất là vô thức.

- Phần tảng băng nổi lên mặt nước đại diện cho tự ý thức. Tự ý có thể được hiểu một cách đơn giản là quá trình ý thức tự phản ánh bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Được nhận xé là thành tố quan trọng bởi lẽ. Tự ý thức thể hiện trình độ phát triển của ý thức hay nói cách khác, trình độ phát triển nhân cách cũng như khả năng làm chủ bản thân của mỗi cá nhân. Khi

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

phản ánh thế giới khách quan, chúng ta cũng tự phân biệt, tách mình với thế giới đó để đưa ra các đánh giá. Nhờ vậy, chúng ta tự ý thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác, có suy nghĩ, tư duy, có các quan điểm, tình cảm, tư tưởng, động cơ, địa vị, lợi ích của riêng mình. Tự ý thức đóng một vai trị thiết yếu, là nền tảng, cơ sở để con người tự điều chỉnh hành vi của bản thân sao cho phù hợp với các chuẩn mực của xã hội, chủ thể tích lũy được và đã trở thành bản năng. Tiềm thức có vai trị quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học. Tiềm thức gắn bó rất chặt chẽ với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần. Hoạt động của tiềm thức giống như một nút bấm kích hoạt chế độ tự động, góp phần giảm nhẹ căng thẳng, áp lực lên ý thức trong lao động thường ngày.

- Tiếp đến, được biểu diễn bằng phần tảng băng chìm dưới mặt nước chính là tiềm thức. Tiềm thức hay còn gọi là ý thức dưới dạng tiềm năng là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngồi sự kiểm sốt của ý thức nhưng lại có liên kết trực tiếp với những hoạt động tâm lý diễn ra dưới sự kiểm soát của ý thức. Tiềm thức chính là những tri thức mà chủ thể tích lũy được và đã trở thành bản năng. Tiềm thức có vai trị quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học. Tiềm thức gắn bó rất chặt chẽ với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần. Hoạt động của tiềm thức giống như một nút bấm kích hoạt chế độ tự động, góp phần giảm nhẹ căng thẳng, áp lực lên ý thức trong lao động thường ngày.

- Cuối cùng, phần tảng băng đã nằm sâu dưới đáy đại dương, nơi mà con người khó có thể quan sát được, là minh họa cho vô

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

thức. Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, diễn ra ngồi phạm vi của lý trí mà ý thức khơng kiểm sốt được. Biểu hiện điển hình của vơ thức là những phản xạ khơng điều kiện, ví dụ như chạm vào vật nóng thì rụt tay lại. Ngồi ra, vơ thức cịn biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, lỡ lời,... Mặc dù có những đặc điểm và vai trị riêng nhưng nhìn chung, tất cả các hiện tượng của vơ thức đều thực hiện nhiệm vụ giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng.

<b>CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI</b>

<b>2.1. Khái niệm “tri thức khoa học” theo quan điểm củachủ nghĩa duy vật biện chứng</b>

<b>2.1.1. Khái niệm về “tri thức”</b>

Trong quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, khái niệm về “tri thức” khơng chỉ là sự tích lũy thơng thường€mà cịn liên quan mật thiết đến quá trình nhận thức và phản ánh thế giới xung quanh. Theo triết lý duy vật biện chứng, tri thức không phải là một thực thể tĩnh lẻ, mà là một quá trình động đưa ra biểu hiện của nó thơng qua sự tương tác giữa ý thức và thế giới.

Tri thức được coi là sản phẩm của quá trình nhận thức, nơi con người tương tác với thế giới bằng cảm giác, trí tưởng tượng và suy nghĩ. Nó khơng chỉ giới hạn trong phạm vi cá nhân mà cịn có tính chất xã hội, được xã hội hóa qua việc chia sẻ, truyền đạt và xử lý thông€qua các thể hiện như ngôn ngữ, văn hóa và khoa học.

</div>

×