Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

sự hình thành và phát triển thể chế tư pháp việt nam qua các bản hiến pháp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.55 MB, 23 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b> MỞ ĐẦU………... 1</b>

<b> NỘI DUNG………... 2</b>

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƯ PHÁP…………. 2

<b>1.1.</b>Khái niệm, đặc điểm của tư pháp………

2 1.2. Thể chế và thiết chế tư pháp trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam……… 3

CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẾ TƯ PHÁP TRONG CÁC BẢN HIẾN PHÁP………... 7

2.1. Thể chế tư pháp trong Hiến pháp năm 1946……….. 7

1.2. Thể chế tư pháp trong Hiến pháp năm 1959………. 8

2.3. Thể chế tư pháp trong Hiến pháp năm 1980………... 10

2.4. Thể chế tư pháp trong Hiến pháp 1992……….. 12

2.5. Thể chế tư pháp trong Hiến pháp năm 2013………... 15

<b> KẾT LUẬN ………. 20</b>

<b> DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………... 21</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến nay, nước ta đã ban hành năm bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001), Hiến pháp năm 2013. Các bản Hiến pháp này đều ra đời trong những hoàn cảnh thời điểm lịch sử nhất định nhằm thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho từng giai đoạn phát triển của đất nước. Hiến pháp là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý đặc biệt quan trọng, là đạo luật cơ bản, luật gốc của Nhà nước làm căn cứ ban hành các văn bản pháp luật trong hệ thống pháp luật, thể hiện rõ nét bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước. Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ luôn xác định những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất của Nhà nước và xã hội, bản chất nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội, quyền con người.

Thể chế tư pháp Việt Nam ra đời cùng với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hịa do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập có vai trò quan trọng trong hoạt động nhà nước và góp phần tích cực vào việc xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân mạnh mẽ và sáng suốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của chính quyền, góp phần thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi của Nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta”. Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội và thể chế nhà nước, thể chế tư pháp ngày càng hoàn thiện. Điều này thể hiện ngay trong những quy định của các bản Hiến pháp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>NỘI DUNG</b>

<b>CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƯ PHÁPI.1.Khái niệm, đặc điểm của tư pháp</b>

<i><b>1.1.1. Khái niệm </b></i>

Tư pháp trong Nhà nước XHCN Việt Nam là một bộ phận của quyền lực nhà nước - quyền xét xử do Tòa án nhân dân thực hiện dựa trên hệ thống thể chế, thiết chế và các hoạt động tố tụng để xét xử, giải quyết xung đột trong các quan hệ xã hội nhằm bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyển và lợỉ ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

<i><b>1.1.2. Đặc điểm của tư pháp trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa ViệtNam</b></i>

Một là, tư pháp là một thiết chế quyền lực nhà nước thực hiện chức năng tư pháp (xét xử, kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền cơng tố). Nhấn mạnh điều này có ý nghĩa quan trọng khơng chỉ về phương pháp luận mà cịn là thực tiễn. Cơ quan tư pháp (cùng với cơ quan hành pháp) là biểu hiện và “chuyển tải” quyền lực của Nhà nước. Pháp luật do Nhà nước ban hành thông qua các kênh dẫn này để đi vào cuộc sống. Nếu quyền lực nhà nước được thể hiện đầy đủ và đúng đắn qua hoạt động lập pháp, lập quy nhưng hệ thống “chuyển tải” quyền lực nói trên khơng tốt thì sẽ hạn chế khơng nhỏ, thậm chí cịn làm suy giảm đến hiệu lực và hiệu quả của quyền lực nhà nước. Ngược lại, nếu các cơ quan tư pháp làm tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì hoạt động của các cơ quan này sẽ có tác động tích cực đối với hoạt động lập pháp, lập quy, đồng thời đóng vai trị quyết định củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước trong đời sống xã hội, bảo đảm pháp chế XHCN.

Các cơ quan tư pháp là những cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ và giữ gìn pháp luật bằng cách được phép áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết do pháp luật quy định để nhanh chóng phát hiện một cách chính xác, đầy đủ và kịp thời mọi hành

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

vi phạm tội và xử lý công minh các hành vi đó. Đồng thời, cơ quan tư pháp là những phương tiện hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Hoạt động của các cơ quan tư pháp liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, do đó, các cơ quan tư pháp, đặc biệt là Tòa án là biểu tượng đặc trưng của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.

Hai là, tư pháp là cơ quan nhân danh quyền lực nhà nước thực thi các hoạt động tư pháp.Do quyền tư pháp đồng nghĩa với quyền xét xử nên cơ quan tư pháp cũng chính là cơ quan xét xử. Thực hiện quyền xét xử, cơ quan xét xử được quyền phán quyết, ra bản án về một sự kiện có tính xung đột, tranh chấp và vấn đề chính yếu là phán quyết của cơ quan xét xử lại có hiệu lực pháp lý như một quy phạm pháp luật, bắt buộc mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan nghiêm chỉnh thi hành. Cơ quan tư pháp là có vị trí, vai trị, chức năng độc lập và rất quan trọng trong bộ máy nhà nước. Pháp chế xã hội chủ nghĩa có được thực hiện đầy đủ và nghiêm minh hay không, kỷ cương phép nước có tốt hay khơng, đất nước có phát triển hay khơng... có phần đóng góp khơng nhỏ của các cơ quan tư pháp. Trong hệ thống cơ quan tư pháp, mỗi cơ quan có vai trị, chức năng cũng như vị trí độc lập tương đối với các cơ quan khác trong cùng hệ thống. Tuy nhiên, tất cả các cơ quan này đều thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế, trật tự pháp luật, quyền và lợi ích của cơng dân, lợi ích của xã hội.

Ba là, tư pháp được tổ chức và hoạt động mang tính độc lập nhằm bảo đảm việc xét xử và giải quyết xung đột xã hội một cách khách quan.Tổ chức Tòa án nhân dân theo cấp xét xử theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 là mơ hình bảo đảm tính độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án. Cơ quan xét xử - Tòa án, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động chức năng của mình.

<b>1.2. Thể chế và thiết chế tư pháp trong Nhà nước xã hội chủ nghĩaViệt Nam</b>

<i><b>1.2.1. Thể chế tư pháp trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Thể chế tư pháp trong Nhà nước XHCN Việt Nam được hiểu là toàn bộ các quy định pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Những quy định này thể hiện các khía cạnh cơ bản:

- Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân: Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân được quy định Hiến pháp năm 2013 ; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 .

- Quy định về tổ chức và hoạt động, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân: Những vấn đề này được quy định trong các điều luật của Hiến pháp năm 2013 , và được cụ thể hóa trongLuật Tổ chức Tịa án nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tựng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

- Quy định về các chức danh trong Tòa án nhân dân: Bao gồm: Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký phiên tòa. Tùy theo từng chức danh, tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm, thẩm quyền bổ nhiệm, nhiệm kỳ, ngạch, cũng như chế độ, chính sách cho từng chức danh được quy định cụ thể trong đạo luật về tổ chức tòa án nhân dân .

- Quy định về bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân:Số lượng thẩm phán; biên chế, kinh phí hoạt động của Tịa án nhân dân; chế độ, chính sách đối với cơng chức, viên chức, người lao động khác của Tòa án nhân dân .

<i><b>1.2.2. Thiết chế tư pháp trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam</b></i>

Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: “Tịa án có vị trí trung tâm và xét xử là nhiệm vụ trọng tâm”. Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 2013 quy định:Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định; Tịa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân .

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định về tổ chức Tịa án nhân dân, gồm có: Tịa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án quân sự .

Hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức theo cấp xét xử, không phụ thuộc vào địa giới hành chính; trong đó:

(1) Tịa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; Giám đốc thẩm, tái thẩm cao nhất và làm nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử trên phạm vi toàn quốc .

(2) Tịa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền:

- Xét xử phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng;

- Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng .

(3) Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm quyền:

- Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật;

- Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phốthuộc tỉnh và tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật;

- Kiểm tra bản án, quyế định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

nghị với Chánh án Tịa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị;

- Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật .

(4) Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có thẩm quyền:

- Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật; - Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật .

Theo quy định hiện nay chỉ còn Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là gắn với địa giới hành chính. Tuy nhiên theo yêu cầu cải cách tư pháp về cơ bản tổ chức Tòa án nhân dân đã hướng tổ chức theo cấp xét xử, bảo đảm tính độc lập trong thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân.Gg

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẾ TƯ PHÁP TRONG CÁCBẢN HIẾN PHÁP</b>

<b>2.1. Thể chế tư pháp trong Hiến pháp năm 1946</b>

Hiến pháp 1946 ra đời trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử sau cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 03/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định việc xây dựng một bản hiến pháp dân chủ là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ. Ngày 20/9/1945, Chính phủ lâm thời ra sắc lệnh thành lập Ban dự thảo hiến pháp gồm 7 người, đại diện cho nhiều tổ chức, đảng phái khác nhau do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Đầu tháng 11/1945, bản dự thảo đã hồn thành cơng việc và được cơng bố cho tồn dân thảo luận. Hàng triệu người Việt Nam hăng hái tham gia đóng góp ý kiến cho bản dự thảo với những nội dung mơ ước bao đời về độc lập, tự do. Ban dự thảo đã tổng kết các ý kiến tham gia đóng góp của nhân dân và xây dựng Bản dự thảo cuối cùng để đưa ra Quốc hội xem xét, thông qua. Ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I đã thảo luận và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của đấtnước. Hiến pháp năm 1946 ra đời đã tuyên bố với tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới rằng, nước Việt Nam là một nước độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không phân biệt gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo và các quyền tự do dân chủ của nhân dân được bảo đảm thực hiện.

Điều thứ 63, hiến pháp 1946 quy định: Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hồ gồm có: a) Tồ án tối cao. b) Các toà án phúc thẩm. c) Các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp.

Điều thứ 64: Các viên thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Điều thứ 65: Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc đại hình.

Điều thứ 66: Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước Tồ án.

Điều thứ 67: Các phiên tồ án đều phải cơng khai, trừ những trường hợp đặc biệt; Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư.

Điều thứ 68: Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân.

Điều thứ 69: Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp.Các viên thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm.

Bản Hiến pháp 1946 là Hiến pháp dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh (10 ngày sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ) bản Hiến pháp năm 1946 khơng được chính thức cơng bố, nhưng dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần của các quy định trong Hiến pháp năm 1946 đã được thực hiện trên thực tế căn cứ vào tình hình cụ thể.

<b>1.2. Thể chế tư pháp trong Hiến pháp năm 1959</b>

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hiến pháp năm 1946 đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình, nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới cần được bổ sung, thay đổi. Vì vậy, tại kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội khóa I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946 và thành lập Ban dự thảo Hiến pháp sửa đổi bao gồm 28 thành viên, do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban. Sau khi làm xong Bản dự thảo đầu tiên, tháng 7/1958, Bản dự thảo được đưa ra thảo luận trong đội ngũ cán bộ trung cấp và cao cấp thuộc các cơ quan quân, dân, chính, đảng. Ngày 1/4/1959, bản dự thảo được cơng bố để tồn dân thảo luận và tham gia đóng góp ý kiến.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Cuộc thảo luận này kéo dài trong 4 tháng với sự tham gia sơi nổi, tích cực của các tầng lớp nhân dân lao động. Ngày 31/12/1959, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I đã nhất trí thơng qua bản Hiến pháp sửa đổi và ngày 1/1/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh cơng bố Hiến pháp. Với 10 chương, 112 điều, Hiến pháp năm 1959 đã phát huy tinh thần của Hiến pháp năm 1946, đồng thời phản ánh đầy đủ tình hình thực tế của chế độ ta do cuộc cách mạng phản đế, phản phong thắng lợi đã mang lại, phản ánh đúng đắn con đường đang tiến lên của dân tộc. Là bản Hiến pháp của một nước dân chủ nhân dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp năm 1959 khẳng định nước Việt Nam là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau, tổ chức theo chính thể Nhà nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân, các quyền tự do dân chủ được bảo đảm. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thơng qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do Nhân dân bầu ra. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan nhà nước khác thực hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ…

So với Hiến pháp năm 1946, thể chế tư pháp có nhiều thay đổi. Theo Hiến pháp năm 1959, hệ thống toà án ở nước ta bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, tịa án nhân dân địa phương và tồ án qn sự. Ngoài ra, trong trường hợp xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập toà án đặc biệt. Chế độ bổ nhiệm thẩm phán bị bãi bỏ và thực hiện chế độ thẩm phán bầu. Việc xét xử ở các tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán.

Theo mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước của các nước Xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 1959 đã quy định việc thành lập hệ thống viện kiểm sát nhân dân để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hệ thống viện kiểm sát bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân địa phương và viện kiểm sát quân sự.

</div>

×