Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

sự biến đổi chức năng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ởviệt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.65 MB, 26 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TÊN ĐỀ TÀI</b>

SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY

<b>TIỂU LUẬN MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC</b>

Hà Nội - 2021

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>TÊN ĐỀ TÀI:</b>

<b>SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIA ĐÌNH TRONG THỜIKỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM</b>

<b>HIỆN NAY</b>

Lớp tín chỉ : Mã sinh viên :

<b>TIỂU LUẬN MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC</b>

Hà Nội - 2021

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC</b>

Danh mục hình vẽ, đồ thị:...20

<b>MỞ ĐẦU...1</b>

1. Lý do lựa chọn vấn đề nghiên cứu...1

2. Những cơng trình nghiên cứu có liên quan:...2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:...2

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:...2

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:...2

6. Kết cấu của đề tài:...2

<b>Chương 2: THỰC TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM...11</b>

2.1 Những nhân tố tác động đến sự biến đổi chức năng gia đình Việt Nam hiện nay:...11

2.2 Thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay:...13

2.2.1 chức năng tái sản xuất con người...13

2.2.2 Chức năng giáo dục:...14

2.2.3 Chức năng kinh tế và tâm lí - tình cảm:...15

<b>Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT SỰ BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM...16</b>

<b>KẾT LUẬN...19</b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...20</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>MỞ ĐẦU</b>

<b>1. Lý do lựa chọn vấn đề nghiên cứu</b>

Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội, là nơi con người ta sinh ra và lớn lên, là nơi nuôi dưỡng các thế hệ về cả thể chất, trí tuệ lẫn đạo đức, nhân cách để hội nhập vào cuộc sống cộng đồng – xã hội và hơn nữa là trở thành những con người lương thiện, sống có ích, có nghĩa, có tình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”.

Gia đình là thiết chế xã hội cơ bản và có nhiều chức năng, cùng với sự biến đổi bối cảnh kinh tế xã hội, các chức năng của gia đình cũng biến đổi dưới nhiều chiều cạnh khác nhau. Có thể nói, q trình cơng nghiệp hố và hiện đại hố đã tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt gia đình và cơng tác gia đình trước nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trái của cơ chế thị trường, cộng với lối sống thực dụng tác động mạnh tới các giá trị đạo đức truyền thống và lối sống lành mạnh. Nhiều gia đình nếu khơng được hỗ trợ, khơng được chuẩn bị đầy đủ sẽ không đủ năng lực đối phó với những thay đổi nhanh chóng về kinh tế - xã hội và khơng làm trịn các chức năng vốn có của mình .

Nghiên cứu về chức năng của gia đình và sự biến đổi của nó có khá được nhiều học giả quan tâm. Các nghiên cứu chỉ rõ, biến đổi gia đình cũng mang những nét cơ bản của biến đổi xã hội. Sự biến đổi đó được thể hiện ở các khía cạnh từ cấu trúc gia đình cho đến các chức năng của gia đình và các mối quan hệ trong gia đình. Nhìn chung, các tác giả đã cố gắng cung cấp những bằng chứng để nhận diện và lý giải sự biến đổi của

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

gia đình. Điều này có nghĩa là, biến đổi gia đình đã và đang diễn ra trong bối cảnh kinh tế- xã hội ở nước ta hiện nay.

Để góp phần nhận diện và phân tích về chức năng của gia đình và sự biến đổi của nó, bài viết này khai thác những giá trị và hạt nhân hợp lý của lý thuyết cấu trúc chức năng nhằm đóng góp về mặt cơ sở lý luận trong việc lý giải sự biến đổi chức năng của gia đình hiện nay.

<b>2. Những cơng trình nghiên cứu có liên quan:</b>

Nghiên cứu về chức năng của gia đình và sự biến đổi của nó có khá được nhiều học giả quan tâm. Các nghiên cứu Vũ Tuấn Huy về những khía cạnh của sự biến đổi gia đình; sự biến đổi gia đình Việt Nam dưới góc nhìn xã hội học của TS. Trịnh Hịa Bình; luận văn thạc sĩ triết học của Nguyễn Thị Hương.

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:</b>

Đối tượng nghiên cứu: sự biến đổi chức năng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi về không gian: Việt Nam Phạm vi về thời gian: giai đoạn hiện nay

<b>4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:</b>

Làm rõ quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề gia đình. Khảo sát thực trạng sự biến đổi chức năng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Đề ra một số giải pháp để giải quyết sự biến đổi chức năng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

<b>5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:</b>

Cơ sở lý luận: quan điểm của chủ nghĩa Mác–Lênin về vấn đề gia đình. Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phương pháp lôgic, phân tích, tổng hợp, khái qt hóa và hệ thống hóa….

<b>6. Kết cấu của đề tài:</b>

Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương, 4 tiết.

<b>NỘI DUNG</b>

<b>Chương 1: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNINVỀ VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH</b>

<b>1.1 khái niệm và chức năng của gia đình:</b>

Gia đình là một phạm trù xất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội lồi người và đã khơng ngừng biến đổi cùng với bước tiến của nền văn minh nhân loại. Trong lịch sử loài người đã trải qua nhiều kiểu, loại gia đình khác nhau.

Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” Ph.Ăngghen cho rằng, trong lịch sử phát triển của xã hội, gia đình ln có vị trí đặc biệt. Từ trong gia đình, con người được sinh ra và trưởng thành, được nuôi dưỡng và giáo dục để hội nhập vào cuộc sống cộng đồng. Khi nghiên cứu về gia đình, Ph.Ăngghen đã xuất phát từ sự phát triển của sản xuất vật chất. Ông cho rằng, “… nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt, là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác, là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nịi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình”. Như vậy, theo Ph.Ăngghen, mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của sản xuất vật chất và sự phát triển của gia đình, trong đó, các quan hệ gia đình bị chi phối bởi sự phát triển của sản xuất, đồng thời, các quan hệ gia đình lại có ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội khác.

Đặc biệt, theo Ph.Ăngghen, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, có một hình thức gia đình phù hợp tương quan với sự biến đổi của phương thức sản xuất vật chất, từ đó, ơng khẳng định rằng, sự phát triển của các hình thức gia đình từ thấp đến cao là một tất yếu của lịch sử, và con người sẽ tiến đến hình thức hơn nhân cuối cùng, chế độ hôn nhân một vợ, một chồng. Tuy nhiên, Ph.Ăngghen cho rằng, mặc dù hôn nhân một vợ, một chồng là hình thức của xã hội văn minh, nhưng khi mà nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ, nền sản xuất xã hội chủ nghĩa được thiết lập thì sẽ xuất hiện một kiểu gia đình mới cao hơn. Gia đình mới trong xã hội xã hội chủ nghĩa hồn tồn dựa tình u và hơn nhân là tự nguyện của cả người đàn ông và người đàn bà, là nhu cầu bức thiết của con người tự do và là cơ sở, nền tảng để xây dựng gia đình một vợ, một chồng hạnh phúc, bền vững.

Vận dụng những tư tưởng về gia đình của Ph.Ăngghen, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan điểm đúng đắn và sáng tạo về xây dựng gia đình mới ở Việt Nam. Người khẳng định: “Quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải chú ý hạt nhân cho tốt”.

Theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014, gia đình là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ ni dưỡng, những người này có các quyền và nghĩa vụ với nhau, cùng nhau xây dựng gia đình, ni dạy thế hệ trẻ và chăm sóc người cao tuổi dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội.

Từ những tư tưởng về gia đình của Ph.Ăngghen cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh có thể hiểu gia đình chính là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biêt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.

<b>1.2 Chức năng gia đình:</b>

Gia đình được xem như một xã hội thu nhỏ, là một tổ chức tế bào của xã hội, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Xã hội Việt Nam với nền văn minh lúa nước từ lâu đã sống định cư, lấy gia đình làm đơn vị gốc. Trải qua bao biến thiên của lịch sử cho đến ngày nay, gia đình Việt Nam vẫn giữ nguyên giá trị của mình trên con đường đổi mới và tiếp thu văn hóa phương Tây. Gia đình phát sinh, tồn tại và phát triển chính là do nó có nhiệm vụ đảm nhận những chức năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên giao cho nó chứ không phải bất kỳ một thiết chế xã hội nào khác có thể thay thế được.Các chức năng này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và tác động lẫn nhau tạo nên con người và xã hội hoá con người Dù ở thời đại nào, gia đình ln có các chức năng cơ bản: chức năng tái sản xuất con người; chức năng kinh tế; chức năng nuôi dưỡng, giáo dục; chức

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

năng tổ chức đời sống gia đình, chức năng cân bằng các nhu cầu tâm -sinh lý, tình cảm con người.

<b>1.2.1 chức năng tái sản xuất con người</b>

Tái sản xuất ra con người là chức năng xã hội cơ bản và đặc thù đầu tiên của gia đình. Cùng với tái sản xuất ra của cải vật chất, tái sản xuất ra con người là cơ sở để đảm bảo cho sự phát triển liên tục và trường tồn của xã hội. Chức năng này góp phần cung cấp sức lao động – nguồn nhân cho xã hội. Đồng thời góp phần thay thế những lớp người lao động cũ đã đến tuổi nghỉ hưu, đã hết khả năng lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo. Việc thực hiện chức năng này vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội vừa đáp ứng được nhu cầu về tâm sinh lí, tình cảm của chính bản thân con người. Ở mỗi quốc gia khác nhau thì việc thực hiện chức năng này là khác nhau.

Có thể thấy như ở Việt Nam, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con vừa đảm bảo được sức khỏe cho mẹ lại đảm bảo được chất lượng về cuộc sống cho gia đình và có điều kiện chăm sóc, dạy bảo các con.

Ở Trung Quốc hiện nay tỉ lệ nam giới đang có sự chênh lệch lớn so với nữ giới, vì thế nên nhà nước đang thực hiện chính sách khuyến khích sinh con một bề là con gái. Đến năm 2010, tại Trung Quốc, SRB đạt 118 bé trai/100 bé gái, giảm so với 121 (năm 2008), 119 (năm 2005), 121 (năm 2004). Tỷ số giới tính sẽ vẫn tiếp tục chênh lệch ở mức báo động 119 bé trai trên 100 bé gái vào những năm 2030.Chức năng giáo dục của gia đình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Bảng 1. 1

Tháp dân số Trung Quốc năm 2020 (Nguồn: PopulationPyramids)

<b>1.2.2 Chức năng giáo dục của gia đình</b>

Giáo dục trong gia đình là chức năng xã hội cơ bản, khách quan, có vai trị đặc biệt quan trọng đối với hình thành phát triển nhân cách, năng lực... mỗi con người. Gia đình là trường học đầu tiên và ở đó cha mẹ là những người thầy, người cô đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người: “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương u, trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc,

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, cơng dân có ích cho xã hội.. ”

Việt Nam là một quốc gia mang đậm nét đẹp truyền thống về đạo đức và lối sống thuần phong mĩ tục, vì thế nội dung giáo dục của gia đình cũng phải chú ý đến việc giáo dục toàn diện cả về phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm, lối sống, ý thức, cung cách cư xử trong cuộc sống và giáo dục cả về tri thức…

Chức năng giáo dục của gia đình chịu tác động trực tiếp của các yếu tố khách quan và chủ quan. Sự thay đổi lớn trong các chính sách kinh tế xã hội, những biến đổi trong lĩnh vực văn hóa, thơng tin, lối sống, sự thiếu hụt kinh nghiệm, ý thức dạy con trong những gia đình trẻ… đó là những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng giáo dục của gia đình.

Để chức năng này được thực hiện một cách có hiệu quả thì gia đình phải có phương pháp giáo dục, răn đe một cách đúng đắn. Ai sai thì nhận sai và sửa chữa chứ đừng vì cái tơi, cái sĩ diện và tính bảo thủ của mình mà cố chấp khơng thay đổi. Có nhiều gia đình dạy dỗ con cái bằng những trận đòn roi, những cái bạt tai đến tối mặt mũi... Những biện pháp ấy chẳng những khơng đem lại tác dụng gì mà càng khiến con cái trở nên chai lì, tâm lí tiêu cực và mất đi tình cảm thân thiết, niềm tin vào những người trong cùng một mái nhà.

Thay bằng những trận đòn roi đến nhừ người thì những bậc cha mẹ nên dạy dỗ, chỉ bảo con cái mình nhẹ nhàng, phân tích rõ đúng sai để con trẻ hiểu. Hơn nữa những bậc cha mẹ, ông bà nên là một tâm gương để thế

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

hệ trẻ noi theo. Các thành viên trong gia đình sống thuận hịa, vui vẻ, cùng nhau chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống.

Lại có nhiều những gia đình cha mẹ mải kiếm tiền mà khơng biết hài hịa giữa vật chất và tinh thần nên khơng có thời gian quan tâm sát sao đến con cái khiến chúng trở nên sống buông thả, bị cám dỗ vào những tệ nạn xã hội, có những hành vi đi ngược lại với thuần phong mĩ tục và truyền thống đạo đức của dân tộc…

Tuy việc giáo dục ở gia đình chỉ là một khía cạnh nhưng đó vẫn là cái gốc, con người sẽ trở nên hồn thiện hơn khi có sự kết hợp giáo dục cả ở gia đình, nhà trường, xã hội và hơn nữa là ý thức tự giác tu dưỡng rèn luyện từ phía mỗi người…

Thơng qua việc thực hiện chức năng giáo dục, gia đình thực sự trở thành cầu nối không thể thay thế được giũa xã hội và cá nhân.

Gia đình là phạm trù lịch sử, biến đổi theo thời gian. Mỗi thời đại lịch sử cũng như mỗi chế độ xã hội đều sản sinh ra một loại gia đình, xây dựng một kiểu gia đình lí tưởng với chức năng xã hội của nó.

<b>1.2.3 Chức năng tổ chức đời sống gia đình</b>

Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù. Một trong những tính đặc thù của thiết chế xã hội này thể hiện ở chỗ: hoạt động bên trong gia đình của gia đình nói chung hoặc của từng gia đình được điều chỉnh bằng các giá trị các chuẩn mực văn hóa gia đình, trong khi vẫn chịu sự điều chỉnh bởi các thiết chế xã hội, pháp lý... Tổ chức đời sống gia đình có nội dung cơ bản là: tổ chức các sinh hoạt đáp ứng nhu cầu văn hóa vật chất, tổ chức các sinh hoạt đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần, tình cảm. Các hình thức sinh hoạt, học tập... của gia đình cũng rất đa dạng, được quy định bởi

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

những khác biệt về nhu cầu tâm lý, sinh lý, sở thích... của mỗi thành viên, trong quan hệ thống nhất với các giá trị văn hóa đặc thù của gia đình, với các giá trị văn hóa cộng đồng, xã hội.

Chức năng tổ chức đời sống gia đình được thực hiện trước hết bởi thành viên được coi là trụ cột gia đình. Thành viên này có thể là ơng, bà, có thể là cha, mẹ, hoặc những người con đã trưởng thành... Điểm chung nhất là thành viên có vai trò chủ đạo trong tổ chức đời sống gia đình là người có đủ điều kiện về uy tín đối với các thành viên còn lại; về khả năng sắp xếp cơng việc, sắp xếp các hình thức sinh hoạt; có khả năng thuyết phục, động viên và làm gương cho các thành viên còn lại trong thực hiện chức năng này. Bên cạnh đó, các hoạt động tổ chức đời sống gia đình lại ln cần có sự tham gia, đồng thuận một cách tự giác của trong tương quan với sở thích cá nhân, với cơng việc xã hội... của từng thành viên.

<b>1.2.4 Chức năng kinh tế của gia đình</b>

Chức năng kinh tế là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải, vật chất, đảm bảo sự sống còn của gia đình, đảm bảo cho gia đình được ấm no, giàu có làm cho dân giàu, nước mạnh như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “dân có giàu thì nước mới mạnh “. Chức năng này bao quát về nhu cầu ăn, ở, tiện nghi, là sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong gia đình nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời sống. Có thể phân ra thành hai nhóm gia đình cơ bản liên quan đến các khâu của hoạt động kinhtế: thứ nhất,nhóm các gia đình mà hoạt động kinh tế chỉ giới hạn ở khâu tiêu dùng; thứ hai,nhóm các gia đình là đơn vị kinh tế, tham gia vào toàn bộ, hoặc các khâu cơ bản nhất của hoạt động kinh tế (sản xuất -kinh doanh -tiêu dùng; hoặc khinh doanh -tiêu dùng).

</div>

×