Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.82 MB, 34 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài</b>
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác-Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhất là trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất thành công và để lại những quan điểm sâu sắc, trong đó có quan điểm về dùng người, tức là sử dụng đội ngũ cán bộ, nhân tài. Những quan điểm đó ln là ánh sáng dẫn đường, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam. Người đã nhìn thấy và nêu cao vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, nhân tài trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do, lẫn trong xây dựng, phát triển đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Người từng chỉ rõ “vấn đề cán bộ là một vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp”. Từ chỗ khẳng định vai trị rất quan trọng của đội ngũ cán bộ, nhân tài; Người đã giành nhiều tâm lực, trí lực xây dựng đội ngũ này. Trên cơ sở tạo nguồn rộng rãi, tuyển dụng cơng bằng, đào tạo căn bản, đánh giá chính xác đội ngũ cán bộ, nhân tài, Người chủ trương hướng tới sử dụng, trọng dụng và luôn tôn vinh tài năng, đức độ của họ.
Dùng người đúng, biết dùng người sẽ có lợi cho việc khơi dậy tính tích cực, phát huy đầy đủ tính năng động, tự giác của quần chúng; biết dùng người sẽ có ý
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">nghĩa hiện thực to lớn, tạo nên những bước nhảy đột phá, tiến bộ lớn, việc dựa vào nhân tài và sử dụng hợp lý nhân tài có ý nghĩa rất to lớn về mặt chiến lược lâu dài.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý là nhân tố tiên phong, nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thời gian qua, đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Sau gần 30 năm đổi mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã thu được những thành quả nhất định, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý được tơi luyện, trưởng thành qua thử thách, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần độc lập tự chủ, trung thành với lý tưởng cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, có ý chí, nghị lực để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đưa sự nghiệp đổi mới ngày càng thu nhiều thắng lợi. Song song với những ưu điểm nói trên, trong q trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình, đội ngũ cán bộ, đảng viên còn bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm cả về phẩm chất, năng lực và uy tín. Đại hội XI của Đảng đã nghiêm túc chỉ ra những hạn chế là: “Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI của Đảng đã khẳng định vẫn cịn một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo quản lý có biểu hiện suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng, trong thực hiện nhiệm vụ thiếu trách nhiệm, gây hậu quả vô cùng nghiêm trọng, lạm dụng chức quyền, tham ơ, thu lợi bất chính từ cơng quỹ… Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng giảm lòng tin trong nhân dân đối với Đảng. Bên cạnh đó, chất
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">lượng đội ngũ cán bộ còn nhiều yếu kém, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới, cả trong lĩnh vực xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế. Ơꀉ bô n phâ nn không nhỏ cán bô n - quản lý, từ nhận thức đến năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện mơ hình phát triển cũng như bản lĩnh hội nhập và xử lý những tình huống phát sinh còn nhiều lúng túng. Ơꀉ một số địa phương, cơ quan, đơn vị, xuất hiện những bô n phâ nn cán bô n chỉ tâ np trung lợi dụng vị trí lãnh đạo, lạm dụng của cơng để củng cố lợi ích nhóm. Những hạn chế, khuyết điểm trên đây cần được nghiêm khắc nhìn nhận và khắc phục để lấy lại lòng tin của nhân dân vào Đảng. Bởi vâ ny, vấn đề chỉnh đốn Đảng và xây dựng uy tín người cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý là hết sức quan trọng, cấp thiết hiện nay.
Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về uy tín người cán bộ là một biện pháp quan trọng và có ý nghĩa thiết thực nhằm xây dựng uy tín người cán bộ lãnh đạo - quản lý trong thời kỳ mới. Phải có một đội ngũ chuyên gia giỏi, đội ngũ cán bộ, cơng chức giỏi mới có thể thực hiện mục tiêu phát triển của đất nước. Với
<b>những lý do nêu trên, nên tác giả chọn đề tài nghiên cứu làm tiểu luận là “Vậndụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của ngườilãnh đạo”.</b>
<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</b>
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vận dụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lãnh đạo, để từ đó đề xuất một số nguyên tắc dùng người và lựa chọn người của nhà lãnh đạo hiện nay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vận dụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lãnh đạo.
- Đề xuất một số nguyên tắc dùng người và lựa chọn người của nhà lãnh đạo hiện nay.
<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lãnh đạo hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu vận dụng quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lãnh đạo
- Phạm vi thời gian: từ năm 1986 đến nay
<b>4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu</b>
4.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê-nin: Phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp: phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh,...
<b>5. Kết cấu của đề tài</b>
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài bao gồm 02 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lãnh đạo.
Chương 2: Nguyên tắc dùng người và lựa chọn người của nhà lãnh đạo hiện nay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUAN ĐIỂM, TƯTƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI VIỆC DÙNG NGƯỜI CỦA NGƯỜI</b>
<b>LÃNH ĐẠO1.1. Quan niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh </b>
Trong thời đại ngày nay, chúng ta đang chứng kiến sự bùng nổ về xung đột dân tộc, tôn giáo diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới. Có những quốc gia liên bang đã bị tan rã, trong các quốc gia đa dân tộc, xu hướng ly khai, đòi độc lập đang có chiều hướng phát triển khơng giới hạn. Bên cạnh đó, hàng trăm quốc gia tuy đã có độc lập về chính trị nhưng ngày càng phụ thuộc trầm trọng về kinh tế vào các nước tư bản phát triển, tạo nên hố sâu ngăn cách giàu nghèo giữa các quốc gia ngày một rộng ra.
Không chỉ dừng lại ở đó, sau khi Liên Xơ tan rã, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, các thế lực hiếu chiến đã và đang điều chỉnh chiến lược, toan tính thực hiện ý đồ thiết lập “thế giới một cực”. Chiến tranh lạnh kết thúc nhưng từ 1991 đến nay, thế giới đã diễn ra 4 cuộc chiến tranh nóng, tại Vùng Vịnh (1991), Nam Tư (1999), Ấpganixtan (2002) và Irắc (2003).Từ sau ngày 11/9/2001 ở Mỹ, hoạt động khủng bố và chống khủng bố trở thành vấn đề quốc tế lớn. Các thế lực hiếu chiến đang lợi dụng chiêu bài chống khủng bố để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, xâm hại nghiêm trọng chủ quyền quốc gia, bất chấp luật pháp quốc tế.
Trong tình hình của thế giới, nhân loại đang nổi lên khát vọng chung: độc lập dân tộc, dân chủ, hồ bình, nhân đạo, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển. Thế giới đang kêu gọi một tinh thần khoan dung, nhân ái, chấp nhận đối thoại về giá trị, giải quyết mọi tranh chấp bằng thương lượng, chung sức xây dựng một thế gới hồ bình. Chính những khát vọng đó, nhân loại đang nhắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh,
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">vì tìm thấy trong đó những giải pháp có tầm thời đại, giúp loài người đi đến một thế giới tốt đẹp hơn.
Hồ Chí Minh là biểu tượng cao cả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập tự do cho dân tộc mình đồng thời độc lập tự do cho tất cả các dân tộc khác. Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức tầm quan trọng của sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ trương Việt Nam phải mở cửa đi ra thế giới, thu hút tinh hoa văn hoá nhân loại, làm giàu có trí tuệ cho dân tộc mình. Người đã đi qua ba đại dương, bốn châu lục, đặt chân lên gần 30 nước, có vinh dự là người Việt Nam đầu tiên đặt cơ sở cho tình hữu nghị với nhiều nước trên thế giới, Người là sứ giả của hồ bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Hồ Chí Minh là biểu tượng, là tinh hoa của tinh thần khoan dung, nhân ái Việt Nam. Khoan dung, nhân ái đối với con người, cái nhìn rộng lượng với những giá trị khác biệt với mình, khơng áp đặt ý kiến của mình cho người khác, xa lạ với mọi thái độ cuồng tín, giáo điều. Đối với các tôn giáo, Người tôn trọng đức tin của người có đạo, hướng tơn giáo vào mục tiêu giải phóng dân tộc, mưu cầu hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Vì vậy, khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh đã được coi là biểu tượng của văn hoá hồ bình ở thời đại ngày nay.
Hồ Chí Minh là một tấm gương lớn về đối thoại, hợp tác để cùng phát triển. Người ln theo đuổi chính sách ngoại giao hồ bình, chủ trương giải quyết mọi mâu thuẫn, xung đột bằng đàm phán, thương lượng. Nhiều nhà báo phương Tây đã từng nhận xét: Cụ Hồ Chí Minh sẵn sàng chấp nhận tiệc tùng và luôn biết giải quyết mọi vấn đề với nụ cười trên mơi”. Vì những giá trị nói trên, các nhà văn, nhà báo, nhà chính khách nước ngoài ngày càng nhắc nhiều đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiến sĩ M. Átmét, Giám đốc UNESCO khu vực châu Á- Thái Bình Dương, đã phát biểu trong dịp kỷ niệm lần thứ 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh: “Người sẽ được ghi nhớ khơng phải chỉ là ngườigiải phóng cho Tổ quốc và nhân
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">dân bị đơ hộ mà cịn là một nhà hiền triết hiện đại, đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất cơng, bất bình đẳng khỏi thế gới này.” Hêrơminơ Căra, nhà báo Vênexla viết: “Hồ Chí Minh là một đỉnh cao thật sự của tồn thể nhân loại về mặt đạo đức. Người là một tấm gương tuyệt vời, tất cả những lãnh tụ và anh hùng cách mạng khơng một ai có thể vượt qua Người về mặt này...Ngày nay, trong lúc uy tín cá nhân của khá nhiều lãnh tụ macxít nổi tiếng đang bị bơi nhọ, trái lại, hình ảnh Hồ Chí Minh lại càng nổi bật trước con mắt thế giới hơn bao giờ hết”.
Sự thừa nhận rộng rãi của bạn bè từ các châu lục đã khẳng định một cách khách quan giá trị, tác dụng, hình ảnh của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới chắc chắn sẽ còn lan toả trong thế kỷ XXI.
<b>1.2. Những tư tưởng sáng tạo lớn trong Tư tưởng Hồ Chí Minh</b>
Hồ Chí Minh là nhà yêu nước Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga, tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh có một q trình tìm tòi, khảo nghiệm từ trong nước ra thế giới, hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận, qua các ngả đường cứu nước khác nhau để đến với chủ nghĩa Mác-Lênin.Người khẳng định, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hịa bình, hạnh phúc. Hồ Chí Minh là nhà yêu nước đầu tiên trở thành người cộng sản chân chính, người dân thuộc địa trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản chính quốc. Người có cơng đầu đưa ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị những nhân tố chính trị, tư tưởng, tổ chức cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đồng chí Lê Duẩn khẳng định: “Công lao vĩ đại đầu tiên của Hồ Chủ tịch là đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là con đường giải
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">phóng duy nhất mà Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra cho nhân dân lao động và tất cả các dân tộc bị áp bức trên tồn thế giới”.
Hồ Chí Minh là người dân thuộc địa và là người cộng sản đầu tiên có cống hiến to lớn về nghiên cứu chủ nghĩa thực dân. Hồ Chí Minh là người viết nhiều nhất lên án bản chất, tội ác của chủ nghĩa thực dân. Người đập tan huyền thoại “khai hóa văn minh” của thực dân Pháp, đồng thời kiên quyết đấu tranh phê phán những người cộng sản chính quốc coi nhẹ vấn đề thuộc địa, không quan tâm đến cách mạng thuộc địa. Thế giới ghi nhận cống hiến của Hồ Chí Minh: “Sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến lúc đó vượt hẳn tất cả những gì mà những nhà lý luận mácxít đề cập đến”. Nhà sử học người Pháp Charles Fourniau cho rằng: “Nguyễn Ái Quốc đã có đóng góp quan trọng vào việc hình thành truyền thống chống chủ nghĩa thực dân - một truyền thống làm vẻ vang cho Đảng Cộng sản Pháp” và kết luận: “Vậy thì hẳn rằng: Nguyễn Ái Quốc phải được coi là một trong những người thầy của Đảng Cộng sản Pháp về những vấn đề thuộc địa”.
Sáng tạo về cách mạng thuộc địa: Cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc. Giai đoạn Mác-Ăngghen, vấn đề thuộc địa hầu như chưa được đặt ra. Đến Lênin khi viết đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa vẫn đặt cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc. Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vai trị của thuộc địa đối với sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa đế quốc. Người đánh giá tiềm năng cách mạng của các dân tộc bị áp bức là rất to lớn. Nhân dân Việt Nam hồn tồn có thể chủ động đứng lên, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta, giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc, khơng ỷ lại chờ đợi cách mạng chính quốc.
Luận điểm sáng tạo về con đường cách mạng Việt Nam: từ cách mạng giải
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đi từ tư tưởng giải phóng dân tộc đến phát triển đất nước. Người chỉ rõ ba giai đoạn xen kẽ vào nhau và liên tục, không ngừng phát triển. Khi hoàn thành cách mạng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, thì hịa bình phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa không qua một cuộc đảo lộn về chính trị giành chính quyền như cách mạng Nga và cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển. Hồ Chí Minh giải quyết đúng đắn, sáng tạo, thành công mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Theo Người, chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp. Tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước là một động lực lớn.
Cùng một lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng ở hai miền Bắc, Nam và nêu cao tư tưởng thống nhất đất nước. Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết thành cơng trong điều kiện một nước, một Đảng cùng một lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vừa đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Theo Giáo sư Singôsibata: “Một trong những cống hiến quan trọng của Cụ Hồ Chí Minh và của Đảng Lao động Việt Nam là đã đề ra lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Theo tôi được biết, Đảng Lao động Việt Nam là đảng đầu tiên trong các đảng mácxít trên thế giới áp dụng lý luận này” Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Nước<small>.. </small> Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mịn, song chân lý đó khơng bao giờ thay đổi. Cả cuộc đời Người quan tâm đến sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Những luận điểm sáng tạo về tổ chức lực lượng cách mạng phù hợp với đặc
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">điểm cụ thể của Việt Nam. Về tổ chức lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh có nhiều luận điểm sáng tạo, đó là: Những luận điểm về Đảng Cộng sản ở một nước nông nghiệp lạc hậu và những luận điểm về Đảng cầm quyền; những luận điểm về chiến lược đại đồn kết tồn dân tộc và chính sách Mặt trận dân tộc thống nhất, nhất quán trong cả cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa; những luận điểm về nhà nước và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; về nhà nước pháp quyền, quản lý bằng “pháp trị” đi đôi với “đức trị”, giáo dục nghĩa vụ và trách nhiệm công dân; những luận điểm về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu;
Những luận điểm sáng tạo về bạo lực cách mạng và hình thức đấu tranh cách mạng; về sự thống nhất giữa tư tưởng bạo lực và lòng nhân ái, tinh thần nhân văn. Quan điểm của Hồ Chí Minh về động viên tồn dân, vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là một cống hiến lớn trong lĩnh vực quân sự. Người để lại một di sản lớn về khởi nghĩa và chiến tranh toàn dân; về xây dựng căn cứ địa cách mạng; về tư tưởng bạo lực cách mạng thống nhất với tư tưởng nhân văn, hịa bình.
Những luận điểm sáng tạo về con người, đạo đức, văn hóa: Thương yêu, tôn trọng, tin tưởng con người, bồi dưỡng và phát triển mọi tài năng của con người. Đó là một chủ nghĩa nhân văn hiện thực cao cả.Hồ Chí Minh đề cao vai trị của đạo đức và chống suy thoái về đạo đức; coi thắng lợi của chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với thắng lợi của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức hành động, chú trọng sự gương mẫu, nhất quán giữa nói và làm, hi sinh, vượt qua chủ nghĩa cá nhân, khơng dính líu với vịng danh lợi, suốt đời vì dân, gần dân, trọng dân, tin dân, thương dân, tận trung, tận hiếu với nước, với dân, cho dân tộc và nhân loại. Người đặc biệt coi trọng, đề cao vai trò, sứ mệnh của văn hóa, coi văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Văn hóa soi đường cho
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Văn hóa sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ.
Bổ sung, phát triển phương pháp luận Mác-Lênin, hình thành nên những quan điểm có tính phương pháp luận, với những nét đặc sắc riêng biệt. Hồ Chí Minh để lại một hệ thống quan điểm có tính phương pháp luận. Đó là quan điểm thực tiễn, thống nhất giữa tư tưởng với hoạt động thực tiễn, thực hành lý luận. Triết học Hồ Chí Minh là triết học hành động - thực tiễn - nhân sinh, lấy mục tiêu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” làm chuẩn mực hành vi. Người giải quyết hài hòa các mối quan hệ; quan tâm tới con người, quần chúng nhân dân, cán bộ. Cùng với luận điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến” là quan điểm toàn diện, trọng điểm, hệ thống, thiết thực. Phát triển, đổi mới, hội nhập, hướng tới cái mới và tương lai. Nắm diễn biến của lịch sử, của thời đại, thời, thế và lực. Tóm lại, “Hồ Chí Minh thủy chung là nhà mácxít vĩ đại, vĩ đại ở sự trung thành theo nghĩa đầy đủ và cao nhất của từ đó, nghĩa là bao hàm phát triển sáng tạo; trung thành không phải trên từng câu, chữ mà trung thành với thực chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, trên tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Thật khơng đúng nếu chú tâm đi tìm sự khác biệt, sự đối lập nào đó giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin. Là kết quả lịch sử và lơgíc từ sự kết hợp tự nhiên truyền thống yêu nước với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ là sự vận dụng mà còn phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam và các nước thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”.
<b>1.3.Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người</b>
Hồ Chí Minh quan niệm con người không bao giờ là phương tiện của các nhà chính trị mà ngược lại nhà chính trị, đảng chính trị… phải nhất quán trong nhận thức và hành động rằng: nhân dân là chủ sở hữu của quyền lực chính trị, con
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">người vừa là mục đích, vừa là động lực, là lực lượng, là sức mạnh của sự nghiệp chính trị.
Hồ Chí Minh cho rằng nhiều khi đường lối chính sách đúng nhưng “hoặc làm chưa được, hoặc làm nửa chừng rồi lại nguội… vì chúng ta quên một lẽ rất giản đơn dễ hiểu: tức vơ luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. Công việc nhà nước bao gồm nhiều lĩnh vực địi hỏi phải có đội ngũ cán bộ, công chức tốt để thi hành cơng vụ. Hồ Chí Minh khẳng định “Có cán bộ tốt việc gì cũng xong. Mn việc thành cơng hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định”.
“Cán bộ là cái gốc của mọi cơng việc”. Vì sao như vậy? Vì cơng việc nhà nước được thể hiện ở các văn bản do Nhà nước ban hành như: Hiến pháp, các bộ Luật, các Luật, các Pháp lệnh… tất cả các văn bản ấy đều do tập thể hoặc cá nhân quyết định. Những cán bộ cơng chức có vị trí cực kỳ quan trọng trong việc định đoạt mọi công việc của quốc gia. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo giỏi có vai trị quyết định đối với tồn bộ hoạt động của đất nước, nó là xuất phát điểm của sự thành bại, hưng vong… Từ trước đến nay có khơng ít quyết sách chính trị và các quyết định hành chính tuy rằng đúng đắn nhưng thực hiện kém hiệu qủa bởi vì thiếu cán bộ kiểu mẫu về quản lý, điều hành, thiếu người thực hiện và kiểm tra. Muốn cho công việc được tiến hành thuận lợi, muốn biết các Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định đã được thi hành như thế nào thì một trong những yêu cầu của lãnh đạo là kiểm tra. Không kiểm tra coi như không lãnh đạo và quản lý, công tác kiểm tra địi hỏi phải có người kiểm tra. Những người đó phải là những người có đạo đức tốt, phải biết việc và hiểu nghĩa. Do đó mà lãnh đạo biết sữa chữa sai lầm, uốn nắn công việc, biết chọn người và thay người. Tóm lại, xuất phát từ quan điểm “vơ luận việc gì, đều do người làm ra”, cùng nhiều luận điểm đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho đời sau một hệ thống các tư tưởng chiến lược về công tác cán bộ. Đó là
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">phép dùng người của Hồ Chí Minh. Động cơ dùng người của Hồ Chí Minh cho ta cảm nhận tư tưởng của cha ông từ mấy ngàn năm trước. Xưa “các vua Hùng đã có cơng dựng nước” thì nay “Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Xưa “Trần Hưng Đạo, tướng sĩ một lịng phụ tử” thì nay “Bác cùng chúng cháu hành quân”. Những lời kêu gọi toàn dân chống thực dân Pháp, rồi đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược của Hồ Chí Minh như hiện hữu. Một chân lý của mn đời đó là, nhân nào quả ấy, dùng người vì chính lợi ích của mọi người thì đó chính là bí quyết của sự thành cơng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Việt Nam nghe tơi, tin tơi, vì suốt đời tơi đã tranh đấu chống chế độ thực dân, tranh quyền độc lập cho nước nhà”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><b>CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC DÙNG NGƯỜI VÀ LỰA CHỌN NGƯỜICỦA NHÀ LÃNH ĐẠO HIỆN NAY</b>
<b>2.1. Nguyên tắc dùng người theo Tư tưởng Hồ Chí Minh của người lãnhđạo hiện nay</b>
2.1.1. Biết dùng người là trức trách của người lãnh đạo
“Tri nhân thiện nhiệm”, ý nói người lãnh đạo hiểu cán bộ một cách khoa học, sắp xếp, sử dụng cán bộ một cách hợp lý. Tri nhân (biết người) và thiện nhiệm (giỏi giao việc, biết dùng người) quan hệ chặt chẽ với nhau, biết người là tiền đề của dùng người đúng, dùng người đúng là mục đích trực tiếp của biết người, hiểu người. Tất cả mọi sự cạnh tranh hiện nay, suy đến cùng là cạnh tranh nhân tài. Xã hội hiện đại, bất kể là trên lĩnh vực nào đi chăng nữa… đều đang diễn ra sự cạnh tranh quyết liệt. Thắng bại của cạnh tranh quyết định ở cạnh tranh nhân tài. Trong cạnh tranh phải dựa vào nhân tài, đồng thời thông qua cạnh tranh sẽ xuất hiện nhân tài. Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề hiểu người và biết dùng người càng có ý nghĩa, tác dụng to lớn vì:
- Dùng người đúng, đó là yêu cầu của việc thực hiện đường lối chính trị của Đảng.
- Biết dùng người sẽ có lợi cho việc khơi dậy tính tích cực, phát huy đầy đủ tính năng động, tự giác của quần chúng.
- Biết dùng người sẽ có ý nghĩa hiện thực to lớn, tạo nên những bước nhảy đột phá, tiến bộ lớn, chấn hưng đất nước.
- Lãnh đạo biết dùng người có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">2.1.2. Người lãnh đạo phải giỏi nhìn nhận, phân loại cán bộ:
Trước hết, người lãnh đạo phải nhìn nhận, phân loại cán bộ một cách khoa học; việc nhìn nhận, phân loại chính xác cán bộ là không hề dễ dàng, đồng thời nhận thức đối với con người thường là một quá trình liên tục với thời gian dài. Do đó, để nhìn nhận, phân loại cán bộ chính xác, người lãnh đạo phải nắm chắc một số quan điểm và phương pháp cơ bản sau:
- Phải dựa vào quan điểm của Chủ nghĩa duy vật lịch sử, phải phân tích con người một cách toàn diện, trong điều kiện lịch sử nhất định.
- Đứng vững trên quan điểm duy vật biện chứng, xem xét con người trong sự phát triển, biến hố.
- Đứng vững trên quan điểm thực tiễn, thơng qua thực tiễn để biết người. - Nhìn nhận, phân loại cán bộ phải theo đường lối quần chúng, phải loại bỏ mọi thiên kiến, những quan niệm bảo thủ; phải chống khuynh hướng sai lầm là chỉ dùng người thân, dùng kẻ biết thuần phục, phải hết sức chú trọng phẩm chất, năng lực; hoặc phải chống lại tình trạng một số cán bộ lãnh đạo không muốn dùng những người có trình độ hơn mình. Tóm lại, người lãnh đạo có thể nhận biết, phân loại cán bộ một cách chính xác hay khơng phụ thuộc vào trình độ và tầm tư tưởng của người lãnh đạo.
2.1.3. Muốn dùng được người thì phải hiểu mình và hiểu người, có thủ pháp đúng đắn:
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ một số căn bệnh cơ bản làm cho người cán bộ khơng tự biết mình được, đó là: bệnh cậy thế và kiêu ngạo, bệnh ưa người ta phỉnh nịnh mình, bệnh “tư túng” kéo bè kéo cánh, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, máy móc, giáo điều… Người cán bộ lãnh đạo, quản lý mắc phải những bệnh này không hiểu được
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">chính cái mạnh, cái yếu của mình, do vậy khơng thể hiểu được người khác. Trên cơ sở tự hiểu mình, cần phải có phương pháp xem xét để hiểu cán bộ một cách thấu đáo, khơng nên chỉ xét ngồi mặt, chỉ xét một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả tồn bộ cơng việc của cán bộ. Hồ Chí Minh căn dặn phải nhìn nhận người cán bộ với con mắt động, phát triển, không nên định kiến; xem xét cán bộ không chỉ xem ngồi mặt mà cịn phải xem tính chất của họ, không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem tồn cả lịch sử, tồn cả cơng việc của họ. Có hiểu kỹ cán bộ mới thấy chỗ tốt, chỗ xấu của họ để biết “khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”; tránh nảy sinh tình trạng “ơ dù”, “che chắn”, “phe cánh”, “trù dập”. Theo Hồ Chí Minh, muốn dùng cán bộ đúng thì người cán bộ lãnh đạo cần:
Một là, “mình phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí cơng vơ tư, khơng có thành kiến, khiến cho cán bộ khơng bị bỏ rơi”.
Hai là, “phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gũi những người mình khơng ưa”.
Ba là, “phải có tinh thần chịu khó dạy bảo, mới có thể nâng đỡ những đồng chí cịn kém, giúp cho họ tiến bộ”.
Bốn là, “phải sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt”.
Năm là, “phải có thái độ vui vẻ thân mật, các đồng chí mới vui lịng gần gũi mình”.
Khéo dùng cán bộ xuất phát từ việc tập hợp được sức lực và tài năng của mọi người vào việc hoàn thành nhiệm vụ chung. Nếu dùng cán bộ mà để họ “hoang mang, sợ hãi, buồn rầu, uất ức hoặc công tác không hợp, chắc không thành công
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">được. Vì vậy, muốn được cán bộ làm được việc, phải khiến cho họ yên tâm làm việc, vui thú làm việc”.
2.1.4. Đổi mới phương pháp lãnh đạo để dùng người:
Vì việc mà dùng người. Cơng việc xây dựng và bảo vệ đất nước luôn luôn biến đổi, phát triển; do đó, phải khơng ngừng đổi mới phương pháp lãnh đạo để dùng người. Hồ Chí Minh đã đưa ra bốn hướng tiếp cận về đổi mới phương pháp lãnh đạo như sau:
Một là, phải khiêm tốn học hỏi quần chúng khơng chỉ cịn là nội hàm của phạm trù đạo đức mà phải xác định như là điều kiện cần và đủ của lãnh đạo. Lãnh đạo quần chúng đương nhiên là trách nhiệm của người lãnh đạo, nhưng để lãnh đạo được thì phải học hỏi quần chúng, điều đó có nghĩa là “người lãnh đạo khơng nên kiêu ngạo mà hiểu thấu”. Điều đó cũng có nghĩa là “một giây, một phút không thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng, “phải biết lắng nghe ý kiến của những người quan trọng”, học hỏi quần chúng, đề cao dân chủ, đưa chính trị vào giữa dân gian hợp thành một hệ thống giá trị văn hố chính trị”.
Hai là, nhân dân là người thi hành quyết định của lãnh đạo, do đó nhân dân phải là người tham gia vào quá trình ra quyết định. Đây là hướng tiếp cận đạt đến dân chủ trực tiếp, nó vừa mang tính nhân văn cao cả, vừa thể hiện trách nhiệm cao trước quyền lực mà người lãnh đạo được nhân dân uỷ thác và sd quyền lực đó.
Ba là, kiểm sốt là điều bắt buộc của lãnh đạo, nó như là tiêu chí xác định lãnh đạo và có biết lãnh đạo hay khơng. “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các nghị quyết có được thi hành khơng; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát”.
</div>